NGHI THỨC LỄ VU LAN

 (Thắp đèn đốt hương, đứng ngay ngắn, chắp tay ngang ngực, chủ lễ mật niệm.)

CHÚ TỊNH PHÁP GIỚI
Án lam xoa ha  (3 lần)

CHÚ TỊNH TAM NGHIỆP
Án ta phạ bà phạ,
truật đà ta phạ,
đạt mạ ta phạ,
bà phạ truật độ hám. (3 lần)

(Quì ngay thẳng, cầm 3 cây hương dâng ngang trán, chủ lễ niệm)

CÚNG HƯƠNG
Nguyện đem lòng thành kính
Gởi theo đám mây hương
Phảng phất khắp mười phương
Cúng dường ngôi Tam Bảo
Thề trọn đời giữ đạo
Theo tự tánh làm lành
Cùng pháp giới chúng sanh
Cầu Phật từ gia hộ
Tâm Bồ Đề kiên cố
Xa bể khổ nguồn mê
Chóng quay về Bờ Giác  (1 tiếng chuông, xá 1 xá)

CẦU NGUYỆN
Hôm nay là ngày chư Tăng xuất hạ,
đem đức lành chú nguyện chúng sanh,
chúng con một dạ chí thành,
thiết lễ hương hoa cúng dường và trì tụng kinh chú,
xin đem công đức này, ngưỡng nguyện
Đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật,
Tiếp Dẫn Đạo Sư A Di Đà Phật,
cùng các vị Bồ Tát, tịnh đức chúng tăng
từ bi gia hộ cho hương linh phật tử …………………………
cùng tất cả chúng sanh,
sớm rõ đường lành, thoát đường mê muội,
ra khỏi u đồ, siêu thăng Lạc quốc.
Ngưỡng mong oai đức cao dầy, xót thương tiếp độ.

Nam Mô Thập Phương Thường Trú Tam Bảo tác đại chứng minh
(3 lần, 1 tiếng chuông)

KHEN NGỢI PHẬT
Đấng Pháp Vương vô thượng
Ba cõi chẳng ai bằng
Thầy dạy khắp trời, người
Cha lành chung bốn loài
Quy y tròn một niệm
Dứt sạch nghiệp ba kỳ
Xưng dương cùng tán thán
Ức kiếp không cùng tận  (1 tiếng chuông, xá 1 xá)

QUÁN TƯỞNG PHẬT
Phật, chúng sanh tánh thường rỗng lặng
Đạo cảm thông không thể nghĩ bàn
Lưới đế châu ví đạo tràng
Mười phương Phật hiện hào quang sáng ngời
Trước bảo tọa thân con ảnh hiện
Cúi đầu xin thệ nguyện quy y.  (1tiếng chuông, xá 1 xá)

ĐẢNH LỄ
Chí tâm đảnh lễ:
Nam Mô tận hư không biến pháp giới
quá, hiện, vị lai thập phương chư Phật,
Tôn Pháp Hiền Thánh Tăng thường trụ Tam Bảo. (1 tiếng chuông, lạy 1 lạy)

Chí tâm đảnh lễ:
Nam Mô Ta Bà Giáo Chủ Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật,
Đương Lai Hạ Sinh Di Lặc Tôn Phật,
Đại Trí Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát,
Đại Hạnh Phổ Hiền Bồ Tát,
Hộ Pháp Chư Tôn Bồ Tát,
Linh Sơn Hội Thượng Phật Bồ Tát. (1 tiếng chuông, lạy 1 lạy)

Chí tâm đảnh lễ:
Nam Mô Tây Phương Cực Lạc Thế Giới Đại Từ Đại Bi A Di Đà Phật,
Đại Bi Quán Thế Âm Bồ Tát,
Đại Thế Chí Bồ Tát,
Đại Nguyện Địa Tạng Vương Bồ Tát,
Thanh Tịnh Đại Hải Chúng Bồ Tát. (1 tiếng chuông, lạy 1 lạy)

TÁN HƯƠNG CÚNG PHẬT

Lư hương vừa ngún chiên đàn,
Khắp xông pháp giới, đạo tràng mười phương,
Quyện thành mây báu kiết tường,
Chư Phật rõ biết ngọn hương chí thành,
Pháp thân ảnh hiện rành rành,
Chứng minh hương nguyện, tâm thành kính dâng.

Nam Mô Hương Vân Cái Bồ Tát Ma Ha Tát.  (3 lần, 1 tiếng chuông)

CHÚ ĐẠI BI
NAM MÔ ĐẠI BI HỘI THƯỢNG PHẬT BỒ TÁT (3 lần, 1 tiếng chuông)

Thiên Thủ Thiên Nhãn Vô Ngại Đại Bi Tâm Đà La Ni.
Nam mô hắc ra đát na đa ra dạ da.
Nam mô a rị da, bà lô kiết đế thước bát ra da,
bồ đề tát đỏa bà da, ma ha tát đỏa bà da, ma ha ca lô ni ca da.
Án, tát bàn ra phạt duệ, số đát na đát tỏa.
Nam mô tất kiết lật đỏa y mông a rị da,
bà lô kiết đế thất Phật ra lăng đà bà.
Nam mô na ra cẩn trì, hê rị ma ha bàn đa sa mế,
tát bà a tha đậu thâu bằng, a thệ dựng, tát bà tát đa,
na ma bà dà, ma phạt đạt đậu, đát điệt tha.
Án a bà lô hê, lô ca đế, ca ra đế, di hê rị,
ma ha bồ đề tát đỏa, tát bà tát bà,
ma ra ma ra, ma hê ma hê rị đà dựng,
cu lô cu lô kiết mông, độ lô độ lô phạt xà da đế,
ma ha phạt xà da đế, đà ra đà ra,
địa rị ni, thất Phật ra da, dá ra dá ra.
Mạ mạ phạt ma ra, mục đế lệ, y hê di hê,
thất na thất na, a ra sâm Phật ra xá lợi,
phạt sa phạt sâm, Phật ra xá da,
hô lô hô lô ma ra, hô lô hô lô hê rị,
ta ra ta ra, tất rị tất rị, tô rô tô rô,
bồ đề dạ bồ đề dạ, bồ đà dạ bồ đà dạ,
di đế rị dạ, na ra cẩn trì, địa rị sắc ni na,
ba dạ ma na, ta bà ha.
Tất đà dạ, ta bà ha.
Ma ha tất đà dạ, ta bà ha.
Tất đà du nghệ, thất bàn ra dạ, ta bà ha.
Na ra cẩn trì, ta bà ha.
Ma ra na ra, ta bà ha.
Tất ra tăng a mục khê da, ta bà ha.
Ta bà ma ha a tất đà dạ, ta bà ha.
Dả kiết ra a tất đà dạ, ta bà ha.
Ba đà ma kiết tất đà dạ, ta bà ha.
Na ra cẩn trì bàn đà ra dạ, ta bà ha.
Ma bà lị thắng kiết ra dạ, ta bà ha.
Nam mô hắc ra đát na đa ra dạ da.
Nam mô a rị da, bà lô kiết đế, thước bàn ra dạ, ta bà ha.
Án tất điện đô, mạn đa ra, bạt đà dạ, ta bà ha. (1 tiếng chuông)

KỆ KHAI KINH
Thăm thẳm cao siêu Pháp nhiệm mầu
Trăm ngàn muôn kiếp khó tìm cầu,
Con nay nghe thấy chuyên trì niệm,
Nguyện tỏ Như Lai nghĩa nhiệm mầu.

Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật.  (3 lần, 1 tiếng chuông)

PHẬT NÓI KINH BÁO HIẾU PHỤ MẪU
Một thuở nọ, Thế Tôn an trụ
Xá Vệ thành Kỳ Thụ viên trung
Chư Tăng câu hội rất đông
Tính ra đến số hai muôn tám ngàn
Lại cũng có các hàng Bồ Tát
Hội tại đây đủ mặt thường thường.
Bây giờ, Phật lại lên đường
Cùng hàng đại chúng Nam phương tiến hành
Đến giữa đường, rành rành mắt thấy
Núi xương khô bỏ đấy lâu đời
Thế Tôn bèn vội đến nơi
Lạy liền ba lạy rồi rơi giọt hồng.
Đức A Nan tủi lòng ái ngại
Chẳng hiểu sao Phật lạy đống xương?
Vội vàng xin Phật dạy tường
Thầy là Từ Phụ ba phương bốn loài
Ai ai cũng kính thầy dường ấy
Cớ sao thầy lại lạy xương khô?
Phật rằng trong các môn đồ
Người là đệ tử đứng đầu dầy công
Bởi chưa biết đục trong cho rõ
Nên vì ngươi ta tỏ đuôi đầu:
Đống xương dồn dập bấy lâu
Cho nên trong đó biết bao cốt hài
Chắc cũng có ông bà cha mẹ
Hoặc thân ta hoặc kẻ ta sinh
Luân hồi sinh tử, tử sinh
Lục thân đời trước thi hài còn đây
Ta lễ bái kính người tiền bối
Và ngậm ngùi nhớ tới kiếp xưa
Đống xương hổn tạp chẳng vừa
Không phân trai gái bỏ bừa khó coi
Ngươi chịu khó xét soi cho kỹ
Phân làm hai, bên nữ bên nam
Để cho phân biệt cốt phàm
Không còn lộn lạo nữ nam chất chồng.
Đức A Nan trong lòng tha thiết
Biết làm sao phân biệt khỏi sai
Ngài bèn xin Phật chỉ bày
Khó lòng chọn lựa gái trai lúc này
Còn sinh tiền dễ bề sắp đặt
Cách đứng đi ăn mặc phân minh
Đến khi rã xác tiêu hình
Xương ai như nấy khó nhìn khó phân
Phật mới bảo A Nan nên biết  (1 tiếng chuông)
Xương nữ nam phân biệt rõ ràng
Đàn ông xương trắng nặng hoằng
Đàn bà xương nhẹ đen thâm dễ nhìn.
Ngươi có biết cớ chi đen nhẹ?
Bởi đàn bà sanh đẻ mà ra
Sanh con ba đấu huyết ra
Tám hộc, bốn đấu sửa hòa nuôi con
Vì cớ ấy hao mòn thân thể
Xương đàn bà đen nhẹ hơn trai.
A Nan nghe vậy bi ai
Xót thương cha mẹ công dày dưỡng sinh
Bèn cầu Phật thi ân dạy bảo
Phương pháp nào báo hiếu song thân?
Thế Tôn mới giảng ân cần  (1 tiếng chuông)
Vì ngươi ta sẽ phân trần, lắng nghe
Thân đàn bà nhiều bề cực nhọc
Sanh đặng con mười tháng cưu mang
Tháng đầu thai đậu tợ sương
Mai chiều gìn giữ sợ tan bất thường
Tháng thứ nhì dường như sửa đặc
Tháng thứ ba như cục huyết ngưng
Bốn tháng đã tượng ra hình
Năm tháng ngũ thể hiện sinh rõ ràng
Tháng thứ sáu lục căn đều đủ
Bảy tháng thì đủ bộ cốt xương
Lại thêm đủ lỗ chơn lông
Cộng chung đến số tám muôn bốn ngàn
Tháng thứ tám hoàn toàn tạng phủ
Chín tháng thì đầy đủ vóc hình
Mười tháng thì đến kỳ sinh
Nếu con hiếu thuận xuôi mình ra luôn.
Bằng ngỗ nghịch làm buồn thân mẫu
Nó vẫy vùng, đạp quấu lung tung
Làm cho cha mẹ hãi hùng
Sự đau, sự khổ không cùng tỏ phân
Khi sinh sản muôn phần an lạc
Cũng ví như được bạc được vàng.
Thế Tôn lại bảo A Nan  (1 tiếng chuông)
Ơn cha nghĩa mẹ mười phần phải tin
Điều thứ nhứt: giữ gìn thai giáo
Mười tháng trường chu đáo mọi bề.
Thứ hai: sinh sản gớm ghê
Chịu đau chịu khổ mỏi mê trăm phần.
Điều thứ ba: thâm ân nuôi dưỡng
Cực đến đâu bền vững chẳng lay.
Thứ tư: ăn đắng nuốt cay
Để dành bùi ngọt đủ đầy cho con.
Điều thứ năm: lại còn khi ngủ
Ướt mẹ nằm, khô ráo phần con.
Thứ sáu: sú nước nhai cơm
Miễn con no ấm chẳng nhờm chẳng ghê.
Điều thứ bảy: không chê ô uế
Giặt đồ dơ của trẻ không phiền.
Thứ tám: chẳng nỡ chia riêng
Nếu con đi vắng cha phiền mẹ lo.
Điều thứ chín miễn cho con sướng
Dầu phải mang nghiệp chướng cũng cam
Tính sao có lợi thì làm
Chẳng màn tội lỗi bị giam bị cầm.
Điều thứ mười: chẳng ham trao chuốt
Dành cho con các cuộc thanh nhàn
Thương con như ngọc như vàng
Ơn cha nghĩa mẹ sánh bằng Thái Sơn.
Phật lại bảo, A Nan nên biết  (1 tiếng chuông)
Trong chúng sanh tuy thiệt phẩm người
Mười phần mê muội cả mười
Không tường ơn trọng đức dầy song thân
Chẳng kính mến quên ơn trái đức
Không xót thương dưỡng dục cù lao
Ấy là bất hiếu mặc giao
Những hạng người ấy đời nào nên thân.
Mẹ sanh con cưu mang mười tháng
Cực khổ dường gánh nặng trên vai
Uống ăn chẳng đặng vì thai
Cho nên thân thể hình hài kém suy.
Khi sinh sản hiểm nguy chi xiết
Sanh đặng rồi tinh huyết dầm dề
Ví như thọc huyết trâu dê
Nhất sinh thập tử nhiều bề gian nan.
Con còn nhỏ lo toan săn sóc
Ăn đắng, cay, bùi, ngọt phần con
Phải tắm phải giặt rữa trôn
Biết rằng dơ dáy mẹ không ngại gì.
Nằm phía ướt con nằm phái ráo
Sợ cho con ướt áo, ướt chăn
Hoặc khi ghẻ chóc khắp thân
Ắt con phải chịu trăm phần thảm thương.
Trọn ba năm bú nương sửa mẹ
Thân gầy mòn nào nệ với con
Khi con vừa được lớn khôn
Cha mẹ dạy bảo cho con vỡ lòng
Con đi học mở thông trí tuệ
Dựng vợ chồng cho dễ làm ăn
Ước mong con được nên thân
Dầu cho cha mẹ cơ bần quản chi.
Con ốm đau tức thì lo chạy
Dầu tốn hao đến mấy cũng đành
Khi con căn bệnh đặng lành
Thì cha mẹ mới an thần định tâm
Công dưỡng dục sanh bằng non biển
Cớ sao con chẳng biết ơn nầy
Hoặc khi lầm lỗi bị rầy
Chẳng tuân thì chớ, lại bày ngỗ ngang.
Hỗn cha mẹ phùng mang trợn mắt
Khinh trưởng huynh, nộ nạt thê nhi
Bà con chẳng kể ra chi
Không tuân sư phụ lễ nghi chẳng tường.
Lời dạy bảo song đường không kể
Tiếng khuyên răng anh chị chẳng màng
Trái ngang chóng báng mọi đàng
Ra vào lui tới mắng càn người trên.
Vì lỗ mãng tánh quen làm bướng
Chẳng kể lời trưởng thượng dạy răn
Lớn lên theo thói hung hăng
Đã không nhẫn nhịn, lại càng làm hung.
Bỏ bạn lành, theo cùng chúng dữ
Nếu tập quen, làm sự trái ngang
Nghe lời dụ dỗ huyênh hoang
Bỏ cha bỏ mẹ trốn sang quê người.
Trước còn tập theo thời theo thế
Thân lập thân,tìm kế sinh nhai
Hoặc đi buôn bán kiếm lời
Hoặc vào quân lính với đời lập công.
Vì ràng buộc đồng công mối nợ
Hoặc trở ngăn vì vợ, vì con
Quên cha, quên mẹ tình thâm
Quê hương xứ sở lâu năm không về.
Ấy là nói những người có chí
Chớ phần nhiều du hí mà thôi
Sau khi phá hết của rồi
Phải tìm phương kế kiếm đôi đồng xài.
Theo trộm cướp, hoặc là bài bạc
Phạm tội hình, tù rạc phải vương
Hoặc khi mang bệnh giữa đường
Không người nuôi dưỡng, bỏ thân ngoài đồng.
Hay tin dữ, bà con cô bác
Cùng mẹ cha xao xác buồn rầu
Thương con than khóc ưu sầu
Có khi mang bịnh đui mù vấn vương
Hoặc bịnh nặng vì thương quá lẽ
Phải bỏ mình làm quỉ giữ hồn
Hoặc nghe con chẳng lo lường
Trà đình tửu điếm phố phường ngao du
Cứ mãi miết con đường bất chính
Chẳng mấy khi thần tỉnh mộ khan
Làm cho cha mẹ than van
Sinh con bất hiếu phải mang tiếng đời.
Hoặc cha mẹ đến hồi già yếu
Không ai nuôi thốn thiếu mọi điều
Ốm đau đói rách kêu rêu
Con không cấp dưỡng, bỏ liều chẳng thương.
Phận con gái khi nương cha mẹ
Còn có lòng hiếu để thuận hòa
Cần lao phục dịch trong nhà
Dễ sai, dễ khiến hơn là nam nhi.
Song đến lúc, tùng phu xuất giá
Lo bên chồng chẳng sá bên mình
Trước còn lai vãng đến thăm
Lần lần nguội lạnh biệt tâm biệt nhà
Quên dưỡng dục song thân ân trọng
Không nhớ công mang nặng đẻ đau
Chẳng lo báo bổ cù lao
Làm cho cha mẹ tuôn trào lệ rơi.
Nếu mẹ cha la rầy quở mắng
Trở sanh lòng hờn giận chẳng kiên
Đến khi chồng đánh liên miên
Thì cam lòng chịu chẳng phiền than.
Tội bất hiếu lưỡng ban nam nữ
Nói không cùng nghiệp dữ phải mang
Nghe Phật chỉ rõ mọi đàng
Tất cả đại chúng lòng càng thảm thay.
Gieo xuông đất, lấy cây lấy củi
Đập vào mình, vào mũi, vào hông
Làm cho các lỗ chân lông
Thảy đều rướm máu ướt dầm cả thân
Đến hôn mê tâm thần bất định
Một giây lâu mới tỉnh than rằng:
Bọn ta quả thật tôi nhân
Xưa nay chẳng rõ, không hơn người mù.
Nay tỏ ngộ biết bao lầm lạc
Ruột gan dường như nát như tan
Tội tình khó nỗi than van
Làm sao trả đặng muôn ngàn ân sâu.
Trước Phật tiền ai cầu trấn tố
Xin Thế Tôn mẫn cố bi lân
Làm sao báo đáp thâm ân
Tỏ lòng hiếu thuận song thân của mình?
Phật bèn dùng phạm thinh sáu món
Phân tỏ cùng đại chúng lóng nghe
Ân cha, nghĩa mẹ nặng nề
Không phương báo đáp cho vừa sức đâu.
Ví có người ân sâu dốc trả
Cõng mẹ cha tất cả hai vai
Giáp vòng hòn núi Tu Di
Đến trăm ngàn kiếp ân kia chưa vừa.
Ví có người gặp cơn đói rét
Nuôi song thân dâng hết thân nầy
Xương nghiền thịt nát phân thây
Trải trăm ngàn kiếp ân đây chưa đồng.
Ví có người vì công sanh dưỡng
Tự tay mình khoét thủng song ngươi
Chịu thân mù tối như vầy
Đến trăm ngàn kiếp ân nầy thấm đâu.
Ví có người cầm dao thiệt bén
Mổ bụng ra rút hết tâm can
Huyết ra khắp đất chẳng than
Đến trăm ngàn kiếp thâm ân đâu bằng.
Ví có người dùng ngàn mũi nhọn
Đâm vào mình bất luận chỗ nào
Tuy là sự khó biết bao
Trải trăm ngàn kiếp không sao đáp đền.
Ví có người vì ân dưỡng dục
Tự treo mình cúng Phật tế đèn
Cứ treo như vậy trọn năm
Trải trăm ngàn kiếp ân thâm chưa đền.
Ví có người xương nghiền ra mỡ
Hoặc dùng dao chặt bửa thân mình
Xương tan, thịt nát chẳng phiền
Đến trăm ngàn kiếp ơn trên chưa đồng.
Ví có người vì công dưỡng dục
Nuốt sắt nóng thấu ruột thấu gan
Làm cho thân thể tiêu tan
Đến trăm ngàn kiếp chưa ngang ơn nầy.
Nghe Phật nói thảy đều kinh khủng
Giọt lệ tràn khó nỗi cầm ngăn
Đồng thanh bạch với Phật rằng
Làm sao trả đặng thâm ân song đường?
Phật mới bảo các hàng Phật tử:  (1 tiếng chuông)
Phai lắng nghe ta chỉ sau nầy
Chúng ngươi muốn đáp ơn dày
Phải nên biên chép kinh đây lưu truyền.
Vì cha mẹ trì chuyên phúng tụng
Cùng ăn năn những tội lỗi xưa
Cúng dường Tam Bảo sớm trưa
Cùng là tu phước, chẳng chừa món chi.
Rằm tháng bảy là ngày Tự Tứ
Mười phương Tăng đều dự lễ nầy
Sắm sanh lễ vật đủ đầy
Chờ giờ câu hội đặt bày cúng dâng
Đặng cầu nguyên song đường trường thọ
Hoặc sanh về Tịnh Độ an nhàn
Ấy là báo đáp thù ân
Sanh thành dưỡng dục song thân của mình.
Phật tử phải cần chuyên trì giới
Pháp Tam Quy, ngũ giới giữ gìn
Những lời ta dạy đinh ninh
Phải nên vâng giữ thi hành đừng sai.
Được như vậy mới là khỏi tội
Bằng chẳng thì ngục tối phải sa
Trong năm đại tội kể ra
Bất hiếu thứ nhất, thật là trọng thay.
Sau khi chết, bị đày vào ngục
Ngũ Vô Gián cũng gọi A Tỳ
Ngục này trong núi Thiết Vi
Vách phên bằng sắt vây quanh bốn bề.
Trong ngục này hằng ngày lửa cháy
Đốt tội nhân hết thảy thành than
Có lò nấu sắt cho tan
Rót vào trong miệng tội nhân hành hình.
Một vá đủ cho người thọ khổ
Lột thịt da đau thấu tâm can
Lại còn chó sắt cắn ngang
Phun ra khói lửa đốt đoàn tội nhân.
Ở trong ngục có giường bằng sắt
Bắt tội nhân nằm khắp đó xong
Rồi cho một ngọn lửa hồng
Nướng quay chúng nó da phồng thịt thau.
Móc bằng sắt thương đao gươm giáo
Trên không trung đổ xuống như mưa
Gặp ai chém náy chẳng chừa
Làm cho thân thể như dưa chín muồi.
Những hình phạt vô phương kể hết
Mỗi ngục đều có cách trị riêng
Như là xe sắt phân thây
Chim ưng mổ bụng trâu cày lưỡi le.
Nếu chết được, chết liền cho đở
Vì nghiệp duyên không nỡ hành thân
Ngày đêm sống chết muôn lần
Đến trăm ngàn kiếp không ngừng một giây.
Sự hành phạt tại A Tỳ ngục
Rất nặng nề ngỗ nghịch song thân
Chúng ngươi đều phải ân cần
Thừa hành lời dạy, phân trần ở trên.
Nhứt là phải kinh này biên chép
Truyền bá ra cho khắp Đông Tây
Như ai chép một quyển này
Cũng bằng đặng thấy một vì Thế Tôn.
Nếu in đặng nghìn muôn quyển ấy
Thì cũng bằng thấy Phật vạn thiên
Tùy theo phước báo lưu truyền
Chư Phật ủng hộ sở nguyền viên dung.
Cha mẹ đặng xa miền khốc lãnh
Lại hóa sanh về cảnh thiên cung
Nghe lời Phật giảng vừa xong
Khắp trong tứ chúng một lòng kính vâng.
Lại phát nguyện dù thân này nát
Ra bụi tro muôn kiếp chẳng nài
Dầu cho kéo lưỡi trân cày
Đến trăm ngàn kiếp lời thầy không quên.
Ví như bị trăm ngàn dao mác
Khắp thân này bằm nát như tương
Trải trăm ngàn kiếp khôn lường
Chúng con gìn giữ như phương thuốc mầu.
Đức A Nan âu sầu đảnh lễ
Cầu Thế Tôn đặt để hiệu kinh
Dễ bề truyền bá chúng sanh
Chuyên trì phúng tụng tu hành mai sau.
Phật mới bảo A Nan nên biết:
Quyển kinh này quả thật cao xa
Đặt tên “BÁO HIẾU MẸ CHA”
Cùng là “ÂN TRỌNG” thật là chơn kinh
Các người phải giữ gìn châu đáo
Để đời sau, y giáo phụng hành.
Sau khi, Phật dạy đành rành
Bốn hàng Phật tử tâm thành vui theo.
Cùng một lòng vâng lời Phật dạy
Và kính thành tin chắc vẹn truyền
Đồng nhau tựu lại Phật tiền
Nhất tâm đảnh lễ rồi liền lui ra.

Nam Mô Đại Hiếu Mục Kiền Liên Bồ Tát Ma Ha Tát  (3 lần, 1 tiếng chuông)

PHẬT NÓI KINH VU LAN BỒN
Một thuở nọ Thế Tôn an trụ
Xá Vệ thành Kỳ Thụ viên trung
Mục Liên mới đặng sáu thông
Muốn cho cha mẹ khỏi vòng trầm luân.
Công dưỡng dục thâm ân dốc trả
Nghĩa sanh thành đạo cả mong đền
Làm con hiếu hạnh vi tiên
Bèn dùng huệ nhãn dưới trên kiếm tìm.
Thấy vong mẫu sanh làm ngạ quỉ
Không uống ăn tiều tụy hình hài
Mục liên thấy vậy bi ai
Biết me đói khát ai hoài tình thâm.
Lo phẩm vật đem dâng từ mẫu
Đặng đở lòng cực khổ bấy lâu
Thấy cơm mẹ rất lo âu
Tay tả che đậy, hữu hầu bốc ăn.
Lòng bỏn xẻn tiền căn chưa dứt
Sợ chúng ma cướp giật của bà
Cơm chưa đưa đến miệng đà
Hóa thành lửa đỏ, nuốt mà được đâu.
Thấy như vậy âu sầu thê thảm
Mục Kiền Liên bi thảm xót thương
Mau mau về chốn giảng đường
Bạch cùng sư phụ tìm phương giải nàn.
Phật mới bảo rõ ràng căn cội  (1 tiếng chuông)
Rằng mẹ ngươi gốc tội kết sâu
Dầu ngươi thần lực nhiệm mầu
Một mình không thể khấn cầu được đâu.
Lòng hiếu thảo của ngươi dầu lớn
Tiếng vang đồn thấu đến Cữu Thiên
Cùng là các bậc Thần kỳ
Tà ma ngoại đạo, bốn vì Thiên Vương
Cộng Ba cõi sáu phương tụ tập
Cũng không phương cứu tế mẹ ngươi
Muốn cho cứu được mạng người
Phải nhờ thần lực của mười phương Tăng.
Pháp cứu tế ta toan giảng nói
Cho mọi người thoát khỏi ách nàn
Bèn kêu Mục thị đến gần
Truyền cho diệu pháp ân cần thích thi:
Rằm tháng Bảy là ngày Tự Tứ  (1 tiếng chuông)
Mười phương Tăng đều dự lễ này
Phải toan sắm sửa chớ chầy
Thức ăn trăm món, trái cây năm màu.
Lại phải sắm giường nằm nệm lót
Cùng thau, bồn, đèn đuốc, nhang, dầu
Món ăn trong sạch báu mầu
Đựng trong bình bát vọng cầu kính dâng.
Chư Đại Đức mười phương thọ thực
Trong bảy đời sẽ được siêu thăng
Lại thêm cha mẹ hiện tiền
Đặng nhờ phước lực tiêu khiên ách nàn.
Vì ngày ấy Thánh Tăng đều đủ
Dầu ở đâu cũng tụ hội về
Như người thiền định sơn khê
Tránh điều phiền não chăm về thiền na
Hoặc người đặng bốn tòa đạo quả
Công tu hành nguyện thỏa vô sanh
Hoặc người thọ hạ kinh hành
Chẳng ham quyền quý ẩn danh lâm tòng
Hoặc người được lục thông tấn phát
Và những hàng Duyên Giác, Thinh Văn
Hoặc chư Bồ Tát mười phương
Hiện hình làm sãi ở gần chúng sanh
Đều trì giới rất thanh, rất tịnh
Đạo đức dày chánh định chơn tâm
Tất cả các bực Thánh, Phàm
Đồng lòng thọ lãnh bát cơm lục hòa
Người nào có sắm ra vật thực
Để cúng dường Tự Tứ Tăng thời
Hiện tiền phụ mẫu của ngươi
Bà con quyến thuộc thảy đều nhờ ơn.
Tam đồ khổ chắc rằng ra khỏi
Cảnh thanh nhàn hưởng thọ tự nhiên.
Như còn cha mẹ hiện tiền
Nhờ đó cũng được bá niên thọ trường.
Như cha mẹ bảy đời quá vãng
Sẽ hóa sanh về cõi thiên cung
Người thời tuấn tú hình dung
Hào quang chiếu sáng khắp cùng châu thân.
Phật dạy bảo mười phương Tăng chúng
Phải tuân theo thể thức sau nầy  (1 tiếng chuông)
Trước khi thọ thực đàn chay
Phải cầu chú nguyện cho người tín gia
Cầu thất thế mẹ cha thí chủ
Định tâm thần quán đủ đừng quên
Cho xong định ý hành thiền
Mới dùng phẩm vật đàn tiền hiếb dưng
Khi thọ dụng, nên an vật thực
Trước Phật đài hoặc tự tháp trung
Chư Tăng chú nguyện viên dung
Sau rồi tự tiện thọ dùng bữa trưa
Pháp cứu tế Phật vừa nói dứt
Mục Liên cùng Bồ Tát chư Tăng
Đồng nhau tỏ dạ vui mừng
Mục Liên cũng hết khóc thương buồn rầu
Mục Liên mẫu cũng trong ngày ấy
Kiếp khổ về ngạ quĩ được tan.
Mục Liên bạch với Phật rằng:  (1 tiếng chuông)
Mẹ con nhờ sức Thánh Tăng khỏi nàn
Lại cũng nhờ oai thần Tam Bảo
Nếu không thời nạn khổ khó ra
Như sau Phật tử xuất gia
Vu Lan Bồn pháp dùng mà độ sanh
Độ cha mẹ còn đương tại thế
Hoặc bảy đời có thể được không?
Phật rằng: Lời hỏi rất thông
Ta vừa muốn nói, ngươi liền hỏi theo.
Thiện nam tử, Tỳ Kheo nam nữ
Cùng Quốc Vương, Thái Tử, Đại Thần
Tam Công, Tể Tướng, Bá Quan
Cùng hàng lê thứ vạn dân cõi trần
Như chí muốn đền ơn cha mẹ
Hiện tại cùng thất thế tình thâm
Đến rằm tháng Bảy mỗi năm
Sau khi kiết hạ, chư Tăng tựu về
Chính ngày ấy Phật Đà hoan hỷ
Phải sắm sanh bá vị cơm canh
Đựng trong bình bát tinh anh
Chờ giờ Tự Tứ, chúng Tăng cúng dường
Đặng cầu nguyện song đường trường thọ
Chẳng ốm đau cũng chẳng khổ chi
Cùng cầu thất thế đồng thời
Lìa nơi ngạ quỉ, sanh về nhơn, thiên
Đặng hưởng phước nhân duyên vui đẹp
Lại xa lìa nạn khổ cực thân
Môn sanh Phật tử ân cần
Hạnh tu hiếu thuận phải cần phải chuyên
Thường cầu nguyện thung huyên an hảo
Cùng bảy đời phụ mẫu siêu sanh
Ngày rằm tháng bảy mỗi năm
Vì lòng hiếu thảo ân thâm phải đền.
Lễ cứu tế chí thành sắp đặt
Ngõ cúng dường chư Phật chư Tăng
Ấy là báo đáp thù ân
Sanh thành dưỡng dục song thân buổi đầu.
Đệ tử Phật lo âu gìn giữ
Mới phải là Thích tử Thiền môn.
Vừa nghe dứt pháp Lan Bồn
Môn sanh tứ chúng thảy đồng hỷ hoan
Mục Liên với bốn ban Phật tử
Nguyện một lòng tín sự phụng hành.  (1 tiếng chuông)

KHEN NGỢI ĐỨC MỤC KIỀN LIÊN
Mục Liên Tôn Giả
Thay Phật tuyên hành
Gậy vàng vừa gõ
Cửa ngục băng thanh
Tội nhơn giải thoát
Tịnh Độ hóa sinh
Phúc huệ mãi an lành.

Nam Mô Đại Hiếu Mục Kiền Liên Bồ Tát Ma Ha Tát  (3 lần, 1 tiếng chuông)

KINH BÁT NHÃ BA LA MẬT ĐA
Khi Ngài Quán Tự Tại Bồ Tát thực hành sâu xa pháp Bát Nhã Ba La Mật Đa, Ngài soi thấy năm uẩn đều không, qua hết thảy khổ ách.
“Này Ông Xá Lợi Phất, sắc chẳng khác không, không chẳng khác sắc, sắc tức là không, không tức là sắc. Thọ, Tưởng, Hành, Thức cũng đều như thế”.
“Này Ông Xá Lợi Phất, ‘tướng không của mọi pháp’ không sanh, không diệt, không dơ, không sạch, không thêm, không bớt, nên trong ‘chân không’, không có sắc, không có thọ, tưởng, hành, thức, không có mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý, không có sắc, thinh, hương, vị, xúc, pháp, không có nhãn giới, cho đến không có ý thức giới, không có vô minh, cũng không có cái hết vô minh, cho đến không có già chết, cũng không có cái hết già chết, không có khổ, tập, diệt, đạo, không có trí huệ, cũng không có chứng đắc.
Vì không có chỗ chứng đắc, nên Bồ Tát y theo Bát Nhã Ba La Mật Đa, tâm không ngăn ngại. Vì không ngăn ngại, nên không sợ hãi, xa hẳn điên đảo, mộng tưởng, đạt tới cứu cánh Niết Bàn.
Chư Phật trong ba đời cũng y theo Bát Nhã Ba La Mật Đa, được đạo quả vô thượng chánh đẳng chánh giác.
Nên biết Bát Nhã Ba La Mật Đa là Đại Thần Chú, là Đại Minh Chú, là Vô Thuợng Chú, là Vô Đẳng Đẳng Chú, trừ được hết thảy khổ, chân thật không hư”.
Vì vậy, liền nói Chú Bát Nhã Ba La Mật Đa:
“Yết đế, yết đế, ba la yết đế, ba la tăng yết đế, bồ đề tát bà ha”.(1 tiếng chuông)

CHÚ VÃNG SANH
Nam Mô a di đa bà dạ,
đa tha dà đa dạ,
đa địa dạ tha,
a di rị đô bà tì,
a di rị đa tất đam bà tì,
a di rị đa tì ca lan đế,
a di rị đa tì ca lan đa,
dà di nị dà dà na,
chỉ đa ca lệ ta bà ha. (3 lần, 1 tiếng chuông)

NIỆM PHẬT
A Di Đà Phật thân sắc vàng,
Tướng tốt rực rỡ hào quang sáng ngời,
Mày trắng tỏa, Tu Di uyển chuyển,
Mắt trong ngần bốn biển long lanh,
Ánh hào quang hóa vô số Phật,
Vô số Bồ Tát hiện ở trong,
Bốn mươi tám nguyện độ chúng sanh,
Chín phẩm sen vàng lên giải thoát,
Qui mạng lễ A Di Đà Phật,
Ở Phương Tây thế giới an lành
Con nay xin phát nguyện vãng sanh,
Cúi xin Đức Từ Bi nhiếp thọ.
Nam Mô Tây Phương Cực Lạc Thế Giới Đại Từ Đại Bi A Di Đà Phật.

(Niệm mỗi câu dưới đây 3 lần, 1 tiếng chuông)
Nam Mô A Di Đà Phật.
Nam Mô Đại Bi Quán Thế Âm Bồ Tát.
Nam Mô Đại Thế Chí Bồ Tát.
Nam Mô Địa Tạng Vương Bồ Tát.
Nam Mô Thanh Tịnh Đại Hải Chúng Bồ Tát.

SÁM VU LAN
Đệ tử chúng con
Vâng lời Phật dạy
Ngày rằm tháng bảy
Gặp hội Vu Lan
Phạm Vũ huy hoàng
Đốt hương đảnh lễ
Mười phương Tam Thế
Phật, Pháp, Thánh, Hiền
Noi gương đức Mục Kiền Liên
Nguyện làm con thảo  (1 tiếng chuông)
Lòng càng áo não
Nhớ nghĩa thân sanh
Con đến trưởng thành
Mẹ dày đau khổ
Ba năm nhũ bộ
Chín tháng cưu mang
Không ngớt lo toan
Quên ăn bỏ ngủ
Ấm no đầy đủ
Cậy có công cha
Chẳng quản yếu già
Sanh nhai lam lũ
Quyết cùng hoàn vũ
Phấn đấu nuôi con
Giáo dục vuông tròn
Đem đường học đạo
Đệ tử ơn sâu chưa báo
Hổ phận kém hèn
Giờ này quỳ trước đài sen
Chí thành cung kính
Đạo tràng thanh tịnh
Tăng Bảo trang nghiêm
Hoặc thừ tự tứ
Hoặc hiện tham thiền
Đầy đủ thiện duyên
Dũ lòng lân mẫn
Hộ niệm cho:  (1 tiếng chuông)
Bảy kiếp cha mẹ chúng con
Đượm nhuần mưa Pháp
Còn tại thế:
Thân tâm yên ổn
Phát nguyện tu trì
Đã qua đời:
Ác đạo xa lìa
Chóng thành Phật quả
Ngưỡng mong các đức Như Lai
Khắp cõi hư không
Từ bi gia hộ.  (1 tiếng chuông)

HỒI HƯỚNG
Cầu siêu công đức, hạnh nhiệm mầu
Thắng phước bao nhiêu con nguyện cầu
Tất cả chúng sanh trong pháp giới
Hướng về Phật Pháp tỏ Đạo Mầu.
Nguyện cho ba chướng tiêu tan
Phiền não dứt sạch, huệ căn sáng ngời
Cầu cho con được đời đời
Hành Bồ Tát Đạo cứu đời lầm than.
Nguyện sanh Tây Phương, cõi Lạc Bang
Chín phẩm sen vàng, nơi hóa sanh
Hoa nở, thấy Phật, quả viên thành
Các vị Bồ Tát bạn lành với ta.  ( 1 tiếng chuông)
Nguyện đem công đức lành
Đệ tử hướng tâm thành
Cầu cho khắp chúng sanh
Đều chứng thành Phật quả. (1 tiếng chuông)

(chỉ chủ lễ phục nguyện )

PHỤC NGUYỆN
Nam Mô Đại Hiếu Mục Kiền Liên Bồ Tát tát đại chứng minh.
(3 lần, 1 tiếng chuông, xá 1 xá)

Xe Tam Thừa lộng lẫy, thuyền Bát Nhã thênh thang,
sáu đường dốc ngược đèo ngang, ba cõi sông mê lặn hụp,
thảm nỗi oan khiên lắm lúc, hương linh không đủ phước vãng sanh.
Nguyện hương linh …………………
nay được an lành, nghe kinh kệ siêu thăng Tịnh Độ,
vượt qua bể khổ, thoát khỏi Ta Bà,
sen vàng chín phẩm nở hoa, pháp thân hiện Di Đà thọ ký.
Âm siêu dương thới, pháp giới chúng sanh,
đồng thành Phật quả.  (1 tiếng chuông)

(Đồng niệm)
Nam Mô A Di Đà Phật.

TAM QUY
Con nương theo Phật, cầu cho chúng sanh
Tin chắc Đạo cả, phát lòng vô thượng.  (1 tiếng chuông, lạy 1 lạy)

Con nương theo Pháp, cầu cho chúng sanh
Thấu rõ kinh tạng, trí huệ như biển.  (1 tiếng chuông, lạy 1 lạy)

Con nương theo Tăng, cầu cho chúng sanh
Kính tín hòa hợp, tất cả không ngại.  (1 tiếng chuông, lạy 1 lạy)