PHẠM VÕNG BỒ TÁT GIỚI BỔN

Phật chúng sanh tánh thường rỗng lặng
Ðạo cảm thông không thể nghĩ bàn
Lưới đế châu ví đạo tràng
Mười phương Phật bão hào quang sáng ngời
Trước bảo tọa thân con ảnh hiện
Cúi đầu xin thệ nguyện quy y.

Chí tâm đảnh lễ: Nam mô tận hư không biến pháp giới quá hiện vị lai thập phương chư Phật, tôn pháp, Hiền Thánh Tăng Thường Trụ Tam-Bảo.

Chí tâm đảnh lễ: Nam mô Ta bà Giáo chủ Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật, Ðương Lai Hạ Sanh Di Lạc Tôn Phật, Ðại Trí Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát, Ðại Hạnh Phổ Hiền Bồ Tát, Hộ Pháp Chư Tôn Bồ Tát, Linh Sơn Hội Thượng Phật Bồ Tát.

Chí tâm đảnh lễ: Nam mô Tây phương Cực lạc thế giới đại từ đại bi A Di Ðà Phật, Ðaị Bi Quán Thế Âm Bồ Tát, Ðại Thế Chí Bồ Tát, Ðại nguyện Ðịa Tạng Vương Bồ Tát.

KỆ TÁN HƯƠNG

Lư hương vừa ngún chiên đàn
Khói hương ngào ngạt muôn ngàn cõi xa
Lòng con kính ngưỡng thiết tha
Ngửa mong chư Phật thương mà chứng minh.

Nam mô Phạm Võng Giáo chủ Lô Xá Na Phật (3 lần)

KỆ KHAI KINH

Phật pháp rộng sâu rất nhiệm mầu
Trăm ngàn muôn kiếp khó tìm cầu
Nay con nghe thấy chuyên trì tụng
Nguyện tõ Như Lai nghĩa nhiệm mầu

Nam mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật (3 lần)

Nam mô Thanh Tịnh Pháp Thân Tỳ Lô Giá Na Phật (3 lần)

I

Chúng thọ Bồ Tát giới lắng nghe!
Quy mạng Lô Xá Na,
Mười phương Kim Cương Phật.
Ðảnh lễ đức Di Lạc,
Sẽ hạ sanh thành Phật.
Nay tụng ba tựu giới,
Bồ Tát đều cùng nghe.
Giới như đèn sáng lớn,
Soi sáng đêm tối tăm.
Giới như gươm báu sáng,
Chiếu rõ tất cả pháp.
Giới như châu Ma-Ni,
Rưới của giúp kẻ nghèo.
Thoát khổ mau thành Phật,
Chỉ giới này hơn cả.
Vì thế nên Bồ Tát,
Phải tinh tấn giữ gìn.

II

Chư Ðại Chúng ! Nay già chết gần kề, Phật Pháp sắp diệt, chư đại chúng, vì muốn đắc đạo nên nhất tâm cần cầu tinh tấn. Chư Phât do nhất tâm tìm cầu tinh tấn nên đặng quả chứng vô thượng chánh đẳng chánh giác, huống là các pháp lành khác.

Nhân lúc còn mạnh khỏe, các Ngài phải gắng sức siêng tu các pháp lành. Ðâu nên chẳng gấp cầu đạo lại chần chờ đợi già yếu. Còn mong mỏi thú vui gì ?…

Ngày nay đã qua.
Mạng sống giảm dần.
Như cá cạn nước.
Nào có vui chi !

III

HỎI : Chúng nhóm chưa ?
ÐÁP : Mô Phật, Chúng đã nhóm
HỎI : Hòa hợp không ?
ÐÁP : Mô Phật, Hòa hợp.
HỎI : Chúng nhóm để làm gì ?
ÐÁP : Mô Phật, thuyết giới Bồ Tát.
HỎI : Người chưa thọ giới Bồ Tát và người không thanh tịnh ra chưa ?
ÐÁP : Mô Phật, Trong đây không có người chưa thọ giới Bồ Tát và người không thanh tịnh.
HỎI : Có bao nhiêu vị Bồ Tát khiếm diện thuyết dục và thanh tịnh ?
ÐÁP : Trong đây không có Bồ Tát khiếm diện thuyết dục và thanh tịnh.

IV

Ðại Chúng ! Hãy chắp tay lóng nghe ! Nay tôi sắp tụng lời tựa về pháp đại thừa của chư Phật. Ðại chúng lẳng lặng lóng nghe. Trong đây vị nào biết mình có tội phải sám hối. Sám hối thời được an vui. Không sám hối thì tội lỗi càng thêm nặng. Người không có lỗi thì yên lặng. Vì yên lặng nên biết đại chúng thanh tịnh.

Chư Ðại Chúng hãy lóng nghe ! Sau khi đức Phật diệt độ, trong thời mạt pháp, nên phải tôn kính Ba La Ðề Mộc Xoa. Ba La Ðề Mộc Xoa chính là giới pháp này. Trì giới này thời như đi trong đêm tối gặp đèn sáng, như nghèo được châu báu, như bệnh được lành, như người tù được thả, như kẻ đi xa được về nhà. Nên biết rằng giới pháp này là bậc Thầy sáng suốt của đại chúng, không khác đức Phật còn ở đời.

Nếu không có lòng sợ tội, thì tâm lành khó nẩy sanh. Cho nên trong kinh có lời dạy : Chớ xem thường những lỗi nhỏ mà cho là không tội, giọt nước dầu nhỏ lần lần đầy cả chum lớn. Lúc tạo tội chừng trong giây phút, mà phải cả nghìn muôn năm chịu khổ nơi địa ngục. Một phen bị đọa lạc mất thân người, thời muôn đời khó được lại thân.

Sắc trẻ chuyển biến không dừng, dường như ngựa chạy. Mạng người vô thường, mau hơn nước dốc. Ngày nay dầu còn, khó đảm bảo được ngày mai. Ðại chúng mỗi người nên nhất tâm cần cầu tinh tấn. Chớ biếng nhác trễ lười, phóng túng ngủ nghỉ. Ban đêm phải nhất tâm niệm Phật tham thiền, chớ để thời gian nhàn không luống qua vô ích, mà sau này phải ăn năn không kịp.

Ðại Chúng ! Mỗi người nên nhiếp tâm cung kính y theo giới pháp này như pháp tu hành, chuyên cần học tập.

Chư Ðại Chúng ! Nay làm phép bố tát tụng Bồ Tát giới. Ðại chúng nên nhất tâm nghe kỹ.

Ai có tội thời phát lồ. Người không tội thời im lặng. Vì im lặng nên biết đại chúng thanh tịnh, có thể tụng giới Bồ Tát.

Tôi đã tụng lời tựa của giới Bồ Tát rồi.

Nay xin hỏi trong đại chúng đây được thanh tịnh không ? (3 lần)

Thưa Ðại Chúng ! Trong đây thanh tịnh, vì yên lặng. Việc này xin nhận biết như thế.

Nam mô Phạm Võng Hội Thượng Phật Bồ Tát . (3 lần)

 

Phật thuyết
PHẠM VÕNG KINH
BỒ TÁT TÂM ÐỊA PHẨM
Nhà Dao Tần, Tam tạng Pháp sư Cư Ma La Thập Hán dịch,
Hòa Thượng Thích Trí Tịnh Việt dịch

I. Lô Xá Na Phật.

II. Thích Ca Mâu Ni Phật

Bấy giờ, Ðức Phật Thích Ca Mâu Ni, từ lúc sơ khởi hiện thân nơi Thế Giới Liên Hoa Ðại Tạng, rồi qua phương Ðông đến tại cung của Thiên Vương, diễn nói kinh « Ma thọ Hóa ». Sau đó ngài giáng sinh nơi cõi Nam Diêm Phù Ðề tại nước Ca tỳ La, vua Bạch Tịnh là thân phụ, và hoàng hậu Ma gia là sinh mẫu, nhũ danh của Ngài là Tất Ðạt Ða.

Xuất gia bảy năm, ba mươi  tuổi thành đạo, hiệu Ngài là Thích Ca Mâu Ni Phật.

Từ Bảo Tòa Kim Cương Hoa Quang nơi đạo tràng Tịch diệt nhẫn đến nơi của Ðại Tự Tại Thiên Vương, trong mười nơi ấy đức Phật tuần tự ngự đến thuyết pháp.

Lúc đó nhân khi xem bảo tràng lưới của Ðại Phạm Thiên Vương, đức Phật vì đại chúng mà giảng kinh Phạm Võng.

Ngài dạy rằng : Vô lượng thế giới dường như lỗ lưới. Mỗi thế giới đều khác nhau cả, khác nhau đến số vô lượng. Giáo pháp của Phật cũng như vậy .

Ðức Phật đã tám nghìn lần đến thế giới Ta bà này, ngự trên bảo tòa bảo tòa kim Cương Hoa Quang nhẫn đến ngự nơi cung của Ðại Tự Tại Thiên Vương, lược giảng «  tâm Ðịa Pháp Môn » cho cả thảy đại chúng trong những pháp hội ấy.

Sau đó từ cung của Thiên Vương, Ðức Phật trở xuống ngự dưới cội bồ đề nơi cõi Diêm Phù, vì tất cả chúng sinh trên quả đất này, hạngngười phàm phu tối mà giảng một giới pháp kim cương Quang Minh Bảo giới. Giới Pháp này là lời thường trì tụng của Phật Lô Xá Na, khi Ngài mới phát Bồ Ðề tâm trong thời kỳ tu nhân của Ngài. Giới pháp này cũng chính là bổn nguyên của tất cả Phật, là bổn nguyên của tất cả Bồ Tát và là chủng tử của Phật tánh.

Tất cả chúng sinh đều có phật Tánh. Tất cả ý thức , sắc, tâm, là tình là tâm đều vào trong phạm vi giới pháp phật tánh. Vì chắc chắn thường có chính nhân, nên chắc chắn Pháp thân thường trụ.

Mười Ba La Ðề Mộc xoa như thế xuất hiện trong đời. Giới pháp này là chỗ kính trọng của tất cả chúng sanh trong ba thuở.

Giờ đây, đức Phật sẽ vì trong đại chúng này mà giảng lại Giới phẩm vô tận tạng, là Giới Phẩm của tất cả chúng sinh, bổn nguyên tự tánh thanh tịnh.

Nay ta là Lô Xá Na
Ðương ngồi trên đài Liên Hoa.
Trên nghìn cánh sen đơm vòng.
Mỗi cánh sen trăm ức cõi.
Một cõi một Phật Thích Ca
Ðều ngồi dưới cội Bồ Ðề
Ðồng thời thành chánh giác đạo.
Nghìn trăm ức Phật như vậy
Lô xá na là bổn thân.
Nghìn trăm ức Phật Thích Ca
Ðều đem theo vi trần chúng
Cùng nhau đến tại chỗ ta
Ðể nghe ta tụng Phật giới,
Ta liền giảng môn Cam Lộ
Bây giờ nghìn trăm ức Phật,
Trở về đạo tràng của mình,
Ðều ngồi nơi cội Bồ đế
Tụng mười trọng bốn mươi tám
Giới của bổn sư Xá Na,
Giới như vầng nhật nguyệt sáng,
Cũng như chuỗi báo ngọc châu
Chúng Bồ Tát như vi trần
Do giới này mà thành Phật,
Ðây là Ðức Xá Na tụng
Ta đây cũng tụng như vậy.
Các ông tân học Bồ Tát
phải cung kính thọ trì giới!
Khi thọ trì giới này rồi
Nên truyền lại cho chúng sanh,
lắng nghe ta đang trì tụng
Pháp Ba La Ðề Mộc Xoa
Là giới tạng trong Phật Pháp
Ðại chúng lòng nên tin chắ :
Các người là Phật sẽ thành
Ta đây là Phật đã thành
Thường có lòng tin như vậy
Thời giới phẩm đã trọn vẹn
Tất cả những người có tâm
Ðều nên nhiếp hộ Phật giới
Chính là vào hàng chư Phật.
Ðã đồnghàng bậc Ðại giác
Mới thật là con chư Phật
Ðại chúng đều nên cungkính,
Chí tâm nghe lời ta tụng.

III. ÐỨC PHẬT KIẾT BỒ TÁT GIỚI

Thưở ấy, đức Phật Thích Ca Mâu Ni lúc mới thành đạo vô thượng chánh giác, trong khi ngồi dưới cội Bồ Ðề, Ngài bắt đầu kiết Bồ Tát Giới . Ngài dạy rằng:

Hiếu thuận với cha mẹ, sư tăng, Tam-Bảo. Hiếu thuận là pháp chỉ đạo. Hiếu gọi là giới, cũng gọi là cấm giới.

Liền đó từ nơi kim khẩu đức Phật phóng ra vô lượng tia sáng. Bây giờ có đến trăm vạn ức đại chúng, các Bồ Tát, mười tám Phạm Thiên, sáu cõi trời Dục, mười sáu Ðại Quốc Vương đồng chắp tay chí tâm nghe đức Phật tụng giới pháp đại thừa của tất cả chư Phật.

Ðức Phật nói với các vị Bồ Tát rằng :

Nay ta cứ mỗi nửa tháng tự tụng giới pháp của chư Phật. Tất cả hàng Bồ Tát sơ phát tâm, nhẫn đến các Bồ Tát Thập Phát Thú, Thập Trưởng Dưỡng, Thập Kim Cương, Thập Ðịa cũng tụng giới ấy. Vì thế nên giới quang từ miệng ta phóng ra. Phóng ra là vì có nguyên do, chớ chẳng phải vì vô cớ. Giới quang ấy chẳng phải màu xanh, vàng, đỏ, trắng và đen; chẳng phải sắc pháp cũng chẳng phải tâm pháp; chẳng phải pháp hữu, pháp vô, cũng chẳng phải pháp nhơn, pháp quả. Nó chính là bổn nguyện của chư Phật, là căn bổn của chúng Phật tử. Vì thế nên chúng Phật tử phải thọ trì, phải đọc tụng, phải học kỹ giới pháp này.

Chúng Phật tử hãy lóng nghe ! Nếu là người thọ giới Bồ Tát này, không luận là Quốc vương, Thái tử, các Quan chức hay Tỳ   Kheo, Tỳ Kheo Ni, không luận là chư Thiên cõi sắc, cõi Dục; không luận là hàng thứ dân, huỳnh môn, dâm nam, dâm nữ hay hàng nô tỳ; cũng không luận là tám bộ quỷ thần, Thần Kim Cương, hay loài súc sanh, nhẫn đến kẻ biến hóa, hễ ai hiểu được lời truyền giới của Pháp Sư thì đều thọ được giới, và đều gọi là thanh tịnh thứ nhất.

MƯỜI GIỚI TRỌNG

Ðức Phật bảo các Phật tử rằng :

Có mười điều giới trọng. Nếu người thọ giới Bồ Tát mà không tụng điều giới nầy, thời người nầy không phải Bồ Tát, không phải là Phật tử. Chính ta cũng tụng như vậy.

Tất cả Bồ Tát đã học, sẽ học và đang học !

Ðã lược giảng xong tướng trạng của giới Bồ Tát cần nên học, hết lòng kính trọng phụng trì.

Ðức Phật dạy :

1.- GIỚI SÁT SANH

Nếu Phật tử, hoặc tự mình giết, bảo người giết, phương tiện giết, khen tặng sự giết, thấy giết mà tùy hỷ, nhẫn đến dùng bùa chú để giết, duyên giết, cách thức giết, nghiệp giết.

Phàm tất cả loài hữu tình có mạng sống đều không ý giết. Là Phật tử lẽ ra phải luôn luôn có lòng từ bi, lòng hiếu thuận, lập thế cứu giúp tất cả chúng sinh mà trái lại tự phóng tâm nỡ lòng sát sinh, Phật tử nầy phạm « Bồ Tát Ba La Di tội ».

2.- GIỚI TRỘM CƯỚP

Nếu Phật tử tự mình trộm cướp, bảo người trộm cướp, phương tiện trộm cướp, nhẫn đến dùng bùa chú trộm cướp ; nhân trộm cướp, duyên trộm cướp, cách thức trộm cướp …Tất cả tài vật có chủ, dầu là của quỷ thần hay của kẻ giặc cướp, nhẫn đến một cây kim, một ngọn cỏ đều không được trộm cướp. Là Phật tử, lẽ ra phải luôn luôn có lòng từ bi, lòng hiếu thuận, thường giúp cho mọi người được phước, được vui, mà trái lại trộm cướp tài vật của người, Phật tử nầy phạm « Bồ Tát Ba La Di tội ».

3.- GIỚI DÂM

Nếu Phật tử, tự mình dâm dục, bảo người dâm dục, với tất cả phụ nữ, các loài cái, loài mái, cho đến Thiên nữ, quỷ nữ, thần nữ cùng phi đạo mà hành dâm : nhân dâm dục, duyên dâm dục, cách thức dâm dục, nghiệp dâm dục. Là Phật tử, đối với tất cả không được cố dâm dục. Lẽ ra phải có lòng hiếu thuận, cứu độ tất cả những chúng sinh, đem pháp thanh tịnh khuyên dạy người, mà trái lại không có tâm từ bi, làm cho mọi người sinh việc dâm dục, không lựa súc sinh, cho đến hành dâm với mẹ, con, chị, em trong lục thân, Phật tử nầy phạm « Bồ Tát Ba La Di tõi ».

4.- GIỚI VỌNG

Nếu Phật tử, tự mình nói vọng ngữ, bảo người vọng ngữ, phương tiện vọng ngữ : nhân vọng ngũ, duyên vọng ngữ, cách thức vọng ngữ, nghiệp vọng ngữ. Nhẫn đến không thấy nói thấy, thấy nói không thấy, hoặc thân vọng ngữ, tâm vọng ngũ. Là Phật tử, lẽ ra Phật luôn luôn chính ngữ, chính kiến, và cũng làm cho tất cả chúng sinh có chính ngữ, chính kiến, mà trái lại làm cho mọi người tà ngữ, tà kiến, tà nghiệp, Phật tử nầy phạm « Bồ Tát Ba La Di tội ».

5.- GIƠI BÁN RƯỢU

Nếu Phật tử, tự mình bán rượu, bảo người bán rượu : nhân bán rượu, duyên bán rượu, cách thức bán rượu, nghiệp bán rượu, tất cả rượu không được bán – Rượu là nhân duyên sinh tội lỗi. Là Phật tử, lẽ ra phải làm cho tất cả chúng sinh có trí huệ sáng suốt, mà trái lại đem sự mê say điên đảo cho tất cả chúng sinh. Phật tử nầy phạm « Bồ Tát Ba La Di tội ».

6.- GIỚI RAO LỖI CỦA TỨ CHÚNG

Nếu Phật tử, tự miệng rao nói tội lỗi của Bồ Tát xuất gia, Bồ Tát tại gia, Tỳ Kheo, Tỳ kheo Ni, hoặc bảo người rao nói những tội lỗi ấy : nhân rao nói tội lỗi, duyên rao nói tội lỗi, cách thức rao nói tội lỗi, nghiệp rao nói tội lỗi. Là Phật tử, khi nghe những kẻ ác, ngoại đạo cùng người nhị thừa nói những điều phi pháp, trái luật trong Phật pháp, thời phải luôn luôn có lòng từ bi giáo hóa những kẻ ác ấy cho họ sinh tín tâm lành đối với đại thừa, mà trái lại Phật tử lại tự mình rao nói những tội lỗi trong Phật pháp. Phật tử nầy phạm « Bồ Tát Ba La Di tội ».

7.- GIỚI TỰ KHEN MÌNH CHÊ NGƯỜI

Nếu Phật tử, tự khen mình chê người, cũng bảo người khác khen ngợi mình chê người : nhân chê người, duyên chê người, cách thức chê người, nghiệp chê người . Là Phật tử, lẽ ra phải thay thế chịu những sự khinh chê khổ nhục cho tất cả chúng sanh, mình nhận lấy việc xấu, nhường cho người việc tốt. Nếu Phật tử tự phô trương tài đức của mình, mà dìm che điều hay tốt của người, làm cho người bị khinh chê, Phật tử nầy phạm « Bồ Tát Ba La Di tội ».

8.- GIỚI BỎN XẺN THÊM MẮNG ÐUỔI

Nếu Phật tử, tự mình bỏn xẻn, bảo người bỏn xẻn : nhân bỏn xẻn, duyên bỏn xẻn, cách thức bỏn xẻn, nghiệp bỏn xẻn.Phật tử khi thấy những người bần cùng đến cầu xin, phải cấp cho theo chỗ cần dùng của họ. Mà Phật tử lại đem lòng giận ghét, cho đến không cho một mảy, có ngươi đến cầu học giáo pháp, cũng chẳng nói một kệ một câu, lại còn xua đuổi quở mắng, Phật tử này phạm « Bồ Tát Ba La Di tộỉ ».

9.- GIỚI GIẬN HỜN KHÔNG NGUÔI

Nếu Phật tử, tự mình giận, bảo người giận : nhân giận, duyên giận, cách thức giận, nghiệp giận. Người Phật tử lẽ ra phải làm cho tất cả chúng sinh được những căn lành không gây gổ ; thường có lòng từ bi, lòng  hiếu thuận. Mà trái lại, đối với trong tất cả chúng sinh, cho đến trong loài phi chúng sinh, đem lời ác mạ nhục, còn thêm dùng tay, chân, dao, gậy để đánh đập mà vẫn chưa hả dạ cho đến nạn nhân kia lấy lời nhỏ nhẹ xin lỗi, cầu sám hối tạ tội , nhưng vẫn còn không hết giận, Phật tử này phạm  « Bồ Tát Ba La Di tộỉ ».

10.- GIỚI HỦY BÁNG TAM BẢO

Nếu Phật tử, tự mình hủy báng Tam Bảo, xúi người hủy báng Tam Bảo : nhân hủy báng, duyên hủy báng, cách thức hủy báng, nghiệp hủy báng. Phật tử nghe một lời hủy báng Tam Bảo của ngoại đạo và kẻ ác, còn đau lòng như ba trăm cây nhọn đâm vào tim mình, huống là tự miệng mình hủy báng Không có đức tin và lòng hiếu thuận đối với Tam Bảo, lại còn giúp sức cho những kẽ ác, kẻ tà kiến hủy báng nữa, Phật tử này phạm « Bồ Tát Ba La Di tộỉ ».

  1. ÐỨC PHẬT  KẾT RĂN

Này các Phật tử trên đây là mười giới trọng của Bồ Tát, các Phật tử cần nên học..

Trong mười giới trọng đó không nên trái phạm một giới nào cả, dầu một mảy nhỏ như vi trần, huống chi phạm đủ cả mười giới ư ! Nếu có người nào trái phạm, thời người ấy hiện đời không được phát Bồ đề tâm, rồi cũng mất ngôi Quốc Vương, ngôi Chuyễn Luân Vương, ngôi Tỳ Kheo, Tỳ Kheo Ni ; cũng mất những quả « Thập Phát Thủ, « Thập Trưởng Dưởng », Thập Kim Cương », « Thập Ðịa  », tất cả diệu quả Phật tính thường trú đều mất, đọa trong ba ác đạo, trong hai kiếp, ba kiếp chẳng được nghe danh tự của cha mẹ và Tam Bảo. Vì thế nên không được phạm một giới nào cả.Tất cả Bồ Tát các Ngài đã học sẽ học và hiện nay học. Mười giới như thế cần nên học, hết lòng kính trọng phụng trì. Trong phẩm «Bát vạn oai nghi có giảng rộng ».

VI. 48 ÐIỀU GIỚI KHINH

Ðức Phật bảo các vị Bồ Tát rằng :

Ðã giảng mười giới trọng rồi, nay tôi sẽ nói về bốn mươi tám giới khinh :

1. GIỚI KHÔNG KÍNH THẦY BẠN

Nếu Phật tử, lúc sắp lãnh ngôi Quốc vương, ngôi Chuyễn Luân vương, hay sắp lãnh chức quan, trước nên thọ Giới Bồ Tát. Như thế tất cả quỷ thần cứu hộ thân vua và thân các quan. Chư Phật đều hoan hỷ.

Ðã đắc giới rồi, Phật tử nên có lòng hiếu thuận và cung kính. Nếu thấy có bậc Thượng Tọa, Hòa Thượng, A Xà Lê, những bậc Ðại đức, đồng học, đồng kiến, đồng hạnh đến nhà, phải đứng dậy tiếp rước lạy chào, hỏi thăm. Mỗi sự đều đúng như pháp mà cúng dường, hoặc tự bán thân cho đến quốc thành con cái, cùng bảy báu trăm vật để cung cấp các bậc ấy. Nếu Phật tử lại sinh lòng kiêu mạn, sân hận, ngu si, không chịu tiếp rước lạy chào, cho đến không chịu y theo pháp mà cúng dường, Phật tử này phạm « khinh cấu tộỉ ».

2.- GIỚI UỐNG RƯỢU

Nếu Phật tử cố uống rượu, mà rượu là thứ làm cho người uống hay sinh ra vô lượng tội lổi. Nếu tự tay trao chén rượu cho người uống, sẽ mang ác báo : năm trăm đời không tay, huống là tự uống. Cũng chẳng được bảo người và tất cả chúng sinh uống rượu, huống là tự mình uống Tất cả các thứ rượu Phật tử không được uống . Nếu mình cố uống cùng bảo người uống. Phật tử này phạm  « khinh cấu tộỉ ».

3.- GIỚI ĂN THỊT

Nếu Phật tử cố ăn thịt. Tất cả thịt của mọi loài chúng sinh đều không được ăn. Luận về người ăn thịt thời mất lòng đại từ bi, dứt giống Phật tính ; tất cả chúng sinh thấy đều tránh xa người này.Người ăn thịt mắc vô lượng tội lổi . Vì thế nên tất cả Phật tử không được ăn tất cả thứ thịt của mọi loài chúng sinh.  Nếu cố ăn thịt, Phật tử này phạm « khinh cấu tội ».

4.- GIỚI ĂN NGŨ TÂN

Nếu Phật tử, chẳng được ăn « ngũ tân » -loại hành, hẹ, tỏi, nén và hưng cừ. Loại ngũ người này gia vào trong tất cả thứ thực phẩm đều không được ăn. Nếu cố ăn, Phất tử này phạm « khinh cấu tộỉ » .

5.- GIỚI KHÔNG DẠY NGƯỜI SÁM TỘI

Nếu Phật tử khi thấy nngười phạm ngũ giới, bát giới, thập giới, phá giới, hay phạm thất nghịch, bát nạn tất cả tội phạm giới v.v…phải khuyên bảo người ấy sám hối. Nếu Phật tử chẳng khuyên bảo người phạm tội sám hối, lại cùng ở chung, đồng sống chung, đồng chung Bố Tát, đồng thuyết giới, mà không cử tội người ấy, không nhắc người ấy sám hối, Phật tử này phạm « khinh cấu tộỉ ».

6.- GIỚI KHÔNG CÚNG DƯỜNG THỈNH PHÁP

Nếu Phật tử, thấy có vị Pháp sư đại thừa, hay những bậc đồng học, đồng kiến, đồng hạnh đại thừa, từ trăm dặm, nghìn dặm đến nơi tăng phường, nhà cửa, thành ấp, thời liền đứng dậy rước vào, đua đi, lễ bái, cúng dường. Mỗi ngày ba thời cúng dường , trăm thức uống ăn, giường ghế, thuốc men, tất cả đồ cần dùng giá đáng ba lượng vàng đều phải cấp hộ cho pháp sư. Mỗi ngày : sáng, trưa và chiều, thường thỉnh Pháp sư thuyết pháp và đảnh lễ. Không hề có lòng sân hận buồn rầu. Luôn thỉnh pháp không mõi nhàm, chỉ trọng pháp chứ không kể thân. Nếu Phật tử không như thế thời phạm « khinh cấu tội ».

7.- GIỚI KHÔNG ÐI NGHE PHÁP

Nếu Phật tử, hàng tân học Bồ Tát, phàm nơi nào chốn nào có giảng kinh, luật, phải mang kinh, luật đến chỗ Pháp sư để nghe giảng và thưa hỏi. Hoặc nơi núi rừng, trong vườn cậy, chùa, nhà v.v… tất cả chỗ thuyết pháp đều đến nghe học. Nếu Phật tử không đến nơi ấy để nghe pháp cùng thưa hỏi, thời phạm « khinh cấu tội ».

8.- GIỚI CÓ TÂM TRÁI BỎ ÐẠI THỪA

Nếu Phật tử, có quan niệm trái bỏ kinh luật Ðại thừa thường trụ, cho rằng không phải của Phật nói mà đi thọ trì kinh luật tà kiến và tất cả cấm giới của Thanh Văn nhị thừa cùng ngoại đạo ác kiến. Phật tử nầy phạm « khinh cấu tội ».

9.- GIỚI KHÔNG KHÁN BỊNH    

Nếu Phật tử, thấy tất cả người tật bệnh phải tận tâm cúng dường như cúng dường Phật. Trong tám phước điền, khán bệnh là « phước điền thứ nhứt ». Nếu như cha mẹ, Sư tăng cùng đệ tử có bệnh, có tật, trăm thứ bệnh đau khổ, đều nên săn sóc cho được lành mạnh, Phật tử lại vì lòng hờn giân không chăm nuôi, nhẫn đến thấy trong Tăng phường, thành ấp, nơi núi rừng đồng nội đường sá có người tật bệnh mà không lo cứu tế, Phật tử nầy phạm « Khinh cấu tội ».

10.- GIỚI CHỨA KHÍ CỤ SÁT SINH

Nếu Phật tử, không được cất chứa binh khí, như dao, gậy, cung, tên, búa, đáo v.v… cùng những đồ sát sinh như chài lưới, rập, bẫy v.v…Là Phật tử, dầu cho đến cha mẹ bị người giết còn không báo thù, huống lại đi giết tất cả chúng sinh ! không được cất chứa những khí cụ sát sinh ! Nếu cố cất chứa, Phật tử nầy phạm « khinh cấu tội ».

Mười giới như thế, cần nên học và kính trọng phụng trì. Trong sáu phẩm sau có giảng rộng.

11.- GIỚI ÐI SỨ

Nếu Phật tử, chẳng được vì quyền lợi và ác tâm mà đi thông sứ mạng cho hai nước hiệp hội quân trận, đem binh đánh nhau làm cho vô lượng chúng sinh bị giết hại. Là Phật tử còn không được vào, cùng qua lại trong quân trận, huống lại cố làm môi giới chiến tranh. Nếu cố làm, Phật tử nầy phạm « khinh cấu tội ».

12.-GIỚI BUÔN BÁN PHI PHÁP    

Nếu Phật tử, cố bán người lành, tôi trai tớ gái, lục súc, buôn bán quan tài, ván cây, đồ đựng thây chết, còn không được tự mình buôn bán các thứ ấy, huống lại bảo người. Nếu cố tự buôn bán, hay bảo người buôn bán các thứ ấy, Phật tử nầy phạm « khinh cấu tội ».

13.- GIỚI HỦY BÁNG

Nếu Phật tử, vì ác tâm, nơi người tốt, người lành, Pháp sư, Sư Tăng, hoặc Quốc vương và hàng quý nhân, vốn vô sự mà hủy báng là phạm bảy tội nghịch, mười giới trọng. Với cha mẹ, anh, em, lục thân phải có lòng từ bi, lòng hiếu thuận, mà trở lại vu khống cho là phạm tội nghịch, đọa nơi ác đạo, Phật tử nầy phạm « khinh cấu tội ».

14.- GIỚI PHÓNG HỎA    

Nếu Phật tử, vì tâm ác, phóng hỏa đốt núi, rừng, đồng nội. Từ tháng tư đến tháng chín phóng hỏa. Hoặc cháy lan đến nhà cửa, thành ấp, tăng phường, ruộng cây của người và cung điện tài vật của quỷ thần. Tất cả chỗ có sinh vật không được cố thiêu đốt. Nếu cố thiêu đốt, Phật tử nầy phạm « khinh cấu tội ».

15.-GIỚI DẠY GIÁO LÝ NGOÀI ÐẠI THỪA    

Nếu Phật tử, từ Phật tử, lục thân, tất cả thiện tri thức, đến ngoại đạo ác nhân, đều phải khuyên bảo thọ trì kinh luật đại thừa. Nên giảng cho hiểu nghĩa lý khiến phát Bồ đề tâm, Thập Phát Thú tâm, Thập Trưởng Dưỡng tâm, Thập Kim Cương tâm. Trong ba mươi tâm ấy, giảng cho họ hiểu pháp đụng tuần thứ của mỗi món. Mà Phật tử lại ác tâm, sân tâm đem kinh luật của Thanh Văn nhị thừa cùng các bộ luận của ngoại đạo tà kiến để dạy ngang cho người. Phật tử nầy phạm « khinh cấu tội ».

16.- GIỚI VÌ LỢI MÀ GIẢNG PHÁP LỘN LẠO    

Nếu Phật tử, phải tận tâm học kinh luật oai nghi đại thừa, thông hiểu nghĩa lý, khi thấy có hàng tân học Bồ Tát từ xa trăm dặm nghìn dặm đến cầu học kinh luật đại thừa, nên đúng như pháp giảng giải tất cả khổ hạnh, hoặc đốt thân, hoặc đốt cánh tay, đốt ngón tay. Nếu không đốt thân hay cánh tay, ngón tay cúng dường chư Phật thời không phải là hàng Bồ Tát xuất gia. Nhẫn đến xả thịt nơi thân cùng tay chân mà bố thí cho tất cả những cọp, sói, sư tử đói, cùng tất cả loài quỷ đói. Rồi sau mới tuần tự theo căn cơ của mỗi người giảng chánh pháp cho hàng tân học ấy được mở thông tâm ý. Nếu Phật tử vì quyền lợi, đáng dạy mà không dạy, lại giảng kinh luật một cách điên đảo, văn tự lộn xộn không có thứ lớp trước sau, thuyết pháp có tính cách hủy báng Tam Bảo. Phật tử nầy phạm « khinh cấu tội ».

17.- GIỚI CẬY THẾ LỰC QUYÊN TỞI   

Nếu Phật tử, tự mình vì việc ăn uống tiền của, lợi dưỡng, danh dự mà thân cận quốc vương, hoàng tử cùng các quan, nương quyền cậy thế bức người để lấy tiền của, lại bảo người khác cũng cầu lợi như vậy. Tất cả sự cầu lợi ấy gọi là ác cầu, đa cầu, đều không có lòng từ bi, lòng hiếu thuận. Phật tử nầy phạm « khinh cấu tội ».

18.- GIỚI KHÔNG THÔNG HIỂU MÀ LÀM THẦY TRUYỀN GIỚI  

Nếu Phật tử phải học mười hai phần kinh, thường tụng giới. Mỗi ngày sáu thời, nghiêm trì Bồ Tát giới, hiểu rõ nghĩa lý tính Phật tính của giới. Nếu Phật tử không hiểu một kệ một câu cùng nhân duyên của giới luật, mà dối rằng thông hiểu, đó chính là dối gạt mình và cũng là dối gạt người khác. Không hiểu một pháp, không biết một luật mà lại đi làm thầy truyền giới cho người. Phật tử nầy phạm « khinh cấu tội ».

19.- GIỚI LƯỠNG THIỆT ( lưỡi đôi chiều)   

Nếu Phật tử, vì ác tâm, thấy thầy Tỳ kheo trì giới tay bưng lư hương, tu hạnh Bồ Tát, tự đi đâm thọc hai đầu, cho sinh sự bất hòa khinh khi người hiền, tạo nhiều tội ác. Phật tử nầy phạm « khinh cấu tội ».

20.-GIỚI KHÔNG PHÓNG SINH    

Nếu Phật tử, vì tâm từ bi mà làm việc phóng sinh. Tất cả nam tử là cha ta, tất cả nữ năng là mẹ ta. Từ nhiều đời ta đều thác sinh nơi đó. Vì lẽ ấy nên chúng sinh trong lục đạo đều la cha mẹ ta. Nếu giết chúng để ăn thịt, thời chính giết cha mẹ ta, mà cũng là giết thân cũ của ta. Tất cả chất tứ đại đều là bổn thân bổn thể của ta, cho nên phải thường làm việc phóng sinh và khuyên bảo người làm. Nếu lúc thấy người đời sát sinh, nên tìm cách cứu hộ cho chúng được thoát khỏi nạn khổ ! Thường đem giới Bồ Tát giảng dạy để cứu độ chúng sinh.

Nếu ngày cha mẹ hay anh em chết, nên thỉnh Pháp sư giảng kinh luật Bồ Tát giới. Người chết nhờ phước đức ấy, hoặc được vãng sinh Tịnh độ ra mắt chư Phật, hay thác sinh trong cõi trời cõi người. Nếu không làm các điều trên đây, Phật tử nầy phạm « khinh cấu tội ».

Mười giới như thế cần nên học tập kính trọng phụng trì.Như trong phẩm « Diệt tội » giảng rõ mỗi giới.

21.- GIỚI ÐEM SÂN BÁO SÂN, ÐEM ÐÁNH TRẢ ÐÁNH    

Nếu Phật tử, không được đem giận trả giận, đem đánh trả đánh. Nếu cha mẹ anh em hay lục thân bị người giết cũng chẳng báo thù, hoặc quốc chủ bị người thí chết cũng chẳng được báo thù. Giết sinh mạng để báo thù sinh mạng, đó là việc không thuận với hiếu đạo. Hãy còn không được chứa nuôi tớ, rồi đánh đập mắng nhiếc chúng, mỗi ngày tam nghiệp tạo vô lượng tội, nhất là khẩu nghiệp. Huống lại cố đi làm tội thất nghịch. Nếu xuất gia Bồ Tát không có lòng từ bi cố báo thù, nhẫn đến cố báo thù cho trong hàng lục thân. Phật tử nầy phạm « khinh cấu tội ».

22.-GIỚI KIÊU MẠN KHÔNG THỈNH PHÁP

Nếu Phật tử, mới xuất gia chưa hiểu kinh luật, mà tự ỷ mình là trí thức thông minh, hoặc ỷ mình là cao quý, lớn tuổi, hoặc ỷ mình là dòng sang, con nhà quyền quý, hoặc ỷ mình học rộng, phước to, giàu lớn v.v… rồi sinh lòng kiêu mạn mà không chịu học hỏi kinh luật với các vị Pháp sư học đạo trước mình. Vị Pháp sư ấy hoặc dòng hèn, con nhà hạ tiện, tuổi trẻ nghèo nàn, hèn hạ, hay có tật nguyền, nhưng lại thiệt có đức hạnh cùng thông hiểu nhiều kinh luật. Hàng tân học Bồ Tát không được nhìn vào dòng giống vị Pháp sư mà không chịu đến học đạo lý đại thừa với vị ấy. Phật tử nầy phạm « khinh cấu tội ».

23.-GIỚI KHINH MẠN KHÔNG TẬN TÂM DẠỴ    

Nếu Phật tử, sau khi Phật nhập diệt, lúc có tâm tốt muốn thọ giới Bồ Tát, thời đối trước tượng Phật, cùng tượng Bồ Tát mà tự nguyện thọ giới. Nên ở trước tượng Phật và tượng Bồ Tát sám hối trong bảy ngày, hễ được thấy hảo tướng là đắc giới. Như chưa thấy hảo tướng thời phải sám hối mười bốn ngày, hăm mốt ngày, hay đến cả năm, cầu thấy được hảo tướng. Khi được thấy hảo tướng rồi, thời được đối trước tượng Phật Bồ Tát mà thọ giới. Như chưa thấy hảo tướng thì dầu có đối trước tướng Phật thọ giới vẫn không gọi là đắc giới. Nếu đối trước vị Pháp sư đã thọ giới Bồ Tát mà thọ giới, thời không cần thấy hảo tướng. Tại sao vậy ? Vì vị Pháp sư ấy là chư sư truyền giới cho nhau, nên không cần hảo tướng. Hễ đối trước vị Pháp sư ấy mà thọ giới liền đắc giới, do vì hết lòng kính trọng nên đắc giới. Nếu ở trong vòng nghìn dặm, mà tìm không được vị Pháp sư truyền giới thời, Phật tử được phép đối trước tượng Phật và Bồ Tát mà tự nguyện thọ giới Bồ Tát, nhưng cần phải thấy hảo tướng.

Nếu các vị Pháp sư ỷ mình thông kinh luật cùng giới pháp đại thừa, kết giao với các nhà quyền quý, khi có hàng tân học Bồ Tát đến cầu học nghĩa kinh, luật, lại giận ghét, hay khinh ngạo, không chịu tận tâm chỉ bảo, vị nầy phạm “khinh cấu tội”.

24.- GIỚI KHÔNG TẬP HỌC ÐẠI THỪA    

Nếu Phật tử, có kinh luật đại thừa pháp, chính kiến, chính tính, chấp pháp thân của Phật, mà không chịu siêng học siêng tu, lại bỏ bảy của báu, trở học những sách luận tà kiến của nhị thừa, ngoại đạo, thế tục, đó là làm mất giống Phật, là nhân duyên chướng đạo, chẳng phải thật hành đạo Bồ Tát. Nếu cố làm như vậy, Phật tử nầy phạm “khinh cấu tội”.

25.- GIỚI TRI CHÚNG VỤNG VỀ    

Nếu Phật tử, sau khi Phật nhập diệt làm Pháp sư, Giảng sư, Luật sư, Thiền sư, Thủ tọa, Tri sự, Tri khách, phải có lòng từ bi khéo hòa giải trong chúng, khéo giữ như của riêng mình, mà trở lại khuấy chúng gây gổ, kình chống, lung lòng xài của Tam Bảo, Phật tử nầy phạm “khinh cấu tội”.

26.- GIỚI RIÊNG THỌ LỢI DƯỠNG    

Nếu Phật tử ở trước trong Tăng phường, lúc sau thấy có khách Bồ Tát Tỳ Kheo đến, hoặc nơi thành ấp nhà cửa của Tăng hay của vua, nhẫn đến chỗ kiết hạ an cư cùng trong đại hội … chư Tăng ở trước phải rước đến đưa đi, cung cấp cho những đồ uống ăn, đồ nằm, thuốc men, nhà, phòng, giường, ghế v.v… Nếu tự mình không có, thì phải bán thân, bán con cái, lóc thịt thân mình mà bán, để sắm đồ cung cấp cho những khách Tăng ấy. Nếu có thí chủ thỉnh chúng Tăng thọ trai, khách Tăng có dự phần, vị Tri sự phải theo thứ tự phái khách Tăng đi thọ trai. Nếu chư Tăng ở trước riêng đi thọ trai mà không phái khách Tăng đi, thời vị Tri sự mắc vô lượng tội, không đáng là hàng Sa Môn, không phải dòng Thích Tử, nào khác gì loài súc sinh. Phật tử nầy phạm “khinh cấu tội”.

27.- GIỚI THỌ BIỆT THỈNH    

Nếu Phật tử; tất cả chẳng được nhận của cúng dường dành riêng về mình. Của cúng dưòng nầy thuộc về thập phương Tăng, nếu nhận riêng thời là lấy của thập phương Tăng đem về phần mình. Và của vật trong tám phước điền : Chư Phật, Thánh nhân, các Sư Tăng, cha, mẹ, và người bệnh, tự mình riêng nhận dùng. Phật tử nầy phạm “ khinh cấu tội”.

28.- GIỚI BỆNH THỈNH TĂNG    

Nếu Phật tử, có những hàng Bồ Tát xuất gia, Bồ Tát tại gia và tất cả đàn việt lúc muốn thỉnh Tăng để cúng dường cầu nguyện, nên vào Tăng phưòng thưa với vị Tri sự. Vị Tri sự bảo rằng  : theo thứ tự mà thỉnh thời được thập phương Hiền Thánh Tăng. Mà người đời thỉnh riêng năm trăm vị A La Hán Bồ Tát Tăng vẫn không bằng theo thứ tự thỉnh một phàm phu Tăng. Trong giáo pháp của bảy đức Phật đều không có pháp thỉnh Tăng riêng. Nếu thỉnh Tăng riêng đó là pháp của ngoại đạo, là không thuận với hiếu đạo. Nếu Phật tử cố thỉnh riêng thời phạm “khinh cấu tội”.

29.- GIỚI TÀ MẠNG NUÔI SỐNG    

Nếu Phật tử dùng ác tâm vì lợi dưỡng buôn bán nam sắc, nữ sắc, tự tay làm đồ ăn, tự xay, tự giã, xem tướng, bàn mộng, đoán sẽ sinh trai hay gái, bùa chú, pháp thuật, nghề nghiệp, phương pháp nuôi ó và chó săn, hòa hiệp trăm thứ thuốc độc, nghìn thứ thuốc độc, độc rắn, độc sinh kim, sinh ngân, độc sâu cổ, đều không có lòng từ bi, lòng hiếu thuận. Nếu cố làm các điều như thế, Phật tử nầy phạm « khinh cấu tội ».

30.- GIỚI QUẢN LÝ CHO BẠCH Y    

Nếu Phật tử vì ác tâm, tự mình hủy báng Tam Bảo, giả tuồng kính mến, miệng thì nói không, mà hành vi lại ở trong có, làm quản lý cho hàng bạch y làm mai làm mối cho nam nữ giao hội dâm sắc, gây thành các nghiệp kiết phược ; những ngày lục trai trong mỗi tháng, ba tháng trường trai trong mỗi năm, làm việc sát sinh, trộm cướp, phá trai, phạm giới. Phật tử nầy phạm « khinh cấu tội ».

Mười giới như thế, cần nên học hết lòng kính trọng phụng trì. Trong phẩm « chế giới » có giảng rõ.

31.-GIỚI KHÔNG MUA CHUỘC

Nếu Phật tử, sau khi Phật nhập diệt ở trong đời ác , thấy hàng ngoại đạo, bọn giặc cướp cùng tất cả người ác đem bán hình tượng Phật, Bồ Tát, cha mẹ, đem bán kinh luật, đem bán Tỳ Kheo, Tỳ kheo Ni, cùng người hành đạo Bồ Tát, kẻ phát tâm Bồ đề, để làm tay sai cho các quan hay làm tôi tớ cho mọi người. Phật tử thấy những sự như thế, nên có lòng từ bi tìm cách cứu vớt. Nếu không đủ sức, Phật tử phải đi quyên tiền các nơi để chuộc hình tượng Phât, Bồ Tát và tất cả kinh luật, chuộc Tỳ Kheo, Tỳ Kheo Ni, người tu hạnh Bồ Tát, kẻ phát tâm Bồ đề. Nếu không chuộc, Phật tử nầy phạm « Khinh cấu tội ».

32.- GIỚI TỔN HẠI CHÚNG SANH    

Nếu Phật tử không được buôn bán dao, gậy, cung, tên những khí giới sát sinh. Không được chứa cân non giạ thiếu. Không được nương thế lực quan quyền mà lấy tài vật của người. Không được ác tâm trói buộc người, và phá hoại việc thành công của người. Không được nuôi mèo, chồn, heo, chó. Nếu cố tâm làm các điều trên, Phật tử nầy phạm « khinh cấu tội ».

33.- GIỚI TÀ NGHIỆP GIÁC QUÁN   8 )

Nếu Phật tử không vì ác tâm đi xem tất cả nam nữ v.v… đánh nhau, hay binh trận binh tướng hoặc cướp v.v… đấu chiến nhau. Cũng chẳng được đi xem hát, nghe nhạc, chơi cờ, đánh bạc, đá cầu, đá bóng v.v… Cho đến bói xủ. Chẳng được làm tay sai cho kẻ trộm cướp. Nếu cố làm các điều trên, Phật tử nầy phạm « khinh cấu tội ».

34.- GIỚI TẠM BỎ BỒ ÐỀ TÂM    

Nếu Phật tử, ngày đêm sáu thời đọc tụng giới Bồ Tát nầy. Nên giữ gìn giới luật trong tất cả khi đi đứng nằm ngồi, vững chắc như kim cương, như đeo trái nổi để qua biển lớn, như các Tỳ Kheo bị cột bằng dây đỏ. Thường có tín tâm lành đối với Ðại thừa. Tự biết rằng mình là Phật chưa thành, còn chư Phật là Phật đã thành, rồi phát Bồ đề tâm và giữ vững không thối chuyển . Nếu có một tâm niệm xu hướng theo Nhị thừa hay ngoại đạo, Phật tử nầy phạm « khinh cấu tội ».

35.- GIỚI KHÔNG PHÁT NGUYỆN

Nếu Phật tử,  nên phát những điều nguyện lớn : nguyện ở hiếu thuận với cha mẹ, Sư Tăng – Nguyện đặng gặp được thầy tốt – bạn thiện tri thức – thường dạy bảo tôi các kinh luật Ðại thừa – dạy cho tôi về « Thập Phát Thú » – « Thập Trưởng Dưỡng » – « Thập kim Cương » – « Thập Ðịa » Cho tôi hiểu rõ để tu hành đúng với chánh pháp – nguyện giữ vững giới của Phật : thà chết chớ không chịu phai lòng. Nếu các Phật tử không phát những điều nguyện trên đây thời phạm «  khinh cấu tội ».

38.-GIỚI TRÁI THỨ TỰ TÔN TY  

Nếu Phật tử, phải theo thứ tự đúng pháp mà ngồi : người thọ giới trước thời ngồi ngồi trước, người thọ giới sau thời ngồi sau. Không luận già, trẻ, Tỳ Kheo, Tỳ Kheo Ni. Người sang như Quốc Vương, Hoàng tử, nhẫn đến kẻ hèn như huỳnh môn, tôi tớ v.v… tất cả đều theo thứ tự mà ngồi : người thọ giới trưóc thời ngồi trước, người thọ giới sau thời ngồi sau.

Không được như hàng ngoại đạo, si mê, hoặc già, hoặc trẻ, ngồi trước sau lộn xộn không có thứ tự, không khác cách ngồi của bọn binh nô. Trong Phật pháp của ta, hễ người thọ giới trước thời ngồi trước, còn người thọ giới sau thời ngồi sau.

Nếu Phật tử không theo thứ tự đúng pháp mà ngồi, thời phạm « khinh cấu tội ».

36, 37, 38.- dành cho chư tăng (xin xem kinh Phạm Võng)

39.- GIỚI KHÔNG TU PHƯỚC HUỆ   

Nếu Phật tử thường phải khuyến hóa tất cả mọi người kiến tạo tăng phường nơi núi rừng vườn ruộng, xây dựng Phật tháp, chỗ an cư, tọa thiền trong mùa Ðông mùa Hạ, tất cả những cơ sở hành đạo đều nên kiến tạo.

Người Phật tử phải giảng thuyết kinh luật đại thừa cho tất cả chúng sanh. Lúc tật bệnh, nước có nạn có giặc, ngày cha, mẹ, anh, em, Hòa Thượng, A Xà Lê khuất tịch, và mỗi tuần thất, nhẫn đến bảy tuần thất, cũng nên giảng thuyết kinh luật đại thừa. Tất cả những trai hội cầu nguyện, những lúc đi làm ăn, những khi có tai nạn lụt, bão, hỏa hoạn, ghe thuyền trôi giạt nơi sông to biển lớn, gặp quỷ La sát v.v… đều cùng đọc tụng kinh luật đại thừa. Nhẫn đến tất cả tội báo, tam ác, bát nạn, thất nghịch gông cùm xiềng xích trói buộc tay chân, hoặc ngưòi nhiều dâm, nhiều sân, nhiều ngu si, nhiều tật bệnh, đều nên giảng kinh luật đại thừa nầy.

Nếu hàng tân học Phật tử không thật hành như trên đây, thời phạm « khinh cấu tội »

Chín giới như thế cần nên học, hết lòng kính trọng phụng trì. Trong phẩm « Phạm đàn” có giải rộng.

40,41,42,43  dành cho chư tăng (xin xem kinh Phạm Võng)

44.- GIỚI KHÔNG CÚNG DƯỜNG KINH LUẬT   

Nếu Phật tử, phải thường nhất tâm thọ trì đọc tụng kinh luật đại thừa, dùng giấy, vải, hàng, lụa, thẻ tre, vỏ cây, cho đến lột da làm giấy, chích máu làm mực, lấy tủy làm nước, chẻ xương làm viết, để biên chép kinh luật, dùng vàng bạc cùng hương hoa vô giá và tất cả châu báu làm hộp, rương, đựng những quyển kinh luật.

Nếu không y theo pháp mà cúng dường kinh luật, Phật tử nầy phạm « khinh cấu tội ».

45.- GIỚI KHÔNG GIAO HÒA CHÚNG SINH    

Nếu Phật tử, nên có lòng đại bi, khi nào trong tất cả nhà cửa thành ấp, thấy những loài chúng sinh, phải xướng lên rằng : « Các người đều nên thọ tam quy và thập giới ». Nếu gặp trâu, bò, chó, ngựa, heo, dê v.v… nên tâm nghĩ miệng nói : « Các người là súc sanh phát Bồ đề tâm ».Khi Phật tử đi đến núi, rừng, sông, đồng nội cùng tất cả chỗ, đều làm cho tất cả chúng sanh phát Bồ đề tâm.

Nếu Phật tử không phát tâm giáo hóa chúng sinh, thời phạm « khinh cấu tội ».

46.- GIỚI THUYẾT PHÁP KHÔNG ÐÚNG PHÁP

Nếu Phật tử, thường nên có lòng đại bi phát tâm giáo hóa . Lúc vào nhà đàn hội sang giàu, cùng trong tất cả chúng hội, không được đứng thuyết pháp cho hàng bạch y. Phải ngồi trên tòa cao trước chúng bạch y.

Vị Tỳ kheo Pháp sư không được đứng dưới đất thuyết pháp cho tứ chúng. Khi thuyết pháp , vị Pháp sư ngồi tòa cao, dùng hương hoa cúng dường, còn tứ chúng, hàng thính giả, thời ngồi dưới. Ðối với Pháp sư phải như là hiếu thuận cha mẹ, kính thuận Sư trưởng như Bà La Môn thờ lửa. Nếu Phật tử thuyết pháp mà không đúng như pháp thời phạm « khinh cấu tội ».

47.- GIỚI CHẾ HẠN PHI PHÁP   

Nếu Phật tử, đều đã có lòng tin thọ giới của Phật, hoặc Quốc vương, Hoàng tử, các quan, bốn bộ đệ tử tự ỷ thế lực cao quý, phá diệt giới luật Phật pháp, lập ra điều luật chế, hạn chế bốn bộ đệ tử của Phật, không cho xuất gia hành đạo, cũng không cho tạo lập hình tượng Phật và Bồ Tát, cùng Tháp và Kinh luật. Lại đặt ra chức quan đổng lý hạn chế tứ chúng, và lập bộ sổ ghi số Tăng. Tỳ Kheo Bồ Tát đứng dưới đất còn bạch y ngồi tòa cao, làm nhiều việc phi pháp như binh nô thờ chủ. Hàng Bồ Tát nầy chính nên được mọi người cúng dường, mà trở lại bắt làm tay sai của các quan chức, thế là phi pháp phi luật.

Nếu Quốc vương và các quan có lòng tốt thọ giới của Phật, chớ làm những tội phá Tam Bảo ấy. Nếu cố làm, thời phạm « Khinh cấu tội ».

48.- GIỚI PHÁ DIỆT PHẬT PHÁP   

Nếu Phật tử do lòng tốt mà xuất gia, lại vì danh tiếng cùng tài lợi, giảng thuyết giới của Phật cho Quốc vương và các quan, làm những sự gông trói các Tỳ kheo, Tỳ Kheo Ni, người thọ giới Bồ Tát như cách của ngục tù và binh nô ? Như trùng trong thân sư tử tự ăn thịt sư tử, chớ chẳng phải trùng ở ngoài đến ăn. Cũng thế các Phật tử tự hủy phá Phật pháp, không phải ngoại đạo hay Thiên ma phá được.

Người đã thọ giới của Phật, nên hộ trì giới luật của Phật như ấp yêu con một, như kính thờ cha mẹ, không được hủy phá.

Người Phật tử khi nghe ngoại đạo, người ác dùng lời xấu hủy báng giới pháp của Phât, thời đau đớn không khác nào cả ba trăm cây dáo nhọn đâm vào tim mình, hay cả nghìn lưỡi dao, cả vạn cây gậy đánh bổ vào thân mình. Thà tự cam vào ở địa ngục đến trăm kiếp, chớ không muốn nghe lời hủy báng giới pháp Phật do bọn người ác. Huống là không lòng hiếu thuận, tự mình hủy báng phá giới pháp của Phật, hay làm nhơn duyên bảo người khác hủy phá. Nếu cố phá giới pháp, Phật tử nầy phạm « khinh cấu tội ».

Chín giới như vậy, cần nên học, hết lòng kính trọng phụng trì.

VII.-  TỔNG KẾT

Ðức Phật dạy : Các Phật tử ! Ðó là bốn mươi tám điều giới khinh, các người phải thọ trì. Chư Bồ Tát thuở đời quá khứ đã tụng, chư Bồ Tát thuở đời vị lai sẽ tụng, chư Bồ Tát hiện tại đương tụng.

Các Phật tử lóng nghe ! Mười giới trọng, bốn mươi tám giới khinh đây, chư Phật trong ba thuở đã tụng, sẽ tụng và hiện đương tụng. Nay ta cũng tụng như vậy.

VIII.- LƯU THÔNG

Ðức Phật phán tiếp : Tất cả đại chúng, Quốc vương, Vương tử, các quan, Tỳ Kheo, Tỳ kheo Ni, tín nam, tín nữ thảy, những người thọ trì giới Bồ Tát, nên phải thọ trì đọc tụng giảng thuyết biên chép quyển giới pháp Phật tinh thường trụ để lưu thông mãi mãi. Tất cả chúng sanh xoay vần truyền dạy lẫn nhau không dứt. Do đây, được gặp chư Phật, được chư Phật trao tay. Ðời đời khỏi hẳn ba ác đạo và tám chỗ nạn. Thường được thác sinh trong loài người, hay cõi trời.

Nay ta ở dưới cội Bồ đề nầy, lược giảng giới pháp của chư Phật. Tất cả đại chúng phải nhất tâm học Ba la Ðề Mộc Xoa, hoan hỉ phụng hành.

Như phần « khuyến học » trong phẩm «  Vô tướng thiên vương » mỗi mỗi đều giảng rõ.

Lúc đó chư vị Học sĩ trong cõi tam thiên ngồi lóng nghe đức Phật tụng giới, hết lòng kính trọng, hoan hỉ thọ trì.

Ðức Phật Thích Ca Mâu Ni giảng xong về mười vô tận giới pháp trong phẩm « Tâm địa pháp môn » của đức Phật Lô Xá Na đả giảng nơi thế giới Liên Hoa Ðài Tạng lúc trước. Nghìn trăm ức đức Thích Ca cũng đồng giảng như vậy.

Từ cung Ðại Tự Tại Thiên Vương đến dưới cây Bồ đề nầy, thuyết pháp cả mười chỗ, vì tất cả Bồ Tát và vô số đại chúng thọ trì đọc tụng giải thuyết pháp nghĩa cũng như vậy.

Nghìn trăm ức thế giới, Liên Hoa Ðài Tạng thế giới, vi trần thế giới, chư Phật cũng giảng thuyết như vậy.

Tất cả Phật tâm tạng, địa tạng, giới tạng, vô lượng hạnh nguyện tạng, nhân quả Phật tính thường trụ tạng. Tất cả chư Phật giảng thuyết vô lượng pháp tạng như thế đã xong

Hết thảy chúng sanh trong nghìn trăm ức thế giới đều thọ trì, hoan hỉ phụng hành.

Còn về phần giảng rộng những hành tưởng của tâm địa thời như trong phẩm « Phật Hoa Quang Vương Thất Hạnh » có nói.

KỆ KHEN NGỢI GIỚI PHÁP

Người trí nhiều Ðịnh Huệ
thọ trì được pháp nầy
lúc còn chưa thành Phật
được hưỡng năm điều lợi :
Một là Thập Phương Phật.
Thương tưởng hộ trì luôn.
Hai là lúc lâm chung,
Chánh niệm lòng an vui.
Ba là sanh chỗ nào,
cùng Bồ Tát làm bạn.
Bốn là những công đức,
giới độ đều thành tựu.
Năm, đời này, đời sau,
Ðủ giới và phước huệ
đây là các Phật tử
người trí khéo nghĩ lường
kẻ trước tướng chấp ngã
không thể được pháp này
người trầm không trệ tịch
cũng không gieo giống được
muốn nảy mầm bồ đề
trí huệ soi thế gian
Phải nên quan sát kỹ
Thật tướng của các pháp :
Không sinh cũngkhôngdiệt,
không thường lại không đoạn
chẳng đồng cũng chẳng khác
chẳng đến cũng chẳng đi.
Trong thể nhất tâm ấy
siêng tu tập trang nghiêm,
công hạnh của Bồ Tát
Phải tuần tự học tập.
Nơi học, nơi « Vô học »
chớ móng tưởng phân biệt,
Ðấy là « đệ nhất đạo ».
Cũng gọi pháp đại thừa.
Hết thảy lỗi hí luận
Ðều từ đây dứt sạch
Vô thượng trí của Phật
đều do đây mà thành.
Vì thế nên Phật tử
Phải phát tâm dõng mãnh
Nghiêm trì giới của Phật
Tròn sạch như minh châu.
Chư bồ tát quá khứ
Ðã từng học giới này
Hàng vị lai sẽ học,
Người hiện tại đương học.
Ðây là đường Phật đi,
Là chổ Phật khen ngợi.
Ta đã giảng giới xong
Phước đức nhiều vô lượng,
Hồi hướng cho chúngsanh
Ðồng đến “Nhất thế trỉ”,
Nguyện ai nghe pháp này
Ðều được thành Phật đạo.

X. PHẦN HỒI HƯỚNG

Trên đài Liên Hoa Tạng
Ðức Phật Xá Na Tôn
Lược giải Tâm Ðịa pháp môn
Truyền lại chư Thế Tôn
Khinh, trọng phân rành rõ
Tất cả được nhờ ơn.

Nam mô Phạm Võng Giáo Chủ Lô Xá Na Phật Biến Pháp Giới Tam Bảo (3 lần)

KIẾT KINH KỆ

Trời, A Tu La, Dạ Xoa thảy
Ai đến nghe pháp phải hết lòng
Ủng hộ Phật Pháp cho thường còn
Mọi người siêng tu lời Phật dạy.
Bao nhiêu thính giả đến chỗ nầy
Hoặc ở cõi đất hoặc trên không
Nương theo chánh pháp ngày đêm tu
Xót thương người đời luôn cứu hộ.
Cầu cho thế giới thường an ổn
Pháp trí vô biên lợi quần sanh
Tất cả tội nghiệp đều tiêu trừ
Dứt hẳn quả khổ vào viên-tịch.
Thường dùng giới hương thoa vóc sáng
Luôn dùng định phục mặc che thân
Hoa mầu trí giác khắp trang nghiêm
Khắp xứ khắp nơi thường an lạc.

Nam mô Hộ Pháp Chư Tôn Bồ Tát Ma Ha Tát (3 lần)

BÁT NHÃ TÂM KINH

Ma Ha Bát Nhã Ba La Mật Ða Tâm Kinh

Quán tự tại bồ tát ma ha tát, hành thâm bát nhã ba la mật đa thời, chiếu kiến ngũ uẩn giai không độ nhất thiết khổ ách.

Xá Lợi Tử, sắc bất dị không, không bất dị sắc, sắc tức thị không, không tức thị sắc, thọ tưởng hành thức diệc phục như thị.

Xá Lợi Tử, thị chư pháp không tướng, bất sanh bất diệt, bất cấu bất tịnh, bất tăng bất giảm, thị cố không trung, vô sắc vô thọ tưởng hành thức, vô nhãn nhĩ, thiệt , thân, ý, vô sắc thinh hương vị xúc pháp vô nhãn giới nãi chí vô ý thức giới, vô vô mình diệc vô minh tận, nãi chí vô lão tử , diệc vô lão tử tận, vô khổ, Tập, Diệt, Ðạo, vô trí diệc vô đắc, dĩ vô sỡ đắc cố, bồ đề tát đỏa y bát nhã ba la mật đa cố, tâm vô quái ngại, vô quái ngại cố, vô hữu khủng bố, viễn ly điên đảo mộng tưởng, cứu cánh niết bàn.

Tam thế chư Phật y bát nhã ba la mật đa cố, đắc A Nậu Ða La Tam Miệu Tam Bồ Ðề.

Cố tri bát nhã ba la mật đa, thị đại thần  chú, thị đại minh chú, thị vô thươọng chú , thị vô đẳng chú, năng trừ nhất thiết khổ chân thật bất hư.

Cố thuyết bát nhã ba la mật đa chú tức thuyết chú viết:

Yết đế, yết đế, ba la yết đế, ba la tăng yết đế bồ đề tát bà ha (3 lần)

HỒI HƯỚNG

Thính giới công đức thù thắng hạnh
Vô biên thắng phước giai hồi hướng
Phổ nguyện pháp giới chư chúng sanh
Tốc vãng vô lượng quang Phật sát.
Nguyện tiêu tam chướng trừ phiền não
Nguyện đắc trí huệ chơn minh liễu
Phổ nguyện tội chướng tất tiêu trừ
Thế thế thường hành Bồ Tát đạo.
Nguyện sanh Tây phương Tịnh độ trung
Cửu phẩm liên hoa vi phụ mẫư
Hoa khai kiến Phật ngộ vô sanh
Bất thối Bồ Tát vi bạn lữ.
Nguyện dĩ thử công đức
Phổ cập ư nhứt thiết
Ngã đẳng dữ chúng sanh
Giai cộng thành Phật đạo.

TAM TỰ QUY Y

Tự quy y Phật, xin nguyện chúng sanh, thể theo đạo cả, phát lòng vô thượng.

Tự quy y Pháp, xin nguyện chúng sanh, thấu rõ kinh tạng, trí huệ như biển.

Tư quy y Tăng, xin nguyện chúng sanh, thống lý đại chúng, hết thảy không ngại.

Nguyện đem công đức này
Hướng về khắp tất cả
Ðệ tử và chúng sanh
Ðều trọn thành Phật đạo.