NGHI THỨC TỤNG 48 ĐẠI NGUYỆN
(Thắp đèn đốt hương trầm xong, đứng ngay ngắn chắp tay để ngang ngực mật niệm)

Tịnh Pháp Giới Chơn Ngôn:

Án lam tóa ha. (3 lần)

Tịnh Tam Nghiệp Chơn Ngôn:

Án ta phạ bà phạ, thuật đà ta phạ, đạt mạ ta phạ, bà phạ thuật độ hám. (3 lần)

(Chư Phật tử nghiêm tịnh thân tâm, quỳ, chấp tay cung kính. Chủ lễ nguyện hương.)

1/. Nguyện Hương

Nguyện đem lòng thành kính,
Gởi theo đám mây hương.
Phưởng phất khắp mười phương.
Cúng dường ngôi Tam Bảo,
Thề trọn đời giữ đạo,
Theo tự tánh làm lành,
Cùng pháp giới chúng sinh,
Cầu Phật từ gia hộ,
Tâm Bồ Đề kiên cố,
Xa bể khổ nguồn mê,
Chóng quay về bờ Giác (1 lạy) o

2/. Kỳ Nguyện
(Riêng cho vị chủ lễ)

Tư thời đệ tử chúng đẳng phúng tụng kinh chú, xưng tán hồng danh, tập thử công đức, nguyện thập phương thường trú Tam Bảo, Điều ngự Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật, tiếp dẫn đạo sư A Di Đà Phật, từ bi gia hộ cho đệ tử ………… pháp danh ………….. phiền não đoạn diệt, nghiệp chướng tiêu trừ, căn lành tăng trưởng, xa lìa khổ ách, tăng tiến Bồ đề, cùng tất cả chúng sanh đồng chứng vô thượng Chánh Đẳng Chánh Giác.

(Đứng dậy cấp hương lên lư rồi chấp tay đứng thẳng và niệm lớn)

3/. Tán Thán Phật

Đấng Pháp Vương vô thượng
Ba cõi chẳng ai bằng.
Thầy dạy khắp trời người,
Cha lành chung bốn loài.
Quy y tròn một niệm,
Dứt sạch nghiệp ba kỳ,
Xưng dương cùng tán thán,
Ức kiếp không cùng tận. () o

4/. Quán Tưởng

Phật chúng sanh tánh thường rỗng lặng.
Đạo cảm thông không thể bàn,
Lưới đế châu ví đạo tràng,
Mười phương Phật bảo hào quang sáng ngời
Trước bảo tọa thân con ảnh hiện.
Cúi đầu xin thệ nguyện quy y. o

5/. Đảnh Lễ Tam Bảo

Chí Tâm Đảnh Lễ:

Nam mô tận hư không, biến pháp giới, quá hiện, vị lai Thập phương chư Phật, Tôn Pháp, Hiền Thánh Tăng, thường trú Tam Bảo. (1 lạy) o

Chí Tâm Đảnh Lễ:

Nam mô Ta Bà Giáo chủ, Điều Ngự Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật, Đương Lai Hạ Sanh Di Lặc Tôn Phật, Đại Trí Văn Thù Sư Bồ Tát, Đại Hạnh Phổ Hiền Bồ Tát, Hộ Pháp chư tôn Bồ Tát, Linh Sơn Hội Thượng Phật Bồ Tát. (1 lạy) o

Chí Tâm Đảnh Lễ:

Nam Mô Tây Phương Cực Lạc thế giới, đại từ đại bi tiếp dẫn đạo sư A Di Đà Phật, đại bi Quán Thế Âm Bồ Tát, Đại Thế Chí Bồ Tát, đại nguyện Địa Tạng Vương Bồ Tát, Thanh Tịnh Đại Hải Chúng Bồ tát. (1 lạy) o

6/. Tán Lư Hương

Lư hương vừa bén chiên đàn,
Khói bay nghi ngút muôn vàn cõi xa,
Lòng con kính ngưỡng thiết tha,
Ngưỡng mong chư Phật thương mà chứng cho.

Nam Mô Hương Vân Cái Bồ tát. (3lần) o

7/. Chú Đại Bi

Nam mô đại bi Hội Thượng Phật Bồ tát. (3lần) o

Thiên thủ thiên nhãn vô ngại đại bi tâm đà-la-ni.

Nam-mô hắc ra đát na đa ra dạ da. Nam-mô a rị da, bà lô kiết đế thước bác ra da, bồ-đề tát đỏa bà da, ma ha tát đỏa bà da, ma ha ca lô ni ca da, án, tát bàn ra phạt duệ số đát na đát tỏa. Nam-mô tất kiết lật đỏa y mông a rị da, bà lô kiết đế thất phật ra lăng đà bà.

Nam-mô na ra cẩn trì hê rị, ma ha bàn đa sa mế, tát bà a tha đậu du bằng, a thệ dựng, tát bà tát đa, na ma bà già, ma phạt đát đậu, đát điệt tha. Án a bà lô hê, lô ca đế, ca ra đế, di hê rị, ma ha bồ-đề tát đỏa, tát bà tát bà, ma ra ma ra, ma hê ma hê, rị đà dựng, cu lô cu lô yết mông, độ lô độ lô, phạt xà da đế, ma ha phạt xà da đế, đà ra đà ra, địa rị ni, thất Phật ra da, dá ra dá ra. Mạ mạ phạt ma ra, mục đế lệ, y hê di hê, thất na thất na, a ra sâm Phật ra xá-lợi, phạt sa phạt sâm, phật ra xá da, hô lô hô lô ma ra, hô lô hô lô hê rị, ta ra ta ra, tất rị tất rị, tô rô tô rô, bồ-đề dạ, bồ-đề dạ, bồ-đà dạ, bồ-đà dạ, di đế rị dạ, na ra cẩn trì, địa rị sắc ni na, ba dạ ma na ta bà ha. Tất đà dạ ta bà ha. Ma ha tất đà dạ ta bà ha. Tất đà dủ nghệ thất bàn ra dạ, ta bà ha. Na ra cẩn trì ta bà ha. Ma ra na ra ta bà ha. Tất ra tăng a mục khê da, ta bà ha. Ta bà ma ha, a tất đà dạ, ta bà ha. Giả kiết ra a tất đà dạ, ta bà ha. Bà đà ma yết tất đà dạ, ta ba ha. Na ra cẩn trì bàn dà ra dạ, ta bà ha. Ma bà lợi thắng yết ra dạ, ta bà ha.

Nam-mô hắc ra đát na, đa ra dạ da. Nam-mô a rị da, bà lô kiết đế, thước bàng ra dạ, ta bà ha.
Án tất điện đô, mạng đa ra, bạt đà dạ, ta bà ha.(3 lần) o

8/-Kệ Khai Kinh

Pháp vi diệu thâm sâu vô thượng
Trăm ngàn vạn kiếp khó gặp được
Nay con thấy nghe được thọ trì
Nguyện hiểu nghĩa chân thật của Như Lai.
Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật (3 lần)

48 ĐẠI NGUYỆN CỦA PHẬT A DI ĐÀ

(Quý Phật tử có thể tụng 48 đại nguyện này vào ngày vía của Ngài, quý vị lcó thể lễ một lạy ở mỗi nguyện)

Tỳ-kheo Pháp Tạng bạch Phật rằng:

‘Ngưỡng mong Đức Như Lai lắng nghe. Con sẽ lần lượt phát ra hết các thệ nguyện ấy:

Nguyện thứ nhất: Lúc con thành Phật, nếu trong nước con có địa ngục, ngạ quỷ hoặc súc sanh, thời con không ở ngôi Chánh Giác.

Nguyện thứ hai: Lúc con thành Phật, nếu hàng trời người trong nước con, sau khi mạng chung mà còn đọa vào tam ác đạo, thời con không ở ngôi Chánh Giác.

Nguyện thứ ba: Lúc con thành Phật, nếu hàng trời người trong nước con, thân chẳng giống như màu vàng chân kim, thời con không ở ngôi Chánh Giác.

Nguyện thứ tư: Lúc con thành Phật, nếu hàng trời người trong nước con, hình sắc chẳng đồng nhau, có người đẹp kẻ xấu, thời con không ở ngôi Chánh Giác.

Nguyện thứ năm: Lúc con thành Phật, nếu hàng trời người trong nước con, như chẳng được Túc Mạng Thông để biết trăm ngàn ức na-do-tha số kiếp, thời con không ở ngôi Chánh Giác.

Nguyện thứ sáu: Lúc con thành Phật, nếu hàng trời người trong nước con, như chẳng được Thiên Nhãn Thông để thấy trăm ngàn ức na-do-tha quốc độ của chư Phật, thời con không ở ngôi Chánh Giác.

Nguyện thứ bảy: Lúc con thành Phật, nếu hàng trời người trong nước con, như chẳng được Thiên Nhĩ Thông để nghe trăm ngàn ức na-do-tha chư Phật thuyết Pháp hay chẳng thể thọ trì, thời con không ở ngôi Chánh Giác.

Nguyện thứ tám: Lúc con thành Phật, nếu hàng trời người trong nước con, như chẳng được Tha Tâm Thông để hiểu tâm niệm của trăm ngàn ức na-do-tha chúng sanh trong chư Phật quốc độ, thời con không ở ngôi Chánh Giác.

Nguyện thứ chín: Lúc con thành Phật, nếu hàng trời người trong nước con, như chẳng được Thần Túc Thông để đến trăm ngàn ức na-do-tha quốc độ chư Phật trong một niệm khoảnh, thời con không ở ngôi Chánh Giác.

Nguyện thứ mười: Lúc con thành Phật, nếu hàng trời người trong nước con, như khởi tưởng niệm chấp trước nơi thân tướng, thời con không ở ngôi Chánh Giác.

Nguyện thứ mười một: Lúc con thành Phật, nếu hàng trời người trong nước con, như chẳng trụ nơi chánh định cho đến lúc diệt độ, thời con không ở ngôi Chánh Giác.

Nguyện thứ mười hai: Lúc con thành Phật, nếu hào quang có giới hạn, như chẳng thể chiếu đến trăm ngàn ức na-do-tha quốc độ của chư Phật, thời con không ở ngôi Chánh Giác.

Nguyện thứ mười ba: Lúc con thành Phật, nếu thọ mạng có giới hạn, như chẳng thọ đến trăm ngàn ức na-do-tha số kiếp, thời con không ở ngôi Chánh Giác.

Nguyện thứ mười bốn: Lúc con thành Phật, nếu hàng Thanh Văn trong nước con, như có thể tính đếm và dù cho tất cả chúng sanh trong Tam Thiên Đại Thiên Thế Giới đều thành bậc Duyên Giác, rồi cùng cộng tính trong trăm ngàn kiếp mà biết được số ấy, thời con không ở ngôi Chánh Giác.

Nguyện thứ mười lăm: Lúc con thành Phật, nếu hàng trời người trong nước con, như thọ mạng có giới hạn, thời con không ở ngôi Chánh Giác, duy trừ do sức bổn nguyện riêng mà dài ngắn tự tại.

Nguyện thứ mười sáu: Lúc con thành Phật, nếu hàng trời người trong nước con, dẫu chỉ nghe tên của việc bất thiện, thời con không ở ngôi Chánh Giác.

Nguyện thứ mười bảy: Lúc con thành Phật, nếu vô lượng chư phật ở mười phương thế giới, như chẳng ngợi khen danh hiệu con, thời con không ở ngôi Chánh Giác.

Nguyện thứ mười tám: Lúc con thành Phật, nếu có chúng sanh nào ở mười phương với chí tâm tín thọ, muốn sanh về nước con và niệm đủ mười niệm mà chẳng được vãng sanh, thời con không ở ngôi Chánh Giác, duy trừ kẻ phạm năm tội ngỗ nghịch hoặc phỉ báng Chánh Pháp.

Nguyện thứ mười chín: Lúc con thành Phật, nếu có chúng sanh nào ở mười phương phát Bồ-đề tâm, tu các công đức, chí tâm phát nguyện, và muốn sanh về nước con. Khi người ấy mạng chung mà con chẳng hiện ra và cùng đại chúng vây quanh trước người đó, thời con không ở ngôi Chánh Giác.

Nguyện thứ hai mươi: Lúc con thành Phật, nếu có chúng sanh nào ở mười phương nghe được danh hiệu con, tưởng nhớ cõi nước con, tu hành công đức, rồi chí tâm hồi hướng, và muốn sanh về nước con mà chẳng được toại ý, thời con không ở ngôi Chánh Giác.

Nguyện thứ hai mươi mốt: Lúc con thành Phật, nếu hàng trời người trong nước con, như chẳng thành tựu viên mãn 32 tướng tốt của bậc đại nhân, thời con không ở ngôi Chánh Giác.

Nguyện thứ hai mươi hai: Lúc con thành Phật, nếu chư Bồ-Tát ở tha phương Phật độ sanh đến nước con mà cứu cánh chẳng thành Nhất Sanh Bổ Xứ,thời con không ở ngôi Chánh Giác, duy trừ do sức bổn nguyện tự tại nên hóa hiện ở quả vị ấy. Bồ-Tát vì muốn độ thoát tất cả chúng sanh nên khoác lên áo giáp của đại nguyện và tích lũy thiện căn. Rồi du hành đến các quốc độ của chư Phật, tu Bồ-Tát hạnh, cúng dường mười phương chư Phật Như Lai, giáo hóa Hằng Hà sa vô lượng chúng sanh và an lập họ nơi Đạo Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác. Bồ-Tát như vậy, hiện tiền tu theo Phổ Hiền hạnh nguyện và siêu vượt các quả địa thông thường.

Nguyện thứ hai mươi ba: Lúc con thành Phật, nếu chư Bồ-Tát trong nước con, như chẳng thể nương uy thần của Phật với thời gian chừng bằng một bữa ăn để cúng dường đến khắp vô lượng vô số ức na-do-tha quốc độ chư Phật, thời con không ở ngôi Chánh Giác.

Nguyện thứ hai mươi bốn: Lúc con thành Phật, nếu chư Bồ-Tát trong nước con, như chẳng thể hiện ra đầy đủ các công đức để cúng dường trước chư Phật, hoặc chẳng được như ý, thời con không ở ngôi Chánh Giác.

Nguyện thứ hai mươi lăm: Lúc con thành Phật, nếu chư Bồ-Tát trong nước con, như chẳng thể diễn nói Nhất Thiết Trí, thời con không ở ngôi Chánh Giác.

Nguyện thứ hai mươi sáu: Lúc con thành Phật, nếu chư Bồ-Tát trong nước con, như chẳng được thân kim cang na-la-diên, thời con không ở ngôi Chánh Giác.

Nguyện thứ hai mươi bảy: Lúc con thành Phật, hết thảy vạn vật trong nước con đều trang nghiêm thanh tịnh, sáng chói tráng lệ, hình sắc thù đặc, và vi diệu vô cùng đến chẳng thể suy lường. Nếu hàng trời người và các chúng sanh trong quốc độ con, cho đến dùng thiên nhãn mà có thể thấu rõ số lượng và danh xưng đó, thời con không ở ngôi Chánh Giác.

Nguyện thứ hai mươi tám: Lúc con thành Phật, nếu chư Bồ-Tát trong nước con, bao gồm những vị ít công đức, mà chẳng thể thấy biết nơi Đạo Tràng có cây Bồ-đề với vô lượng màu sắc chói sáng và cao 400 vạn dặm, thời con không ở ngôi Chánh Giác.

Nguyện thứ hai mươi chín: Lúc con thành Phật, nếu chư Bồ-Tát trong nước con, thọ trì đọc tụng và giảng thuyết Kinh Pháp mà chẳng được trí tuệ biện tài, thời con không ở ngôi Chánh Giác.

Nguyện thứ ba mươi: Lúc con thành Phật, nếu chư Bồ-Tát trong nước con, như trí tuệ biện tài có giới hạn, thời con không ở ngôi Chánh Giác.

Nguyện thứ ba mươi mốt: Lúc con thành Phật, quốc độ sẽ thanh tịnh, chiếu soi tất cả vô lượng vô số bất khả tư nghị mười phương chư Phật thế giới, như tự thấy mặt mình hiện rõ trong gương sáng. Nếu chẳng được như thế, thời con không ở ngôi Chánh Giác.

Nguyện thứ ba mươi hai: Lúc con thành Phật, từ mặt đất đến hư không sẽ có cung điện lầu các, ao hồ dòng nước, và bông hoa cây cối. Hết thảy vạn vật trong cõi nước con đều do vô lượng tạp bảo và trăm ngàn loại hương hợp thành. Những vật trang nghiêm kỳ diệu ấy đều vượt hơn của chư thiên. Mùi hương đó xông khắp thập phương thế giới và khi chư Bồ-Tát ngửi vào thời sẽ đều tu Phật hạnh. Nếu chẳng được như thế, thời con không ở ngôi Chánh Giác.

Nguyện thứ ba mươi ba: Lúc con thành Phật, tất cả chúng sanh trong vô lượng vô số bất khả tư nghị mười phương chư Phật thế giới, khi được ánh hào quang của con chạm đến thân họ, thân tâm sẽ hiền hòa và an vui hơn cả chư thiên. Nếu chẳng được như thế, thời con không ở ngôi Chánh Giác.

Nguyện thứ ba mươi bốn: Lúc con thành Phật, tất cả chúng sanh trong vô lượng vô số bất khả tư nghị mười phương chư Phật thế giới, khi nghe danh hiệu con mà chẳng đắc Vô Sanh Pháp Nhẫn của Bồ-Tát và các môn tổng trì thậm thâm, thời con không ở ngôi Chánh Giác.

Nguyện thứ ba mươi lăm: Lúc con thành Phật, nếu có người nữ nào trong vô lượng vô số bất khả tư nghị mười phương chư Phật thế giới, nghe được danh hiệu con, rồi hoan hỷ tín thọ, phát Bồ-đề tâm, nhàm chán nữ thân, và sau khi mạng chung mà còn thọ thân nữ, thời con không ở ngôi Chánh Giác.

Nguyện thứ ba mươi sáu: Lúc con thành Phật, nếu có chư Bồ-Tát nào trong vô lượng vô số bất khả tư nghị mười phương chư Phật thế giới, nghe được danh hiệu con, sau khi mạng chung, họ sẽ thường tu Phạm hạnh cho đến lúc thành Phật Đạo. Nếu chẳng được như thế, thời con không ở ngôi Chánh Giác.

Nguyện thứ ba mươi bảy: Lúc con thành Phật, nếu có hàng trời người trong vô lượng vô số bất khả tư nghị mười phương chư Phật thế giới, nghe được danh hiệu con, cúi đầu đảnh lễ sát đất, rồi hoan hỷ tín thọ, và tu Bồ-Tát hạnh mà chẳng được chư thiên và người thế gian tôn kính, thời con không ở ngôi Chánh Giác.

Nguyện thứ ba mươi tám: Lúc con thành Phật, nếu hàng trời người trong nước con, như muốn được y phục thì liền tự nhiên theo ý mà ứng hiện ra y phục vi diệu nơi thân, như Phật đã tán dương. Nếu cần phải may vá hoặc nhuộm tẩy hay giặt giũ, thời con không ở ngôi Chánh Giác.

Nguyện thứ ba mươi chín: Lúc con thành Phật, nếu hàng trời người trong nước con, nơi sở thọ an vui như chẳng bằng vị Tỳ-kheo đã chứng Lậu Tận Thông, thời con không ở ngôi Chánh Giác.

Nguyện thứ bốn mươi: Lúc con thành Phật, nếu chư Bồ-Tát trong nước con, như muốn thấy vô lượng mười phương Phật độ thanh tịnh trang nghiêm, thì liền ứng theo ý nguyện và đều hiện ra ở trong cây báu, như tự thấy mặt mình hiện rõ trong gương sáng. Nếu chẳng được như thế, thời con không ở ngôi Chánh Giác.

Nguyện thứ bốn mươi mốt: Lúc con thành Phật, nếu chư Bồ-Tát ở tha phương quốc độ nghe được danh hiệu con và cho đến lúc thành Phật mà các căn bị khiếm khuyết hay thấp kém, hoặc chẳng trọn đủ, thời con không ở ngôi Chánh Giác.

Nguyện thứ bốn mươi hai: Lúc con thành Phật, nếu chư Bồ-Tát ở tha phương quốc độ nghe được danh hiệu con, tất cả đều sẽ đắc Thanh Tịnh Giải Thoát Tam-muội. Khi trụ ở tam-muội này, thời chỉ trong một niệm khoảnh, có thể cúng dường vô lượng bất khả tư nghị chư Phật Thế Tôn mà chẳng mất chánh định. Nếu chẳng được như thế, thời con không ở ngôi Chánh Giác.

Nguyện thứ bốn mươi ba: Lúc con thành Phật, nếu chư Bồ-Tát ở tha phương quốc độ nghe được danh hiệu con, sau khi mạng chung thời sẽ sinh vào nhà tôn quý. Nếu chẳng được như thế, thời con không ở ngôi Chánh Giác.

Nguyện thứ bốn mươi bốn: Lúc con thành Phật, nếu chư Bồ-Tát ở tha phương quốc độ nghe được danh hiệu con, vui mừng hớn hở, rồi tu Bồ-Tát hạnh, và đầy đủ các công đức. Nếu chẳng được như thế,thời con không ở ngôi Chánh Giác.

Nguyện thứ bốn mươi lăm: Lúc con thành Phật, nếu chư Bồ-Tát ở tha phương quốc độ nghe được danh hiệu con, tất cả đều sẽ đắc Phổ Đẳng Tam-muội. Khi trụ ở tam-muội này cho đến lúc thành Phật sẽ luôn thấy vô lượng bất khả tư nghị tất cả Như Lai. Nếu chẳng được như thế, thời con không ở ngôi Chánh Giác.

Nguyện thứ bốn mươi sáu: Lúc con thành Phật, nếu chư Bồ-Tát trong nước con muốn nghe Pháp, thời sẽ tùy theo ý nguyện mà tự nhiên được nghe. Nếu chẳng được như thế, thời con không ở ngôi Chánh Giác.

Nguyện thứ bốn mươi bảy: Lúc con thành Phật, nếu chư Bồ-Tát ở tha phương quốc độ nghe được danh hiệu con, mà chẳng lập tức đắc quả vị bất thối chuyển, thời con không ở ngôi Chánh Giác.

Nguyện thứ bốn mươi tám: Lúc con thành Phật, nếu chư Bồ-Tát ở tha phương quốc độ nghe được danh hiệu con, mà chẳng lập tức đắc đệ nhất, đệ nhị, cho đến đệ tam Pháp nhẫn, hoặc ở trong Phật Pháp, như chẳng có thể lập tức đắc quả vị bất thối chuyển, thời con không ở ngôi Chánh Giác.

CON NAY khắp vì bốn ơn, ba cõi, cùng pháp giới chúng sanh CẦU nơi QUẢ VỊ NHỨT THỪA VÔ THƯỢNG BỒ ÐỀ của PHẬT. Một lòng trì niệm, hồng danh muôn đức A DI ÐÀ PHẬT, cầu sanh CỰC LẠC.

9/-Vãng Sinh Tịnh Ðộ Thần Chú

Nam-mô a di đa bà dạ, đa tha dà đa dạ, đa diệt dạ tha. A di rị đô bà tỳ, a di rị đa, tất đam bà tỳ, a di rị đa, tì ca lan đế, a di rị đa, tì ca lan đa, dà di nị, dà dà na, chỉ đa ca lệ, ta bà ha.(3 lần)

Phật A Di Ðà thân sắc vàng
Tướng tốt quang minh không ai bằng
Hào quang trắng uyển chuyển như Tu Di
Mắt Phật xanh biếc như nước bốn biển
Trong quang minh có vô số hoá Phật
Hoá Bồ Tát cũng nhiều vô biên
Bốn mươi tám nguyện độ chúng sinh
Chín phẩm sen vàng lên bờ giác.

Nam Mô Tây Phương Cực Lạc Thế Giới Ðại Từ Ðại Bi Tiếp Dẫn Ðạo Sư A Di Ðà Phật.

Nam Mô A Di Ðà Phật. (108 lần)
Nam Mô Quán Thế Âm Bồ Tát. (3 lần)
Nam Mô Ðại Thế Chí Bồ Tát. (3 lần)
Nam Mô Ðịa Tạng Vương Bồ Tát.(3 lần)
Nam Mô Thanh Tịnh Ðại Hải Chúng Bồ Tát. (3 lần)

10/- Hồi Hướng

Tụng Kinh công đức hạnh thù thắng
Bao nhiêu phước đức đều hồi hướng
Nguyện khắp pháp giới các chúng sinh
Sớm được vãng sinh cõi Phật Vô Lượng Quang
Nguyện tiêu ba chướng dứt phiền não
Nguyện được trí huệ hiểu chân thật
Nguyện khắp tội chướng đều tiêu trừ
Ðời đời thường hành Bồ Tát đạo
Nguyện sinh sang cõi Tây phương Tịnh độ
Chín phẩm hoa sen là cha mẹ
Hoa nở thấy Phật ngộ vô sinh
Bồ Tát bất thối làm bạn lành
Nguyện đem công đức nầy
Hướng về khắp tất cả
Ðệ tử và chúng sinh
Ðều trọn thành Phật đạo.

Phục Nguyện:

Con nguyện lâm chung không chướng ngại,
A Di Đà đến rước từ xa.
Quán Âm cam lồ rưới nơi đầu
Thế Chí kim đài trao đỡ gót.
Trong một sát na lìa ngũ trược,
Khoảng tay co duỗi đến liên trì.
Khi hoa sen nở thấy Từ Tôn
Nghe tiếng pháp sâu lòng sáng tỏ.
Nghe xong liền ngộ Vô Sanh Nhẫn,
Không rời An Dưỡng lại Ta Bà.
Khéo đem phương tiện lợi quần sanh
Hay lấy trần lao làm Phật sự,
Con nguyện như thế Phật chứng tri.
Kết cuộc về sau được thành tựu.
Nam Mô A Di Đà Phật!

Tam quy y

Tự quy y Phật, xin nguyện chúng sinh, thể theo đạo cả, phát lòng vô thượng. (1 lạy)

Tự quy y Pháp, xin nguyện chúng sinh, thấu rõ tạng Kinh, trí huệ như biển. (1 lạy)

Tự quy y Tăng, xin nguyện chúng sinh, thống lý đại chúng, hết thảy không ngại. (1 lạy)

Nguyện đem công đức nầy
Trang nghiêm cõi Phật thanh tịnh
Trên đền bốn ân nặng
Dưới cứu ba đường khổ
Nếu có ai thấy nghe
Liền phát tâm bồ đề
Khi xả báo thân nầy
Ðồng sinh về Cực Lạc.
Nam Mô A Di Đà Phật!

-HẾT-