Nêu tỏ ý nghĩa ẩn tàng của Phật Quang Phân Xã tại Xung Điền, Vụ Nguyên

(năm Dân Quốc 20 – 1931)

Phật quang là tâm quang. Tâm quang ấy chúng sanh và Phật đều cùng có, bình đẳng giống hệt như nhau, nơi Phật chẳng tăng thêm, nơi chúng sanh chẳng giảm bớt. Vì thế, lúc mới thành Chánh Giác, đức Thế Tôn than thở sâu xa: “Hết thảy chúng sanh đều đầy đủ trí huệ đức tướng của Như Lai, nhưng vì chưa ngộ nên chẳng tránh khỏi biến trí huệ đức tướng ấy thành vô minh nghiệp thức, mê tâm đuổi theo cảnh, trái giác hiệp trần, ví như đi mãi trong đêm dài, chẳng thấy được đường chánh, chẳng va tường đụng vách thì cũng đọa hầm sụp hố, luân hồi lục đạo, trọn chẳng có thuở thoát ra!” Đức Như Lai thương xót, thị hiện giáng sanh trong thế gian, thành Đẳng Chánh Giác, tùy thuận cơ nghi, diễn nói các pháp, chỉ dạy thể tướng của nhất tâm, nói ra nhân quả ba đời, pháp thế gian lẫn xuất thế gian không gì chẳng trọn khắp.

Lại muốn lợi lạc khắp ba căn nên đặc biệt mở ra một môn Tịnh Độ, ngõ hầu hết thảy dù thánh hay phàm đều cùng trong đời này cậy vào Phật từ lực vãng sanh Tây Phương hòng siêu phàm nhập thánh, liễu sanh thoát tử, đích thân chứng được tâm quang mà Phật và chúng sanh đều cùng có, cũng như [chứng được] tánh thể vô lượng quang thọ. Lại còn rủ lòng từ tiếp dẫn đến tột cùng đời vị lai, ngõ hầu pháp giới chúng sanh đều được đẫm Phật quang, cùng chứng tâm quang. Quang quang chiếu sáng lẫn nhau, thành một thế giới Thường Tịch Quang mới thôi! Đấy chính là cội nguồn của việc cư sĩ Dịch Viên lập ra Phật Quang Xã.

Còn những gì được đề xướng trong liên xã thì trọn chẳng lập ra cách thức sai khác, tức là ai nấy đều dốc tâm thực hiện ngay trong những cư xử thường ngày của chúng ta, có nghĩa là “cha từ, con hiếu, anh nhường, em kính, chồng hòa, vợ thuận, chủ nhân từ, tớ trung thành”, mỗi mỗi đều nghiêm túc trọn hết bổn phận. Như thế thì chính là người lành “chẳng làm các điều ác, vâng làm các điều lành”. Hơn nữa, trong khi đi lại, nói năng, làm lụng, đi, đứng, nằm, ngồi, [luôn luôn] chấp trì một câu thánh hiệu A Di Đà Phật, dùng vạn đức hồng danh của Phật để hun đúc nghiệp thức vô minh của chính mình, hun đúc lâu ngày thì vô minh nghiệp thức ấy sẽ biến thành trí huệ đức tướng. Thanh Lương quốc sư nói: “Phàm phu cắm cúi niệm Phật, niệm đến cùng cực sẽ có thể ngầm thông Phật trí, thầm hợp đạo mầu”, chính là nói về điều này vậy. Huống chi dùng lòng tin sâu đậm, nguyện thiết tha để cảm Phật, Phật sẽ dùng thệ nguyện từ bi nhiếp thọ; do đó được cảm ứng đạo giao, vạn người tu vạn người về. Lòng từ của đức Như Lai, sự nhiệm mầu của pháp môn không chi hơn được! Nếu không có túc căn sẽ chẳng thể gặp gỡ!

Cư sĩ [Giang] Dịch Viên đã đạt được lợi ích sâu xa, lại còn khuyên dạy người trong ấp cùng tu pháp này. Do vậy, người do nghiệp tiêu trí rạng mà vãng sanh và những người cậy vào Phật từ lực đới nghiệp vãng sanh kể sao cho xiết! Vì thế, các vị thiện sĩ ở Xung Điền nghe tiếng tăm dấy lòng noi theo, lập riêng phân xã để mong cư dân lân cận sẽ cùng được đẫm Phật quang, cùng sanh về Cực Lạc, đủ thấy con người có cùng một tâm này, tâm cùng một lý này, đã gieo thiện căn sâu xa trong nhiều đời nhiều kiếp vậy!

Phải biết: Phật pháp vốn là tâm pháp, là gốc của hết thảy các pháp thế gian. Nếu biết Phật pháp thì đạo “cách vật, trí tri, chánh tâm, thành ý, tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ” của thế gian đều được viên mãn rốt ráo. Nếu không, chỉ là bày biện nơi cành nhánh, chứ trọn chẳng được lợi ích thật sự nơi căn bản: Vì cái thân mưu tính sẽ chẳng thể vượt ra ngoài thân xác, vì đất nước mưu tính sẽ chẳng thể khiến cho phong thái đại đồng được thông suốt. Bậc thượng mà còn như thế thì bậc hạ cần chi phải nói nữa! Ngu phu, ngu phụ nếu y theo pháp môn Tịnh Độ do đức Phật đã nói để tu trì thì khi còn sống sẽ tận hết bổn phận, trọn hết tình nghĩa để trở thành hiền thiện, mất đi sẽ cao đăng chín phẩm sen liễu sanh thoát tử. Bậc hạ mà còn được như thế huống gì là bậc thượng! Nguyện những thiện tín tham dự liên xã và những ai thấy nghe trong hiện tại, tương lai, đều cùng nhờ vào tâm quang để đề cao Phật quang thì xã hội may mắn lắm mà thiên hạ cũng may mắn lắm thay!