NGHI THỨC TRÌ TỤNG CHÚ CHUẨN ĐỀ

1. Trước hết phải rửa tay, rửa mặt, súc miệng, thay quần áo cho sạch sẽ rồi mới đến trước Phật đài mà lễ niệm.

Rửa mặt thì niệm chú rằng:

An lam sa ha (3 lần)

Rửa tay thì niệm chú rằng:

An chu ca ba du sa ha (3 lần)

Súc miệng thì niệm chú rằng:

An ham an han sa ha (3 lần)

Lời dặn: Trì chú được thì sự rửa mới được toàn sạch.

(Không được đi dép, guốc dơ bẩn vào Phật điện. Móng tay cắt ngắn và cậy sạch ghét. Hai ống quần phải buộc kỹ hay mặt quần đùi nịt kỹ hạ bộ cũng được).

2. Thắp ba nén hương vái ba vái vừa vái vừa kiệm rằng (ai thuộc kệ thì đọc kệ):

Bài kệ dâng hương:

Giới hương định hương dữ tuệ hương.
Giải thoát giải thoát tri kiến hương
Quang minh vân đài biến pháp giới
Phả cúng thập phương Tam bảo tiền.
Nam mô Hương Cúng Dường Bồ Tát (3 lần) (1 lễ).

3. Khi cắm hương vào lư rồi thì niệm chú “Phả Lễ Tam Bảo rằng”:

Án phạ nhật la vật (3 lần)

Niệm rồi lễ Phật ba lễ và mỗi lễ xướng rằng:

– Nam mô thập phương tận hư không giới nhất thiết chư phật (1 lễ).
– Nam mô thập phương tận hư không nhất thiết tôn pháp (1 lễ).
– Nam mô thập phương tận hư không giới nhất thiết hiền thánh tăng (1 lễ)

4. Thỉnh chuông (đánh một hồi dài, điểm 3 tiếng chót – ai thuộc kệ thì đọc kệ rồi hãy thỉnh chuông càng hay)

Kệ thỉnh chuông:

Nguyện thử chúng sinh siêu pháp giới
Thiết vi u ám tất giao văn
Văn trần thanh tịnh chứng viên thông
Nhất thiết chúng sinh thành chính giác (Đánh 1 hồi độ mười tiếng: tiếng chuông gần dứt, lại đọc tiếp):

Văn chung thanh, phiền não khinh,

Trí tuệ trưởng, Bồ đề sinh;

Ly địa ngục, Xuất hòa khánh,

Nguyện thành Phật, độ chúng sinh.

Đánh 1 tiếng, lại đọc tiếp:

Án già ra đế gia sa ba ha

5. Ngồi theo cách Kim Cương tọa có 2 phép:
a. Toàn già: (bàn chân trái gác trên vế hữu, rồi bàn chân hữu gác trên vế trái).
b. Ngồi bán già: Có hai cách: (1). Chân bên mặt gác lên trên vế trên về bên trái thôi, thế gọi là “Hàng ma tọa”; (2) Chân bên trái gác lên trên vế bên mặt, gọi là “Cát tường tọa”

6. Hai tay kết ấn “tam muội” nghĩa là lấy bàn tay phải duỗi ngay ra, để ngửa lên bàn tay trái, rồi hai ngón cái giáp móng với nhau, để ngay dưới rốn (lúc ngồi niệm Phật cũng vậy).

7. Thân cho ngay ngắn, tâm cho an tĩnh, có tượng hay tranh Phật thì mắt lim dim chiêm ngưỡng Tôn dung rồi tưởng trên đỉnh đầu có mọt chữ “Lãm” rất tròn sáng như ngọc Châu Như ý hay như mặt trăng ngày rằm soi sáng chiếu vào đầu mình làm tan hết các tai chướng; cứ thế chuyên chú vào một chỗ, đừng để tâm tán loạn đi đâu.

8. Tưởng thế rồi xả ấn Tam muộn qua đỉnh đầu, tay trái kết ấn “Kim Cương quyền”, nghĩa là: đầu ngón tay cái bấm vào cuối đốt ngón tay vô danh đeo nhẫn rồi co cả 4 ngón tay nắm chặt ngón tay cái.

Tay mặt cầm tràng (nếu không tiện thì tay trái cầm tràng, tay phải kết ấn Kim Cương quyền, tùy ý), rồi tụng:

Tịnh Pháp giới Chân ngôn:

Án Lam (108 lần)

Hộ Thân Chân ngôn:

Án Xỉ Lâm (108 lần)

Lục tự Đại minh Chân ngôn:

Án, ma ni bát minh hồng (108 lần)

Xả ấn chắp tay niệm bài kệ “Cầu gia hộ” rằng:

Cúi đầu quy kính pháp viên thành
Đỉnh lễ đủ bảy trăm ức Phật
Con nay xưng tán Đức Chuẩn Đề.
Nhờ lượng từ bi thương ủng hộ.

9. Kế xướng:

Nam mô thất câu chi Phật mẫu Đại Chuẩn Đề vương Bồ tát (vừa xướng vừa lễ ba lễ).

10. Lại ngồi Toàn già hay Bán già, tay kết ấn Chuẩn Đề: hai ngón vô danh xỏ lẫn nhau nắm vào lòng bàn tay, ngón mặt ở trên, 2 ngón giữa chập lại nhau đứng thẳng, 2 ngón trỏ úp vào đốt giữa của hai ngón giữa, hai ngón cái để trên đốt ngón giữa, ngón út úp tay mặt. (Muốn kỹ vào chùa hỏi các cụ hay xem tượng đức Quan Âm)

Ai không kết ấn Chuẩn Đề được thì kết ấn Kim Cương quyền như trên, rồi tụng Chuẩn Đề Chân Ngôn:

Nam mô tát đá nẫm, tam điểu tam bồ đà câu chi nẫm, đát điệt tha, án chiết lệ chủ lệ Chuẩn Đề: Nguyện tiêu tai chướng; Nguyện giáng cát tường; Nguyệt trưởng thiện căn; Nguyện sinh Tịnh độ, Sa bà ha, bộ lâm (21 lần).

Xong lại chí tâm tưởng chữ “Lãm” (vị nào tinh tiến tụng được 49 ngày, sẽ cố tưởng cả đủ 9 chữ ở phần Phụ lục) rồi tụng tiếp:

Án, Chiết lệ chủ lệ Chuẩn Đề, Sa Bà Ha, Bộ Lâm (108 lần)

11. Niệm đủ rồi, xả ấn lên đỉnh đầu, tay phải kết ấn Kim Cương quyền mà ấn theo thứ tự vào 5 chỗ sau:
a. Trên trán;
b. Vai bên trái;
c. Vai bên phải;
d. Ngang ngực;
e. Yết hầu.

– Trong lúc tay ấn thì miệng đọc “Hồng, hồng, hồng, hồng, hồng” cho liên tiếp đủ 5 chỗ rồi mới xả ấn. Nhớ làm phép này trừ đuổi tà ma.

12. Xong đứng dậy lễ 3 lễ vừa lễ vừa xướng:

Nam mô Thất câu chi Phật Mẫu Đại Chuẩn Đề vương Bồ Tát.

13. Lễ xong, quỳ xuống đọc 2 bài phát nguyện rằng:

Văn phát nguyện I

Con nay trì chú Chuẩn Đề
Lạy xin Phật Mẫu phù trì xót thương
Tiêu trừ bệnh tật tai ương,
Toàn gia, Toàn quốc ninh khang thịnh cường
Thiện tăng trí tuệ mở mang
Phúc sinh tội diệt, nghiệp oan đoạn trừ
Mai sau chứng quả bồ đề
Tràng phan nguyện Phật tiếp về Tây phương
Thân vàng ngọc tướng đoan nghiêm
Hào quang chiếu sáng hương thiên ngạt ngào
Nguyện xin độ khắp muôn loài
Đồng đăng giác ngạn đời đời tiêu dao.

Văn phát nguyện II

Cúi xin Tam bảo chứng minh, Oai thần chiếu giám ủng hộ cho con và trong gia đình, cùng người tộc thuộc khắp cả chúng sinh, lúc hiện sống này, khỏi tai khỏi bệnh, ma tặc mất tích, duyên phúc đủ đều. Nhà nhà được chữ đoàn viên, xứ xứ an phần lợi lạc. Đời này kiếp khác, gieo giống bồ đề, cùng thoát sông mê, đều về cõi Phật.

14. Đọc bài phát nguyện xong, kế niệm:

Nam mô Tây phương Cực lạc Thế giới, tam thập lục vạn ức, nhất thập nhất vạn, cửu thiên ngũ bách, đồng danh đồng hiệu, đại từ đại bi, A di đà Phật (3 lần) (mỗi lần niệm, lễ 1 lễ)

Nam mô Thất câu chi Phật Mẫu Đại Chuẩn Đề vương Bồ Tát (3 lần) (mỗi lần niệm, lễ 1 lễ).

15. Lễ Tự quy là lễ tất:

Tự quy y Phật, đương nguyện chúng sinh, thể giải đại đạo, phát vô thượng tâm;
Tự quy y Pháp, đương nguyện chúng sinh, thâm nhập kinh tạng, trí tuệ như hải;
Tự quy y Pháp, đương nguyện chúng sinh, thống lý đại chúng, nhất thiết vô ngại.

(Con quy y Phật, nguyện cho chúng sinh, thấu hiểu đạo lớn, mở lòng từ bi.
Con quy y Pháp, nguyện cho chúng sinh, hiểu thấu nghĩa kinh, trí tuệ như biển.
Con quy y Tăng, nguyện cho chúng sinh, hợp đạo đồng tình, không gì trở ngại
)

Hòa nam Thánh chúng (vái 3 vái rồi lui ra).

HẾT.

Phụ lục:

PHÉP TƯỞNG 9 CHỮ

ÁN: Tưởng trên đầu, sắc trắng như mặt trăng, phóng hào quang, trừ diệt hết mọi chướng nạn.

CHIẾT: Tưởng vào hai mắt, sắc trắng như mặt trăn, mặt trời, soi sáng phá tan hết chỗ ngu tối, mở trí tuệ cho.

LỆ: Tưởng lên trên cổ, sắc như ngọc lưu ly, hiện mọi sắc tướng, đủ trí Như Lai.

CHỦ: Tưởng vào tâm mình, sắc trong sạch, tâm thanh tịnh, chóng chứng Bồ đề.

LỆ: Tưởng vào hai vai, sắc như vàng, mang áo giáp tinh tiến.

CHUẨN: Tưởng vào rốn hai sắc vàng trắng, chóng chứng đạo tràng, bồ đề chẳng lùi.

ĐỀ: Tưởng vào hai vế, sắc vàng nhạt, chóng chứng đạo Bồ đề, được ngồi tòa sen.

SA BÀ: Tưởng vào hai ống chân, sắc đỏ, thường hay tưởng chữ này, chóng được chuyển xe pháp.

HA: Tưởng vào hai bàn chân, sắc như mặt trăng tròn đầy, người hành giả tưởng thế, chóng chứng Niết Bàn.

Lời dặn: Xin các vị cố trì chú Chuẩn Đề trong lúc loạn ly này, lợi mình lợi người.

Viết tại Sài Gòn, trong khi chờ đợi đi du học Tích Lan (Ấn Độ). Xong ngày 20 tháng 7 năm 1951

MẤY LỜI NÓI ĐẦU

Đây là môn mà Nghiệp sư tôi đã truyền cho tôi trì tụng đến nay là 4 năm, tôi đã thấy được nhiều điều linh ứng, nên tôi thành tâm giới thiệu với chư quý giáo hữu.
Trì chú này được rất nhiều lợi:

1. Tiêu trừ được tai chướng;
2. Tăng trưởng thiện căn;
3. Tăng trưởng trí tuệ;
4. Được nhiều điều tốt lành.

Đích thực là những điều tôi đã được chiêm nghiệm đúng là hữu thành tất hữu cảm. Tôi vừa được giới châu xong lại liền được dự phái đoàn Tăng du học, một phần lớn là nhờ công đức ngài Chuẩn Đề vậy.

Trì chú Chuẩn Đề lại còn làm trợ duyên cho việc niệm Phật và phần cầu vãng sinh nữa.

Ta phải biết rằng hết thảy chúng ta đều bị ba cái chướng nó ngăn lấp không cho ta tu học và học đạo Phật. Ba chướng ấy là:

1. Phiền não chướng tức tham, sân, si…
2. Nghiệp chướng tức là nghề mình đang làm;
3. Báo chướng tức là quả báo mình đang hưởng thụ.

Chỉ có chú Chuẩn Đề là một thần chú có oai lực tiêu trừ tà ma, nên ta cần phải chuyên trì nhất là mỗi ngày được ba buổi, không thì một vậy; hoặc về buổi sáng, hoặc về buổi trưa hay buổi tối tùy tiện.

Chú Chuẩn Đề lại rất dễ trì, bất luận xuất gia hay tại gia, có trì trai hay không trì trai, đều trì được cả. Hễ hết lòng thành tín trì tụng thì đều trừ hết tai họa, đau ốm và yêu quái, lại hưởng được nhiều phúc duyên, mà cầu nguyện sự gì cũng đều được thành tựu hết thảy.