TỪ BI ĐẠO TRÀNG SÁM PHÁP
LƯƠNG HOÀNG SÁM

Thượng tọa THÍCH TRÍ TỊNH giảo chính
Dịch giả: THÍCH VIÊN GIÁC

 

Phàm là người sanh trong cõi Dục này, trừ các bực đã hoàn toàn giác ngộ, thì không một ai tránh khỏi lỗi lầm, bởi ba nghiệp gây nên.

Các tội lỗi dã từ ba nghiệp phát sanh, nên người muốn dứt trừ hết tội lỗi, tất nhiên phải đem ba nghiệp ấy để sám hối, thì tội lỗi mới được thanh tịnh.

Phật dạy: “Nếu không có phương pháp sám hối thì, tất cả các Phật tử không một ai mà được giải thoát”. Cũng như, nếu không nhờ bộ Lương Hoàng Sám này thì, bà Hy Thị là Hoàng hậu của vua Lương không làm sao thoát khỏi khổ nạn được.

Vì thế nên bộ Lương Hoàng Sám này có một hiệu lực mạnh mẽ, làm cho người có tội lỗi được tiêu trừ, phước lành tăng trưởng.

 

LỜI GIỚI THIỆU

Phàm là người sanh trong cõi Dục này, trừ các bực đã hoàn toàn giác ngộ, thì không một ai tránh khỏi lỗi lầm, bởi ba nghiệp gây nên.

Các tội lỗi đã từ ba nghiệp phát sanh, nên người muốn dứt trừ hết tội lỗi, tất nhiên phải đem ba nghiệp ấy để sám hối, thì tội lỗi mới được thanh tịnh.

Phật dạy:

“Nếu không có phương pháp sám hối thì, tất cả các Phật tử không một ai mà được giải thoát”.

Cũng như, nếu không nhờ bộ Lương Hoàng Sám nầy thì, bà Hy Thị là Hoàng hậu của vua Lương không làm sao thoát khỏi khổ nạn được.

Vì thế nên bộ Lương Hoàng Sám nầy có một hiệu lực mạnh mẽ, làm cho người có tội lỗi được tiêu trừ, phước lành tăng trưởng.

Cảm thấy sự phiên dịch của Đại đức Thích Viên Giác rất dày công phu, nên tôi xin có vài lời giới thiệu đến toàn thể các Phật tử xa gần và hy vọng rằng, bộ Lương Hoàng Sám này được phổ biến mười phương và sẽ đem lại sự lợi lạc chung cho tất cả; nếu ai có tín tâm thật hành theo.

Cẩn chí
Trị sự Trưởng G.H.T.G.N.V.
THÍCH THIỆN HÒA

THAY LỜI TỰA

Theo lời tựa trong chánh văn thì bộ LƯƠNG HOÀNG SÁM này do Hòa thượng Chí Công biên tập từ đời Vua Lương Võ Đế bên Tầu.

Nguyên Vua Lương Võ Đế, có một bà Hoàng hậu yêu quý nhất tên là Hy Thị. Vì được vua yêu quý nên lòng đố kỵ của bà ngày càng lên cao; Hy Thị ganh tị các cung phi, độc ác với mọi người và hủy báng Tam Bảo. Trong Triều ngoài Quận ai cũng biết Bà Hy Thị là một “quái phi”.

Sau bà nhuốm bệnh nặng, các lương y đều thúc thủ, bà phải từ trần. Một hôm vào lúc đêm khuya, đang ngồi trong cung tịch mịch. Vua Lương Võ Đế nghe tiếng người kêu van thảm thiết.

Dưới ánh đèn mờ, Vua Lương Võ Đế lạnh cả người, muốn chạy trốn, nhưng không được. Vua bèn lên tiếng hỏi: “Ngươi là ai mà đêm khuya thanh vắng nghiêm mật thế này lại vào đây được?” – Hoàng đế ơi! Thiếp đây chính là Hy Thị. Vì quá độc ác nên chết rồi thiếp phải đọa làm rắn mãn xà. Ngày đêm đau khổ, thân thể tanh hôi, vi vẩy đều bị sâu trùng rúc rỉa nhức nhối không thể chịu được.

Nhớ lại tình cầm sắc xưa kia nên thiếp đến đây mong nhờ Hoàng đế tìm phương cứu thiếp. Nói rồi biến mất. Nghe xong, Vua Lương Võ Đế như thoát cơn ác mộng và lòng đau như dao cắt! Ngày mai khi lâm Triều, Vua kể lại chuyện ấy cho bá quan nghe để tìm phương cứu vớt Hy Thị.

Trong số các quan có người đề nghị: Xin cung thỉnh Hòa thượng Chí Công lo việc này. Vua lương Võ Đế chấp thuận. Hòa thượng Chí Công là một cao tăng đắc đạo đương thời. Thể theo lời thỉnh cầu của nhà Vua, ngài liền triệu tập các danh tăng soạn ra Sám Pháp này và lập Đàn tràng làm lễ sám hối cho Hoàng hậu Hy Thị.

Nhà Vua chí tâm, thân hành lễ bái. Vài hôm đầu, người ta nghe có mùi hương lạ thơm nức, ngào ngạt khắp cả đạo tràng.

Lễ tụng đến quyển thứ năm, ngay tại chỗ, trên không trung, Vua Lương Võ Đế nghe có tiếng của Hy Thị. Bà hiện thân thiên nữ đẹp đẽ, nói tiếng ngưởi, tỏ lòng cám ơn Hòa thượng Hoàng đế.
Hy Thị cho biết bà đã thoát nạn và đã sanh lên Đao Lợi Thiên Cung, nhờ công đức sám hối.

Từ đó Sám Pháp này được truyền tụng khắp nơi, rất thạnh hành.

Bản chánh bằng Hán văn trọn bộ 10 quyển. Danh hiệu Phật và lời sám đều rút trong Tam Tạng Thánh giáo Đại thừa.

Năm 1948 – 1950, Bồ tát giới Tuệ Nhuận và một số đạo hữu khá đông ở Bắc việt đã dịch âm ra Việt văn, thành 2 tập.

Năm 1952, lúc còn tu học ở Phật học viện Báo quốc Huế, tôi bắt đầu dịch nghĩa bộ này ra tiếng Việt, đến nay mới đủ cơ duyên xuất bản.

Tôi nguyện xin nhờ công đức phiên dịch này, hầu mong đền đáp lại bốn ơn muôn một và cứu giúp muôn loài phần nào.

Tôi nguyện xin nhờ công đức phiên dịch này, hầu mong giúp hàng sơ cơ một phương pháp tu hành giản dị để cải ác tùng thiện, để đi Tây phương về Lạc Quốc.

Tôi nguyện xin nhờ công đức phiên dịch này làm cho người tu hành ngày càng tinh tiến, nghiệp chướng chóng tiêu trừ, thân tâm thường an lạc và sở cầu được như nguyện.

Tôi cũng xin cầu nguyện cho tất cả người thấy, người nghe, người hủy báng, người tùy hỷ, đều được lợi lạc, thoát khổ não, và nguyện xin cho tất cả chúng sanh xả ly tà kiến, biết sám hối.

SÁM HỐI NGHĨA LÀ GÌ?

– Kinh dạy:

– Sám là sám kỳ tiền khiên. – Hối là hối kỳ hậu quá.

– Sám là ăn năn các việc ác đã làm, thề xin chừa bỏ, không dám tái phạm.

– Hối là hối cải. Những điều ác chưa làm, sau này xin thề nguyện không bao giờ làm nữa. Bao nhiêu điều thiện xin làm hết.

Chữ Phạn gọi là Sám ma; Tàu dịch là hối quá; ghép cả hai chữ lại mà đọc là Sám hối.

Sám hối cũng có sự sám và là sám.

Sự sám tức là thiết lập Đàn tràng, trang nghiêm Phật tượng, cúng dường hương hoa, ân cần đảnh lễ, thành khẩn nguyện cầu tam nghiệp như nhất, tỏ bầy tội lỗi. Cầu xin chư Phật, chư đại Bồ tát phóng hào quang, dùng thần lực, gia hộ cho kẻ tu hành mau tiêu trừ nghiệp chướng, chóng thoát oan khiên, sạch hết tội lỗi.

Lý sám là sám hối tự tâm
Tội thành do tâm tạo
Tội diệt phải do tâm sám;
Tâm không thì tội cũng không,
Tội diệt thì tâm cũng diệt.

Tội không, tâm diệt thì không còn gì nữa mà sám hối. Như vậy mới là chân thật sám hối.

Sau khi lạy một lạy, tụng một câu, người tu hành nên xét lại tự tâm, diệt sạch vọng tưởng, quán lý vô sanh, phải biết tội do nhơn duyên mà thành, thì tội cũng do nhơn duyên mà diệt. Nhơn duyên là những điều kiện tạo nên tội và phương pháp sám hối.

Tội vốn không thật có. Vì không thật có, nên chúng ta có thể chuyển tội thành phước, chuyển khổ thành vui, chuyển mê thành ngộ.

Khi xướng một câu danh hiệu Phật, chúng ta cần phải thật hiểu nghĩa lý danh hiệu ấy. Hiểu để tu tập, để làm theo những đức tánh cao đẹp của chư Phật.

Ví như chúng ta xướng câu. “Nam mô Phổ Quang Phật”, thì ít ra chúng ta cũng phải hiểu sơ như thế này:

Chúng con xin kính lễ (Nam mô) đấng giác ngộ hoàn toàn (Phật) đầy đủ đức tánh cao rộng đẹp đẽ (Phổ) sáng suốt vô biên (Quang).

Ngoài ra chúng ta cũng cần tìm hiểu thêm bản tâm của chúng ta. Tâm của chúng ta cũng có những đức tánh cao rộng đẹp đẽ như thế.

NAM MÔ.- Nghĩa là quy y, kính lễ, v.v…

PHỔ.- Nghĩa là phổ cập, phổ biến, cùng khắp, không có giới hạn, ngoài thời gian và không gian, không phân biệt người và ta. Trái lại Phổ có nghĩa hàm súc những đức tánh từ bi hỷ xả với tất cả mọi loài, mọi vật, mọi chốn, mọi nơi.

Tâm ta cũng có những tánh chất phổ biến như thế. Từ nay ta phải sống theo tiếng gọi của cõi lòng, không tiêu cực mà tích cực, không ích kỷ mà vị tha, không sân hận mà từ bi, không xan tham mà bố thí, không tật đố mà hỷ xả, không ngu si mà trí huệ.

QUANG- Nghĩa là sáng suốt tuyệt đối, soi khắp mười phương, thông suốt ba đời mà không lìa nơi một niệm. Tội nhơn và khổ quả của chúng sanh đã gây tạo và sẽ chịu đền trả, từ bao giờ, ở nơi đâu, nhất nhất đều sáng tỏ, hiểu biết hết.

Tâm ta có tính cách sáng suốt như vậy, từ nay trở đi, ta phải hành động, ăn ở theo tâm tánh sáng suốt ấy, không còn ngu si mê mờ mà tạo tội nữa.

PHẬT- Là đấng giác ngộ hoàn toàn, ta đang kính lễ. Phật cũng tức là tâm sáng suốt thanh tịnh, đầy đủ muôn đức tánh tốt đẹp, trùm khắp pháp giới, ra ngoài thời gian.

Tâm ta cũng có những khả năng giác ngộ, những đức tánh như Phật,

Vậy từ nay trở đi ta phải noi gương Phật, sống cách sáng suốt, đầy đủ đức hạnh như Phật, không tạo tội nữa.

Đại khái như thế, cứ theo từng danh hiệu một mà quán sát tự tâm để sám hối.

Lần lần những khả năng tốt đẹp trong tâm ta do sự sám hối sẽ lưu lộ ra; nào là từ bi hỷ xả, trí huệ, phước đức hạnh phúc dồi dào tuôn ra như nước, mặc sức ta thọ dụng.

Người hiểu được và làm được như thế là người chánh kiến, không còn bôn ba chạy theo ngoại cảnh, không tà kiến quy y theo quỉ mị tà thần.

Người chánh kiến chỉ biết quy y, lễ bái, tôn thờ đức Phật ở tự tâm, nghe tiếng nói của cõi lòng.

Lễ một đức Phật tức là lễ hết thảy mười phương chư Phật. Đem tâm từ bi bình đẳng, sự lý viên dung, trùng trùng vô ngại mà bái sám thì lo gì tội không diệt, phước không sanh.

Nếu người không thông lý, cứ y sự mà tu hành, chí tâm bái sám thì cũng nhờ được thần lực của Tam bảo gia hộ mà tiêu trừ nghiệp chướng, như trong chánh văn đã thuật rõ.

Phật dạy:

“Có hai hạng người mạnh nhất: một là không tạo tội, hai là biết ăn năn”

Phật dạy:

“Nếu không có pháp sám hối thì tất cả đệ tử Phật không thể giải thoát”.

Nhờ sám hối nên vua A Xà Thế phạm tội ngũ nghịch (giết cha) liền được giải thoát.

Ông Trương thiện Hòa sát sanh vô số cũng không đọa địa ngục, vì biết hối hận.

Có một điều đáng chú ý nhất là thân nghiệp và khẩu nghiệp thô tháo bên ngoài dễ trừ. Duy có ý nghiệp, vi tế bên trong, rất khó diệt. Đến quả vị Phật mới hết tham, sân, si.

Do đó người phát đại tâm phải y cứ vào sám pháp đại thừa mới mong chóng trừ diệt được ba độc.

Ngài Phổ Hiển Bồ tát là Trưởng tử của Phật trên Hội Hoa Nghiêm còn phải phát đại nguyện. Ngài nguyện sám hối mãi cho đến cùng tận đời vị lai.

Nếu phiền não và nghiệp chướng của chúng sanh không cùng tận thì sự sám hối của Ngài cũng không bao giờ cùng tận.

Trong kinh Viên Giác, Phật dạy: “Các vị đại Bồ tát lúc lập đạo tràng an cư từ 7 ngày cho đến 21 ngày đầu, sám hối nghiệp chướng”.

Trong kinh Bảo Tích, Phật dạy: “Hàng ngày nên đảnh lễ danh hiệu 35 vị Phật trong kinh ấy mà sám hối nghiệp chướng”.

Trong luật thì pháp sám hối là một vấn đề tối quan trọng, không thể bỏ qua.

Trong luận thì pháp sám hối được giải thích rõ ràng và quyết định sám hối là một việc cần phải có của người chơn tu, không thể thiếu sót.

Không sám hối rất có hại: Nghiệp chướng không tiêu trừ; tội lỗi còn mãi, oan khiên nhiều kiếp theo hoài.

Ngài Ngộ Đạt quốc sư mười đời làm cao tăng mà Triệu Thố vẫn còn theo báo mãi.

Như thế dù cầu hạnh phúc thế gian hay xuất thế gian, việc đời và việc đạo, đều bị trở ngại, tu chứng bất thành.

Kinh sách dùng để sám hối có rất nhiều: Như bộ Vạn Phật, bộ Tam Thiên Phật, bộ Thủy Sám, Hồng Danh sám, Chuẩn Đề sám và Dược Sư sám v.v…

Nhưng bộ Lương Hoàng Sám này lể rõ tội nhơn khổ quả, nghe đến ai cũng phải lạnh mình khiếp sợ mà phát tâm cải ác tùng thiện ngay. Bộ này lại có công năng diệt trừ tiền khiên, oan trái nhiều kiếp, nhiếu đời, đọc đến phải cảm rơi nước mắt. Mỗi chữ, mỗi câu đều nhắm mục đích đền trả bốn ơn, cứu thoát ba cõi, thay thế lục đạo mà sám hối, cầu nguyện cho tam đồ thoát khỏi trầm luân. Cuối cùng lại vì tất cả chúng sanh mà phát nguyện, hồi hướng.

Người tu hành đọc đến bộ Lương Hoàng sám, dù không muốn phát đại tâm cũng phải phát, dù không tin địa ngục cũng phải hợ Tam đồ.

Những người tu Tịnh Độ phát tâm Bồ đề thường nên tu theo pháp sám này, để mau về Cực Lạc.

Có thể nói bộ Lương Hoàng Sám này là “bửu bối” riêng của những người cầu vô thượng đạo, phát bồ đề tâm vậy.

Bộ này có năng lực sanh phước diệt tội không thể nghĩ bàn.

Trong chánh văn có bài kệ tán thán công đức sám hối, đại ý như thế này:

Sám vừa cử lên
Tội lỗi tiêu liền;
Giải được oan trái,
Trừ được tai ương;
Thoát khỏi khổ nạn,
Phước đức vô biên.
Sanh lên Đạo lợi,
Hoặc về Tây phương.

Văn Thủy Sám cũng nói: “Lúc nghiệp báo đến, tội nhơn không thể rúc vào núi đá, lặn xuống đáy nước, bay lên không gian hay ẩn núp đâu được. Duy chỉ có nhờ phương pháp sám hối mả thoát được tai nạn mau chóng hơn hết, độc nhất vô nhị”.

Sám hối lợi cho mình, lợi cho người, cho tất cả tam đồ, lục đạo pháp giới chúng sanh.
Công đức sám hối nói không cùng nghĩ không tận. Tôi chỉ xin đốt nén hương lòng cầu xin Tam bảo gia hộ cho tất cả người thấy, người nghe, người ấn tống đồng phát Bồ đề tâm, đồng cầu sám hối, đồng hồi hướng công đức.

NAM MÔ CẦU SÁM HỐI BỒ TÁT MA HA TÁT

Trong lúc phiên dịch văn này, tôi không có hy vọng gì cao xa hơn là giúp cho hàng sơ cơ một phương pháp tu hành thiết thực để về Tây phương Cực Lạc.

Do đó, đầu quyển thứ nhất có nghi thức khai kinh thông thường dễ tụng. Cuối quyển thứ mười có nghi thức Tịnh độ, cầu sanh An dưỡng làm tiêu chuẩn hồi hướng.
Sau hết tôi xin chân thành cảm tạ chư vị đại thiện tri thức trong Hải hội chỉ giáo cho tôi những khiếm khuyết, mong sao kỳ tái bản được hoàn toàn hơn.

Tôi nguyện xin đem công đức này hướng lên cúng dường ngôi Tam bảo, đức Quán Thế Âm Bồ tát, đức Vô Biên Thân Bồ tát, và chư vị Hộ pháp đã mật hùy gia hộ cho tôi làm một việc mà tôi tưởng tượng tôi không làm được.

Nguyện xin hồi hướng lên chư vị Đại đức Tăng trong hiện tại đã dìu dắt tôi tu hành. Ni chúng bộ V.N. đã phát tâm xuất bản giúp tôi; cùng chư vị thiện nam tín nữ đã ủng hộ tôi nhiều phương diện trong lúc phiên dịch.

Nguyện xin tất cả đều trọn thành Phật đạo.

DỊCH GIẢ: TỲ KHEO THÍCH VIÊN GIÁC

Viết xong tại Tu viên Giác Hải
Điện Nam Hải Quan Âm ở Vạn Giả
Bắc Nha Trang ngày mãn hạ, năm Canh tý 2504 (1960)

 

Lời Chỉ Dẫn

Vì nhận thấy nhiều Phật tử muốn tụng Lương Hoàng Sám song chưa biết cách lập đàn tràng như thế nào, đọc tụng làm sao cho đúng pháp, có lợi ích nhiều, nên chưa dám tụng tôi xin chỉ dẫn như sau:

Lập đàn bái sám hoặc ở chùa, tại Niệm Phật đường hay tại nhà Phật tử cũng được. Nhưng cần phải hết lòng thành kính và nghiêm trang thanh tịnh.

Trường hợp thuận tiện, quý vị có thể cung thỉnh chư Tăng, một hay nhiều vị làm lễ khai kinh hay hoàn kinh. Nếu không, người tại gia cứ thành tâm đọc tụng, như tụng các kinh khác, không ngại gì. Trước hết đọc phần “NGHI THỨC TỤNG LƯƠNG HOÀNG SÁM” bằng Hán văn dịch âm, rồi tụng tiếp nghi thức bằng Việt văn, nếu cần. Hết phần nghi thức thì tụng phần chánh văn. Cuối mỗi quyển thì tụng các bài hồi hướng và niệm Phật Di Đà cầu sinh Tịnh độ.

Hoặc mỗi thời tụng hết một quyển. Hoặc một quyển chia làm nhiều thời, tùy theo thời giờ của mỗi người, nhàn rỗi hay bận việc.

Việc ăn chay trường hay chay kỳ để tụng Lương Hoàng Sám, cũng tùy theo gia cảnh của mỗi người, không nên câu chấp. Điều quan trọng là phải quyết chí sám hối, chừa bỏ lỗi lầm, chứ không phải ở nơi điều chay mặn. Nhưng ai trai giới tinh thành, phóng sinh làm phước, càng nhiều càng quý, càng cố gắng càng hay, công đức sám hối càng sâu dày hơn nữa.

Những người già yếu bệnh hoạn không thể lạy được thì ngồi mà vái, lắng tai nghe cho rõ lời lẽ và suy nghĩ cho kỹ ý nghĩa, của sám văn cách thành tâm là quý hơn hết.

Có nhiều điểm rất đáng để ý khuyến khích, vì tôi nhận thấy nhiều nơi như ở khuôn Phật giáo An Lạc, ở chùa Châu Lâm, Huế, hoặc ở khuôn Phật giáo Linh Thứu, Nha Trang, các Phật tử cử ra những vị có âm thanh trông trẻo, đọc tụng rõ ràng, khiến người nghe dễ hiểu, dễ phát tâm. Những người này thay nhau tụng còn các người khác ngồi nghe. Nhưng không phải tụng với âm điệu tụng kinh mà nên nhớ đây là cách xưng tội, trước Phật đài, thường thiết cầu Tam bảo cứu hộ. Những đoạn kể lể tội trạng phải đọc cho rõ ràng, chí thành chí khẩn mà cầu xin sám hối. Những đoạn giảng về lý lẽ, về nhân quả cần phải đọc thong thả, phân câu rành mạch, để cho người nghe dễ nhận nhờ giọng đọc hùng mà đầy thiền vị theo tiếng mõ điểm thưa thưa từng câu một.

Thỉnh thoảng điểm một tiếng chuông. Cũng có thể không đánh mõ, chỉ điểm chuông thưa thưa để cho người nghe theo dõi ý nghĩa, suy nghĩ tội tình, trong khung cảnh uy linh nhiệm mầu, khói hương nghi ngút. Những vọng niệm không thể xen vào quấy rối tâm thành của Phật tử. Tiếng chuông cảnh tỉnh đánh tan những gì hắc ám trong lòng, làm cho mọi người đều có một tinh thần siêu thoát.

Đọc tụng như thế, tuy tu hành tập thể, mà không có gì làm roan trí. Người không biết chữ cũng nhận thức được lý nghĩa, tự thấy tội lỗi của mình, rồi phát tâm Bồ đề sám hối thế cho người khác trong lục đạo. Trong lúc này, nếu có ống loa phát thanh treo cao và vang dội xa xa, thì những kẻ độc ác phải giật mình mà chừa bỏ những hành vi phi pháp của họ.

Đọc tụng cách này thì khác hẳn lối tụng kinh. Tụng kinh thì mỗi người một quyển, và ai cũng lớn tiếng đọc theo tiếng mõ của người hướng dẫn. Trái lại, tụng Lương Hoàng Sám, không khác gì chư Tăng tụng Luật trong giờ Bố tát. Một vị ngồi trên cao lớn tiếng đọc tụng, các vị khác im lặng ngồi dưới để nghe. Nếu người nào muốn tụng lớn tiếng theo mõ tùy nguy mình, sau khi đạo tràng hoàn tất, hãy tự tụng một mình cũng được, càng quý lắm. Hoặc tất cả mọi người đều tụng lớn tiếng theo nhịp mõ cũng được.

Những điểm trên đây tuy có phần thiển cận và sơ lược, song cũng nhờ nhiều Phật tử góp ý kiến và kinh nghiệm nên tôi cũng không ngại gì mà không nêu ra. Mong quý vị thiện tri thức có gì sơ sót xin hoan hỷ bổ khuyết và chỉ giáo cho. Tôi rất lấy làm thâm cảm.

Huân Tu Lương Hoàng Sám Pháp
Lương Hoàng Bảo Sám

 

Khai Đàn Khoa Nghi
(Phiên Âm)

Cử tán:
Dương chi tịnh thủy,
Biến sái tam thiên.
Tánh không bát đức lợi nhân thiên;
Pháp giới quảng tăng diên,
Diệt tội tiêu khiên, hỏa diệm hóa hồng liên.
Nam mô Thanh Lương Địa Bồ tát Ma ha tát. (3 lần)

Cung thỉnh tán:
Trí tuệ hoằng thâm đại biện tài,
Đoan cư ba thượng tuyệt trần ai.
Tường quang thước phá thiên sanh bệnh,
Cam lộ năng trừ vạn kiếp tai.
Thúy liễu phất khai kim thế giới,
Hồng liên dũng xuất ngọc lâu đài.
Ngã kim khể thủ phần huơng tán,
Nguyện hướng nhân gian ứng hiện lai.
Nam Mô Quán Thế Âm Bồ tát Ma ha tát. (3 lần)

Gia trì pháp thủy:
Cung Văn
Viên Thông Giáo Chủ,
Mãn nguyệt kim dung,
Thị Di Đà ư Cực Lạc quốc trung,
Trợ Thích Ca ư Sa Bà giới nội;
Xử thiên diệp hồng liên chi tọa.
Cư Lưu Ly chúng bảo chi sơn,
Quá khứ Chính Pháp Minh,
Hiện tiền Quán Tự Tại,
Tam thập nhị ứng, quảng độ quần sinh,
Thất nạn nhị cầu, đa phương ứng vật.
Thù thắng diệu lực, tán mạc năng cùng,
Ngưỡng khấu hồng từ, phủ chương động giám.

Kim thời phụng vị kiến sám mỗ giáp… (tên người lập lễ sám), bẩm Phật di huấn, kiến sám Tỳ kheo mỗ giáp… (tên hiệu vị Tăng chủ lễ) kị lãnh thập phương sĩ thứ nhân đẳng, thỉnh mạng Tăng chúng, tựu vu mỗ xứ,… (tịnh lam hay là gia xứ) tu lễ Lương Hoàng Bảo Sám phổ biến đạo tràng.

Thượng lai khải kiến chi sơ,
Cẩn phần tín hương cung thỉnh
Bồ tát thùy dương liễu nhi biến sái cam lộ,
Trừ nhiệt não dĩ đắc thanh lương;
Tầm thanh cứu khổ ư tứ sinh,
Thuyết pháp độ thoát ư lục đạo;
Tận văn bất trú, kiên cố chi tâm,
Không giác cực viên, cụ tự tại đoan nghiêm chi tướng,
Hữu cầu giai ứng, vô nguyện bất tòng.
Cố ngã truy lưu, đoan bỉnh tịnh quán,
Thành tụng mật ngôn, gia trì pháp thủy.
Thị thủy giả: phương viên tùy khí,
Doanh hư nhậm thời, xuân phán đông ngưng,
Khảm lưu cấn chỉ;
Hạo hạo hồ diệu nguyên mạc trắc,
Thao thao hồ linh phái nan cùng,
Bích giản tạng long, hàn đàm xâm nguyệt;
Hoặc tại quân vương long bút hạ, tán tác ân ba,
Hoặc cư Bồ tát liễu chi đầu, sái vi cam lộ,
Nhất đích tài triêm, thập phương câu tịnh.

Phù thử thủy giả, bát công đức thủy, tự thiên chơn, tiên tẩy chúng sanh nghiệp cấu trần, biến nhập Tỳ Lô ba tạng giới. Cá trung vô xứ bất siêu luân. Thủy bất tẩy thủy diệu cực pháp thân. Trần bất nhiễm trần phản tác tự kỷ. Quyên trừ cấu uế, đản địch đàn tràng. Sái khô mộc nhi tác dương xuân; khiết uế ban nhi thành Tịnh độ. Sở vị nội ngoại trung gian vô trược uế, Thánh phàm u hiển tổng thanh lương.

Bồ tát liễu đầu cam lộ thủy,
Năng linh nhất trích biến thập phương.
Tinh triên cấu uế tận quyên trừ,
Linh thử đàn tràng tất thanh tịnh.

Giáo hữu mật ngôn cẩn đương trì tụng:

Thiên Thủ Thiên Nhãn Vô Ngại Đại Bi Tâm Đà La Ni.

Nam mô hát ra đát na đá ra dạ da. Nam mô a rị da. Bà lô yết đế thước bát ra da. Bồ đề tát đỏa bà da. Ma ha tát đỏa bà da. Ma ha ca lô ni ca da. Án. Tát bàn ra phạt duệ. Số đát na đát tả. Nam mô tất cát lật đỏa y mông a rị da. Bà lô cát đế thất Phật ra lăng đà bà. Nam mô na ra cẩn trì. Hê rị ma ha bàn đa sa mế. Tát bà a tha đậu du bằng. A thệ dựng. Tát bà tát đá na ma bà dà. Ma phạt dạt đậu. Đát điệt tha. Án a bà lô hê. Lô ca đế. Ca ra đế. Di hê rị. Ma ha Bồ đề tát đỏa. Tát bà tát bà. Ma ra ma ra. Ma hê ma hê rị đà dựng. Câu lô câu lô yết mông. Độ lô độ lô phạt xà da đế. Ma ha phạt xà da đế. Đà ra đà ra. Địa rị ni. Thất Phật ra da. Dá ra dá ra. Mạ mạ phạt ma ra. Mục đế lệ. Y hê y hê. Thất na thất na. A ra sâm Phật ra xá rị. Phạt sa phạt sâm. Phật ra xá da. Hô lô hô lô ma ra. Hô lô hô lô hê rị. Sa ra sa ra. Tất rị tất rị. Tô rô tô rô. Bồ đề dạ bồ đề dạ. Bồ đà dạ bồ đà dạ. Di đế rị dạ. Na ra cẩn trì. Địa rị sắc ni na. Ba dạ ma na. Sa bà ha. Tất đà dạ. Sa bà ha. Ma ha tất đà dạ. Sa bà ha. Tất đà du nghệ. Thất bàn ra dạ. Sa bà ha. Na ra cẩn trì. Sa bà ha. Ma ra na ra. Sa bà ha. Tất ra tăng a mục khư da. Sa bà ha. Sa bà ma ha a tất đà dạ. Sa bà ha. Giả cát ra a tất đà dạ. Sa bà ha. Ba đà ma yết tất đà dạ. Sa bà ha. Na ra cẩn trì bàn dà ra dạ. Sa bà ha. Ma bà rị thắng yết ra dạ. Sa bà ha.

Nam mô hát ra đát na đá ra dạ da.

Nam mô a rị da. Bà lô cát đế. Thước bàn ra dạ. Sa bà ha.
Án tất điện đô. Mạn đà ra. Bạt đà da. Sa bà ha.

Án, nại ma ba cát ngỏa đế, a ba ra mật đạp, a ưu rị a nạp, tô tất nễ, thực chất đạp, điệp tả ra tể giã, đát tháp cả đạt giã, a ra ha đế, tam dược tam bất đạt giã, đát nễ giã tháp. Án, tát rị ba, tang tư cát rị, bát rị thuật đạp, đạt ra mã đế, cả cả nại tang, mã ngột ngỏa đế, tát ba ngỏa tỷ thuật đế, mã hát nại giã, bát rị ngỏa rị tóa ha. (3 lần)

Nguyện tương thử thù thắng công đức chúc tán Phật nhật tăng huy, pháp luân thường chuyển, thế giới hòa bình, chúng sanh an lạc.
Phục vị vong linh tiêu tội chướng, tiêu tội chướng sinh Tịnh độ, An dưỡng giới, đồng phó Long Hoa hội.

Nam mô An dưỡng giới, đồng phó Long Hoa hội. (3 lần)

Dĩ thử kinh chú công đức hồi hướng hộ pháp Long thiên Tam giới, nhạc độc linh thông, thủ hộ đạo tràng chơn tể kỳ phước bảo an bình thiện, trang nghiêm hữu vị tiên vong, phổ nguyện pháp giới oan thân, cộng nhập Tỳ Lô tánh hải.
(Tuyên sớ thỉnh Phật nếu có)

Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật chứng minh công đức. (3 lần)

Huỳnh kim mãn nguyệt tướng,
Tam giới độc xưng tôn,
Hàng phục nhứt thế ma
Chư thiên giai cung thủ.
Ngưỡng lao đại chúng tán dương Tam bảo

– Phật Bảo thán nan cùng, công thành vô lượng, vô lượng kiếp trung, nguy nguy trượng lục tử kim dung, giác đạo tuyết sơn phong, mi tế ngọc hào quang xán lạn, chiếu khai lục đạo, lục đạo hôn mong. Long Hoa tam hội nguyện tương phùng, diễn thuyết pháp chánh tông.

Quy y thường trú Phật Đà da, nguy nguy vạn đức Phật Đà da.

– Pháp Bảo thật nan lường, Như Lai kim khẩu, Kim khẩu tuyên dương, Long cung hải tạng tán thiên hương, giác giả tụng lương hàm ngọc trục hà điều, kim tả tự tợ bài thu nhạn, thu nhạn thành hàng, chỉ nhân Tam tạng thỉnh lai đàn, vạn cổ vĩnh phu dương.

Quy y thường trú Đạt Mạ da, hạo hạo tam thừa Đạt Mạ da.

– Tăng Bảo bất tư nghì, thân phi tam nhuế. Tam nhuế vân y, phù bôi chấn tích sát na thì, phó cảm ứng quần ky, kham tác nhân gian công đức chủ, kiên trì giới hạnh, giới hạnh vô vi, ngã kim khể thủ nguyện diêu tri, chấn tích trượng đề huề.

Quy y thường trú Tăng Già da, minh minh lục thông Tăng Già da.

Nam mô Vân Lai Tập Bồ tát Ma ha tát (3 lần)

(Tán Vi Đà, niệm Thiên nữ chú hoàn tuyên sớ)
Vi Đà Thiên Tướng, Hộ Pháp hóa thân,
Ủng hộ Phật pháp, thệ hoằng thâm,
Bảo xử trấn ma quân,
Công đức nan lường,
Kỳ đảo phó phàm tâm.
Nam mô Phổ Nhãn Bồ tát Ma ha tát (3 lần)

Cử hương tán:
Giới định chân hương,
Phần khởi xung thiên thượng,
Trai chủ kiền thành,
Nhiệt tại kim lô phóng,
Khoảnh khắc nhân huân,
Tức biến mãn thập phương,
Tích nhật Gia Du miễn nạn tiêu tai chướng.
Nam mô Hương Vân Cái Bồ tát Ma ha tát (3 lần)

Nguyện khải văn:

CUNG VĂN

Lương hoàng khải kiến, Di Lặc đề danh, Chí Công tập Hoa tạng chi huyền văn, quần kinh lục chư Phật chi thánh hiệu, đại tập Sa môn, hoằng tuyên sám pháp. Sám văn cảm mộng ư Lương triều, thoại khí đằng huy ư Võ Đế. Do thị cảnh cảnh kim quang bất muội, hoàng hoàng bảo diệm phân phương, úc úc hương yên huân nội khuyết, trùng trùng hoa nhụy diệu vương cung. Thanh tiêu vân lý, thiên nhân hiện báo thể chi đoan nghiêm. Bạch ngọc giai tiền, Hy Thị thoát mãng thân chi khổ nạn; dĩ thử tiêu tai, tai tiêu cát chí. Nhân tư diệt tội, tội diệt phước sinh. Nãi phá ám chi minh đăng, chân cứu bệnh chi diệu dược. Ân triêm cửu hữu, đức bỉ tứ sinh; sám chi công đức tán mạc năng cùng. Tư giả sám văn triệu khởi, ngưỡng khấu Phổ Hiền Hạnh Vương, vận tưởng hương hoa cúng dường Thập phương Điều Ngự. Dục nghiêm thanh tịnh chi sám đàn, tiên tụng bí mật chi chương cú. Yếu kỳ thiện quả dĩ châu long, tất sử tội hoa nhi điêu tạ. Ngưỡng khấu Hồng từ đại chương linh ứng.

Phổ Hiền Bồ tát tượng giá quang lâm.

Hữu nhất Bồ tát kiết già phu tọa, danh viết Phổ Hiền, thân bạch ngọc sắc, ngũ thập chủng quang, ngũ thập chủng sắc, dĩ vi hạng quang, thân chư mao khổng, lưu xuất kim quang. Kỳ kim quang đoan, vô lượng hóa Phật, chư hóa Bồ tát, dĩ vi quyến thuộc; an tường từ bộ, vũ đại bảo hoa, chí thành giả tiền. Kỳ tượng khai khẩu, ư tượng nha thượng, chư trì ngọc nữ, cổ nhạc huyền ca, kỳ thanh vi diệu, tán thán Đại thừa, nhất thật chi đạo. Hành giả kiến dĩ, hoan hỷ kính lễ, phục cánh đọc tụng, thậm thâm kinh điển, biến lễ thập phương, vô lượng hóa Phật, lễ Đa Bảo Phật tháp, cập Thích Ca Mâu Ni; tịnh lễ Phổ Hiền chư đại Bồ tát; phát thị thệ nguyện; nhược ngã túc phước, ưng kiến Phổ Hiền. Nguyện Tôn giả biến kiết, thị ngã sắc thân.

Nam mô Phổ Hiền Vương Bồ tát Ma ha tát (3 lần)

– Nhất tâm đảnh lễ thập phương pháp giới thường trú chư Phật.

– Nhất tâm đảnh lễ thập phương pháp giới thường trú Tôn Pháp.

– Nhất tâm đảnh lễ thập phương pháp giới thường trú Hiền Thánh Tăng.

Chủ lễ xướng:

(Thị chư chúng đẳng các các hồ quỳ, nghiêm trì hương hoa, như pháp cúng dường).
Nguyện thử hương hoa biến thập phương, dĩ vi vi diệu quang minh đài. Chư thiên âm nhạc thiên bảo hương. Chư thiên hào thiện thiên bảo y. Bất khả tư nghị diệu pháp trần. Nhất nhất trần xuất nhất thiết trần. Nhất nhất trần xuất nhất thiết pháp. Triển chuyển vô ngại hộ trang nghiêm, biến chí thập phương Tam bảo tiền. Thập phương pháp giai Tam bảo tiền, tất hữu ngã thân tu cúng dường. Nhất nhất giai tất biến pháp giới, bỉ bỉ vô tạp vô chướng ngại. Tận vị lai tế tác Phật sự, phổ huân pháp giới chư chúng sanh. Mông huân giai phát Bồ đề tâm. Đồng nhập vô sinh chứng Phật trí.

Nguyện thử hương hoa vân,
Biến mãn thập phương giới.
Cúng dường nhất thiết Phật,
Tôn Pháp, chư Bồ tát,
Vô biên Thanh văn chúng,
Cập nhất thiết Thánh Hiền,
Duyên khởi quang minh đài,
Quá ư vô biên giới,
Vô biên Phật độ trung,
Thọ dụng tác Phật sự.
Phổ huân chư chúng sanh,
Giai phát Bồ đề tâm,
Dung nhan thậm kỳ diệu,
Quang minh chiếu thập phương,
Ngã Thích tằng cúng dường,
Kim phục hoàn thân cận,
Thánh chúa Thiên trung vương,
Ca Lăng Tần Già thanh,
Ai mẫn chúng sanh giả,
Ngã đẳng kim đỉnh lễ.

Cung thỉnh:

Phật nhiếp kim liên hạ Thứu phong,
Pháp khai Bảo tạng lý Long Cung,
Tăng tùng nội uyển biệt thiền định,
Tam bảo lâm đàn pháp hội đồng.
Nam mô Thập Phương Thường Trú Tam bảo (3 lần)

Cúng hương
Hương tài nhiệt, lư phần bảo đảnh trung,
Chiên đàn trầm nhũ chơn kham cúng,
Hương yên liêu nhiễu liên hoa động,
Thập phương chư Phật hạ thiên cung,
Thanh lương sơn La Hán, nạp thọ nhân thiên cúng. (2 lần)
Nam mô Phổ Hiền Vương Bồ tát Ma ha tát (3 lần)

Nhập sám văn:

CÁI VĂN

Nhất thể Hóa thân, phổ ứng thập phương quốc độ. Nhất âm thuyết pháp, Thanh văn tam giới nhân thiên. Nhất thế Vô Ngại Nhân, giai tùng nhất Đạo, nhất môn, nhi xuất sinh tứ hải. Nhất thừa viên đốn giáo, giai nhân nhất tướng, nhất vị nhi chứng Niết bàn sơn. Tùy cơ như nguyệt ứng thiên gian, ứng vật tợ xuân hồi đại địa, biến duyên pháp giới, phổ tọa đạo tràng. Hy đạo nhãn dĩ chứng tri, giám phàm tình chi vi khổn. Phụng vì kim thời cầu sám hối, đệ tử… đẳng khởi kiến:

Từ Bi Đạo Tràng Sám Pháp, tư đương đệ nhất quyển, nhập đàn duyên khởi. Ngã chư chúng đẳng đoan khác nhất tâm, túc thanh tam nghiệp, y khoa diễn phạm, thiêu hương, tán hoa, cúng dường thập phương Tam bảo, xưng xướng chư Phật hồng danh. Ngũ thể đầu địa, dĩ quy y phát lộ sám trừ chư nghiệp chướng.

Thiết niệm đệ tử chúng đẳng, tự tùng vô thỉ dĩ lai, chí ư kim nhật, nhân mê nhất tánh, lý muội nhất thừa, nhất ế tại nhãn, thời không hoa nhi loạn trụy. Nhất âu tài khởi xử huyễn hải dĩ ba phiên. Nhất chân tam muội quái vi, nhất điểm vô minh tư túng; ý hàm tam độc, nghiệp tạo vạn đoan, khai trần lao bát vạn chi môn, khởi phiền não bách thiên chi chướng. Đam hoan dục cảnh, như cuồng tượng dĩ vô câu. Xu trục vọng duyên tợ phi nga nhi phó hỏa tội, nhược kheo sơn chi chướng, nghiệp như thương hải chi thâm. Ký vi thiểu ư thiện căn, khủng nan đào ư ác quả. Kim tắc ưu cần tại niệm, thoan cách vu tâm. Ngoại thác thắng duyên, nội hoài tàm quý. Tập thử hiện tiền Thánh chúng, phi duyệt sám hối linh văn. Trượng thiên Phật chi oai quang, tẩy đa sinh chi tội cấu.

Ngã nguyện như tư, Phật tức ai lân; ngưỡng khấu hồng từ, minh huân gia bị.

Thiên thượng thiên hạ vô như Phật,
Thập phương thế giới diệc vô tỷ,
Thế gian sở hữu ngã tận kiến,
Nhất thiết vô hữu như Phật giả.
Khởi vận Từ Bi Đạo Tràng Sám Pháp. Nhất tâm quy mạng Tam thế chư Phật:
Nam mô Quá Khứ Tỳ Bà Thi Phật,
Nam mô Thi Khí Phật,
Nam mô Tỳ Xá Phù Phật,
Nam mô Câu Lưu Tôn Phật,
Nam mô Câu Na Hàm Mâu Ni Phật,
Nam mô Ca Diếp Phật,
Nam mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật,
Nam mô Đương Lai Hạ Sanh Di Lặc Tôn Phật.

(Đến đây, nếu muốn nghỉ thì tụng hồi hướng mà ra rồi sẽ vào tiếp tụng quyển thứ nhất. Cũng như lễ khai kinh vừa xong. Nếu không muốn nghỉ, thì tụng quyển thứ nhất).
Phần nghi thức khai Đạo Tràng Sám Pháp, đầu quyển thứ nhất, phiên âm Hán văn đến đây là hết.

 

Nghi Thức Tụng Lương Hoàng Sám (Việt dịch)

Sái Tịnh:
Nhành dương nước tịnh,
Rải khắp ba ngàn.
Tánh không tánh đức, lợi trời người
Thế giới rộng thênh thang,
Diệt sạch tai nàn,
Lửa dữ hóa sen vàng.

Nam mô Thanh Lương Ðịa Bồ tát Ma ha tát. (3lần)

Cung Thỉnh:

Trí tuệ rộng sâu đại biện tài,
Ngồi trên hoa báu tuyệt trần ai.
Hào quang phá tỏa ngàn đời bệnh,
Cam lộ trừ sạch vạn kiếp tai.
Thế giới vàng kim, liễu xanh phất,
Lâu đài châu ngọc, sen hồng khai.
Hương trần cung thỉnh, con xinn lễ,
Nguyện Ngài thương xót, hiện lại đây.

Nam Mô Đại Bi Quán Thế Âm Bồ tát Ma ha tát. (3 lần)

Cúng Hương:

Nguyện đem lòng thành kính,
Gởi theo đám mây hương
Phảng phất khắp mười phương
Cúng dường ngôi Tam bảo.
Thề trọn đời giữ đạo
Theo tự tánh làm lành
Cùng pháp giới chúng sanh
Cầu Phật từ gia hộ
Tâm Bồ đề kiên cố
Xa bể khổ nguồn mê
Chóng quay về bờ giác.

Nam Mô Hương Cúng Dường Bồ tát Ma ha tát. (3 lần)

Tán Thán Phật:

Đấng Pháp vương vô thượng
Ba cõi chẳng ai bằng
Thầy dạy khắp trời người
Cha lành chung bốn loài
Quy y trọn một niệm
Dứt sạch nghiệp ba kỳ
Xưng dương cùng tán thán
Ức kiếp không cùng tận.

Quán Tưởng:

Phật chúng sanh tánh thường rỗng lặng.
Ðạo cảm thông không thể nghĩ bàn,
Lưới đế châu ví đạo tràng.
Mười phương Phật bảo hào quang sáng ngời.
Trước bảo tọa thân con ảnh hiện
Cúi đầu xin thệ nguyện Quy y.

Ðảnh Lễ:

Chí tâm đảnh lễ: Nam mô tận hư không biến pháp giới, quá hiện vị lai, Thập phương Chư Phật, Tôn Pháp, Hiền Thánh Tăng, thường trú Tam bảo. (1 lạy)

Chí tâm đảnh lễ: Nam mô Ta Bà Giáo Chủ Ðiều Ngự Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật, Ðương Lai hạ sanh Di Lặc Tôn Phật, Ðại Trí Văn Thù Sư Lợi Bồ tát, Ðại Hạnh Phổ Hiền Vương Bồ tát, Hộ pháp chư tôn Bồ tát, Linh Sơn Hội Thượng Phật Bồ tát. (1 lạy)

Chí tâm đảnh lễ: Nam Mô Tây Phương Cực Lạc Thế Giới Ðại Từ Ðại Bi A Di Ðà Phật, Ðại Bi Quán Thế Âm Bồ tát, Ðại Thế Chí Bồ tát, Ðại Nguyện Ðịa Tạng Vương Bồ tát, Thanh Tịnh Ðại Hải Chúng Bồ tát. (1 lạy)

Kỳ Nguyện:

Đệ tử chúng con tên… Pháp danh… tuổi… hiện trú…

Nguyện xin ngôi Tam bảo thường trú trong mười phương, Đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật, Đức Tiếp Dẫn Đạo Sư A Di Đà Phật, Đương Lai Hạ Sanh Di Lặc Tôn Phật, Biến Pháp Giới Chư Tôn Bồ tát Ma ha tát và hết thảy Thánh Hiền Tăng, từ bi gia hộ, chứng minh cho chúng con. Chúng con lâu đời lâu kiếp, vì tánh hôn mê, không kể chánh tà, gây nhiều tội ác, tổn người hại vật, hủy báng Phật Pháp Tăng. Hôm nay một dạ chí thành, cầu xin sám hối, tụng trì lễ bái Lương Hoàng Bảo Sám, ăn năn tội lỗi; không dám che giấu, hầu mong nghiệp chướng tiêu trừ, thân tâm an lạc, gia đình cát khánh, hạnh phúc tăng long, Bồ đề kiên cố, hiện tiền phước huệ trang nghiêm. Một hậu được sinh về Cực Lạc quốc, cùng với pháp giới chúng sanh đồng thành Phật đạo. (3 lạy)

Phát Đại Nguyện:

Chúng sanh vô biên thệ nguyện độ,
Phiền não vô tận thệ nguyện đoạn,
Pháp môn vô lượng thệ nguyện học,
Phật đạo Vô thượng thệ nguyện thành.
Tự tánh chúng sanh thệ nguyện độ,
Tự tánh phiền não thệ nguyện đoạn,
Tự tánh pháp môn thệ nguyện học,
Tự tánh Phật đạo thệ nguyện thành.

Nam Mô Chứng Minh Sư Bồ tát Ma ha tát. (3 lần)

Tụng chú Đại Bi:

Nam Mô Đại Bi Hội Thượng Phật Bồ Tát (3 lần)

Thiên Thủ Thiên Nhãn Vô Ngại Đại Bi Tâm Đà La Ni.

Nam mô hắc ra đát na đa ra dạ da.

Nam mô a rị da bà lô kiết đế, thước bát ra da, bồ đề tát đỏa bà da, ma ha tát đỏa bà da, ma ha ca lô ni ca da. Án tát bàn ra phạt duệ, số đát na đát tỏa.

Nam mô tất kiết lật đỏa, y mông a rị da, bà lô kiết đế, thất Phật ra lăng đà bà. Nam mô na ra cẩn trì hê rị, ma ha bàn đa sa mế, tát bà a tha đậu du bằng, a thệ dựng, tát bà tát đa, na ma bà tát đa, na ma bà già, ma phạt đạt đậu, đát điệt tha. Án, a bà lô hê, lô ca đế, ca ra đế, di hê rị, ma ha bồ đề tát đỏa, tát bà tát bà, ma ra ma ra, ma hê ma hê, rị đà dựng, cu lô cu lô, kiết mông độ lô độ lô, phạt xà da đế, ma ha phạt xà da đế, đà ra đà ra, địa rị ni, thất Phật ra da, dá ra dá ra. Mạ mạ phạt ma ra, mục đế lệ, y hê di hê, thất na thất na, a ra sâm Phật ra xá lợi, phạt xa phạt xâm, Phật ra xá da, hô lô hô lô, ma ra hô lô hô lô hê rị, ta ra ta ra, tất rị tất rị, tô rô tô rô, bồ đề dạ, bồ đề dạ, bồ đà dạ, bồ đà dạ, di đế rị dạ na ra cẩn trì địa rị sắc ni na, ba dạ ma na, ta bà ha. Tất đà dạ, ta bà ha. Ma ha tất đà dạ, ta bà ha. Tất đà du nghệ, thất bàn ra dạ, ta bà ha. Na ra cẩn trì, ta bà ha. Ma ra na ra, ta bà ha. Tất ra tăng a mục khê da, ta bà ha. Ta bà ma ha, a tất đà dạ, ta bà ha. Giả kiết ra a tất đà dạ, ta bà ha. Ba đà ma yết tất đà dạ, ta bà ha. Na ra cẩn trì bàn đà ra dạ, ta bà ha. Ma bà lị thắng yết ra dạ, ta bà ha.

Nam mô hắc ra đát na, đa ra dạ da. Nam mô a rị da, bà lô kiết đế, thước bàng ra dạ, ta bà ha.

Án, tất điện đô, mạn đa ra, bạt đà dạ ta bà ha.

Án, nại ma ba cát ngỏa đế, a ba ra mật đạp, a ưu rị a nạp, tô tất nễ, thực chất đạp, điệp tả ra tể giã, đát tháp cả đạt giã, a ra ha đế, tam dược tam bất đạt giã, đát nễ giã tháp. Án, tát rị ba, tang tư cát rị, bát rị thuật đạp, đạt ra mã đế, cả cả nại tang, mã ngột ngỏa đế, tát ba ngỏa tỷ thuật đế, mã hát nại giã, bát rị ngỏa rị tóa ha. (3 lần)

Đảnh Lễ:

Đại từ đại bi thương chúng sanh
Đại hỷ đại xả cứu hàm thức
Tướng hảo quang minh tự trang nghiêm
Chúng con chí tâm quy mạng lễ

Nhất tâm đảnh lễ: Nam mô Thập phương tận hư không biến pháp giới, vi trần sát độ trung quá, hiện, vị lai, thường trú Phật, Pháp, Tăng Tam bảo. (1 lạy)

Nhất tâm đảnh lễ:

Nam mô Quá khứ Tỳ Bà Thi Phật
Nam mô Thi Khí Phật
Nam mô Tỳ Xá Phù Phật
Nam mô Câu Lưu Tôn Phật
Nam mô Câu Na Hàm Mâu Ni Phật
Nam mô Ca Diếp Phật
Nam mô Thích Ca Mâu Ni Phật
Nam mô Di Lặc Tôn Phật.

Bài Khai Kinh:

Phật pháp cao siêu lý ẩn sâu,
Trăm nghìn ức kiếp khó tìm cầu,
Duyên lành nghe thấy xin trì tụng,
Nguyện tỏ Như Lai nghĩa nhiệm mầu.

Nam Mô Khai Bảo Tạng Bồ tát Ma ha tát. (3 lần và 3 lạy)


LƯƠNG HOÀNG SÁM

QUYỂN THỨ NHỨT

SÁM PHÁP TỪ BI ÐẠO TRÀNG 

Từ bi Ðạo Tràng, bốn chữ ấy là danh hiệu của pháp sám hối nầy.

Nhơn vì cảm thấy Ðức Phật Di Lặc, dủ lòng từ bi, thương đời hiện tại và đời vị lai, ứng mộng dạy bảo, đặt tên như thế, đúng như sự thật, không dám đổi thay.

Nay vâng lời dạy bảo của Ðấng Từ Bi ấy là vì muốn hộ trì Tam bảo: làm cho ma quân ẩn hình, khiến người tự cao tự đại và người tăng thượng mạn ([1]) phải tự chiết phục; khiến người chưa trồng căn lành phải trồng căn lành; người đã trồng rồi, thì làm cho căn lành thêm lớn; khiến người hay chấp lấy chỗ sở đắc ([2]) đắm trước tà kiến ([3]), phải phát tâm xả bỏ chấp trước; khiến người ưa tiểu thừa ([4]) không nghi đại thừa ([5]); người ưa đại thừa sanh tâm hoan hỷ tiểu thừa.

Vả lại, pháp sám từ bi nầy lớn hơn tất cả các việc lành khác. Pháp nầy là chỗ quy y của hết thảy chúng sanh; như mặt trời sáng ban ngày; như mặt trăng chiếu ban đêm. Pháp này là tròng con mắt, là đạo sư, là cha mẹ, là anh em, là chơn thiện tri thức của người tu hành, đồng đi đến đạo tràng.

Pháp sám nầy thân thích hơn huyết nhục; đời đời theo nhau, dầu đến chết cũng không rời nhau. Vì thế nên gọi Pháp sám nầy là Từ Bi Ðạo Tràng.

Hôm nay Ðại chúng ẩn thân hay hiện hình trong Ðạo tràng, lập ra Pháp sám nầy đều phát đại tâm, vì có mười hai nhơn duyên lớn.

Những gì là mười hai?

1.- Một là nguyện hóa độ sáu đường ([6]) chúng sanh không có hạn lượng.

2.- Hai là chuyện báo đáp tứ ân không có hạn lượng.

3.- Ba là nguyện nhờ thần lực của Pháp sám nầy, khiến chúng sanh thọ cấm giới của Phật, không sanh tâm hủy phạm.

4.- Bốn là nguyện nhờ thần lực của Pháp sám nầy, khiến các chúng sanh, đối với các bậc tôn trưởng không sanh tâm kiêu mạn.

5.- Năm là nguyện nhờ thần lực của Pháp sám nầy, khiến các chúng sanh, sanh ra nơi nào cũng không khởi tâm giận hờn.

6.- Sáu là nguyện nhờ thần lực của Pháp sám nầy, khiến các chúng sanh đối với sắc thân người khác, không khởi tâm ghen ghét.

7.- Bảy là nguyện nhờ thần lực của Pháp sám nầy, khiến các chúng sanh, đối với các pháp trong thân, ngoài thân, không sanh tâm keo rít, mến tiếc.

8.- Tám là nguyện nhờ thần lực của Pháp sám nầy, khiến các chúng sanh, hễ làm được phước thiện gì, đều không phải vì mình mà làm, chỉ vì những người không có ai ủng hộ, không có ai giúp đỡ mà làm.

9.- Chín là nguyện nhờ thần lực của Pháp sám nầy, khiến các chúng sanh không vì mình mà tu pháp tứ nhiếp ([7]) mà chỉ vì hết thảy chúng sanh.

10.- Mười là nguyện nhờ thần lực của Pháp sám nầy, khiến các chúng sanh, thấy người cô độc tù tội, tật bệnh thì sanh tâm cứu giúp, cho họ an vui.

11.- Mười một là nguyện nhờ thần lực của Pháp sám nầy, khiến người tu hành, thấy có chúng sanh nào đáng chiết phục thì chiết phục, đáng nhiếp thọ thì nhiếp thọ.

12.- Mười hai là nguyện nhờ thần lực của Pháp sám nầy, khiến các chúng sanh, sanh ra nơi nào, cũng tự nghĩ nhớ đến sự phát tâm bồ đề hôm nay, làm cho tâm bồ đề tương tục mãi mãi không bị gián đoạn.

Ngưỡng mong Ðại chúng hoặc phàm hoặc thánh, hoặc ẩn thân hay hiện hình trong Ðạo Tràng nầy, đồng gia tâm phù hộ, đồng gia tâm nhiếp thọ, khiến đệ tử chúng con tên . . . . sám hối được thanh tịnh, thệ nguyện được thành tựu, tâm đồng tâm chư Phật, nguyện đồng nguyện chư Phật. Chúng sanh trong bốn loài ([8]), sáu đường do đó mà được mãn bồ đề nguyện.

CHƯƠNG THỨ NHẤT QUY Y TAM BẢO

Hôm nay Ðại chúng đồng nghiệp trong Ðạo tràng mọi người đều nên sanh tâm giác ngộ; biết đời là vô thường, thân không sống lâu, trẻ mạnh rồi phải già yếu; chớ ỷ hình dung tốt đẹp mà không tự giữ gìn tịnh hạnh.

Vạn vật cũng vô thường thảy đều tiêu diệt. Trên trời dưới đất, không có vật gì tồn tại mãi mãi. Lúc còn trẻ, nhan sắc tốt đẹp, da thịt mịn màng, thơm tho trong sạch. Nhưng thân nầy cũng vô thường. Người sống có hợp có tan. Sanh già bệnh chết không hẹn mà đến, ai sẽ trừ khử khổ ấy cho ta. Tai họa thình lình đưa đến biết đâu mà tránh, không thể thoát được. Sang, hèn, giàu, nghèo, thảy đều nhơn vậy mà chết. Chết rồi thân thể sình chương, thối không chịu nổi. Vậy luyến tiếc thân nầy nào có ích gì. Nếu không lo tu nghiệp lành thù thắng, thì do đâu mà thoát ly sanh tử.

Ðệ tử chúng con tên . . . tự nghĩ rằng: Hình tợ sương mai, mạng như nắng chiều: đời sống mong manh; chưa biết chết lúc nào. Lại thêm nghèo thiếu, không có phước đức đáng xưng; không có trí tuệ sáng suốt, không có hiểu biết như đại nhơn thần thánh; lời nói không tốt đẹp, không trung hòa, nhơn nghĩa, hạnh kiểm tiến thối không có lễ độ, tôn ty. Nếu lầm lập chí như vậy, càng thêm mệt nhọc cho sự tu hành.

Ngưỡng mong Ðại chúng sanh lòng hổ thẹn, sợ hãi. Pháp hội nầy lập có kỳ hạn, nếu không lo sám hối sau luyến tiếc, hối hận cũng không thể được.

Từ nay trở đi nguyện phải nỗ lực, sớm tối chuyên tâm, phụng sự cúng dường càng thêm tinh tấn . Chỉ có việc ấy là khoan khoái, cần làm hơn hết.

Ngưỡng mong Ðại chúng đồng nghiệp trong đạo tràng, nên phải ân cần, thận trọng, phát tâm dõng mãnh, tâm không buông lung, tâm an trú, tâm quảng đại, tâm thù thắng, tâm đại từ bi, tâm lạc thiện, tâm hoan hỷ, tâm báo ơn, tâm tế độ, tâm giữ gìn hết thảy chúng sanh; tâm cứu hộ hết thảy chúng sanh, tâm đồng tâm Bồ Tát; tâm đồng tâm chư Phật! nhất tâm nhất ý, chí thành đảnh lễ Tam Bảo.

Nguyện xin thay thế quốc vương, đế chúa, thổ địa, nhơn dân, thế cho cha mẹ, sư trưởng thượng, trung, hạ tòa, thiện ác tri thức, chư thiên, chư tiên, hộ thế tứ vương, chủ thiện phạt ác, thủ hộ trì chú, ngũ phương long vương, long thần bát bộ([9]), và hết thảy chúng sanh vô cùng vô tận, trong mười phương, có tâm linh, có thần thức, hoặc ở dưới nước, hoặc ở trên khô, hoặc ở giữa hư không; nguyện thế cho hết thảy chúng sanh ấy mà quy y mười phương tận hư không giới hết thảy chư Phật. (1lạy)

– Quy y mười phương tận hư không giới hết thảy Tôn pháp. (1lạy)

–  Quy y mười phương tận hư không giới hết thảy hiền Thánh Tăng. (1lạy)

Ngày nay Ðại chúng đồng nghiệp trong đạo tràng nên biết vì cớ gì mà phải quy y Tam Bảo.

Vì các Ðức Phật, các vị Bồ tát, có lòng đại từ vô lượng độ thoát thế gian, có lòng đại bi vô lượng, an ủy thế gian, thương hết thảy chúng sanh như con đỏ.

Lòng đại từ đại bi ấy thường không biết mỏi mệt, hằng cầu việc lành lợi ích cho tất cả: thề dập tắt lửa tham sân si cho tất cả, giáo hóa khiến cho tất cả đều được quả vô thượng bồ đề. Nếu chúng sanh không chứng quả bồ đề. Phật thề không thành chánh giác, vì duyên cớ ấy nên đại chúng cần phải quy y Tam Bảo.

Vả lại các đức Phật thương xót chúng sanh quá hơn cha mẹ thương con.

Trong kinh dạy rằng: “Cha mẹ thương con chỉ một đời. Phật thương chúng sanh tâm không cùng tận. Lại nữa cha mẹ thấy con vong ân bội nghĩa, thì sanh lòng giận hờn, tình thương giảm xuống. Phật và Bồ tát thương chúng sanh, lòng không như vậy. Thấy chúng sanh bội nghịch lòng thương của Phật và Bồ tát càng tăng lên mãi.

Các Ngài còn vào trong địa ngục hỏa luân, địa ngục vô gián mà chịu vô lượng khổ, thế cho chúng sanh.

Vì thế nên biết rằng chư Phật và Bồ tát thương xót chúng sanh hơn cha mẹ thương con. Vậy mà chúng sanh vì vô minh ([10]) che lấp trí huệ, phiền não che lấp tâm tánh, đối với Phật và Bồ tát không biết quay đầu lại mà quy y, không biết ngưỡng mộ. Thuyết pháp giáo hóa, chúng sanh cũng không tin, không chịu mà còn thô lỗ, phỉ báng, chưa từng phát tâm niệm ơn chư Phật.

Vì chúng sanh không tin nên đọa vào đường ác: địa ngục, ngã quỷ, súc sanh; khắp trong ba đường ác ấy, chịu vô lượng khổ.

Tội hết được ra, tạm sanh làm người, tai mắt không đủ, thân thể xấu xa, không tu thiền định, không tu trí huệ.

Chúng sanh có những quả báo chướng ngại như vậy là do không có lòng tin.

Ngày nay đại chúng đồng nghiệp trong đạo tràng biết tội không tin nặng hơn các tội, khiến người tu hành lâu không thấy Phật.

Hôm nay đại chúng tự phải cùng nhau khẳng khái tu hành, chiết ý tỏa tình sanh tâm tăng thượng, khởi lòng hổ thẹn, cúi đầu cầu xin sám hối tội cũ. Nghiệp lụy hết rồi, trong ngoài thanh tịnh, sau mới vận tâm quay về đức tín, phát lòng tin tưởng Tam Bảo. Nếu không khởi tâm như vậy, vận tưởng như vậy, sợ lòng tin phải cách tuyệt, chướng ngại khó thông. Một khi đã mất nẻo xu hướng, thì mờ mịt không biết về đâu! Vậy thì chúng con không thể không tin mà phải đầu thành đảnh lễ quy y Tam Bảo, không dám nghi ngờ.

Ðệ tử chúng con tên . . . nay nhờ sức từ bi của chư Phật, chư đại Bồ tát mới mong hiểu biết, rất lấy làm hổ thẹn. Những tội đã làm nguyện xin trừ diệt. Những tội chưa làm không dám làm nữa.

Từ nay trở đi, cho đến ngày thành Phật, khởi lòng tin kiên cố, không dám thối lui.

Xả thân nầy hoặc sanh vào địa ngục, hoặc sanh vào ngã quỷ, hoặc sanh vào súc sanh, hoặc sanh làm người, hoặc sanh làm trời, ở trong ba cõi, hoặc thọ nam thân, hoặc thọ nữ thân, hoặc thọ phi nam phi nữ thân v.v. . . hoặc lớn hoặc nhỏ, hoặc lên hoặc xuống chịu đủ khổ não, không thể chịu nổi, chúng con xin thề: không vì khổ ấy mà thối mất lòng tin ngày nay.

Thà chịu bao nhiêu khổ lụy trong muôn ngàn ức kiếp, chúng con xin thề: không vì khổ mà thối mất lòng tin hôm nay.

Nguyện xin chư Phật, chư đại Bồ tát, đồng gia tâm cứu hộ, đồng gia tâm nhiếp thọ, khiến đệ tử chúng con tên . . . tín tâm được kiên cố, đồng như tâm của chư Phật, đồng như nguyện của chư Phật, tà ma ngoại đạo không thể phá hoại tín tâm của chúng con.

Chúng con cùng nhau chí tâm, một lòng tha thiết, đầu thành đảnh lễ, quy y mười phương tận hư không giới hết thảy chư Phật.

Quy y mười phương tận hư không giới, hết thảy Tôn Pháp.

Quy y mười phương tận hư không giới hết thảy Hiền Thánh Tăng.

Ngày nay đại chúng đồng nghiệp trong đạo tràng hãy lắng lòng mà nghe.

Than ôi! Cõi Trời, cõi người đều huyễn hoặc, thế giới là giả dối.

Do vì huyễn hoặc, không chơn thật, nên kết quả cũng không chơn thật. Giả dối mong manh nên biến hóa vô cùng.

Kết quả không chơn, sở dĩ phải chìm đắm mãi trong vòng sanh tử. Biến hóa không cùng, sở dĩ phải trôi lăn hoài trong biển ái khổ đau. Thấy chúng sanh đau khổ như vậy, Phật rất thương xót.

Kinh Bi Hoa dạy rằng: “Các vị Bồ tát thành Phật đều có bổn nguyện”.

Ðức Thích Tôn không hiện thân sống ở đời lâu dài, thọ mạng Ngài ngắn ngủi là vì thương chúng sanh ở cõi nầy, sống yểu uổng trong nháy mắt rồi chết, như biến hóa, chìm mãi trong biển khổ không ra được. Vì thế nên Phật ở cõi nầy cứu chúng sanh tệ ác, phải tạm dùng lời cứng rắn khổ khắc, thiết tha mà dạy bảo.

Ngài ở trong biển khổ, cứu độ chúng sanh, chưa từng khi nào không lưu tâm đến sự hoằng hóa, tế độ, lợi ích cho chúng sanh, bằng cách ứng dụng thiện pháp làm phương tiện.

Sở dĩ kinh Tam muội dạy rằng: “Tâm chư Phật là tâm đại từ bi; chỗ tâm từ bi của Phật soi đến là chỗ chúng sanh đau khổ”.

Phật thấy chúng sanh chịu khổ não như tên bắn vào lòng Phật, như phá tròng mắt Phật. Thấy rồi thương xót, tâm không tạm yên. Cho nên Phật muốn diệt khổ ngay cho chúng sanh được an vui.

Lại nữa, trí huệ của chư Phật là trí huệ bình đẳng, nên Phật hóa độ chúng sanh cũng bình đẳng. Như đức Thích Tôn ai cũng xưng Ngài là Ðấng Bình đẳng. Ngài dõng mãnh, chịu khổ độ thoát chúng sanh, cho nên biết ân đức Bổn sư rất nặng.

Ngài hay ở trong khổ não thuyết pháp, lợi ích cho hết thảy chúng sanh. Ngày nay chúng sanh không được giải thoát là về trước kia không nghe được âm thanh vi diệu của Phật thuyết pháp; về sau không thấy được Phật niết bàn. Chúng sanh vì nghiệp chướng ngăn che nên xa cách lòng thương của Phật.

Bây giờ chúng con hãy cùng nhau sanh tâm thương tiếc. Vì thương tiếc nên thiện tâm nồng hậu, ở trong đau khổ chúng con nhớ ơn chư Phật , kêu cầu thảm thiết, ảo não khóc lóc, chí thành đảnh lễ, năm vóc sát đất, nguyện vì quốc vương và quyến thuộc của quốc vương, thổ địa nhơn dân, phụ mẫu, sư trưởng, tín thí đàn việt, thiện ác tri thức, chư thiên . . . . chư tiên, thông minh, chánh trực, thiên địa hư không, hộ thế tứ vương, chủ thiện phạt ác, thủ hộ trì chú, ngũ phương long vương, long thần bát bộ, cùng khắp hết thảy chúng sanh vô cùng vô tận trong mười phương mà quy y mười phương tận hư không giới hết thảy chư Phật. (1lạy)

Quy y mười phương tận hư không giới hết thảy Tôn pháp. (1lạy)

Quy y mười phương tận hư không giới hết thảy Hiền Thánh Tăng. (1lạy)

(Toàn thể đều quỳ chắp tay tâm niệm và tiếp tụng): 

Chư Phật đại thánh tôn,
Thấu rõ hết thảy pháp,
Ðạo sư của Trời người
Cho nên nguyện quy y.

– Tôn pháp tánh thường trú,
Thanh tịnh tu đa la ([11])
Hay trừ bệnh thân tâm,
Cho nên nguyện quy y.

– Ðại địa chư Bồ tát ([12])
Vô trước tứ sa môn ([13])
Hay cứu hết thảy khổ
Cho nên nguyện quy y.

– Tam Bảo cứu thế gian
Vì sáu đường chúng sanh,
Con nay xin đảnh lễ,
Quy y thế tất cả.

– Từ bi che hết thảy
Khiến đồng được an vui.
Thương xót cả muôn loài
Chúng con đồng quy y.

(Mọi người đều đảnh lễ sát đất và tự niệm rằng):

Nguyện xin hết thảy mười phương Tam Bảo đem từ bi lực, bổn thệ nguyện lực, bất tư nghị lực, vô lượng tự tại lực, độ thoát chúng sanh lực, phú hộ chúng sanh lực, an ủy chúng sanh lực. Ðem những năng lực ấy khiến các chúng sanh đều giác ngộ, chúng con tên . . . ngày nay vì các chúng sanh ấy mà quy y Tam bảo.

Chúng con xin nhờ công đức nầy có năng lực khiến các chúng sanh ấy đều được mãn nguyện.

Nếu các chúng sanh ấy hoặc ở trong loài trời, loài tiên thì được hết nghiệp hữu lậu. ([14])

Nếu các chúng sanh ấy ở trong loài a tu la thì khiến họ xả bỏ tánh kiêu mạn.

Nếu các chúng sanh ấy ở trong loài người thì khiến cho hết khổ đau.

Nếu các chúng sanh ấy ở trong các loài địa ngục, ngã quỷ, súc sanh thì khiến cho liền được giải thoát.

Lại nữa, ngày nay người nào nghe được danh hiệu của Tam bảo, và người không nghe được cũng đều nhờ được thần lực của Phật mà được giải thoát, hoàn toàn thành tựu vô thượng bồ đề, đồng với các đại Bồ Tát thành bậc chánh giác.

 

CHƯƠNG THỨ HAI DỨT NGHI NGỜ

Ngày nay Ðại chúng đồng nghiệp trong Ðạo tràng lắng lòng mà nghe. Luận rằng:  nhơn quả ảnh hưởng, lẫn nhau cảm ứng tương sanh ([15]) nhau; đạo lý tự nhiên như vậy không sai lầm. Nhưng về hạnh nghiệp ([16]) của chúng sanh, mỗi người một khác không giống nhau, nên quả báo cũng không giống nhau; hoặc tinh thô, hoặc sang hèn, hoặc thiện hoặc ác sai khác muôn vàn. Ðã có sai khác thì không rõ nguyên nhơn sự sai khác ấy do đâu. Vì không rõ nên sanh ra nghi ngờ, lầm lạc. Hoặc nói người tinh tấn tu hành, giữ giới trong sạch, đáng lẽ được sống lâu, sao lại chết sớm. Người hàng thịt (đồ tể), đáng lẽ chết sớm sao lại sống lâu. Người thanh liêm đáng lẽ được giàu sang, sao lại thấy nghèo thiếu. Người tham lam trộm cướp, đáng lẽ nghèo thiếu khốn khổ, sao lại giàu có phong lưu!

Nghi ngờ sai lầm như vậy ai cũng có nghĩ đến không tránh khỏi. Do vì không rõ việc của mình đã làm từ bao kiếp trước, hột giống của mình đã gieo không thuần, nên ngày nay đem lại kết quả bất nhất như vậy.

Kinh Bát nhã dạy rằng: “Nếu người nào đọc tụng kinh nầy, bị kẻ khác khinh chê, là vì người ấy đời trước có tội nghiệp nặng, đáng đọa vào đường ác. Ngày nay nhờ người khinh chê nên tội nghiệp đời trước được tiệu diệt.

Bởi chúng sanh không hết lòng thâm tín lời Phật dạy, mới có tâm nghi ngờ. Chúng sanh bị vô minh cho hoặc, cho lấp tâm tánh nên luống sanh tâm nghi ngờ điên đảo như vậy.

Chúng sanh lại cũng không tin: còn ở trong ba cõi là khổ, ra khỏi ba cõi là vui. Những người thường say đắm thế gian đều cho đời là vui.

Chúng ta thử hỏi:

Nếu đời thật là vui, cớ sao trong tâm biết vui ấy lại có tâm biết khổ.

Ăn uống quá độ liền sanh tật bệnh: ban sởi, ho hen, khí tức, cổ trướng, đau đớn, khó chịu.

Nói đến y phục, càng thấy khổ nhiều. Lạnh được áo mỏng thì bạc ơn người cho, lòng nghĩ nông nổi.

Nắng được áo kép, lông chiên, khổ não càng nhiều. Nếu y phục là vui, cớ sao lại sanh khổ não.

Nếu cho gia đình quyến thuộc là vui, lẽ ra cùng nhau vui mãi, hoan lạc ca cười không dứt, cớ sao thoặc vậy vô thường, qua đời trong nháy mắt! Vừa có đó liền không đó. Sớm cón tối mất, kêu trời vang đất, can trường đoạn đoạn! Chúng sanh lại cũng không tự biết mình từ đâu đến đây? Chết rồi đi đâu. Người còn khóc kẻ mất, ôm lòng thương xót, tống táng đưa nhau, thẳng đến sơn cùng, chắp tay vĩnh biệt, nhất từ vạn kiếp, đau đớn biết bao? Những điều như vậy, sầu khổ vô lượng, chúng sanh mê chấp cho đó là vui.

Trái lại, gây nhơn vui xuất thế, chúng sanh đều cho việc ấy là khổ.

Thấy người trai giới tương dưa, nuôi thân qua buổi, không mặc lục là, quen bận phấn tảo ([17]) ăn mặc nâu sồng, chúng sanh đều cho các việc ấy là tự ép xác, khốn khổ, không biết làm như thế là gây nhơn giải thoát, gieo giống an vui.

Hoặc thấy người bố thí trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, kinh hành lễ bái, tụng tập chuyên cần, chúng sanh đều cho là khổ; không biết làm như vậy là tu tâm xuất thế, để được an vui.

Thoảng hoặc thấy có người tật bệnh mà chết, liền sanh tâm nghi rằng: người ấy bắt buộc thân tâm nầy làm việc quá độ, trọn ngày không được tạm nghỉ. Sức lực con người không thể nào kham nổi. Nếu người tu hành không siêng năng khó nhọc thì đâu đến nỗi luống mất thân mạng với việc làm vô ích như vậy.

Hoặc có người chấp chặt lý thuyết của mình, tự cho mình là đúng, chứ không biết suy quả tầm nhơn, luống sanh tâm mê chấp, luống làm việc sai lầm.

Nếu may gặp được Thiện tri thức thì có thể hết mê lầm. Nếu không may. gặp phải bạn ác thầy tà thì si mê càng lắm.

Nhơn vì nghi ngờ mê hoặc nên đọa vào ba đường ác, ở trong ấy, ăn năn không kịp.

Hôm nay Ðại chúng đồng nghiệp trong Ðạo tràng nên hiểu rõ.

Phàm nghi ngờ như vậy có vô lượng nhơn duyên.

Vả chăng hột giống nghi ngờ lầm lạc ấy, tu hành thoát ra khỏi ba cõi luân hồi còn chưa hết, huống gì thân phàm phu nầy làm sao trừ ngay cho được. Ðời nầy không lo đoạn trừ, đời sau càng thêm.

Ðại chúng cùng nhau vừa mới tu tập, đường hãy còn dài, tự tu khổ hạnh, nên căn cứ vào lời Phật dạy, đúng pháp mà tu, không nên nghi ngờ, từ chối sự mệt nhọc.

Chư Phật thánh nhơn, sở dĩ ra được khỏi sanh tử, đến bờ giải thoát bên kia, là nhờ công tích thiện, nên được quả giải thoát vô ngại tự tại.

Chúng con ngày nay chưa lìa khỏi sanh tử, nghĩ cũng tự đáng thương; làm sao còn ham muốn ở trong đời ác trược nầy nữa. Nay đây may được tứ đại chưa suy dồi; ngũ phước còn thạnh, tới lui thong thả, động chuyển tự do mà không nỗ lực tu hành, còn đợi gì nữa. Ðời trước đã không thấy đạo; đời nầy cũng luống qua, không chứng ngộ gì, thì đời sau làm sao tế độ chúng sanh.

Xem lại tự tâm, thật cũng đau lòng. Ngày nay đại chúng chỉ nên khuyên nhau nỗ lực xiêng tu, không nên nói rằng, phải có tin tức chứng ngộ gì mới chịu tu tập; vì Phật đạo lâu dài, không thể một mai mà làm xong được. Nếu cứ chờ tin tức, như vậy một mai rồi lại một mai thì biết bao giờ chứng quả.

Nay hoặc có người nhơn tụng kinh, ngồi thiền, siêng tu khổ hạnh, hơi có chút tật bệnh liền nói: Vì tụng tập siêng năng, khổ hạnh quá nhiều nên sanh bệnh hoạn. Người nói như thế là vì họ không tự biết. Nếu họ không làm như vậy thì cũng đã chết sớm mất rồi. Nhờ tu hành có phước đức mới mong sống đến hôm nay.

Vả lại, bốn đại tăng giảm tật bệnh là thường, cho đến già chết còn không thể tránh. Sanh ở thế gian nầy chung cuộc rồi ai cũng tận số. Nếu muốn được đạo, phải y lời Phật dạy mà tu. Trái lời Phật mà đắc đạo thì không có lẽ ấy.

Chúng sanh vì trái lời Phật nên xơay chuyển trong ba đường, chịu đủ thống khổ. Nếu đúng như lời Phật dạy mà tu hành không thôi nghỉ, siêng năng tinh tấn, như cứu lửa cháy đầu, thì đâu đến nỗi một đời luống qua, không có lợi ích gì. Mọi người cùng nhau nhất tâm tha thiết, đầu thành đảnh lễ như Thái sơn đổ, nguyện vì những người sau đây mà đảnh lễ thế cho họ.

Kể từ khi có tâm thức cho đến ngày nay, cha mẹ nhiều đời, bà con nhiều kiếp, Hòa thượng, A xà lê, đồng đàn tôn chứng, thượng trung hạ tòa, tín thí đàn việt, thiện ác tri thức, chư thiên, chư tiên, hộ thế tứ thiên vương chủ thiện, phạt ác, thủ hộ trì chú, ngũ phương long vương, long thần bát bộ khắp đến 10 phương vô cùng vô tận, hết thảy chúng sanh mà quy y Thế gian đại từ bi phụ:

Nam mô Di Lặc Phật

Nam mô Duy Vệ Phật

Nam mô Thi Khí Phật

Nam  mô Tùy Diếp Phật

Nam mô Câu  lưu Tôn Phật

Nam mô Câu na hàm mâu ni Phật

Nam mô Ca Diếp  Phật

Nam mô Thích Ca mâu ni Phật

Nam mô Vô Biên Thân Bồ tát

Nam mô Quán Thế Âm Bồ tát

Lại quy y như vậy mười phương tận hư không giới hết thảy Tam bảo nguyện xin Tam bảo dùng sức Từ bi, đồng gia tâm nhiếp thọ; dùng sức thần thông che chở cứu vớt chúng con; khiến chúng con từ nay trở đi cho đến ngày thành đạo, tứ vô lượng tâm ([18]) lục ba la mật ([19]) thường được hiện tiền, tứ vô ngại trí ([20]), lục thần thông lực ([21]), được như ý tự tại; tu đạo Bồ tát, vào trí huệ Phật, hóa độ mười phương, thành bậc chánh giác.

Ngày nay Ðại chúng đồng nghiệp trong đạo tràng lại khéo nhiếp tâm, suy nghĩ cho kỹ:

Ðã được cùng nhau sanh lòng tin rồi thì nên giữ ý thanh tịnh, lấy điều ấy làm nẻo xu hướng đối với các pháp trong thân ngoài thân chớ cho trở ngại.

Nếu không biết rõ việc làm hay tự mình không thể làm thì lúc thấy người làm việc phước thiện, chỉ nên khuyến khích, chắp tay tán thán công đức của người, không nên sanh tâm trở ngại, khiến người tu hành phải thối chí.

Nếu người không thối chí họ cứ tinh tấn như thường việc người không giảm, chỉ mình bị tổn phước, luống gây thị phi, đối với bản thân nào có ích gì? Nếu đối với việc lành mình không trở ngại thì có thể gọi là hợp đạo, hữu lực đại nhơn. Nếu đời nầy mình hay trở ngại việc phước thiện của người thì đời sau làm sao thông đạt được Phật đạo.

Cứ lý mà suy, tổn hại ấy rất nặng. Trở ngại thiện căn của người, tội ấy rất lớn.

Như kinh hộ khẩu dạy rằng:

“Có một ngã quỷ thân hình xấu ác, thấy phải rùng mình, không ai không sợ. Thân xuất lửa dữ như đám cháy lớn. Trong miệng có sâu dòi rúc ra mãi mãi, máu mủ tanh hôi, đầy cả thân hình, mùi thối bay ra, không ai có thể đến gần. Miệng khạc ra lửa, thân phần lửa đốt, cất tiếng kêu khóc, tuông chạy cùng khắp.

Bấy giờ có ngài Mãn Túc La hán hỏi Ngã quỷ rằng:

“Xưa kia ngươi mắc phải tội gì mà nay chịu khổ như thế?”

Ngã quỷ đáp rằng:

Tôi ngày xưa đã từng làm sa môn, tham đắm sự nuôi sống, xan tham không bỏ, không giữ oai nghi, nói lời thô ác.

Nếu thấy người giữ giới tinh tấn lại liền mắng nhiếc, liếc mắt háy nguýt, ỷ mình giàu mạnh, tưởng sống lâu không chết, tạo ra vô lượng tội ác căn bản. Ngày nay nhớ lại, hối hận cũng không ích gì. Thà cầm dao bén tự cắt lưỡi mình, kiếp nầy sang kiếp khác, cam tâm chịu khổ, không nên nói một lời phỉ báng việc làm của người.

“Nguyện xin ngài trở về đường thế, đem hình trạng xấu ác của tôi răn dạy các thầy Tỳ kheo và các Phật tử, khéo giữ gìn lỗ miệng, chớ buông lời nói ác. Dầu thấy người giữ giới hay không giữ giới cũng nên tuyên dương công đức của người.

Tôi làm quỷ đói đã vài ngàn kiếp, trọn ngày thâu đêm chịu đủ điều đau khổ. Quả báo này hết rồi lại vào địa ngục”.

Bấy giờ Ngã quỉ nói lời ấy rồi, cất tiếng kêu khóc, tự gieo mình xuống đất như núi Thái Sơn sụp đổ.

Ngày nay đại chúng đồng nghiệp trong Ðạo tràng nghe lời kinh dạy như vậy rất đáng sợ hãi.

Chỉ vì lỗi của miệng mà mang tội nhiều kiếp, luống nữa là còn bao nhiêu điều ác khác. Xả thân này thọ thân khác mà chịu khổ điều do nghiệp ác của mình đã làm. Nếu không gây nhơn thì tại làm sao lại có chịu quả. Ðã gây nhơn quyết định phải chịu trả quả. Tội phước không xa, mình làm mình chịu, như bóng theo hình, không thể rời nhau. Do vô minh mà sanh thì cũng do vô minh mà diệt. Ðời này đời sau, bao giờ cũng vậy, chưa từng thấy người tu hành buông lung, lười biếng mà được giải thoát. Trái lại, người hay tinh tấn giữ gìn tu hành, được phước đức vô lượng.

Ngày nay Ðại chúng đều nên biết hổ thẹn rửa sạch thân tâm, sám hối tội cũ. Tội cũ hết rồi, không gây thêm tội mới nữa thì được các đức Phật khen ngợi. Cùng nhau từ nay trở đi, nếu thấy người làm thiện, chớ nói thành hay không thành, lâu hay không lâu. Dầu cho họ chỉ làm lành trong một niệm, một thời, một khắc, một ngày, một tháng, nửa năm, hy một năm cũng đã hơn người không làm.

Sở dĩ kinh Pháp Hoa dạy rằng:”Hoặc có người tâm tán loạn vào trong tháp miếu, xưng một câu Nam mô Phật, người ấy cũng đã thành Phật đạo”. Huống nữa có người phát tâm rộng lớn, siêng làm phước thiện. Nếu chúng ta không tùy hỷ thì thánh nhơn rất thương xót.

Chúng con tên . . . tự nghĩ mình từ vô thỉ trở lại cho đến ngày nay lẽ ra cũng đã có vô lượng ác tâm trở ngại việc lành tốt đẹp của người. Vì sao mà biết? Nếu không như vậy, cớ sao ngày nay việc lành của chúng con phần nhiều hay bị trở ngại. Thiền định không hay tập, trí thức không hay tu. Vừa mới lễ bái liền nói khổ lắm. Vừa cầm đến kinhliền sanh nhàm chán. Trọn ngày chỉ ưa khó nhọc làm các nghiệp ác khiến cho thân này không được giải thoát, như tầm kéo kén, tự ràng, tự buộc, như phù du vào lửa, tự thiêu tự đốt. Những chướng ngại ấy vô lượng vô biên, chướng Bồ đề tâm, chướng Bồ đề nguyện, chướng Bồ đề hạnh, chướng ngại như vậy đều do ác tâm, Phỉ báng việc thiện của người. Nay mới giác ngộ, rất là hổ thẹn, cúi đầu xin sám hối tội ấy.

Nguyện xin xhư Phật chư Ðại Bồ tát, đem lòng từ bi, đồng gia thần lực khiến đệ tử tên . .. những điều sám hối đều được trừ diệt, những điều hối đều được thanh tịnh. Vô lượng chướng ngại , Vô lượng tội nghiệp đều nhờ sám hối này mà được sạch hết.

Mọi người cùng nhau nhất tâm thống thiết năm vóc sát đất, quy y thế gian Ðại Từ bi phụ:

Nam mô Di Lặc Phật

Nam mô Thích Ca Mâu Ni Phật

Nam mô Thiện Ðức Phật

Nam mô Vô Ưu Ðức Phật

Nam mô Chiên Ðàn Ðức Phật

Nam mô Bảo Thí Phật

Nam mô Vô Lượng Minh Phật

Nam mô Hoa Ðức Phật

Nam mô Tưởng Ðức Phật.

Nam mô Tam Thừa Hạnh Phật

Nam mô Quảng Chúng Ðức Phật

Nam mô Minh Ðức Phật

Nam mô Sư Tử Du Hý Bồ tát

Nam mô Sư Tử Phấn Tấn Bồ tát

Nam mô Vô Biên Thân Bồ tát

Nam mô Quán Thế Âm Bồ tát

Lại xin quy y như vậy mười phương tận hư không giới hết thảy Tam Bảo.

(Cùng nhau quỳ gối chắp tay, tâm niệm và tụng niệm):

Ðệ tử chúng con tên . . . từ vô thỉ trở lại cho đến ngày nay, chưa thể đắc đạo, thọ lấy báo thân nầy vì tham bốn món cúng dường chưa từng xả bỏ. Tham sân tật đố, ba độc hừng hẫy sanh ra các ác nghiệp. Thấy người bố thí, trì giới, tự mình không thể làm, không hay tùy hỷ. Thấy người nhẫn nhục tinh tấn, tự mình không thể làm. Không hay tùy hỷ. Thấy người tọa thiền, tu nghiệp trí huệ, tự mình không thể làm, không hay tùy hỷ. Những tội như vậy, vô lượng vô biên ngày nay sám hối, nguyện xin trừ diệt.

Lại nữa từ vô thỉ trở lại cho đến ngày nay, thấy người làm lành, tu các công đức không hay tùy hỷ, đi đứng nằm ngồi, trong bốn oai nghi ấy không biết hổ thẹn, không nghĩ vô thường, không biết xả thân này phải vào địa ngục.

Ðối với sắc thân người khác, khởi ra điều ác. Chướng ngại người xây dựng và cúng dường Tam bảo, chướng ngại người tu tập hết thảy công đức.

Tội chướng như vậy vô lượng vô biên ngày nay sám hối, nguyện xin trừ diệt.

Lại nữa, từ vô thỉ trở lại cho đến ngày nay không tin Tam bảo là chỗ quy y, chướng ngại người xuất gia, chướng ngại người trì giới, chướng ngại người bố thí, chướng ngại người nhẫn nhục, chướng ngại người tinh tấn, chướng ngại ngưởi tọa thiền, chướng ngại người tụng kinh, chướng ngại người làm chay, chướng ngại người tạo tượng, chướng ngại người cúng dường, chướng ngại người khổ hạnh, chướng ngại người hành đạo, cho đến mảy may việc thiện của người chúng con cũng chướng ngại. Không tin xuất gia là pháp viễn ly, không tin nhẫn nhục  là hạnh An lạc, không biết bình đẳng là đạo Bồ đề, không biết xa lìa vọng tưởng là tâm xuất thế. Vì những tội ấy cho nên ngày nay sanh ra nơi nào cũng gặp nhiều chướng ngại. Tội chướng như vậy, vô lượng vô biên, chỉ có chư Phật, chư Ðại Bồ tát mới thấy hết biết hết.

Như chỗ chư Phật và Bồ tát đã thấy đã biết, tội lượng nhiều ít, ngày nay hổ thẹn , tỏ bày sám hối, tất cả tội nhơn, khổ quả, nguyện xin trừ diệt. Từ nay trở đi cho đến ngày thành đạo tu đạo Bồ tát, không biết nhàm chán. Tài thí, pháp thí không cùng, không tận, trí huệ phương tiện làm gì cũng được. Hết thảy người thấy, người nghe đều được giải thoát.

Chúng con cùng nhau chí tâm, đầu thành đảnh lễ, năm vóc sát đất nguyện xin mười phương hết thảy chư Phật, chư Ðại Bồ tát hết thảy Hiền Thánh, dủ lòng từ bi, đồng gia thần lực, làm cho hết thảy chúng sanh trong sáu đường, nhờ sức sám hối nầy mà đoạn trừ được hết thảy tội khổ, xa lìa được hết thảy duyên điên đảo, không sanh ác tâm, xả nghiệp bốn thú ([22]) phát sanh trí huệ, tu đạo Bồ đề không thôi không nghỉ; hạnh nnguyện chóng viên mãn, mau lên ngôi Thập địa, vào tâm kim cang thành đẳng chánh giác.

 

CHƯƠNG THỨ BA: SÁM HỐI

Ngày nay Ðại chúng đồng ngiệp trong đạo tràng lắng tai nghe kỹ lời kinh dạy sau đây:

“Còn phàm phu thì gọi là buộc. Ðã chứng quả Thánh thì gọi là giải”.

Buộc tức là kết quả ác của hành động bạo ác của ba nghiệp ác đã gây ra. Giải tức là quả báo lành vô ngại giải thoát của ba nghiệp lành đã gây ra.

Hết thảy Thánh nhơn đều để lòng nơi đạo giải thoát, và nhờ thần thông trí huệ, vô lượng pháp môn, nên Thanh nhơn thấy hết thảy nghiệp báo thiện hay ác của tất cả chúng sanh.

Các Ngài hay dùng một thân hiện ra vô lượng thân, hay dùng một hình hiện ra vô lượng hình; có thể rút ngắn một kiếp làm một ngày; có thể kéo dài một ngày làm một kiếp. Muốn đình thọ mạng thì vĩnh viễn không diệt độ; muốn thị hiện vô thường thì nhập niết bàn; thần thông trí huệ, vào ra tự tại, bay đi tùy ý, ngồi nằm trên không. Ði đứng dưới nước như ở trên khô, không thấy nguy hiểm. Lấy cảnh vắng lặng , viên tịch niết bàn làm chỗ nghỉ ngơi thông đạt vạn pháp, có không điều rõ biết, biện tài thành tựu, trí huệ vô ngại.

Những pháp lành ấy không phải từ trong nghiệp ác mà ra, không phải từ trong tham sân tật đố mà ra; không phải từ trong ngu si tà kiến mà ra; không phải từ trong lười biếng mà ra, không phải từ trong kiêu mạn, tự cao tự đại mà ra. Các pháp lành ấy chỉ trừ trong sự thận trọng không làm ác mà ra; các pháp lành ấy đều do các nghiệp lành mà ra.

Không nơi nào có người tu các nghiệp lành, vâng lời Phật dạy mà mắc phải ác báo, bần cùng xấu xa tàn tật, bệnh hoạn, không được tự do, thấp hèn bị kẻ khác khinh chê, lời nói không ai tin dùng bao giờ.

Nay đem thân tôi để làm chứng (lời tác giả). Nếu có người nào vâng lời Phật dạy, tu các công đức, không ích kỷ hại nhơn mà bị quả báo xấu ác thì thà để tôi bị đọa vào a tỳ địa ngục chịu thống khổ, chớ để cho người làm lành kia chịu quả báo xấu ác thì phi lý.

Ngày nay Ðại chúng đồng nghiệp trong Ðạo tràng muốn bỏ phàm làm Thánh thì nên y lời Phật dạy, như lý mà tu hành. Không nên từ chối một việc khổ nhỏ mà sanh tâm lười biếng nên tự nỗ lực cố gắng sám hối cho tiêu tội lỗi.

Trong kinh Phật dạy: “Tội do nhơn duyên mà sanh thì cũng do nhơn duyên mà diệt”.

Ðang còn thân phàm thì gặp cảnh sanh mê tâm. Vậy ngoài phương pháp sám hối ra, không có phương pháp nào hơn nữa để mong giải thoát.

Ngày nay Ðại chúng phải cùng nhau phát khởi tâm dõng mãnh, phát khởi ý sam hối.

Sức mạnh của pháp sám hối không thể nghĩ bàn. Vì sao mà biết? – Vì vua A xa Thế phạm đại tội ngũ nghịch ([23]), nhưng sau vua biết sanh tâm hổ thẹn, tự trách, tự ăn năn, nên tội nặng thành nhẹ.

Vả lại pháp sám hối nầy khiến người tu hành được an vui. Nếu có người nào tự mình hay định thời khóa, nỗ lực hết lòng, khấu đầu lễ bái, sám hối, quy y cho đến khi hoàn toàn trong sạch mà không cảm được mười phương Phật thì không có lý.

Ác nghiệp và quả báo theo nhau, ảnh hưởng lẫn nhau, không sai mảy may, cho nên phải hết lòng sợ hãi, cố gắng chịu khổ mà sám hối.

Mọi người đều nên một lòng tha thiết gieo mình xuống đất như núi Thái sơn sụp đổ, tâm niệm miệng nói lời nầy: để cầu thỉnh mười phương chư Phật gia tâm thương xót.

Nguyện xin chư Phật cứu chúng con ra khỏi khổ ách; dủ lòng đại bi che khắp tất cả. Phóng hào quang thanh tịnh, soi khắp mười phương; diệt sạch mê mờ và trừ si ám. Nghĩ đến chúng con và các chúng sanh đang bị đọa đầy, trong địa ngục đau khổ. Xin Phật đến đây, cứu vớt chúng con. Ban bố hạnh phúc cho chúng con được thoát khổ.

Chúng con nhất tâm đầu thành đảnh lễ, Ðấng Ðại từ bi nghe tên liền cứu khổ. Nay chúng con nhất tâm quy y Ðấng Thế gian Ðại Từ Bi Phụ.

Nam mô Di Lặc Phật

Nam mô Thích ca Mâu Ni Phật

Nam mô Kim cang bất hoại Phật

Nam mô Bảo Quang Phật

Nam mô Long Tôn vương Phật

Nam mô Tinh Tấn Quân Phật

Nam mô Tinh Tấn hỷ Phật

Nam mô Bảo Hỏa Phật

Nam mô Bảo Nguyệt Quang Phật

Nam mô Hiện vô Ngu Phật

Nam mô Bảo Nguyệt Phật.

Nam mô Vô Cấu Phật

Nam mô Ly Cấu Phật

Nam mô Sư Tử Phan Bồ tát

Nam mô Sư Tử Tác Bồ tát

Nam mô Vô Biên Thân Bồ tát

Nam mô Quán Thế Âm Bồ tát

Lại quy y như vậy mười phương tận hư không giới hết thảy Tam bảo, nguyện xin Tam bảo quyết định đến đây cứu vớt chúng con, đang bị đọa đày bởi tham sân si, làm đau khổ, nguyện cho chúng con được an vui và được đại Niết bàn; nguyện xin lấy nước đại bi tẩy trừ tội lỗi cho chúng con được thanh tịnh mau chứng quả bồ đề. Bốn loài chúng sanh trong sáu đường, nếu có một chúng sanh nào mắc phải tội lỗi, đều được nhờ Tam bảo mà thanh tịnh; đều được thành tựu quả vô thượng bồ đề, thành bậc chánh giác, hoàn toàn giải thoát.

Ðại chúng cùng nhau một lòng tha thiết, đầu thành đảnh lễ, tâm niệm miệng nói lời nầy:

Ðệ tử chúng con tên . . .  từ vô thỉ trở lại cho đến ngày nay, bị vô minh che lấp tâm tánh, bị ái nhiễm ràng buộc, nên tinh thần sa vào lưới ngu si, loanh quanh ba cõi, cùng khắp sáu đường, chìm đắm bể khổ, không có ngày ra; không thể biết được nghiệp đời trước của mình, không thể hiểu được nhơn duyên đã qua. Hoặc mình tự phá tính mạng và phá tính mạng của người. Mình tự phá phạm hạnh và phá phạm hạnh của người. Mình tự phá tịnh giới và phá tịnh giới của người.

Tội ác như vậy vô lượng vô biên, ngày nay hổ thẹn sám hối nguyện xin trừ diệt.

Ðệt tử chúng con tên . . .  lại chí thành đảnh lễ sát đất, cầu xin sám hối, những tội lỗi từ vô thỉ trở lại cho đến ngày nay, do thân khẩu ý tạo ra mười ác nghiệp.

Thân sát đạo, dâm, miệng nói láo, nói lời thêu dệt, nói lời hai lưỡi, nói lời độc ác, ý tham sân si. Mình tự làm mười điều ác dạy người làm mười điều ác, khen ngợi người làm mười điều ác. Như vậy trong một khoảnh khắc trong một niệm tâm, khởi ra bốn mươi điều ác.

Những tội như thế vô lượng vô biên, ngày nay sám hối, nguyện xin trừ diệt.

Ðệ tử chúng con tên . . .  lại chí tâm đảnh lễ sat đất, cầu xin sám hối những tội từ vô thỉ trở lại cho đến ngày nay.

Nương nơi sáu căn rồi phát ra sáu thức, chấp lấy sáu trần. Mắt đắm sắc, tai ưa tiếng, mũi trước hương, lưỡi ưa vị, thân ưa trơn láng, mịn màng, ý ưa pháp trần. Sáu căn ấy sanh ra bao nhiêu tội nghiệp, mở cửa cho tám vạn bốn ngàn trần lao. Tội ác như vậy vô lượng vô biên ngày nay sám hối nguyện xin trừ diệt.

Ðệ tử chúng con tên . . .  lại chí thành đảnh lễ, cầu xin sám hối những tội từ vô thỉ trở lại cho đến ngày nay, do thân, khẩu, ý gây ra nhiều nỗi bất bình, như chỉ biết có thân mình, không biết có thân người, chỉ biết có mình khổ, không biết có người khổ, chỉ biết có mình cầu an vui, không biết có người cầu an vui, chỉ biết có mình cầu giải thoát, không biết có người cầu giải thoát. Chỉ biết có gia đình mình, có quyến thuộc mình, không biết có gia đình người, có quyến thuộc người, chỉ biết thân mình hơi ngứa một chút, hơi đau một chút đã chịu không nổi, thế mà khi làm cho thân người khác đau thì sợ họ không đau, ít đau, không thấm thía, chỉ biết sợ khổ một chút nơi đời hiện tại mà không biết sợ khổ vô lượng kiếp nơi đời vị lai. Bởi vì làm ác chết rồi phải đọa vào địa ngục, chịu đủ thống khổ, cho đến không biết sợ khổ vô lượng trong đời ngã quỉ, trong đường súc sanh, trong đường a tu la.

Cõi người và cõi trời cũng có vô lượng thống khổ mà không tự biết, chỉ vì tâm không bình đẳng, có phân bỉ ngã, có niệm oán thân, làm cho oán thù tràn khắp lục đạo.

Những tội như vậy vô lượng vô biên, ngày nay sám hối, nguyện xin trừ diệt.

Ðệ tử chúng con tên . . .  lại chí thành đảnh lễ cầu xin sám hối những tội từ vô thỉ trở lại cho đến ngày nay do tâm điên đảo, nên thường xa lìa bạn lành (thiện tri thức) gần gũi bạn ác, trái nghịch bát chánh đạo, tu theo bát tà đạo, phi pháp nói chánh pháp, chánh pháp nói phi pháp, bất thiện nói là thiện, thiện nói là bất thiện, dựng cờ kiêu mạn, giăng buồm ngu si, theo dòng vô minh vào biển sanh tử.

Những tội như vậy vô lượng vô biên ngày nay sám hối nguyện xin trừ diệt.

Ðệ tử chúng con tên . . .  lại chí thành đảnh lễ cầu xin sám hối những tội từ vô thỉ trở lại cho đến ngày nay vì tham sân si khởi ra bốn điên đảo ([24]) tạo nên năm tội nghịch làm đủ mười ác, ba độc hừng hẫy, tám khổ càng nhiều, gieo giống địa ngục bát hàn, bát nhiệt; gieo giống 84.000 ngăn cách địa ngục, gieo giống súc sanh, gieo giống ngã quỷ, gieo giống sanh già bệnh chết, ư bi khổ não ở cõi trời cõi người để chịu quả báo đau khổ, không thể kể xiết, không thể chịu được, không thể thấy được, không thể nghe được.

Những tội ác như vậy, vô lượng vô biên, bgày nay sám hối, nguyện xin trừ diệt.

Ðệ tử chúng con tên . . .  lại chí thành đảnh lễ cầu xin sám hối những tội từ vô thỉ kiếp trở lại cho đến ngày nay, vì ba độc tham sân si ở trong ba cõi, trải khắp hai mươi lăm loài ([25]) khởi ra các tội ác, cùng khắp mọi nơi, thuận chiều gió nghiệp mà . . .  không tự biết. Hoặc chướng ngại người trì giới, tu định, tu huệ, tu các công đức, tu các thần thông. Những tội chướng như vậy vô lượng vô biên, chướng bồ đề tâm, chướng bồ đề nguyện, chướng bồ đề hạnh, ngày nay sám hối nguyện xin trừ diệt.

Ðệ tử chúng con tên . . .  lại chí thành đảnh lễ cầu xin sám hối những tội từ vô thỉ kiếp trở lại cho đến ngày nay, vì tâm tham sân si, phát khởi ra sáu thức ([26]), duyên theo sáu trần ([27]), gây tội cho chúng sanh. Hoặc đối với chúng sanh mà khởi tội; hoặc đối với phi chúng sanh mà khởi tội, hoặc đối với người vô lậu ([28]) mà khởi tội, hoặc đối với pháp vô lậu ([29]) mà khởi tội.

Những tội ác như vậy vô lượng vô biên, ngày nay sám hối nguyện xin trừ diệt.

Lại nữa, chúng con vì tâm ngu si mà khởi hạnh điên đảo, tin theo thầy tà, thọ lời tà giáo, chấp đoạn ([30]) chấp thường ([31]) trước ngã ([32]), trước kiến ([33]) làm theo si mê, khởi ra vô lượng tội lỗi.

Những nhơn duyên ấy chướng bồ đề tâm, chướng bồ đề nguyện, chướng bồ đề hạnh, ngày nay sám hối nguyện xin trừ diệt.

Ðệ tử chúng con tên . . .  lại chí thành đảnh lễ cầu xin sám hối những tội từ vô thỉ kiếp trở lại cho đến ngày nay, thân ba nghiệp ác, miệng bốn nghiệp ác, ý ba nghiệp ác, vô thỉ vô minh trú địa phiền não, hằng sa thượng phiền não , chỉ thượng phiền não, quán thượng phiền não, tứ trú địa phiền não, tam độc ([34]), tứ thủ ([35]), ngũ cái ([36]), lục thọ ([37]), thất lậu ([38]), bát cấu ([39]), cửu kiết ([40]), thập sử ([41]). Những phiền não ấy vô lượng vô biên, hay chướng bồ đề tâm, hay chướng bồ đề nguyện, hay chướng bồ đề hạnh, ngày nay sám hối, nguyện xin trừ diệt. Ðệ từ chúng con tên . . .  lại chí thành đảnh lễ cầu xin sám hối những tội từ vô thỉ kiếp trở lại cho đến ngày nay, không hay tu tâm từ bi, không hay tu tâm hỷ xả, không hay tu tâm bố thí, không hay tu tâm trì giới, không hay tu tâm nhẫn nhục, không hay tu tâm tinh tấn, không hay tu tâm thiến định, không hay tu tâm trí huệ, không hay tu hết thảy pháp, trợ bồ đề.

Vì thế nên không có phương tiện, không có trí huệ, làm chướng ngại bồ đề tâm, chướng ngại bồ đề nguyện, chướng ngại bồ đề hạnh, ngày nay sám hối, nguyện xin trừ diệt.

Ðệt tử chúng con tên . . .  lại chí thành đảnh lễ cầu xin sám hối những tội từ vô thỉ kiếp cho đến ngày nay, vì tội nghiệp nên cứ xoay vừng trong ba cõi, trải khắp sáu đường, thọ thân bốn loài, hoặc nam hoặc nữ, hoặc phi nam phi nữ, cùng khắp mọi nơi tạo vô lượng tội. Hoặc làm chúng sanh thân hình to lớn ăn nuốt lẫn nhau; hoặc làm chúng sanh thân hình bé nhỏ ăn nuốt lẫn nhau. Những tội sát hại như vậy vô lượng vô biên hay chướng bồ đề tâm, hay chướng bồ đề nguyện, hay chướng bồ đề hạnh. Ngày nay sám hối nguyện xin trừ diệt.

Ðệ tử chúng con tên . . .  lại chí thành đảnh lễ cầu xin sám hối những tội từ khi có tâm thức trở lại cho đến ngày nay, ở trong sáu đường, thọ thân bốn loài. Ở trong bốn loài ấy tạo ra vô lượng vô biên tội ác.

Những tội ác như vậy, chỉ có hết thảy chi Phật chư đại Bồ tát trong mười phương mới thấy hết biết hết. Tội lượng nhiều ít hoặc khinh hoặc trọng như chư Phật và Bồ tát đã thấy đã biết. Ngày nay chí thành, cúi đầu đảnh lễ, hổ thẹn cầu xin sám hối.

Những tội đã làm, nguyện tiêu diệt hết, những tội chưa làm, không dám phạm.

Ngày nay chúng con nguyện xin hết thảy chư Phật trong mười phương dủ lòng đại từ cho đệ tử chúng con tên . . .  thành tâm sám hối, nguyện xin đem nước đại bi rửa sạch tội lỗi sai lầm cho chúng con được hoàn toan thanh tịnh, thẳng đến đạo tràng không bị chướng ngại nữa.

Lại nguyện xin hết thảy mười phương chư Phật dùng bất tư nghị lực, bổn thệ nguyện lực, độ thoát chúng sanh lực, phù hộ chúng sanh lực, khiến đệ tử tên . . .  ngày nay khởi thệ nguyện, phát tâm bồ đề.

Từ nay trở đi cho đến ngày thành Phật kiến lập đạo tâm được kiên cố, hoàn toàn không trở lại sa đọa nữa.

Những lời thệ nguyện của chúng con cũng đồng như lời thệ nguyện của chư Phật, chư đại Bồ tát đã thật hành thệ nguyện. Nguyện xin hết thảy mười phương chu Phật, chư đại Bồ tát đồng dủ lòng từ bi, đồng gia tâm nhiếp thọ cho chúng con tên . . .  được như sở nguyện, mãn bồ đề nguyện. Hết thảy chúng sanh cũng đều được như sở nguyện, mãn bồ đề nguyện.

 

Cuối Quyển Nhất

Lương-Hoàng-Bảo-Sám, Võ-Đế lưu nhơn, Hy Thị phu nhân đọa xà thân, cứu bạt xuất pháp tân, thể tập kinh văn, khể thủ lễ Năng Nhân.

Lương-Hoàng-Bảo-Sám vạn đức hồng danh, Linh văn nhất quyển tối hoằng thâm tự tự miễn tai truân, đảnh lễ Phật danh, tiêu tai bảo an ninh.

Nam mô Hoan Hỷ Địa Bồ Tát Ma Ha Tát.(3 lần)

CUNG VĂN:

Thiên thượng nhân gian Chánh Biến Tri Giác, quang siêu nhật nguyệt, đức việt thái hư, vô khứ vô lai, ẩn ẩn thường cư hoa tạng giới. Bất sanh bất diệt, nguy nguy tọa đọan Niết bàn thành. Ứng vật hiện hình, tùy cơ phó cảm, nhược hồng chung chi đại khẩu, tợ không cốc dĩ truyền thanh. Nguyện thùy vô cực chi đại bi, giám thử nhất thời chi Phật sự.

Thượng lai phụng vì cầu sám đệ tử ……. Đẳng, tu sùng từ bi Đạo-Tràng Sám-Pháp, kim đương đệ nhất quyển, công đức khắc hài viên mãn ư nội, tu thiết đàn tràng, phô thư cảm tượng; đăng nhiên hỏa thọ, hương phún trầm đàn, tán ngũ sắc chi danh hoa, hiến thời tân chi diệu quả. Ca dương phạm bối, xưng tán hồng danh, hành đạo nhập thiền, phúng kinh trì chú, sở tập công đức, chuyên thân hồi hướng; Thường Trú Chơn Từ Tam đảo hội hạ, Hộ pháp chư thiên, thượng trung hạ giới thần kỳ, viễn cận vô biên linh huống. Phổ Hiềm giám thử công đức, hàm sanh hoan hỷ chi tâm, lưu ân trạch ư thiên thượng nhơn gian. Tuyên hóa nhật ư thử phương tha giới; viên mãn đạo tràng, xuất sanh thù lợi.

Thiết niệm kim thời cầu sám đệ tử ……. Đẳng, sám thích tội khiên, nghinh tường tập phước, cầu sanh Tịnh độ.

PHỤC NGUYỆN:

Nhất sanh tội cấu băng tiêu, nhất thế nghiệp duyên tuyết tịnh, nhất tâm giải ngộ, hướng nhất lý chi Chơn-Như. Nhất niệm hồi quang, tháo nhất thừa chi Diệu-đạo. Chuyển khổ duyên nhi thành lạc cụ, sái nhiệt não dĩ tác thanh-lương; tổ nể tôn thân, quyết định vãng sanh ư Tịnh Độ. Hiệp môn nhơn quyến, phương đương vĩnh hưởng ư hà-linh; đẳng oan thân nhi cọng mộc ân ba, dự phàm thánh nhi đồng tê Bảo Địa.

Kim tắc ý văn sám hối, do khủng vi tế tội nghiệp nan đào, tái lao tôn chúng đồng cầu sám hối.
Nam mô Sám Hối Sư Bồ Tát Ma Ha Tát ( 3 lần)

(nếu có sớ hay biểu thi hỏa hóa)

Lương-Hoàng-Bảo-Sám nhất quyển công đức lực, nguyện diệt đệ tử ……… đẳng nhất thiết tội chướng, thân chứng Bồ Tát Hoan Hỷ Địa.

Sám văn cử xứ tội hoa phi,
Giải liễu oan sám liễu tội,
Tiêu tai tăng phước huệ,
Thoát khổ sanh Đao-lợi.
Giải liễu oan sám liễu tội,
Tiêu-diêu trực nhập Long-Hoa-Hội,
Long-Hoa Tam Hội nguyện tương phùng,
Di-Lặc Phật tiền thân thọ ký.

Nam mô Long Hoa Hội Bồ Tát Ma Ha Tát (3 lần)

Hội đàn tán:

Lương-Hoàng-Bảo-Sám
Nhất quyển dĩ toàn châu,
Hồi hướng tứ ân tịnh Tam hữu,
Bái sám chúng đẳng tăng phước thọ,
Nguyện tương pháp thủy tẩy khiên vưu
Duy nguyện vong giả vãng Tây du.
Hoan Hỷ Địa Bồ Tát duy nguyện ai nạp thọ.

Nam mô Đăng Vân Lộ Bồ Tát Ma Ha Tát (3 lần)

Ma Ha Bát Nhã Ba La Mật Đa Tâm Kinh…..

(tiếp tịnh độ và hồi hướng)

****

CẢM RƠI NƯỚC MẮT

Vào khoảng tháng 10 năm 1961, bộ Lương-Hoàng-Sám dịch nghĩa này về đến HUẾ, các Phật-tử cố-đô hân hoan đón mừng như rước ngọc Xá-lợi của chư Phật. Thượng-tọa, Tọa-chủ chùa Châu-Lâm Huế cùng hơn 60 Phật-tử tại gia lập đàn bái sám tại chùa Ngài. Trong lúc đang tụng, bỗng nhiên mọi người trong đạo tràng lớn tiếng khóc òa, vì không ngăn được nổi lòng rung cảm. Đọc đến những đoạn văn diễn-tả nỗi thăng-trầm của chúng sanh chìm đắm vào ra trong lục đạo , chịu đủ khổ não với kiếp luân-hồi mà bi tâm xúc động. Khi nghĩ đến bản thân mình, và bà con xa gần trong pháp giới 10 phương đang chịu đọa đày hình phạt, hoặc cảm xúc vì lời Phật dạy thiết tha với giáo lý thâm huyền mà cả đạo tràng không ngăn được giòng lệ.

Sau khi đạo tràng hoàn mãn, các Phật tử cung thỉnh Thượng-tọa chứng minh cho họ lập “Ban Lương-Hoàng-Sám” để cùng nhau kết bạn tu hành. Thường năm đến ngày an-cư kiết-hạ của chư Tăng, hay lúc nào cần bái-sám thì cùng nhau về chùa Châu-Lâm lập đàn-tràng tụng niệm.

Đạo hữu PHẠM ĐĂNG TÙNG tường thuật

QUYỂN THỨ NHỨT  

— HẾT —

 

CHÚ THÍCH 

[1] Tăng thượng mạn: Chưa chứng quả Thánh mà lầm tưởng là đã chứng quả Thánh.

[2] Chỗ sở đắc: Chấp lấy chỗ mình đã chứng, đã ngộ, đã hiểu biết, đã làm xong.

[3] Tà kiến: Nhận thức sai lầm ta vạy; không tin tội phước, không tin nhơn quả, không tin luân hồi v.v…

[4] Tiểu thừa: Cỗ xe nhỏ: có ý chỉ cho giáo lý thấp kém của người trí thức còn kém tu theo giáo lý nầy chỉ trừ ngã chấp, không trừ được Pháp chấp, chỉ chứng đến quả A la hán là cùng. Chỉ độ cho mình, không độ cho người, Như cỗ xe nhỏ chỉ chở một người, đi không xa, chở không nhiều, dằn dẹp không được những đá to lớn, chỉ ép cát sạn thôi.

[5] Ðại thừa: Cỗ xe lớn: Chỉ cho giáo lý cao siêu vi diệu, trừ hết Ngã và Pháp chứng đến quả Phật, độ hết chúng sanh. Như cỗ xe lớn, chở nhiều người đi xa, dằn dẹp hết các đá lớn, đá nhỏ.

[6] Sáu đường hay lục đạo:

1.- Ðịa ngục,

2.- Ngã quỉ;

3.- Súc sanh,

4.- A tu la,

5.- Người,

6.- Trời;

6 loài này cứ loanh quanh trong vòng luân hồi, lên xuống, ra vào, mãi bị sanh tử.

[7] Tứ nhiếp pháp: Bốn phương pháp dùng thâu nhiếp chúng sanh:

1.- Bố thí,

2.- Ái ngữ,

3.- Lợi hành

4.- Ðồng sự.

8 Tứ sanh: 4 loài chúng sanh

[9]  Bát bộ: Tám bộ:

1.- Thiên: Các vị trời.

2.- Long: Các vị rồng.

3.- Dạ xoa: Quỉ thần bay trên hư không

4.- Càn thát bà: Thần đánh nhạc trời, chỉ sống với mùi hương thơm

5.- A tu la: Quỉ thần gần như các vị trời mà không phải trời, vì không có đức độ mà ưa    tranh đấu.

6.- Ca lầu la: Loài kim sí điểu (chim cánh vàng).

7.- Khẩn na la: Thần âm nhạc múa hát của Ðế Thích.

8.- Ma hầu la dà: Thần rắn mãng xà.

Tám bộ nầy thường ủng hộ Phật pháp.

[10] Vô minh: Không sáng: Tức là món căn bản phiền não, đến địa vị Phật mới hết.

[11] Tu đa la: Tàu dịch là Khế Kinh: lời Phật dạy hợp lý, hợp tình nên gọi là Khế Khinh.

[12] Ðại địa Bồ tát: Bồ tát đông vô số.

[13] Vô trước tứ Sa môn: Các vị tu đã hoàn đến A la hán. 4 thánh quả của tiểu thừa.

[14] Hết nghiệp Hữu lậu: Không còn một giống sanh tử, hành động cũng không còn lọt vào    sanh tử nữa.

[15] Cảm ứng tương sanh: Cảm ứng sanh nhau. Nhơn thành quả, quả lại sanh nhơn, không bao giờ cùng.

[16] Hạnh nghiệp: Nghiệp lành nghiệp dữ đã làm ra.

[17] Phấn tảo: Áo do nhiều miếng vải cũ rách người ta bỏ, lượm giặt sạch, may lại mà bận, tu khổ hạnh đầu đà hay mặc áo nầy.

[18] Tứ vô lượng tâm: Từ bi, hỷ xả.

[19] Lục Ba la mật: Tàu dịch là Lục độ: sáu pháp tu để đến bờ giải thoát bên kia.

1.- Bố thí,

2.- Trì giới,

3.- Nhẫn nhục,

4.- Tinh tấn,

5.- Thiền định,

6.- Trí huệ.

[20] Tứ vô ngại trí: Cũng gọi trí Vô ngại biện. – Bốn trí vô ngại của Phật:

1.- Pháp vô ngại: Thông hiểu giáp pháp nên nói cách vô ngại.

2.- Ngĩa vô ngại: Thông hiểu nghĩa lý cao siêu nói cách vô ngại.

3.- Từ vô ngại: Thông suốt ngôn từ của tất cả chúng sanh nên nói cách vô ngại.

4.- Lạc thuyết vô ngại: Hoan hỷ nói pháp cách vô ngại.

[21] Lục thông: Sáu phép thần thông:

1.- Thiên nhãn thông: Mắt thấy thông suốt như mắt các vị trời, không có gì trở ngại, thế giới như vi trần cũng thấy hết.

2.- Thiên nhĩ thông: Tai nghe cách thông suốt, không có gì trở ngại.

3.- Túc mạng thông: Rõ biết các kiếp trước của mình và của c`húng sanh không có gì trở  ngại.

4.- Tha tâm thông: Rõ biết được tâm chúng sanh, không có gì trở ngại.

5.- Thần thông túc: Bay đi khắp vô số thế giới không có gì trở ngại.

6.- Lậu tận thông: Tất cả phiền não đều sạch hết, không có gì trở ngại.

[22] Bốn thú: hay 4 ác thú: Tức 4 đường ác: Ðịa ngục, ngã quỉ, súc sanh, a tu la.

[23] Năm tội ngịch: Giết cha, giết mẹ, giết A la hán, phá hóa hiệp của chúng Tăng, làm cho thân Phật ra máu (phá chùa, phá pháp, phá tượng v.v…)

[24] Bốn điên đảo: 4 lối chấp đối các pháp sanh tử là vô thường, là khổ, là vô ngã, bất tịnh mà phàm phu lại cho là thường, là vui là ngã, là tịnh.

Còn đối với cảnh Niết bàn là thường, vui, ngã, tịnh; hàng Tiểu thừa cho là vô thường, không vui, vô ngã, bất tịnh.

Ðoạn hữu vi, chứng vô vi là Nhị thừa. Ðoạn cả hữu vi, cả vô vi là Bồ tát.

[25] 25 loài: Cũng gọi là 25 cõi. Nói hẹp thì có 3 cõi, 9 cõi; nói rộng là 25 loài, 4 châu, 4 ác thú và 6 cõi Trời Dục giới là 14 loài. Cộng với Sắc giới 4 cõi thiền thiên và cõi Trời Phạm thiên, cõi trời Vô tưởng  và cõi trời Ngũ tịnh cư là 21. Cộng với 4 cõi trời không thiên của Vô sắc giới là 25.

Phạm thiên, Vô tưởng và Tịnh cư đều ở trong cõi Sắc giới tứ thiền. Ngoại đạo chấp Phạm thiên sanh ra vạn vật; Vô tưởng thì chấp là Niết bàn, Tịnh cư cho là chơn giải thoát. – Vì ngoại đạo vọng chấp như thế nên kể riêng ra cho biết đó là tà chấp.

[26] Sáu thức: Sáu cái biết của tai, mắt, mũi, thân và ý.

[27] Sáu trần: Sáu cảnh đối sáu thức: tiếng, sắc, hương, vị, xúc, pháp.

[28] Người Vô lậu: Người đã chứng quả, không còn sanh tử nữa.

[29] Pháp Vô lậu: Pháp thanh tịnh giải thoát, không phải pháp sanh tử hữu lậu.

[30] Chấp đoạn: chết là hết.

[31] Chấp thường: Chấp còn mãi không thay đổi, sau khi chết, không luân hồi.

[32] Trước ngã: Chấp ta, chấp thân ta, ta khác với người ta chứng quả v.v…

[33] Trước kiến: Chấp lấy sự hiểu biết riêng của mình theo  năm món tà kiến, thân kiến, biên kiến, tà kiến, kiến thủ và giới cấm thủ, tộng ra cho đến 62 kiến.

[34] Tam độc: 1- Tham: đối với cảnh thuận ham muốn không nhàm; 2- Sân: đối với cảnh nghịch sanh ngụy, lòng giận giữ; 3- Si: si mê, không biện biệt được chơn. Ba món này hay phá hoại thiện tâm xuất thế nên gọi là tam độc.

[35] Tứ thủ: 1- Dục thủ: sự tham muốn chấp trước cảnh ngũ trần ở cõi Dục; 2- Kiền thủ: đối với thân ngũ ấm này vọng chấp cho là thật (thân kiến), hoặc chấp đoạn, chấp thường (biên kiến); 3- Giới thủ: giữ những giới pháp sai lầm; 4- Ngã ngữ thủ; tùy theo ngôn ngữ giả thuyết khởi ra chấp ngã, theo chỗ chấp đó mà cố giữ lấy.

[36] Ngũ cái: 1- Tham dục cái; 2- Sân nhuế cái; 3- Thùy miên cái: tâm hôn trầm không làm chi được; 4- Trạo hối cái: trong tâm có sự ăn năn xao động; 5- Nghi cái: đối với việc gì cũng mờ ám, không biện biệt được chơn ngụy, tâm du dự không quyết đoán.

[37] Lục thọ: Chỉ cho sự thọ lãnh của sáu căn đối sáu trần.

[38] Thất lậu: 1- Kiến lậu; mắt trông thấy sắc không rõ sắc với tánh là bình đẳng cứ đắm vào phần sắc tướng mà sanh tâm phân biệt, nhận cảnh tốt xấu mà sanh tâm yêu ghét. 2- Chư căn lậu: không những nhãn căn mà cả các căn khác cũng thế. 3- Vong lậu: quên điều lành, dong ruổi theo điều ác; 4- Ác lậu: đối với nghịch cảnh sanh tâm ghét bỏ; 5- Thân cận lậu: không tuân lời thầy dạy, gần gũi bạn ác; 6- Ái lậu; gặp cảnh thuận thì ham mê mải miết; 7- Niệm lậu: không hiểu chân tâm vô niệm, cứ dong ruổi theo vọng niệm.

[39] Bát cấu: Cấu là dơ bẩn, đối với Tam bảo chẳng những không tín ngưỡng tán thán lại còn phỉ báng. Ấy là ba cấu ở ba nghiệp; 4- Bất hiếu với cha mẹ; 5- Không kính thờ sư trưởng; 6- Không cứu giúp kẻ bần cùng; 7- Không săn sóc người đau ốm; 8- Không thương xót chúng sinh. Ba điều trước là kính điền, hai điều kế là ân điền, ba điều sau là bi điền. 8 điều này là phước điền cả. Ðã không chăm nom ruộng phước ấy mà lại còn không cung kính, không biết ơn, không thương xót cho nên nói rằng vì tâm cấu mà tạo tất cả tội.

[40] Cửu kiết: 1- Ái kiết: say đắm cảnh ngũ dục không rời; 2- Nhuết kiết: giận giữ bất bình đối với nghịch cảnh; 3- Mạn kiết: kiêu căng ngạo nghễ; 4 Vô minh kiết: ngu si mở ám đối với lẽ chân chánh; 5- Kiến kiết: tà kiến không tin nhơn quả; 6- Thủ kiết: vọng chấp sự hiểu biết không chơn chánh và giới pháp sai lầm làm lắm điều ác. 7- Nghi kiết: dụ dự không tin chơn lý, không tu hành theo hạnh chơn chánh; 8- Tật kiết: ghen ghét những bậc hiền đức; 9- Xan kiết: keo bẩn không chịu bố thí lại làm nhiều điều ác. Chín điều này ràng buộc chúng sanh trong đường sanh tử vì nó khiến chúng sanh gây nhiều tội lỗi.

[41] Thập sử: Mười phiền não: tức là ngũ độn sử và ngũ lợi sử. Ngũ độn sử: 1- Tham dục sử; 2- Sân nhuế sử; 3- Vô minh sử; 4- Mạn sử; 5- Nghi sử, Ngũ lợi sử 1- Thân kiến sử; 2- Biên kiến sử; 3- Tà kiến sử; 4- Kiến thủ sử; 5- Giới thủ sử. Ngũ độn sử do ái trước mà có, Ngũ lợi sử do sự nhận thức sai lầm mà có. Cả hai đều gây nên phiền não.

Pages: 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10