Mười Việc Ác

(Tiếp Theo)

Pháp Sư Thích Đạo Thế
Chúc Tựu – Đức Trí dịch

THẬP ÁC

XXIII.6. Nói lưỡi đôi chiều

[138c] Nếu không tu thì đừng có mong ngày ra khỏi sinh, lão, bệnh, tử; nếu tu sẽ có lối vào bồ-đề, niết-bàn. Sở dĩ chư Phật đắc đạo là do thực hành tứ nhiếp pháp[1], cho nên người phàm, bậc thánh đều qui y. Bồ-tát thành thánh là do thực hành lục độ, nên người thiện kẻ ác đều kính ngưỡng.

Nay thấy bọn người thế tục thường dựng lên những lời không chân thật, nói xấu bên này bên kia, khiến cho quyến thuộc của người chia lìa, bạn bè tan rã. Do thích gieo các nghiệp bất hòa, nên họ chiêu lấy quả báo sinh li. Giả sử dùng lòng tốt dạy người xa lìa kẻ ác thì cũng là việc phá hoại, nhưng có lợi ích cho người, nên không bị tội. Do đó, luận Thành thật ghi: “Nếu dùng lòng tốt giáo hóa người, dù khiến họ xa lìa nhau, vẫn không phạm tội. Còn dùng lời ác xúi người khác đánh nhau thì gọi là lưỡng thiệt, tội này rất nặng, sẽ đọa vào địa ngục, ngạ quỉ, súc sinh; nếu sinh vào loài người, thường bị kẻ khác chê bai, chửi mắng, chỉ gặp được quyến thuộc xấu ác phá hoại mình. Như trong phần lỗi vọng ngữ đã trình bày ở trên, nói dối để gây mâu thuẫn giữa bên này và bên kia, gọi là lưỡng thiệt. Người phạm tội này thì chịu quả báo khổ trong ba đời, như trên đã nói rõ, không cần trình bày lại”.

Luật Tứ phần[2] ghi: “Đức Phật bảo các tì-kheo:

– Các ông hãy lắng nghe! Ngày xưa, có hai con thú dữ kết bạn với nhau. Một con sư tử tên Thiện Nha, một con cọp tên Thiện Bác, ngày đêm cùng nhau săn bắt hươu, nai để ăn thịt.

Lúc ấy, có một con chồn thường theo sau hai con thú kia, ăn thịt thừa để sống. Bấy giờ, chú chồn suy nghĩ: ‘Nay ta không thể theo họ mãi như thế được, phải tìm cách gì khiến chúng cải vã, không còn đi chung với nhau nữa’. Nghĩ như thế rồi, nó liền đến chỗ sư tử Thiện Nha nói:

– Cọp Thiện Bác nói với tôi: ‘Ta sinh nơi tốt đẹp, dòng tộc cao quí, tướng mạo và sức mạnh cũng hơn Thiện Nha. Vì sao? Vì mỗi ngày ta đều ăn thịt tươi ngon, Thiện Nha theo sau, ăn những thức ăn thừa của ta để sống’. Thiện Bác còn nói kệ:

Tướng mạo và nơi sinh,
Sức mạnh đều hơn cả,
Thiện Nha không bằng ta,
Thiện Bác nói như thế!
[139a] Thiện Nha hỏi chồn:

– Làm sao ngươi biết được việc này?

Chồn đáp:

– Các anh gặp nhau sẽ tự biết.

Bấy giờ, chồn lén nói với Thiện Nha rồi, liền đến chỗ Thiện Bác nói:

– Anh biết chăng? Thiện Nha nói: ‘Hiện nay dòng tộc, nơi sinh và sức mạnh của ta đều trội hơn Thiện Bác. Vì sao? Vì ta thường ăn thịt tươi ngon, còn Thiện Bác theo sau, ăn thức ăn dư của ta để sống’. Thiện Nha còn nói kệ:

Tướng mạo và nơi sinh,
Sức mạnh đều hơn cả,
Thiện Bác không bằng ta,
Thiện Nha nói như thế!

Thiện Bác hỏi:

– Làm sao ngươi biết được việc này?

Chồn đáp:

– Hai anh gặp nhau sẽ tự biết.

Sau đó, hai con ác thú gặp mặt, nhìn nhau rất giận dữ. Sư tử Thiện Nha liền nghĩ: ‘Ta phải hỏi rõ việc này!’ Nghĩ thế rồi liền ra tay đánh Thiện Bác và nói kệ hỏi:

Tướng mạo và nơi sinh,
Sức mạnh đều hơn cả,
Thiện Nha không bằng ta,
Thiện Bác nói thế ư?

Thiện Bác nghĩ: ‘Chắc chắn là do chồn muốn chúng ta đánh nhau’. Nó liền nói kệ đáp:

Thiện Bác không hề nói,
Tướng mạo và nơi sinh,
Sức mạnh đều hơn cả,
Thiện Nha không bằng ta!
Nghe lời không lợi ích,
Tin lời kẻ đâm thọc,
Tự hủy hoại tình thân,
Khiến trở thành oan gia.
Nên dùng trí chân thật,
Để diệt trừ sân hận,
Nếu nói lời thành thật,
Khiến thân được lợi ích.
Nay phải khéo hàng phục,
Diệt trừ ác tri thức,
Nên phải giết chồn kia,
Làm chia rẽ chúng ta.

Nói xong, chúng liền đánh chết chồn kia.

Bấy giờ, Đức Phật dạy các tì-kheo:

– Hai con thú này bị chồn li gián, khiến chúng gặp nhau không vui. Huống gì con người bị kẻ khác li gián mà không phiền não sao?”

Trong kinh Chính pháp niệm, Diêm-la vương nói bài kệ trách các tội nhân:

[139b]Vui quá, nói nhiều lời,
Tham lam, khiến người sợ,
Lỗi miệng, nói không thật,
Lưỡng thiệt là đứng đầu.

Trong kinh Hoa thủ[3], Đức Phật nói kệ:

Ác khẩu và lưỡng thiệt,
Thích nói lỗi người khác,
Đó là người không tốt,
Việc ác nào cũng làm.

Luận Đại trí độ[4] ghi: “Không nhờ vào sự bố thí, trì giới, học rộng và nghe nhiều mà chỉ cần nói lời chân thật thì cũng được vô lượng phúc”.

Trong kinh Báo ân[5], Đức Phật nói kệ:

Đức Phật bảo A-nan,
Người sống ở thế gian,
Họa từ miệng mà ra,
Nên giữ gìn khẩu nghiệp,
Vì hại hơn lửa dữ.
Lửa dữ chỉ đốt cháy,
Tài vật ở thế gian,
Còn ác khẩu đốt cháy,
Hết thảy thất thánh tài[6].
Tất cả loài chúng sinh,
Họa từ miệng mà ra,
Khiến thân chịu búa chém,
Sẽ bị họa diệt thân.

Bài tụng Chính báo:

Lưỡng thiệt chia rẽ người,
Đọa địa ngục phân thây,
Lính ngục đánh vào miệng,
Dao nóng cắt đứt lưỡi,
Đau khổ đã như thế,
Lại thêm bị đói khát,
Nghiệp ác luôn trói buộc,
Lại phải uống máu mình.

Bài tụng Tập báo:

Thêu dệt hại người khác,
Đọa vào ba đường dữ,
Giả sử được thân người,
Dư báo[7] vẫn còn theo,
Gặp quyến thuộc xấu ác,
Trái nghịch, thù hận nhau,
Chỉ luôn nhớ làm ác,
Địa ngục không thời hạn.

XXIII.7. Nói lời nịnh hót

Lời nói trung thực thì lý lẽ rõ ràng, lời thêu dệt luôn trái với sự thật. Do trung thực nên có lẽ thật; vì chân thật nên phúc đức phát sinh; phúc đức sinh nên thành bậc thánh.

Vì ỷ ngữ nên giả dối, vì giả dối nên tội sinh, tội sinh nên phải chịu khổ. Vì vậy, đạt đến chân lý để cầu thánh quả, cần phải nói lời chân thật. Nếu nói lời giả dối thì trái với chân lý. Những lời nói không ngay thẳng đều gọi là ỷ ngữ. Những lời thêu dệt không lợi ích cho mình và người, chỉ làm tăng thêm tâm buông lung, nuôi lớn các điều bất thiện, [139c] khiến người rơi vào trong ba đường ác. Sau khi chịu tội xong, người đó được sinh lại làm người, dù nói ra lời chân thật thì mọi người vẫn không tin. Tất cả những lời nói không rõ ràng cũng gọi là ỷ ngữ.

Nên luận Thành thật ghi: “Tuy nói lời chân thật, nhưng không đúng lúc, cũng là ỷ ngữ”.

Trong luận Đại trí độ có bài kệ:

Đọa vào loài ngạ quỉ,
Miệng thường phun lửa dữ,
Kêu gào vang khắp nơi,
Là nghiệp báo của miệng.
Tuy học rộng hiểu nhiều,
Ở trong chúng nói pháp,
Do gieo nghiệp bất tín,
Nên mọi người không tin,
Muốn học rộng nghe nhiều,
Được mọi người tin tưởng,
Thì phải nên thành thật,
Không nói lời thêu dệt.

Luận Tát-bà-đa[8] ghi: “Bốn lỗi của miệng kết hợp qua lại, mỗi lỗi có bốn trường hợp:

1. Lưỡng thiệt nhưng chẳng phải vọng ngữ, cũng chẳng phải ác khẩu. Như có người đem lời người này đến nói với người kia, vì truyền đạt đúng sự thật nên chẳng phải vọng ngữ, nói nhã nhặn nên chẳng phải ác khẩu. Nhưng do có tâm li gián, nên gọi là lưỡng thiệt.

2. Lưỡng thiệt lại vọng ngữ, nhưng không ác khẩu. Như có người đem lời người này đến nói với người kia, với tâm muốn li gián người khác, nên gọi là lưỡng thiệt. Vì người ấy truyền đạt không thật nên gọi là vọng ngữ, nói lời nhã nhặn nên chẳng phải ác khẩu.

3. Vừa lưỡng thiệt vừa ác khẩu, nhưng không vọng ngữ. Như có người đem lời người này đến nói với người kia, với tâm muốn li gián người khác, nên gọi là lưỡng thiệt. Do người ấy dùng lời thô tháo nên gọi là ác khẩu, song truyền đạt chân thật nên chẳng phải vọng ngữ.

4. Gồm cả lưỡng thiệt, vọng ngữ và ác khẩu. Như có người đem lời người này đến nói với người kia, với tâm muốn li gián người khác, nên gọi là lưỡng thiệt. Vì người ấy truyền đạt không thật, nên gọi là vọng ngữ, nói lời thô tháo, nên gọi là ác khẩu.

Vọng ngữ và ác khẩu mỗi loại cũng có đủ bốn trường hợp như thế. Ỷ ngữ luôn có mặt trong các trường hợp, nên không trình bày riêng. Do đó, luận Thành thật ghi: “Ba nghiệp khác của miệng, hoặc có lúc kết với hợp nhau, hoặc không, nhưng ỷ ngữ nhất định có mặt trong cả bốn trường hợp”.

Bài tụng Chính báo:

Lời thêu dệt vô nghĩa,
Khiến lòng người mê loạn,
Đoạn thiện căn người khác,
Đồng sôi rót vào miệng,
Sắt nóng thiêu đốt lưỡi,
Ruột gan đều cháy tan,
[140a]Đau đớn không thể nhẫn,
Khổ sở thường kêu trời.

Bài tụng Tập báo:

Ỷ ngữ che chân lý,
Chết rơi vào đường ác,
Ra khỏi, được làm người,
Lời nói không rõ ràng,
Sống chẳng ai tin kính,
Thường bị người chê cười,
Làm người biết hổ thẹn,
Sao chẳng nói lời hay.

XXIII.8. Tham lam keo kiệt

Căn nguyên bệnh mê lầm của chúng sinh chính là chấp ngã; cội gốc bệnh tà mê của phàm phu là xan tham. Do đó, điều thiện nhẹ như lông hồng, còn điều ác thì nặng như núi Thái, phúc đức ít như băng mùa xuân, nghèo thiếu nhiều như mưa mùa thu, lưới lục tình chưa dễ thoát ra, bờ ba độc không sao vượt nổi. Thân nặng thường bị chìm đắm, như cá dưới sông dù vẫy đuôi muốn bay lên, nhưng không thể giống chim trên trời được. Vì thế, dẫn đến nỗi nghèo túng tranh nhau bức bách, sự khổ sở nối nhau gây tổn hại. Giống như con thiêu thân lao vào lửa, tự thiêu cháy mình, loài tằm làm kén tự trói buộc mình.

Bởi do nghiệp tham lam, bỏn xẻn nên phải chịu tội đói rét. Bố thí là nhân đưa đến giàu sang, vui vẻ.

Như kinh Phân biệt nghiệp báo[9] có bài kệ:

Thường ưa tu trí tuệ,
Mà không hành bố thí,
Kiếp sau được thông minh,
Nhưng nghèo không tài sản.
Chỉ thích làm bố thí,
Mà không tu trí tuệ,
Kiếp sau được giàu sang,
Nhưng ngu si vô trí.
Tu cả tuệ và thí,
Kiếp sau đủ tài, trí,
Nếu không tu tuệ, thí,
Mãi ngu si, nghèo hèn.

Nhiếp luận[10] ghi: “Bỏn xẻn làm trở ngại sự giàu sang; ghen ghét làm chướng ngại sự tôn quí. Lại nữa, chúng sinh khởi lòng tham không ngoài sắc dục và tiền tài. Lỗi thứ nhất, tham đắm sắc dục, như trước đã trình bày. Ở đây chỉ trình bày tóm tắt những ý khác”.

Như kinh Niết-bàn[11] ghi: “Thí như có người lấy nữ la-sát làm vợ. Nhưng sau khi sinh con ra, nữ la-sát kia ăn thịt con mình; ăn hết con, nó lại ăn luôn chồng. Nữ la-sát ái dục cũng như vậy, hễ chúng sinh có bao nhiêu hạt thiện căn thì nó ăn bấy nhiêu, đến khi hạt thiện căn hết thì lại ăn chúng sinh. Do đó, chúng sinh phải bị đọa địa ngục, ngạ quỉ, súc sinh”.

[140b] Lại có người ưa thích hoa đẹp mà không thấy mối họa rắn độc núp dưới hoa, vội đưa tay hái thì bị rắn độc cắn, nọc độc thấm vào thân, nên phải chết. Tất cả hàng phàm phu cũng lại như thế, tham đắm hoa năm dục mà không thấy họa rắn độc ái dục, vội đưa tay hái liền bị nọc độc ái dục hại, sau khi chết đọa vào ba đường ác.

Luận Đại trí độ ghi: “Tiền của là nguyên nhân gây ra các phiền não, nghiệp tội. Tất cả các pháp lành như trì giới, thiền định, trí tuệ là nhân duyên của niết-bàn. Thế nên, tài vật còn phải bỏ, huống gì trong ruộng phúc tốt mà không gieo trồng hạt giống bố thí sao!

Ví như có hai anh em, mỗi người mang mười cân vàng ra đi. Khi đến đoạn đường vắng, không người qua lại, người anh suy nghĩ: ‘Tại sao ta không giết em mình để lấy vàng? Ở đây vắng vẻ chẳng ai biết!’. Người em cũng suy nghĩ, muốn giết người anh để lấy vàng. Hai anh em đều khởi tâm ác, nên lời nói và ánh mắt nhìn nhau khác lạ.

Sau đó, hai anh em liền tỉnh ngộ, lòng vô cùng hối hận và nói: ‘Chúng ta chẳng khác gì loài cầm thú! Hai anh em ruột thịt, chỉ vì một ít vàng mà khởi tâm ác muốn giết hại nhau’. Hai anh em cùng đến bên bờ sông, người anh lấy vàng ném xuống nước. Người em nói:

– Hay thay! Hay thay!

Người em cũng ném vàng xuống sông. Người anh nói:

– Hay thay! Hay thay!

Hai anh em cùng hỏi nhau: Tại sao mà nói “Hay thay!”. Hai người đều đáp: “Ta vì số vàng này mà khởi tâm ác muốn giết hại lẫn nhau, nay bỏ được nó nên nói là “Hay thay!”.

Vì nhân duyên này, nên phải trừ diệt tham lam, bỏn xẻn.

Luận Đại trang nghiêm[12] ghi: “Ta từng nghe, có lần Đức Phật và A-nan đi qua một cánh đồng hoang ở nước Xá-vệ. Thấy bên bờ ruộng có một khối vàng, Đức Phật bảo A-nan:

– Đó là rắn độc.

A-nan bạch Phật:

– Bạch Đức Thế Tôn! Đúng là rắn độc!

Bấy giờ, có một người đang cày ruộng, nghe Đức Phật và A-nan nói có rắn độc, liền nghĩ: ‘Ta đến xem thử thế nào mà sa-môn nói là rắn độc’. Ông ta liền đến xem thì thấy một khối vàng ròng liền nghĩ: ‘Sa-môn nói rắn độc, nhưng đây chính là vàng ròng’. Thế là, ông liền gom lấy tất cả số vàng kia mang về nhà. Người này trước kia rất nghèo, cơm không đủ ăn, áo không đủ mặc, nhưng từ khi nhặt được vàng thì trở nên giàu có, ăn mặc dư giả.

Vua và các quan rất kinh ngạc về sự giàu có của ông, bèn đến tra xét và bắt giam vào ngục. Cho dù ông ta giao nộp tất cả số vàng lấy được lúc trước, nhưng vẫn không khỏi tội. Khi sắp bị xử chém, ông ta thốt lên:

– Rắn độc, A-nan! Rắn độc, Thế Tôn!

Người đứng bên cạnh nghe nói như thế, liền tâu lên vua. Vua liền cho gọi ông ta đến hỏi:

– Tại sao ngươi nói: ‘Rắn độc, A-nan! Rắn độc, Thế Tôn!’

Ông ta tâu:

– Ngày trước, thần đang cày ruộng thì nghe Đức Phật và A-nan gọi vàng là rắn độc, nay thần mới hiểu.

[140c] Vua nghe nói thế liền thả cho ông ta về”.

Kinh Tăng nhất A-hàm[13] ghi: “Ngày xưa, Đức Phật còn tại thế, trong thành Xá-vệ có vị trưởng giả tên Bà-đề rất giàu có, tài sản vô số, vàng bạc không thể tính kể. Tuy giàu nhưng ông rất bỏn xẻn, không dám tiêu xài. Hàng ngày ông ăn uống đạm bạc, áo quần thô xấu, lại không dám cho vợ con, quyến thuộc, người giúp việc, bạn bè, bậc tri thức và các vị sa-môn, bà-la-môn v.v… lại thường khởi tà kiến, đoạn các căn lành. Vì ông không có con cháu nối dõi nên sau khi chết, của cải đều sung vào cửa quan. Vua Ba-tư-nặc đích thân đến tịch thu tất cả tài sản mang về, sau đó vua đến chỗ Đức Phật bạch:

– Bạch Đức Thế Tôn! Trưởng giả Bà-đề sau khi mạng chung sẽ sinh vào nơi nào?

Đức Phật bảo vua:

– Trưởng giả Bà-đề phúc đã hết mà không tạo phúc mới, còn khởi tà kiến đoạn mất căn lành, nên sau khi mạng chung sinh vào địa ngục Đề Khốc.

Vua Ba-tư-nặc nghe Đức Phật nói thế, thương cảm rơi lệ và thưa:

– Bạch Đức Thế Tôn! Ngày xưa, trưởng giả Bà-đề tạo nghiệp thiện gì mà sinh vào nhà giàu có? Và ông tạo nghiệp ác gì mà không được hưởng sự giàu sang ấy?

Đức Phật đáp:

– Từ thời quá khứ lâu xa, sau khi Đức Phật Ca-diếp nhập niết-bàn, vị trưởng giả này làm con của một điền chủ ở nước Xá-vệ. Khi đó, có vị bích-chi phật đến nhà ông ta khất thực, trưởng giả mang thức ăn ra cúng dường. Vị bích-chi phật được thức ăn, liền bay lên hư không đi. Trưởng giả thấy như vậy liền phát nguyện: ‘Nhờ căn lành này khiến con đời đời sinh ra nơi nào cũng được giàu có, không đọa vào ba đường ác’. Nhưng sau khi cúng dường xong, ông lại hối tiếc và nghĩ: ‘Những thức ăn vừa rồi, lẽ ra ta nên đem cho người giúp việc, không nên cho vị sa-môn trọc đầu kia’

Đức Phật lại bảo vua:

– Trưởng giả Bà-đề, do công đức đời quá khứ cúng dường thức ăn cho bích-chi phật và lời phát nguyện, nên ông sinh vào nơi nào cũng được giàu có. Nhưng do sau khi cúng dường lại sinh lòng hối tiếc, nên dù ông sinh ra nơi nào cũng giàu sang, nhưng không hưởng được sự giàu sang ấy, lại còn tham lam, bỏn xẻn, chỉ lo cất giữ, bản thân không dám ăn mặc, chẳng cho vợ con, quyến thuộc, bạn bè, bậc tri thức và các vị sa-môn, bà-la-môn v.v…

Vì thế, người trí nghe được việc này, [141a] nếu có tiền của phải bố thí, chớ sinh lòng bỏn xẻn. Khi bố thí thì phải hết lòng tự tay mình đem cho, bố thí rồi thì sinh lòng vui vẻ, không nên khởi tâm hối tiếc. Nếu được như thế thì phúc báo lớn vô lượng vô biên”.

Kinh Xuất diệu[14] ghi: “Ngày xưa, Đức Phật còn tại thế, ở nước Xá-vệ có vị trưởng giả tên Nan-đà, rất giàu có, vàng bạc, châu báu, voi, ngựa, xe cộ, kẻ hầu, y phục, trang sức, ruộng vườn nhiều không thể tính kể. Tất cả những người giàu có trong nước không ai sánh bằng. Ông tuy rất giàu, nhưng không có lòng tin tam bảo, lại tham lam, bỏn xẻn. Nhà bảy lớp cửa mà còn dặn người canh giữ, nếu có người đến xin không được cho vào. Ông dùng lưới sắt phủ kín phía trên sân, vì sợ chim bay vào ăn lúa gạo; dùng vữa trét kín quanh chân tường, vì sợ chuột khoét lỗ chui vào làm hao tốn của cải.

Ông chỉ có một người con duy nhất tên là Chiên-đàn Hương. Lúc sắp chết, ông bảo người con: ‘Ta e rằng không sống được bao lâu nữa. Sau khi ta chết, số của cải này con không được tiêu xài phung phí, đừng cho sa-môn và bà-la-môn. Nếu có trẻ nhỏ đến xin cũng không cho một đồng. Số của cải này đủ để tiêu xài cho bảy đời.’ Dặn dò xong, ông liền qua đời và đầu thai lại làm con của một người mù, thuộc giai cấp Chiên-đà-la ở nước Xá-vệ. Sau khi sinh ra, đứa bé đã bị mù hai mắt. Bà mẹ nghĩ: ‘Nay ta mù lòa, nếu sinh con trai thì nó sẽ giúp đỡ ta!’

Nghe nói đứa con cũng bị mù bẩm sinh, bà vô cùng buồn khổ, khóc lóc và nói kệ:

Ta mù, con cũng mù,
Cả hai đều bị mù,
Gặp kẻ hao tài này,
Làm ta thêm sầu khổ.

Bấy giờ, người mẹ mù nuôi đứa bé lớn khoảng tám, chín tuổi, có thể tự đi lại được, bà trao cho nó một cây gậy, một cái bát và bảo đứa bé: ‘Con hãy tự đi xin ăn mà sống, không cần ở đây nữa. Ta cũng bị mù, phải xin ăn để nuôi cái mạng thừa này, không thể lo cho con được’.

Đứa bé đi từng nhà xin ăn, dần dần đến nhà Chiên-đàn Hương, đứng ngoài cửa gọi lớn: ‘Tôi là đứa trẻ mù, xin cho tôi thức ăn!’

Khi ấy, người canh cửa nổi giận, nắm tay nó ném xuống hầm sâu, làm nó gãy cánh tay trái và bị thương ở đầu, những thức ăn xin được đều vung vãi ra đất. Những người đi ngang qua thấy vậy, vô cùng thương xót, đến nói với bà mẹ mù. Nghe thế, bà liền chống gậy lần đến chỗ con mình, bế nó đặt lên nằm trên gối và than:

– Con tôi có tội gì mà phải chịu khổ thế này?

Đứa bé kể với mẹ:

– Con đến nhà Chiên-đàn Hương đứng ngoài cửa gọi xin thức ăn thì gặp người xấu ném ngã như thế này.

Đức Phật biết việc này liền bảo A-nan:

– Tai họa! Tai họa! Trưởng giả Nan-đà sau khi qua đời, đầu thai trở lại làm con một người phụ nữ mù thuộc giai cấp Chiên-đà-la, [141b] vừa sinh ra thì hai mắt bị mù.

Ngày xưa, nhà ông ta rất giàu có, tiền của vô số, voi, ngựa, xe cộ, bảy báu nhiều không thể tính hết mà nay không được hưởng. Do tham lam, bỏn xẻn nên phải chịu quả báo mù mắt như thế, sau khi mạng chung sẽ đọa vào địa ngục A-tỳ.

Quá ngọ, Đức Phật cùng chúng tì-kheo và tất cả nhân dân trong thành vây quanh đến trước nhà Chiên-đàn Hương, nơi đứa bé mù đang nằm. Chiên-đàn Hương nghe Đức Phật ở ngoài cửa, liền ra đỉnh lễ, rồi đứng qua một bên. Đức Phật biết đại chúng đã nhóm họp, lại thấy Chiên-đàn Hương có mặt, liền giảng cho đại chúng nghe về tâm tham lam, bỏn xẻn, ghen ghét sẽ bị vô lượng tội, thực hành bố thí sẽ được phúc đức vô số. Đức Phật muốn họ xa lìa pháp hữu vi, theo đạo vô vi.

Bấy giờ, Đức Thế Tôn muốn trừ nỗi khổ địa ngục cho Chiên-đàn Hương, nên Ngài hỏi đứa trẻ:

– Ngươi có phải là trưởng giả Nan-đà không?

Đứa trẻ đáp ba lần:

– Con đúng là trưởng giả Nan-đà.

Đại chúng nghe như thế, kinh ngạc bảo nhau: ‘Trưởng giả Nan-đà chính là đứa trẻ này!’

Bấy giờ, Chiên-đàn Hương chứng kiến việc này, thương cảm khóc lóc mãi không thôi, lại đỉnh lễ cầu xin Đức Phật giúp nhổ hết gốc tội, đồng thời thỉnh Phật và chúng tăng ngày hôm sau đến nhà thụ thực.

Hôm sau, thụ thực xong, Đức Phật thuyết pháp vi diệu, Chiên-đàn Hương nghe xong liền đắc quả Tu-đà-hoàn.

Đức Phật bảo A-nan:

– Nếu người nào cất chứa tiền của, không dám ăn tiêu, lại không bố thí, đó là người ngu si nhất. Thế nên, người trí phải thực hành bố thí để mong xa lìa sinh tử, chớ bỏn xẻn mà chịu khổ vô cùng”.

Luật Thập tụng[15] ghi: “Khi Đức Phật ở tại nước Xá-vệ, trưởng lão Ca-lưu-đà-di đã chứng quả A-la-hán. Một hôm, Ca-lưu-đà-di ôm bát vào thành khất thực, đến nhà một vị bà-la-môn, người chồng vắng nhà, người vợ đóng cửa làm bánh rán. Ngài liền nhập định, vận sức thần thông đi xuyên lòng đất vào trong sân, gảy móng tay làm tín hiệu, người vợ quay lại nhìn và suy nghĩ: ‘Vị sa-môn này vào đây bằng đường nào? Chắc chắn ông ta vì tham bánh mà đến, nhưng ta không cho’. Bà liền nói với Ca-lưu-đa-di: [141c]

– Dù ông nhìn lồi mắt, ta cũng không cho!

Ca-lưu-đà-di liền vận thần lực làm cho hai mắt lồi ra.

Bà lại nghĩ:

– Dù hai mắt ông lồi ra bằng cái bát ta cũng không cho.

Ca-lưu-đà-di liền biến hai mắt lồi ra lớn bằng cái bát.

Bà lại nghĩ:

– Dù ông đứng ngược đầu xuống đất trước mặt ta, ta cũng không cho.

Ca-lưu-đà-di liền đứng ngược đầu xuống đất.

Bà lại nghĩ:

– Dù ông có chết, ta vẫn không cho.

Ca-lưu-đà-di liền nhập định Diệt thụ tưởng[16], tâm ý không còn hoạt động.

Bấy giờ, vợ của bà-la-môn đến xô đẩy, kéo giật, nhưng ngài vẫn bất động, bà vô cùng hoảng sợ và suy nghĩ: ‘Vị sa-môn này thường đến cung vua Ba-tư-nặc thuyết pháp, là thầy của phu nhân Mạt-lợi. Nếu vua và phu nhân nghe sa-môn chết trong nhà ta, ắt ta sẽ mang họa lớn’. Bà nói với tì-kheo:

[141c] – Nếu ông sống lại, ta sẽ cho một chiếc bánh.

Ca-lưu-đà-di liền xuất định. Bà nhìn những chiếc bánh đã chiên xong, cái nào cũng rất ngon, có ý tiếc không muốn cho. Bà mới vét bột trong chậu được một ít bỏ vào chiên thì nó phồng lớn và ngon hơn những chiếc bánh trước. Bà liền lấy một cái bánh đã chiên trước đó đem cho, nhưng khi vừa cầm lên thì những chiếc bánh còn lại đều dính theo. Ca-lưu-đà-di hỏi:

– Bà cho tôi bao nhiêu chiếc bánh?

Bà liền cầm bốn chiếc bánh định cho, thì Ca-lưu-đà-di nói:

– Ta không cần bánh này, bà hãy đem đến tinh xá Kì-hoàn cúng dường cho chư tăng.

Do đời trước đã gieo trồng căn lành, nên bà ấy liền suy nghĩ: ‘Tì-kheo này thật ra không tham bánh, chỉ vì thương xót ta mà đến đây khất thực!’ Nghĩ thế rồi, bà liền mang một giỏ bánh đến tinh xá Kì-hoàn cúng dường chư tăng. Cúng dường xong, bà đến ngồi trước ngài. Bấy giờ, Ca-lưu-đà-di quán xét nhân duyên và thuyết pháp, bà liền đắc pháp nhãn tịnh, xin làm ưu-bà-di[17].

Khi trở về nhà, bà thuật lại, nghe xong chồng bà liền đến chỗ ngài Ca-lưu-đà-di và nghe thuyết pháp. Nghe xong, ông cũng đắc Pháp nhãn tịnh, làm ưu-bà-tắc[18]. Họ đem hết tiền tài và sức lực cúng dường, phụng sự chư tăng. Đến khi mạng chung họ còn dặn dò các con cúng dường mãi không dứt”.

Kinh Bách duyên[19] ghi: “Đức Phật ở vườn tre Ca-lan-đà tại thành Vương Xá. Một hôm, Mục-kiền-liên đang ngồi bên gốc cây, thấy một con quỉ, thân như cây cột cháy, bụng lớn như quả núi, cổ nhỏ như cây kim, tóc như dao bén quấn cắt vào thân, các chi phần trên thân đều bốc cháy, khát nước sắp chết, môi miệng khô khan, muốn đến sông suối uống nước thì nước ở đó bỗng nhiên cạn khô. Giả sử trời mưa cam lồ, khi rơi trên thân nó, cam lồ đều biến thành lửa đỏ.

Mục-kiền-liên hỏi:

– Ngươi bị nghiệp gì mà chịu quả báo khổ như vậy?

Ngạ quỉ đáp:

– Tôi khát nước quá không thể giải thích được, Ngài đến hỏi Đức Phật sẽ rõ.

Mục-kiền-liên đến chỗ Đức Phật trình bày câu chuyện và bạch:

– Bạch Đức Thế Tôn! Con quỉ này kiếp trước do tạo nghiệp gì mà chịu quả báo khổ như vậy?

Đức Thế Tôn đáp:

– Hãy lắng nghe! Ta sẽ giải thích cho ông rõ. Vào kiếp Hiền, ở nước Ba-la-nại, có Đức Phật ra đời hiệu là Ca-diếp. Bấy giờ, có vị sa-môn trên đường đi giáo hóa, quá khát nước, gặp một người nữ tên là Ác Kiến đang múc nước bên giếng. Vị tăng kia đến xin nước uống, người nữ bảo:

– Dù ông có khát đến chết ta cũng không cho, nếu cho ông thì nước của tôi vơi đi, không thể gánh về.

Sa-môn xin không được nước bèn đi tiếp. Người nữ kia quá tham lam, bỏn xẻn, dù ai đến xin vẫn không cho. Sau khi mạng chung, cô ta bị đọa vào loài ngạ quỉ. Do nghiệp duyên này mà chịu quả báo đau khổ như thế.

Đức Phật bảo Mục-kiền-liên:

– Người nữ không cho nước lúc đó, nay chính là con quỉ này.

[142a] Lúc Đức Phật nói nhân duyên của Ác Kiến, các tì-kheo v.v… dứt bỏ tâm tham lam, bỏn xẻn, đắc bốn quả Sa-môn, có người phát tâm Vô thượng bồ-đề. Tất cả nghe Đức Phật nói đều hoan hỷ vâng giữ hành trì”.

Kinh Phó pháp tạng[20] ghi: “Bấy giờ, có vị a-la-hán tên là Tăng-già-da-xá, trí tuệ rộng lớn, giọng nói thanh nhã rõ ràng. Ngày xưa, lúc ngài đã xuất gia, nhưng chưa chứng đạo, một hôm trên đường giáo hóa, ngài đi đến vùng bờ biển, thấy một cung điện trang hoàng bảy báu, ánh sáng rực rỡ. Vào giờ thụ trai, ngài liền đến cung điện kia, nói kệ khất thực:

Đói là bệnh đệ nhất,
Hành là khổ đệ nhất,
Biết các pháp như thế,
Sẽ đắc quả Niết-bàn.

Lúc ấy, chủ nhà liền ra đón tiếp, trải chiếu mời ngài ngồi. Tăng-già-da-xá thấy trong nhà này có hai con quỉ, thân thể trần truồng gầy đen, đói khát yếu ớt, mỗi con đều bị xiềng xích vào chân giường, bên cạnh hai con quỉ đặt một bát đựng đầy cơm thơm và một bình nước.

Bấy giờ, chủ nhà lấy thức ăn đó cúng dường cho ngài Da-xá và nói:

– Đại đức! Ngài chớ đem thức ăn này cho hai con quỉ kia.

Da-xá thấy chúng quá đói khổ, liền lấy một ít cơm đem cho. Hai con quỉ vừa ăn cơm xong thì nôn ra máu mủ chảy khắp mặt đất, làm dơ cả cung điện. Da-xá kinh ngạc hỏi ông chủ:

– Hai con quỉ này vì nguyên nhân gì mà chịu quả báo khổ như vậy?

Chủ nhà đáp:

– Đời trước, hai con quỉ này, một đứa là con trai tôi, một đứa là con dâu tôi. Ngày xưa, thấy tôi bố thí để tạo các công đức, vợ chồng nó thường tức giận và tham tiếc. Tôi thường dạy bảo mà chúng không nghe lời. Nhân đó, tôi lập nguyện: ‘Tội như thế nhất định bị quả báo xấu, lúc chúng chịu tội, tôi sẽ trông coi’. Do nhân duyên đó mà chịu khổ như vậy.

Sau đó, Tăng-già-da-xá đi tiếp đến một nơi khác, thấy một tòa lầu gác được trang hoàng nhiều châu báu quí hiếm. Trong ấy chư tăng đi kinh hành, ngồi thiền rất đông. Đến giờ thụ thực, tiếng kiền chùy[21] vang lên, chúng tăng nhóm họp tại trai đường thụ thực. Khi sắp xong, các thức ăn ngon bỗng biến thành máu mủ, họ liền cầm bát ném nhau vỡ đầu, sưng mặt, máu chảy khắp thân, và tự than: ‘Sao chúng ta tham tiếc một chút thức ăn để nay phải chịu khổ thế này!’.

Tăng-già-da-xá đến hỏi nguyên nhân thì họ đáp:

– Trưởng lão! Vào thời Phật Ca-diếp, chúng tôi cùng ở chung với nhau. Một hôm, có khách tăng đến, chúng tôi tức giận, cất giấu thức ăn không chia cho vị ấy. Vì việc đó mà nay chúng tôi phải chịu khổ như vậy”.

Bài tụng nói về chính báo[22]:

[142b] Tham lam, giả đạo đức,
Sống bằng nghề sát sinh,
Lòng dối gạt muôn điều,
Tâm cầu lợi vạn thứ,
Chịu tội trong địa ngục,
Thói quen vẫn còn theo,
Bị dao bén lóc thịt,
Chỉ còn bộ xương trắng.

Bài tụng về Tập báo[23]:

Do lòng nhiều tham dục,
Chìm đắm trong đường ác,
Tội hết, sinh làm người,
Tập khí vẫn còn theo.
Thường ôm lòng lang sói,
Không ai thích gần gũi,
Suốt đời không tỉnh ngộ,
Đáng cười là người ngu.

XXIII.9. Giận dữ ghen ghét

Do bốn đại biến động, ba độc duổi rong, sáu giặc xâm hại, khiến phát sinh trăm mối lo dồn dập. Con người vốn đã nuôi lòng hiềm khích, nên luôn rình kiếm chỗ hay dở của nhau; hoặc luôn ôm mối hận thù, mà thường hãm hại nhau. Họ hoàn toàn mất hết nhân nghĩa, chẳng có lòng từ; tìm cách giết hại, tạo cớ giết, hoặc xúi người giết, hoặc khen sự giết, hoặc âm thầm đầu độc, hoặc bí mật dùng tà chú khiến vật độc đi vào lục phủ, ngũ tạng xé nát tâm can, làm cho người phải ngậm mối bi hận, mãi mãi ôm nỗi đau xuống cửu tuyền. Không biết dùng lời nào để nói hết nỗi oan khiên! Cho nên, kinh nói: “Trong nhà ông trưởng giả mọc nhiều cây độc, như người ôm phao qua biển mà la-sát theo xin”.

Cũng như một ngọn đèn có thể phá tan trăm năm tăm tối, một đốm lửa nhỏ cũng có thể thiêu rụi vạn bó củi khô. Thế mà, tâm sân hận còn hơn lửa dữ, cho nên người học đạo phải tự giữ gìn. Không có giặc cướp công đức nào ác hơn sân hận. Nếu một niệm lửa sân khởi lên, liền thiêu rụi tất cả các công đức lành. Do đó, người có tính ác thì tất cả mọi người và súc sinh đều kinh sợ. Không biết chọn người tốt để gần gũi thì lời nói trở thành ác độc; lòng luôn thích phá hoại người khác thì khiến người chán ghét. Người không có lòng từ ái, chúng sinh sẽ kinh sợ và ghét bỏ, lánh xa như tránh hổ sói; hiện tại bị người khinh miệt, sau khi chết sẽ đọa vào địa ngục. Cho nên, người trí thấy được lỗi này, phải dùng nhẫn nhục diệt trừ để chấm dứt đau khổ.

Kinh Chính pháp niệm ghi: “Nếu người nào khởi tâm sân hận là tự thiêu đốt thân mình. Tâm luôn sân hận thì dung mạo biến đổi, khiến mọi người đều kinh sợ, xa lánh, khinh miệt, ruồng bỏ, sau khi chết bị đọa vào địa ngục. Vì sân hận thì không việc ác nào mà không làm. Cho nên, người trí phải dứt bỏ tâm sân hận như tránh xa lửa dữ. Biết được lỗi của sân hận là tự làm lợi ích cho mình. Nếu muốn lợi ích cho mình và người thì phải thực hành hạnh nhẫn nhục.

[142c] Người dùng nước trí tuệ dập tắt lửa sân hận, cũng giống như người có sức mạnh dùng nước dập tắt lửa lớn đang thiêu đốt nhà cửa. Người hay nhẫn nhục thì tâm được thuần thiện. Nếu người bỏ được tâm sân hận thì ai cũng yêu mến, ưa gần gũi, tin tưởng, dung mạo luôn tươi sáng, tâm ý vắng lặng. Người khéo giữ tâm trong sạch thì thân miệng không lầm lỗi, hết sầu lo, không sợ đường dữ, dứt sự oán ghét, không mang tiếng xấu, không còn phiền não, oan gia chấm dứt, không bị người xấu chửi mắng, không còn các nỗi sợ hãi như hối tiếc, tiếng ác, điều bất lợi, bị khổ, tâm kiêu mạn. Nếu người không còn những nỗi sợ hãi như thế thì đầy đủ tất cả công đức, tiếng tốt đồn khắp, được niềm vui trong đời hiện tại và vị lai. Chúng sinh xem người nhẫn nhục ấy như cha mẹ, ưa thích gần gũi.

Thế nên, sân hận giống như rắn độc, dao bén, lửa dữ. Dùng nhẫn nhục diệt trừ thì mọi sân hận đều chấm dứt. Kiềm chế sự sân giận mới gọi là nhẫn.

Nếu người tu pháp lành thì nên suy nghĩ: “Nhẫn nhục giống như của báu cần phải khéo giữ gìn”. Nhưng chúng sinh, người thiện kẻ ác khác nhau; người ngu cho việc chửi mắng, vạch lỗi kẻ khác là hay, còn người trí thì cho hạ mình im lặng là trên hết. Người ngu, thường biến chuyện tranh cãi nhỏ thành oán thù lớn. Nếu mình hơn thì người kia oán hận càng sâu, ngược lại, thua người thì mình thêm buồn khổ. Vì thế, phải cẩn thận lời nói, không bàn lỗi của người. Người khác chửi mắng mình, đều là do nhân đời trước, chẳng phải vô cớ”.

Lục độ tập kinh[24]ghi: “Ngày xưa, có vị bồ-tát hóa làm một con voi chúa, tâm lượng rộng lớn, quán biết có Phật, pháp, tăng, nên qui y tam bảo, luôn dùng lòng từ cứu độ chúng sinh và phát nguyện: ‘Nếu thành Phật, ta sẽ độ tất cả chúng sinh’.

Voi chúa cai quản đàn voi năm trăm con, trong đó có hai con là vợ nó. Một hôm, voi chúa xuống ao hái được một hoa sen rất đẹp, liền cho vợ cả. Được hoa, vợ cả rất vui mừng nói:

– Tiết trời lạnh giá như thế, tại sao trong ao lại có hoa này?

Vợ nhỏ nổi lòng tham lam, ghen tức và thề:

– Ta sẽ dùng chất cực độc giết ngươi!

Vợ nhỏ do quá uất hận mà chết, thần thức đầu thai trở lại làm con gái một nhà giàu có, nhan sắc tuyệt trần, thông minh, hiểu thấu các việc xưa nay, có tài xem thiên văn, biết rõ thời vận thịnh suy.

Vua nghe tiếng, liền cưới cô ấy làm phu nhân. Vừa vào cung, phu nhân liền tâu trình chính sách cai trị đất nước, rất hợp với ý các trung thần, nên vua rất vui mừng và yêu quí, mỗi lời phu nhân nói ra vua đều nghe theo. Một hôm, phu nhân tâu:

– Thiếp nằm mộng thấy một con voi sáu ngà, nên muốn lấy ngà của nó để khảm lên ghế. Nếu bệ hạ không tìm được thì thiếp sẽ chết.

[143a] Vua nói:

– Nàng đừng nói những lời không hay như thế, mọi người nghe được sẽ chê cười!

Thấy phu nhân buồn rầu, vua liền cho gọi bốn vị đại thần đến bàn bạc, và nói đó là điềm mộng của mình rồi hỏi:

– Xưa nay có con voi như thế không?

Vị đại thần thứ nhất tâu:

– Tâu đại vương! Thần không nghe thấy!

Vị đại thần thứ hai tâu:

– Đại vương không mơ đấy chứ?

Vị đại thần thứ ba tâu:

– Thần nghe nói có con voi này, nhưng ở rất xa.

Vị đại thần thứ tư tâu:

– Nếu hỏi Đế Thích, sẽ biết rõ việc này.

Bốn vị đại thần cho gọi tất cả các thợ săn giỏi ở khắp nơi đến để hỏi việc đó.

Người thợ săn ở phương nam nói:

– Người cha quá cố của tôi nói có con voi đó, nhưng ở rất xa, khó đến được.

Bốn vị đại thần liền tâu lên vua:

– Tâu bệ hạ! Có một người biết!

Vua liền cho gọi người ấy đến. Phu nhân căn dặn:

– Ngươi đi thẳng về phía nam ba nghìn dặm, vào trong núi đi khoảng hai ngày thì đến chỗ con voi kia. Ngươi đào một cái hầm bên đường, cạo bỏ râu tóc, đắp ca-sa núp dưới hầm bắn nó, rồi cưa hai ngà mang về.

Thợ săn vâng lệnh, đi đến chỗ voi ở, núp bắn vào chân của nó trước, sau đó đắp pháp y, ôm bát đứng dưới hầm. Voi chúa thấy sa-môn, liền dập đầu nói:

– Kính lễ đạo sĩ! Vì cớ gì mà ngài muốn giết tôi?

Người thợ săn đáp:

– Ta muốn lấy ngà của ngươi.

Voi chúa nói:

– Tôi đau đớn khó chịu đựng nổi, ngài hãy cưa lấy ngà và đi nhanh, đừng để tâm tôi tán loạn khiến niệm ác khởi lên. Nếu khởi niệm ác, chết sẽ đọa vào địa ngục, ngạ quỉ, súc sinh. Phàm tu nhẫn nhục, thực hành hạnh từ bi, lấy thiện đáp ác, là hạnh cao thượng của bồ-tát.

Thợ săn liền cưa lấy ngà voi.

Voi chúa bảo:

– Đạo sĩ! Ngài hãy đi nhanh, chớ để đàn voi tìm thấy dấu vết.

Bảo thợ săn đi xa rồi, vì không chịu được sự đau đớn, voi quị hai chân xuống đất kêu lớn rồi an nhiên chết, thần thức liền sinh lên cõi trời.

Đàn voi khắp nơi kéo đến và hỏi:

– Ai giết vua của chúng tôi?

Chúng kéo nhau đi tìm, nhưng không thấy kẻ giết, liền trở về canh giữ xác của voi chúa, đau khổ gào khóc thống thiết.

Người thợ săn mang ngà voi về, vua vừa trông thấy vô cùng sợ hãi. Phu nhân cầm ngà voi trên tay vừa định xem thì bỗng nhiên bị sét đánh thổ huyết chết, thần thức đọa vào địa ngục.

Đức Phật bảo các tì-kheo:

– Voi chúa lúc đó chính là Ta, người vợ cả là Cù-di, người thợ săn là Điều-đạt, phu nhân là Hảo Thủ. Bồ-tát tu nhẫn nhục ba-la-mật thì phải giữ giới như thế”.

Luận Đại trí độ ghi: “Thích-đề-hoàn-nhân nói kệ hỏi Đức Phật:

Giết vật nào an ổn,
Giết vật gì hết lo,
Vật gì gốc của độc,
Diệt mất tất cả thiện?
Đức Phật nói kệ đáp:
[143b] Giết sân được an ổn,
Giết sân không còn lo,
Sân là gốc của độc,
Sân diệt tất cả thiện”.

Kinh Tạp bảo tạng có bài kệ:

Thắng người, người càng oán,
Thua người, ta khổ sầu,
Người chẳng tranh hơn thua,
Là người vui tột bậc.

Nếu người thực hành hạnh nhẫn nhục thì có được năm đức:

1. Không hận thù.
2. Không trách mắng.
3. Được mọi người thương yêu.
4. Tiếng tốt vang xa.
5. Đời sau sinh vào đường lành.

Năm đức này gọi là năm việc an lành.

Lại nữa, kinh Trường a-hàm[25] có bài kệ:

Ngu mắng, người trí im,
Tự cho mình đã thắng,
Người ngu không hiểu biết,
Bảo rằng ta sợ hãi,
Ta quán đệ nhất nghĩa,
Nhẫn nhục là tối thượng.
Những người tâm cực ác,
Giận hờn luôn chất chồng,
Không giận việc đáng giận,
Là chiến thắng tối thượng.
Làm người có hai việc,
Vì mình cũng vì người,
Mọi người có tranh cãi,
Không đáp lại mới hay.
Làm người có hai việc,
Vì mình cũng vì người,
Thấy người không tranh cãi,
Đừng cho là người ngu.
Nếu người có sức mạnh,
Mà nhịn kẻ yếu đuối,
Đấy mới là mạnh nhất,
Là hạnh nhẫn tối thượng.
Kẻ ngu cho mình mạnh,
Đây chẳng phải là mạnh,
Người nhẫn nhục như pháp,
Sức này không ai bằng.

Kinh Tu hành đạo địa[26] có bài kệ:

Miệng nói lời dịu dàng,
Nhưng lòng lại xấu xa,
Gặp người rất vui mừng,
Tỏ vẻ thích gần gũi.
Miệng nói lời hòa nhã,
Trong lòng lại độc ác,
Như cây hoa rất đẹp,
Quả lại đắng và độc.

Kinh Xích chủy ô dụ ghi: “Ngày xưa, có con quạ tên Câu-kỳ[27], làm tổ trên cây tại khu rừng rậm. Nó sinh con và kết bạn thân với một con khỉ. Lúc đó, trong rừng có con rắn độc luôn rình rập, đợi lúc Câu-kỳ đi vắng, [143c] liền đến bắt hết quạ con ăn thịt. Trở về thấy con bị mất, Câu-kỳ đau đớn khóc gào, không biết con mình ở đâu. Nó suy nghĩ mãi mới biết được rắn đã ăn con của mình. Khỉ trở về thấy Câu-kỳ buồn khóc, nên hỏi lý do.

Câu-kỳ đáp:

– Rắn bắt con của tôi ăn hết rồi!

Khỉ nói:

– Tôi sẽ trả thù cho bạn.

Bấy giờ, rắn độc đang bò đi thì khỉ đến vờn trước mặt. Rắn tức giận quấn lấy khỉ. Khỉ nắm được đầu của rắn, kéo đến chà xát vào một tảng đá cho chết, rồi ném bỏ xác rắn. Khỉ trở về báo tin, Câu-kỳ vô cùng vui mừng. Loài súc sinh còn báo thù như thế, huống gì loài người!”

Kinh Tạp thí dụ[28] ghi: “Ngày xưa, có một con rắn, đầu và đuôi tranh cãi nhau. Đầu nói:

– Ta lớn.

Đuôi nói:

– Ta lớn hơn.

Đầu nói:

– Ta có tai để nghe, mắt để thấy, miệng để ăn, lúc nào cũng đi trước, cho nên ta lớn hơn. Ngươi không có những khả năng đó thì làm sao gọi là lớn?

Đuôi nói:

– Ta cho đi thì ngươi mới đi được. Nếu ta không cho đi thì ngươi sẽ không đi được.

Nói rồi, nó liền dùng thân quấn vào cây ba vòng suốt ba ngày không buông ra. Đầu vì không tìm được thức ăn, đói khát sắp chết.

Đầu nói với đuôi:

– Ngươi hãy thả ra, ta chấp nhận ngươi lớn.

Đuôi nghe nói thế liền buông ra. Đầu nói với đuôi:

– Ngươi lớn hơn thì hãy đi trước.

Đuôi liền đi trước chưa được vài bước thì rơi xuống hố sâu chết”.

Truyện này Đức Phật dụ cho chúng sinh không có trí tuệ, mê chấp nhân ngã, cuối cùng phải đọa vào ba đường ác.

Luật Tăng-kỳ[29] ghi: “Vào đời quá khứ, có một đàn gà thường ở trong bụi rậm, bị chồn rình bắt ăn thịt, chỉ sót lại một con gà mái. Bấy giờ, có một con quạ đến sống chung và sinh được một con. Lúc nó tập kêu, quạ nói kệ:

Con không phải của ta,
Cha rừng, mẹ xóm thôn,
Sống chung sinh ra nó,
Không quạ, chẳng phải gà.
Nếu muốn học tiếng quạ,
Lại do gà sinh ra,
Nếu muốn học tiếng gà,
Cha nó lại là quạ.
Học quạ giống tiếng gà,
Học gà kêu tiếng quạ,
Học cả quạ và gà,
Cả hai đều không thành.

Ví dụ này là chỉ cho đạo sĩ tuy giữ giới cấm, nhưng chưa tinh thuần, còn tạp nhiễm, hình tướng tợ như thuần thiện, nhưng miệng nói ra lời ác. Muốn cho họ là người thiện, nhưng miệng họ lại nói ra những lời ác; muốn cho họ là người xấu, nhưng họ mang hình tướng xuất gia”.

Kinh Phạt độc thụ ghi: “Ngày xưa, trong khu vườn của một vị quan tại nước Xá-vệ, có mọc một loại cây độc. [144a] Người nào đi qua cây này đều bị đau đầu, hoặc bị đau lưng. Vị quan chặt bỏ, nhưng nó lại đâm chồi. Nó có vẻ đẹp khiến mọi người thích nhìn, nhưng họ không biết cây này rất độc. Người hiểu biết nói: ‘Phải đào tận gốc rễ’. Có người muốn đào, nhưng lại sợ chết, nên cứ lưỡng lự mãi. Người xuất gia học đạo cũng lại như thế.

Đức Phật liền nói kệ:

Đốn cây, không đào gốc,
Dù chặt, nó vẫn mọc,
Diệt ái không tận gốc,
Thì khổ lại phát sinh.

Vị tì-kheo tỉnh ngộ, lòng tự trách, liền đắc quả Tu-đà-hoàn”.

Lại trong kinh Bột[30] có bài kệ:

Điều ác từ tâm sinh,
Nó trở lại hại mình,
Như thanh sắt bị rỉ,
Hủy diệt hình tướng nó.
Cây trổ nhiều hoa, quả,
Ắt sẽ bị gãy cành,
Rắn hổ ngậm nọc độc,
Trở lại hại thân mình.

Luận Thiện kiến[31] có bài kệ:

Nếu người khởi tâm sân,
Giống như xe lao nhanh,
Người lái khéo điều khiển,
Cũng không có gì khó,
Người chế ngự tâm sân,
Việc ấy mới thật khó.

Kinh Tu hành đạo địa có bài kệ:

Người khởi tâm sân hận,
Thường oán ghét người khác,
Đời sau đọa thân rắn,
Hoặc làm loài thú dữ.
Như tre bị đốn ngang,
Chuối trổ, la nghén chửa[32],
Trở lại tự hại mình,
Nên phải khởi lòng từ.

Kinh Bách duyên ghi: “Lúc Đức Phật ở vườn tre Ca-lan-đà tại thành Vương Xá. Bấy giờ, trong thành kia có một vị trưởng giả tên là Hiền Diện, rất giàu có, của báu vô số không thể tính hết, nhưng tính tình xấu xa, tham lam, ghen tị, nịnh hót, không có tâm bố thí. Ngay đến các loài chim, ông cũng đuổi không cho đến gần nhà mình.

Một hôm, có các vị sa-môn và bà-la-môn nghèo khổ đến nhà ông khất thực, ông dùng những lời độc ác chửi mắng. Do đó, sau khi mạng chung ông đọa làm thân rắn, trở lại giữ tài sản. Có ai đến gần nhà thì nó trợn mắt nhìn giận dữ và muốn cắn chết.

Vua Tần-bà-sa-la nghe việc này, lòng vô cùng kinh sợ, liền nghĩ: ‘Rắn độc này thấy người là muốn giết hại, nay chỉ có Đức Phật mới điều phục được nó thôi’. Vua nghĩ như thế, liền dẫn quần thần đến chỗ Đức Phật, [144b] đỉnh lễ dưới chân Ngài, ngồi sang một bên. Vua trình bày rõ sự việc trên và thỉnh Đức Thế Tôn hàng phục rắn độc này, không để nó hại người nữa. Đức Phật liền chấp nhận.

Ngày hôm sau, Đức Phật đắp y, ôm bát đến chỗ rắn độc. Vừa thấy Đức Phật, nó liền nổi cơn giận dữ muốn cắn. Đức Phật vận sức từ bi, từ năm đầu ngón tay phóng ra ánh sáng năm màu chiếu vào thân rắn độc kia, khiến toàn thân nó được mát mẻ, lửa độc tiêu trừ, lòng rất vui vẻ, ngoảnh đầu nhìn bốn phía và suy nghĩ: ‘Người này có phúc đức gì mà phóng ánh sáng chiếu vào thân thể khiến ta được mát mẻ thế này?’ Nó vui mừng không thể kể xiết.

Bấy giờ, Đức Thế Tôn điều phục được rắn độc và nói nhân duyên đời trước của nó. Nghe xong, rắn độc tự trách, phiền não được tiêu trừ, tự nhớ biết đời trước mình là một trưởng giả, đã tạo các nghiệp ác, nên nay phải chịu quả báo này. Rắn độc liền ở trước Đức Phật, khởi lòng kính tin.

Đức Phật bảo:

– Đời trước ngươi không nghe lời Ta dạy nên phải chịu mang thân rắn này. Nay ngươi hãy lắng nghe.

Rắn độc thưa:

– Con sẽ nghe theo lời dạy của Đức Thế Tôn, không dám làm trái!

Đức Phật liền bảo:

– Nếu ngươi đã thuần phục thì hãy bò vào trong bát của Ta.

Đức Phật vừa nói xong, nó liền bò vào bát, Ngài mang về thả trong rừng. Vua và quần thần nghe Đức Phật đã điều phục được rắn độc và nhốt trong bình bát mang về, nhân dân cả nước kéo nhau đến xem. Khi thấy mọi người nhìn, rắn độc vô cùng hổ thẹn, chán ghét thân rắn, liền mạng chung, được sinh làm một vị trời lên cõi Đao-lợi. Bấy giờ, vị trời suy nghĩ: ‘Ta đã tạo phúc lành gì mà được sinh lên cõi trời?’. Vị trời liền quán sát, biết được lúc ở thế gian làm thân rắn, nhờ gặp Đức Phật mà sinh lòng kính tin và chán ghét thân rắn, nên đời sau được sinh lên cõi trời hưởng sự vui sướng. Vị trời nói: ‘Nay ta sẽ trở lại báo ân Đức Phật’. Vị trời hiện thân ánh sáng rực rỡ, mang hương hoa đến, đỉnh lễ dưới chân Đức Phật, cúng dường hoa hương xong, ngồi sang một bên, nghe Phật nói pháp, tâm ý khai thông, chứng quả Tu-đà-hoàn, liền nói kệ:

Bậc Đại Thánh cao tột,
Công đức đều đầy đủ,
Hay độ kẻ tối tăm,
Khiến chóng thành đạo quả.
Trừ cấu bẩn não phiền,
Vượt khỏi biển sinh tử,
Nay nhờ ơn Đức Phật,
Thoát khỏi ba đường ác.

Lúc bấy giờ, thiên tử khen ngợi Đức Phật, nhiễu quanh ba vòng, rồi trở về thiên cung. Vua Tần-bà-sa-la và hội chúng nghe Đức Phật nói về nhân duyên xan tham, có người đắc bốn quả Sa-môn, có người phát tâm Vô thượng bồ-đề, tất cả đều vui mừng, tin nhận, hành trì”.

[144c] Lại nữa, kinh Bách duyên ghi: “Lúc ở nước Kiều-tát-la, Đức Phật cùng các vị tì-kheo muốn đến bên cây lặc-na. Trên đường đi, ngang qua một đầm lầy có năm trăm người chăn năm trăm con trâu rất hung dữ. Từ xa, trông thấy Đức Phật cùng các tì-kheo đang đi đến, những mục đồng vội gọi lớn:

– Xin Đức Thế Tôn chớ đi con đường này! Vì trong đàn trâu kia có một con rất hung dữ, thường húc chết người, Ngài không thể qua được!

Bấy giờ, Đức Phật bảo năm trăm người chăn trâu:

– Các ngươi chớ lo sợ, giả sử trâu dữ kia đến húc, Ta sẽ tự biết cách đối phó!

Đức Phật vừa nói dứt lời, trâu dữ kia liền chạy đến, cong đuôi, cúi sừng, chân dậm xuống đất và rống lớn rồi lao thẳng về phía Đức Phật.

Lúc ấy, từ năm đầu ngón tay của Đức Như Lai hóa ra năm con sư tử đứng vây quanh Ngài, và có hầm lửa lớn bao bọc bốn phía. Trâu dữ kia thấy vậy vô cùng hoảng sợ, chạy quanh tìm lối thoát nhưng không có, chỉ thấy còn một khoảnh đất nhỏ trước chân Đức Phật là an ổn, mát mẻ. Nó liền chạy đến đó, bỗng nhiên lòng không còn lo sợ, quì xuống cúi đầu liếm chân Đức Phật, rồi ngẩng lên nhìn Ngài, vui mừng khôn xiết.

Bấy giờ, Đức Như Lai biết tâm của trâu dữ kia đã được điều phục, liền nói kệ:

Tâm ý khởi ác độc,
Muốn đến tổn hại Ta,
Mong sẽ được chiến thắng,
Trái lại, liếm chân Ta.

Khi trâu dữ nghe Đức Phật nói kệ xong, lòng vô cùng hổ thẹn, bỗng nhiên tỉnh ngộ, phiền não tiêu trừ. Nó liền biết được đời trước của mình làm người tạo nhiều nghiệp ác, lòng càng xấu hổ, không màng đến ăn uống. Sau đó nó mạng chung, được sinh làm thiên tử trên cõi trời Đao-lợi. Vừa sinh đến, vị trời bỗng thấy thân mình cao lớn như đứa trẻ tám tuổi, liền suy nghĩ: ‘Ta tu phúc lành gì mà được sinh lên cõi trời này?’. Thiên tử quán sát biết được lúc còn ở thế gian làm thân trâu, nhờ Đức Phật hóa độ mới được sinh lên cõi trời này, lại nghĩ: ‘Ta nay sẽ trở lại báo ân Đức Phật’. Nghĩ như vậy rồi, thiên tử liền mang hương hoa đến chỗ Đức Phật, ánh sáng rực rỡ chiếu rọi khắp nơi, đỉnh lễ dưới chân Đức Phật, ngồi sang một bên. Bấy giờ, Đức Phật nói pháp tứ đế. Thiên tử nghe xong, tâm ý thông suốt, đắc quả Tu-đà-hoàn, liền đứng dậy nhiễu quanh Đức Phật ba vòng, rồi trở về thiên cung.

Sáng sớm hôm sau, năm trăm người chăn trâu kéo nhau đến chỗ Đức Phật. Nghe Phật giảng pháp vi diệu, tâm ý họ khai thông, mỗi người đều hiểu được lý đạo, cầu xin xuất gia. Đức Phật nói:

– Thiện lai tì-kheo!

Râu tóc của họ tự rụng, thân đắp ca-sa, liền thành sa-môn. Sau đó, họ siêng năng tu tập, đắc quả A-la-hán.

Các tì-kheo thấy việc này, liền bạch Đức Phật:

– Bạch Đức Thế Tôn! Trâu dữ này và năm trăm người chăn trâu kia, kiếp trước tạo nghiệp gì mà chịu quả báo như thế? Lại tu phúc lành gì mà gặp được Đức Thế Tôn?

Đức Phật bảo các tì-kheo:

– Các ông muốn biết nghiệp báo của họ đã tạo ở kiếp trước, Ta sẽ nói cho các ông rõ. Đức Phật liền nói kệ:

Nghiệp thiện, ác đã tạo,
Năm kiếp vẫn không mất,
Nhờ nhân duyên thiện nghiệp,
Nay được phúc báo này.

[145a] Vào kiếp Hiền, tại nước Ba-la-nại, có Đức Phật Ca-diếp ra đời. Bấy giờ, trong pháp hội có vị tì-kheo Tam Tạng dẫn năm trăm đệ tử đến nước khác giáo hóa. Lúc ở trong chúng hội cùng nhau bàn luận, có người vặn hỏi, nhưng tì-kheo Tam Tạng trả lời không thông suốt, liền nổi giận, mắng nhiếc: ‘Các ngươi đã không hiểu biết, lại còn vặn hỏi ta, chẳng khác nào loài trâu muốn đến húc người’.

Lúc ấy, các vị đệ tử đều im lặng bỏ đi. Do miệng nói lời ác như thế, nên vị tì-kheo này năm trăm đời sinh làm trâu và năm trăm đệ tử làm người chăn trâu luôn đi theo canh giữ, đến hôm nay vẫn chưa được giải thoát.

Đức Phật bảo các tì-kheo:

– Các ông nên biết, tì-kheo Tam Tạng lúc ấy, nay chính là con trâu hung dữ nhất trong đàn, các vị đệ tử lúc đó, nay là năm trăm người chăn trâu. Khi Đức Phật nói nhân duyên này, mỗi người tự giữ gìn ba nghiệp thân, miệng, ý, chán ghét sinh tử, đắc bốn quả Sa-môn, có người phát tâm Vô thượng bồ-đề. Nghe Đức Phật nói, tất cả đều vui mừng, vâng lời hành trì”.

Bài tụng Chính báo:

Người ngu nhiều sân hận,
Bị lửa địa ngục thiêu,
Lang, sói đứng vây quanh,
Rắn độc tranh nhau đến,
Giận dữ cắn xé ăn,
Bụng lưng bị xuyên thủng,
Mình làm mình phải chịu,
Lửa sân tranh nhau đốt.

Bài tụng Tập báo:

Tâm sân nhiều độc hại,
Chìm đắm trong đường ác,
Hết tội, sinh làm người,
Dư báo vẫn theo hại,
Thấy người, liền tìm lỗi,
Hiềm giận như cỏ độc,
Điều này không lợi ích,
Sân, ngu có quí gì!

[145b] XXIII.10. Nhận thức sai lầm

Người mới học đạo, cần phải lấy lòng tin làm đầu. Giống như người đến được núi báu, nếu không có đôi tay tín thì chẳng lấy được gì cả. Cho nên, trong kinh nói: Người ngu si không biết nhân quả, vọng khởi tà kiến, phỉ báng tam bảo và pháp tứ đế. Lại cho không có họa phúc, thiện ác, nghiệp báo thiện ác, cũng không có chúng sinh thụ sinh đời này, đời sau. Những người phá pháp thiện ác như thế, gọi là đoạn căn lành, nhất định sẽ đọa vào địa ngục A-tỳ.

Như kinh Đại phẩm[33] ghi: “Nếu người không tin tam bảo, phỉ báng kinh Đại thừa bát-nhã, sẽ đọa vào địa ngục A-tỳ chịu khổ trăm nghìn vạn ức năm, từ địa ngục này đến địa ngục khác. Nếu cõi này hư hoại thì sinh vào địa ngục ở cõi khác; địa ngục cõi ấy hư hoại thì sinh trở lại địa ngục cõi này, cứ xoay vần như thế, khắp cả mười phương thế giới. Các địa ngục cõi khác hư hoại thì sinh trở lại địa ngục ở thế gian này. Khi tội địa ngục hết, người ấy sinh vào loài súc sinh, cũng ở khắp cả mười phương thế giới. Khi chịu tội trong loài súc sinh xong, người ấy được sinh làm người, nhưng ở nơi không có Phật pháp, nghèo cùng, hèn hạ, không đủ các căn, thường ngu si, không hiểu biết, dẫu là người thông minh, nhưng cố chấp sai lầm cũng là tà kiến”.

Do đó, luận Thành thật ghi: “Ngu si có sai khác. Vì sao? Vì không phải tất cả người ngu si đều là bất thiện. Nếu ngu si tăng mạnh trở thành tà kiến thì gọi là bất thiện nghiệp đạo. Cho nên, do ngu si làm tăng trưởng tà kiến, nên mắc tội rất nặng, ắt sẽ đọa vào địa ngục A-tì. Xét về tà kiến, có nhẹ có nặng; nhẹ có thể chuyển, nặng không thể chuyển”.

Kinh Bồ-tát địa trì[34] ghi: “Tà kiến có hai loại:

1- Tà kiến có thể chuyển

2- Tà kiến không thể chuyển.

Như phỉ báng nhân quả, không tin có bậc thánh là loại tà kiến không thể chuyển. Không phải nhân mà chấp là nhân, không phải quả mà chấp là quả, là loại tà kiến có thể chuyển. Thế nên, nghiệp ác là tà kiến, nghiệp thiện là chính kiến”.

Không phỉ báng pháp tứ đế, nhưng không hiểu thánh đạo, không thông đạt chân lý từ tâm phát sinh, thường khổ thân để cầu giải thoát, giống như con chó đuổi theo viên đá mà không biết tìm người ném viên đá.

Cho nên, luận Đại trang nghiêm ghi: “Giống như loài sư tử, lúc bị người bắn, liền tìm theo đến chỗ người bắn. Còn loài chó ngu si kia, có người ném viên đá, liền đuổi theo viên đá mà không biết tìm người ném đá. Nói sư tử là dụ cho người có trí tuệ hiểu biết, xét thấu nguồn gốc của phiền não mà diệt trừ. Con chó ngu si là dụ cho ngoại đạo, dùng năm thứ lửa[35] thiêu đốt thân, không biết nguồn gốc của chơn tâm. Nhưng kẻ phàm ngu phần nhiều mê mờ chân lý, không biết quán xét thân, [145c] tâm vốn vô ngã, mà chỉ học tu khổ hạnh, cho đó là đạo, tức giống với bọn ngoại đạo tu theo tà pháp, chấp sai lầm, trái chân lý, cho nên thành pháp ác. Do đó, luận Đại trí độ ghi: “Tội tà kiến rất nặng, tuy giữ giới, hai nghiệp thân, miệng dù tốt, song cũng thuộc tà kiến, vì có tâm ác”.

Đức Phật nói thí dụ: “Nếu gieo hạt đắng, tuy nhờ bốn đại nuôi dưỡng, nhưng đến khi cây lớn lên trổ quả cũng có vị đắng”. Người tà kiến cũng thế, dù siêng năng trì giới, cũng thành pháp ác. Kẻ tà kiến không bằng người bố thí chút ít mà không chấp trước. Người không chấp thì dễ giáo hóa, kẻ cố chấp khó độ, không những tự hủy hoại mình mà còn làm tổn thương người khác”.

Nên luận Thành thật ghi: “Thà không tu, chứ không nên tu theo tà đạo. Nếu không, sau khi mạng chung sẽ đọa vào đường ác”.

Kinh Chính pháp niệm ghi: “Diêm-la vương nói bài kệ trách các tội nhân:

Ngươi ngu si, tà kiến,
Bị dây si trói buộc,
Đọa vào địa ngục này,
Ở trong biển khổ lớn.
Ác kiến đốt hết phúc,
Làm người thấp hèn nhất,
Ngươi sợ đọa địa ngục,
Nhưng đó là nhà ngươi.
Nếu ai khởi tà kiến,
Người ấy không trí tuệ,
Tất cả nghiệp địa ngục,
Do tâm oán tạo ra.
Tâm oán là bậc nhất,
Oán này vô cùng ác,
Oán này hay trói người,
Dẫn xuống vua Diêm-la.

Bấy giờ, Đức Thế Tôn liền nói kệ:

Si như cá di-nê,
Ở trong nhà tham ái,
Tạo nghiệp thì vui cười,
Chịu khổ lại gào khóc”.
Lại nữa, kinh Tu hành đạo địa có bài kệ:
Miệng nói lời ngu si,
Người đó lòng mê muội,
Tâm không nghĩ điều ác,
Cũng không nhớ việc thiện.
Tâm hồn thường mờ mịt,
Không làm được việc gì,
Như chiên nấu ngoài gió,
Thức ăn không thể chín.
Huân tập ngu si nhiều,
Các căn không đầy đủ,
Sinh trong loài trâu, dê,
Sau đó đọa địa ngục.

Kinh Nguyệt Quang đồng tử[36], cũng gọi là kinh Phật thuyết Thân Nhật ghi: “Lúc bấy giờ, có trưởng giả tên Thân Nhật, nghe theo kế độc của bọn lục sư ngoại đạo[37], thỉnh Phật và chúng tăng đến nhà cúng dường. [146a] Họ bảo trưởng giả đào một cái hầm sâu khoảng năm trượng sáu ở ngay cửa ra vào, dùng than lửa đổ xuống hơn nửa hầm, bên trên gác những thanh sắt nhỏ, rồi phủ một lớp đất mỏng. Đồng thời, họ bày biện các thức ăn đã tẩm thuốc độc ở trong nhà. Họ bảo nhau: ‘Nếu hầm lửa không hại được thì thuốc độc trong thức ăn cũng đủ giết chết Phật và chúng tăng. Cứ theo kế hoạch này thì sợ gì Phật không chết’. Trưởng giả làm đúng như lời chỉ bảo, bọn ngoại đạo rất vui mừng.

Bấy giờ, Thân Nhật liền đến chỗ Đức Phật, ân cần thỉnh Ngài và thánh chúng. Đức Thế Tôn vì thương xót ông ta quá ngu si, cuồng loạn, muốn hóa độ ông, nên im lặng nhận lời. Thân Nhật vô cùng vui mừng và nghĩ: ‘Quả thật đúng như dự đoán của ta’.

Dù chất độc nhiều như núi Tu-di, kiếp hỏa có thể thiêu rụi nghìn cõi nước, và dao kiếm bén nhọn cũng đều không thể chạm đến một sợi lông của Đức Phật. Nay chỉ dùng một hầm lửa nhỏ và thức ăn tẩm độc mà muốn hại Đức Phật thì chẳng khác nào ruồi, muỗi muốn xô ngã núi Tu-di, hoặc như cánh mối, nhặng muốn che lấp mặt trời, mặt trăng. Như vậy, chỉ tự hủy hoại mình. Sao không sớm hối cải?

Bấy giờ, trưởng giả bị tội lỗi che mờ, tâm trí không thông. Đức Thế Tôn nghĩ: ‘Nay Ta nhận lời mời của Thân Nhật thì không nên đến một cách bình thường được’. Đức Phật liền vận sức thần thông, chấn động cả mười phương, rồi cùng với trăm nghìn thánh chúng và vô số các rồng, thần trên hư không hoặc dưới mặt đất, cùng lúc đến nhà làm lợi ích cho trưởng giả. Đức Phật dùng oai thần biến hầm lửa thành ao bảy báu đầy nước có đủ tám tính chất; cơm và thức ăn có tẩm độc đều biến thành món ăn cam lộ cõi trời. Mọi người đều rất vui mừng.

Thế là, lục sư ngoại đạo kinh sợ bỏ chạy, trưởng giả qui phục, cúi đầu đỉnh lễ dưới chân Đức Phật rồi thưa:

– Nay con mới biết nhờ Phật mà được giác ngộ!

Người đến dự hội nghe pháp âm của Đức Phật đều sinh phúc đức, được lợi ích không thể tính kể”.

Kinh Quán Phật tam-muội[38] ghi: “Bấy giờ, Đức Thế Tôn nói với phụ vương:

– Nhà của trưởng giả Tu-đạt ở thành Vương Xá, có một bà lão giúp việc rất siêng năng tên là Tỳ-đê-la, được trưởng giả giao chìa khóa kho và trông coi tất cả mọi việc thu chi trong nhà.

Một hôm, Tu-đạt thỉnh Phật và chúng tăng đến cúng dường những thứ cần dùng. Bấy giờ, các tì-kheo bệnh đến xin nhiều thứ, nên bà lão ấy khởi lòng tham tiếc, bỏn xẻn, sân hận, ghen ghét Phật, pháp, tăng nên nói:

– Trưởng giả tôi bị phép thuật của sa-môn mê hoặc trở nên ngu si. Họ chỉ là những người xin ăn, mong cầu mãi không biết chán, nào có đạo đức gì!

Nói thế rồi, bà liền phát nguyện xấu: ‘Ta nguyện đời đời không nghe đến tên Phật và tăng’. Lời nguyện xấu ấy lan dần đến thành Vương Xá. Phu nhân Mạt-lợi nghe được liền nói:

– Trưởng giả Tu-đạt đẹp như hoa sen, mọi người thích tiếp xúc, tại sao lại có người giúp việc ác như rắn độc vậy?

Phu nhân cho gọi vợ của Tu-đạt đến hỏi:

– Nhà ngươi có bà già giúp việc miệng mồm độc ác, [146b] chuyên phỉ báng Phật, pháp, tăng, tại sao không đuổi đi?

Vợ Tu-đạt quì xuống thưa:

– Người xấu ác như Ương-quật-ma-la v.v… mà Đức Phật còn hàng phục được, huống gì bà tớ già này!

Phu nhân Mạt-lợi nghe nói thế, lòng vô cùng vui mừng bảo:

– Ta thỉnh Phật ngày mai vào cung cúng dường. Ngươi hãy bảo bà giúp việc đến đúng vào giờ thụ trai.

Sáng hôm sau, trưởng giả Tu-đạt sai bà giúp việc đem một bình đựng đầy vàng đến giúp vua cúng dường. Phu nhân Mạt-lợi thấy bà đến, liền suy nghĩ: ‘Người tà kiến này, nếu Đức Phật hóa độ, ta cũng được lợi ích’.

Bấy giờ, Đức Phật từ cửa chính đi vào, Nan-đà hầu bên trái, A-nan hầu bên phải, La-hầu-la đi phía sau. Bà lão vừa thấy Phật liền run sợ và nói: ‘Người xấu này theo sau ta đến đây!’

Nói xong, bà bỏ chạy, định chui qua lỗ chó để thoát ra ngoài. Bỗng nhiên lỗ kia liền bít lại và các cửa xung quanh đều đóng kín, chỉ trừ cửa chính. Bà liền dùng quạt che mặt. Đức Phật đứng trước bà và khiến cho cây quạt trong suốt như tấm kiếng, không còn che mặt được. Bà quay nhìn về phía đông thì thấy phía đông có Phật; nhìn về phía nam, tây, bắc cũng đều thấy như thế. Nhìn lên trên thì thấy phía trên có Phật, nhìn xuống đất cũng thấy khắp mặt đất đều có Phật. Bà dùng tay che mặt lại, thì mười đầu ngón tay đều hóa thành Phật. Bà nhắm mắt lại, tâm nhãn liền khai mở, thấy Hóa Phật trên hư không khắp cả mười phương thế giới. Lúc ấy, trong thành có hai mươi lăm người nữ thuộc giai cấp Chiên-đà-la, năm mươi người nữ thuộc giai cấp Bà-la-môn và các giai cấp khác, cùng vào cung của phu nhân Mạt-lợi. Tất cả năm trăm người đó, trước kia không tin Phật, nhưng hôm nay thấy Đức Phật bay trên hư không, hiện vô số thân để giáo hóa bà giúp việc, họ liền dứt hết tà kiến, đỉnh lễ Đức Phật và niệm ‘Nam-mô Phật’. Vừa niệm xong, thấy hóa Phật nhiều vô số, họ liền phát tâm bồ-đề. Tuy thấy Đức Phật, bà lão tà kiến vẫn chưa khởi lòng kính tin, nhưng nhờ gặp Đức Phật, nên trừ được tội sinh tử trong tám mươi vạn ức kiếp. Sau khi gặp Phật rồi, bà chạy nhanh về nhà thưa với trưởng giả Tu-đạt:

– Hôm nay tôi gặp một việc rất xấu, thấy sa-môn Cù-đàm ở trong cung vua, làm các trò huyễn hóa, thân như núi vàng, mắt như hoa sen xanh, phóng ánh sáng rực rỡ.

Nói xong, bà lấy trăm tấm da trùm lên cái lồng gỗ, rồi chui vào đó, dùng miếng vải trắng trùm kín đầu, nằm trong bóng tối.

Khi Đức Phật sắp trở về tinh xá Kì-hoàn, phu nhân Mạt-lợi thưa:

– Bạch Đức Thế Tôn! Xin Ngài ở lại giáo hóa bà lão tà kiến kia, đừng trở về tinh xá!

Đức Phật bảo phu nhân Mạt-lợi:

– Bà lão này tội rất nặng, không có duyên với Ta, nhưng có nhân duyên rất lớn với La-hầu-la.

Phật trở về tinh xá, liền sai La-hầu-la đến nhà Tu-đạt hóa độ bà lão kia.

Bấy giờ, La-hầu-la biến thành Chuyển luân thánh vương, một nghìn hai trăm năm mươi vị tì-kheo hóa làm thiên tử, cùng nhau đến nhà Tu-đạt, biến bà lão kia thành ngọc nữ. Lúc ấy, Chuyển luân thánh vương dùng ngọc như ý chiếu vào mặt bà lão, [146c] khiến bà tự thấy mình như ngọc nữ. Lòng vô cùng vui mừng, bà nói:

– Các vị sa-môn kia chỉ khoác lác, tự nói mình có đạo, nhưng chẳng có chút linh nghiệm gì. Bậc Chuyển luân thánh vương ra đời, làm lợi ích khắp nơi, khiến cho bà lão xấu xí như ta trở thành ngọc nữ!

Nói xong, bà ấy gieo năm vóc sát đất đỉnh lễ Chuyển luân thánh vương. Bấy giờ, vị quan coi về kinh điển diễn nói mười điều thiện cho bà nghe. Nghe xong, bà vô cùng vui mừng và suy nghĩ: ‘Lời của Chuyển luân thánh vương nói ra đều đúng!’. Bà liền đỉnh lễ, sám hối tội lỗi, tự trách, tâm hoàn toàn thuần phục.

Bấy giờ, La-hầu-la và các tì-kheo hóa lại hình tướng cũ. Bà lão trông thấy, liền nói: ‘Phật pháp thanh tịnh không bỏ chúng sinh. Người xấu ác như ta mà vẫn được hóa độ!’

Bà xin lãnh thụ năm giới, đắc quả Tu-đà-hoàn. La-hầu-la dẫn bà đến chỗ Đức Phật, đỉnh lễ sám hối tội lỗi. Sau đó, bà xin Phật xuất gia, rồi chứng quả A-la-hán, bay lên hư không hóa hiện mười tám thứ thần biến.

Vua Ba-tư-nặc và phu nhân Mạt-lợi thấy vậy, liền bạch Đức Phật:

– Bạch Đức Thế Tôn! Bà lão này đời trước đã tạo tội gì mà nay làm thân tôi tớ? Lại tạo phúc lành gì mà được gặp Phật và đắc đạo?

Đức Phật đáp:

– Vào thời quá khứ lâu xa, có Đức Phật Nhất Bảo Cái Đăng Vương ra đời. Sau khi Đức Phật nhập niết-bàn, vào thời tượng pháp có một vị vua tên là Tạp Bảo Hoa Quang. Vua có người con tên là Khoái Kiến xuất gia học đạo, cậy mình là vương tử, nên lòng thường kiêu mạn. Khi hòa thượng bổn sư nói nghĩa ‘Đại không’ sâu xa vi diệu của kinh Bát-nhã Ba-la-mật, vương tử nghe xong, hiểu sai, nói bậy. Sau khi bổn sư thị tịch, vương tử nói:

– Đại hòa thượng bổn sư của tôi không có trí tuệ, chỉ biết khen ngợi nghĩa ‘không’. Tôi nguyện đời sau không muốn gặp ông ta. Vị A-xà-lê của tôi có trí tuệ, biện tài, nguyện đời đời làm thiện tri thức của tôi.

Nói xong, ông còn dạy bảo đồ chúng làm theo tà kiến. Tuy ông ta giữ giới cấm, nhưng do phỉ báng kinh Bát-nhã, hiểu sai, nói bậy, nên sau khi mạng chung bị đọa vào địa ngục A-tỳ, chịu khổ vô lượng trải qua tám mươi ức kiếp. Khi tội địa ngục hết, sinh lại làm người nghèo cùng, hèn hạ, năm trăm đời chịu thân đui, điếc ngu si, một nghìn hai trăm năm thường làm kẻ tôi tớ.

Đức Phật bảo vua Ba-tư-nặc:

– Vị hòa thượng lúc ấy, nay chính là Ta; vị a-xà-lê nay là La-hầu-la; vương tử tì-kheo, nay là bà lão này; các chúng đệ tử, nay là những người nữ tà kiến phát tâm bồ-đề này”.

Kinh Tát-già Ni-kiền tử[39] ghi: “Ngày xưa, Đức Phật còn tại thế, ở thành Uất-xà-diên. Lúc ấy, vua Nghiêm Xí hỏi Tát-già Ni-kiền tử:

– Nếu có người ác, không tin tam bảo, thiêu đốt chùa tháp, kinh sách, tượng Phật, bồ-tát, dùng lời ác độc phỉ báng rằng: ‘Người xây chùa, in kinh, tạo tượng sẽ[147a] không có phúc đức; người cúng dường chùa tháp, kinh Phật hiện tại bị hao tổn tiền của mà tương lai không được lợi ích gì’; hoặc ghét chùa tháp tượng Phật, bồ-tát, ngăn trở hoặc phá hoại, hoặc bắt dời đi nơi khác; hoặc đập phá nhà cửa, hang động của sa-môn; hoặc chiếm đoạt vật của Phật, pháp, tăng như ruộng vườn, nhà cửa, voi ngựa, xe cộ, người công quả, súc vật, áo quần, ngọa cụ và châu báu; hoặc dùng roi vọt đánh đập bắt sa-môn làm sai dịch, buộc họ phải hoàn tục; hoặc có tâm khinh thường bày các trò đùa giỡn; hoặc chỉ trích, chửi mắng, phỉ báng; hoặc tự tay cầm cây đánh đập; hoặc dùng mọi cách làm sa-môn bị thương; những người ác như thế, thuộc loại chúng sinh nào?

Tát-già Ni-kiền tử đáp:

– Đại vương! Người ấy thuộc loại chúng sinh phạm tội ngũ nghịch. Đại vương nên dùng hình phạt nặng nhất để trị tội những người đó. Vì sao? Vì họ tạo tội căn bản cực nặng. Có năm tội nặng căn bản:

1- Phá hoại chùa tháp, thiêu đốt kinh tượng, lấy vật tam bảo, tự lấy, hoặc bảo người lấy, hay thấy người lấy mà vui mừng.

2- Phỉ báng pháp tam thừa, cản trở, che giấu không lưu truyền.

3- Nếu có sa-môn tín tâm xuất gia, cạo bỏ râu tóc, thân đắp ca-sa, dù giữ giới hoặc không giữ giới cũng đều bắt nhốt vào ngục, gông cùm xiềng xích, dùng roi vọt đánh đập, bắt lao động nặng nhọc, hoặc lột áo ca-sa, bức ép họ hoàn tục, hoặc giết chết.

4- Phạm một tội trong ngũ nghịch.

5- Không tin có tất cả nghiệp báo thiện ác, thường làm mười điều ác, không sợ quả báo đời sau, tự làm, hoặc bảo người khác làm, cố chấp không bỏ.

Nếu người phạm tội nặng căn bản như thế mà không tự sám hối, thì nhất định tất cả căn lành sẽ bị thiêu rụi, đọa vào địa ngục lớn, chịu khổ không ngừng, vĩnh viễn không có ngày ra.

Nếu đất nước có những người ác phá hoại tam bảo như thế, tất cả chư Phật và a-la-hán, thánh nhân đều bỏ đi, chư thiên buồn khóc, thiện thần không ủng hộ. Mọi người giết hại lẫn nhau, giặc cướp hoành hành khắp nơi, long vương ẩn mất, hạn hán xảy ra, mưa gió thất thường, ngũ cốc mất mùa, nhân dân đói khát, ăn nuốt lẫn nhau, xương trắng đầy đồng, bệnh tật gia tăng, chết chóc vô số. Tất cả nhân dân thấy thế mà không biết tự suy xét lỗi của mình, trái lại, oán trời, trách thiện thần”.

Kinh Quán Phật tam-muội ghi: “Có bảy loại tội nặng, mỗi một tội có thể khiến [147b] chúng sinh rơi vào địa ngục A-tỳ, trải qua tám vạn bốn nghìn đại kiếp:

1. Không tin nhân quả
2. Phỉ báng không tin có Phật ở mười phương
3. Đoạn giống trí tuệ
4. Phạm bốn tội trọng, luống uổng cơm tín thí
5. Lạm dụng vật của chư tăng
6. Bức hiếp, phá hạnh thanh tịnh của tì-kheo-ni
7. Làm hạnh bất tịnh với lục thân.[40]”

Kinh Tiểu ngũ trược ghi: “Người phạm tội ngũ nghịch, có năm hạng:

1. Khinh thường cha mẹ, thờ cúng quỉ thần
2. Ganh ghét quốc vương
3. Khinh mạn sư trưởng
4. Coi nhẹ thân mạng, quí trọng tiền tài
5. Không làm phúc, còn tạo tội lỗi”.

Kinh Trung a-hàm ghi: “Đức Phật bảo các tì-kheo:

– Nếu kẻ phàm phu ngu muội, ba nghiệp thân, miệng, ý tạo ác, sau khi mạng chung đọa vào địa ngục, chịu khổ vô cùng, không một chút vui vẻ.

Như có người phạm tội trộm bị bắt giao cho vua. Vua liền sai người, buổi sáng đâm một trăm mũi giáo vào mình người tội, nhưng người kia vẫn sống; đến trưa, vua lại sai đâm hai trăm mũi giáo, người kia vẫn còn sống; đến chiều, vua lại sai đâm ba trăm mũi giáo. Tuy toàn thân tan nát, nhưng người ấy vẫn còn sống.

Đức Phật hỏi các tì-kheo:

– Các ông nghĩ sao? Người này bị giáo đâm có đau khổ không?

Các tì-kheo đáp:

– Bạch Đức Thế Tôn! Một ngọn giáo đâm đã đau đớn rồi, huống gì ba trăm mũi!

Đức Phật liền đưa tay bốc một nắm đá vụn lớn bằng hạt đậu, rồi hỏi các tì-kheo:

– Đá trong tay ta so với đá ở núi Tuyết, đá nào nhiều hơn?

Các tì-kheo đáp:

– Bạch Đức Thế Tôn! Đá trong núi Tuyết nhiều hơn, không thể so sánh được.

Đức Phật bảo các tì-kheo:

– Nỗi khổ bị ba trăm mũi giáo đâm ít như nắm đá vụn này. Còn nỗi khổ trong địa ngục gấp trăm nghìn vạn lần so với đá ở núi Tuyết. Các ông thấy sự đau khổ trong địa ngục như thế nào?

Có chúng sinh đọa vào địa ngục, ngục tốt dùng búa nung đỏ chém khắp thân thể. Trải qua trăm nghìn năm chịu đau khổ vô cùng mà tội nhân vẫn không chết. Khi nghiệp ác ở đây chấm dứt, tội nhân lại bị bắt ngồi trên giường sắt ngục tốt dùng kềm kẹp miệng, bắt nuốt hòn sắt nóng, trải qua trăm nghìn năm; lại bị bắt ngồi trên giường sắt, rót nước đồng sôi vào miệng, trải qua trăm nghìn năm. Kế đó tội nhân bị bắt nằm trên đất sắt, ngục tốt dùng đinh sắt nóng đóng khắp thân thể, trải qua trăm nghìn năm. Ngục tốt lại kéo lưỡi tội nhân ra bắt liếm vào đất sắt, dùng đinh đóng căng ra như căng da trâu, trải qua trăm nghìn năm. Ngục tốt lại kéo gân cổ tội nhân buộc vào xe kéo, trải qua trăm nghìn năm. Lại đốt đất sắt nóng, rồi bảo tội nhân đi trên đó, trải qua trăm nghìn năm. [147c] Núi lửa đang cháy, ngục tốt bắt tội nhân đi trên đó, vừa đặt chân xuống máu thịt tiêu tan, nhấc chân lên thì sống trở lại, trải qua trăm nghìn năm. Tội nhân lại bị chiên nấu trong vạc dầu sôi, trải qua trăm nghìn năm, chịu đau khổ vô cùng, nhưng vẫn không chết. Đến khi tội hết mới ra khỏi. Chịu tội trong địa ngục xong, họ lại vào loài súc sinh, thường ở nơi tối tăm ăn nuốt lẫn nhau, chịu khổ vô cùng không thể nói hết. Chịu tội trong loài súc sinh xong, họ có thể được sinh làm người. Nhưng từ loài súc sinh đến được làm người rất khó, giống như con rùa mù gặp bộng cây nổi. Giả sử được sinh làm người, cũng nghèo cùng, hèn hạ, bị người khác sai khiến, dung mạo xấu xí, không đủ các căn, hoặc bị chết yểu. Nếu người tạo nghiệp ác thì cứ chết đi sống lại, luân chuyển mãi trong địa ngục, không thể nói hết.

Đức Phật bảo các tì-kheo:

– Kẻ phàm phu ngu muội, thân, miệng, ý tạo nghiệp ác nên phải chịu tội như thế.

Đức Phật lại bảo:

– Người có trí tuệ, ba nghiệp thân, miệng, ý tạo nghiệp thiện, sau khi mạng chung được sinh lên cõi trời, hưởng thụ vui sướng, như vua Chuyển luân có đầy đủ bảy báu[41] và bốn diệu[42] của nhân gian.

Đức Phật lại hỏi các tì-kheo:

– Các ông nghĩ sao? Việc này có vui không?

Các tì-kheo thưa:

– Bạch Đức Thế Tôn! Được một vật báu và một món diệu cũng rất vui rồi, huống gì được bảy báu và bốn diệu!

Đức Phật lại đưa tay bốc một nắm đá vụn lớn bằng hạt đậu, rồi hỏi các tì-kheo:

– Đá trong tay ta so với đá ở núi Tuyết, đá nào nhiều hơn?

Các tì-kheo thưa:

– Bạch đức Thế Tôn! Đá trong núi Tuyết nhiều không thể ví dụ được.

Đức Phật bảo các tì-kheo:

– Niềm vui của Chuyển luân thánh vương so với niềm vui ở cõi trời giống như nắm đá vụn này với đá trong núi Tuyết. Các ông thấy niềm vui của cõi trời thế nào? Nếu người được sinh lên cõi trời, tùy ý hưởng thụ sáu trần, vui vẻ vô cùng không thể kể xiết. Nếu từ cõi trời sinh xuống nhân gian, lại sẽ sinh vào cung vua, hoặc dòng tộc cao quí, rất giàu sang, nhiều tiền của, vật báu, tiếng tăm vang xa, tướng mạo đoan chính, nhan sắc xinh đẹp, được mọi người yêu mến. Người có trí tuệ, ba nghiệp thân, miệng, ý tạo điều lành thì được phúc như vậy. Đây là niềm vui hữu lậu của thế gian. Nếu người tu tập căn lành, hồi hướng đạo Bồ-đề, cho dù ở trong sinh tử vẫn hưởng thụ phúc báo ấy. Mãi đến khi chứng Niết-bàn phúc báo ấy cũng không hết”.

Bài tụng Chính báo:

Sáu giặc gian tà, ngụy,
Bảy thức loạn, trái chân,
Luôn phỉ báng chính pháp,
Vọng ngữ, lại tham, sân,
[148a] Tha hồ tạo nghiệp ác,
Lời đúng không thích nghe,
Đọa vào ngục Vô gián,
Muôn khổ trói buộc thân.

Bài tụng Tập báo:

Người tà kiến, ngu si,
Chịu khổ ngục A-tỳ,
Tội hết, sinh làm người,
Lại tiếp tục tà kiến,
Tà, chính vốn trái nhau,
Tự tạo thành dối trá,
Tâm này nếu không đổi,
Chìm mãi trong địa ngục.

——————————————
[1] Tứ nhiếp pháp 四攝法 (S: catvāri saṃgraha-vastūni): bốn phương pháp bồ-tát dùng để nhiếp thụ chúng sinh, khiến họ sinh khởi tâm thân ái mà dẫn dắt họ vào Phật đạo để đạt ngộ. Đó là bố thí, ái ngữ, lợi hành và đồng sự.
 
[2] Luật Tứ phần (Tứ phần luật 四分律; S: Dharmagupta-vinaya): luật, sáu mươi quyển, do ngài Phật-đà-da-xá và Trúc Phật Niệm cùng dịch ở Trường An vào đời Diêu Tần, Trung Quốc, khoảng 410-412, được xếp vào Đại chính tạng, tập 22.
 
[3] Kinh Hoa thủ (Hoa thủ kinh 華首經; S: Kuśala-mūla-saṃgraha): kinh, mười quyển, do ngài Cưu-ma-la-thập dịch vào đời Diêu Tần, Trung Quốc, được xếp vào Đại chính tạng, tập 16. Nội dung kinh này thuật lại việc Đức Phật ở vườn tre Ca-lan-đà thành Vương Xá, giảng nói cho các bồ-tát ở mười phương nghe về quá trình đắc đạo của Đại thừa bồ-tát, quả báo khổ đau của việc hủy báng hành giả Đại thừa và công đức hộ trì Phật pháp, tạo tượng v.v.
 
[4] Luận Đại trí độ (Đại trí độ luận 大智度論; S: Mahāprajñāpāramitaśastra): luận, một trăm quyển, do bồ-tát Long Thụ soạn, ngài Cưu-ma-la-thập dịch vào đời Hậu Tấn, Trung Quốc, được xếp vào Đại chính tạng, tập 25. Nội dung luận này giải thích kinh Đại phẩm bát-nhã.
 
[4] Kinh Báo Ân (Báo ân kinh 報恩經; Cg: kinh Đại phương tiện Phật báo ân): kinh, bảy quyển, chín phẩm, mất tên người dịch. Nội dung kinh này nói lúc Đức Phật ở núi Linh Thứu, A-nan nghe ngoại đạo chê trách Đức Phật không có hiếu, nên bạch Phật. Đức Phật liền phóng ánh sáng nhóm họp chư bồ-tát khắp mười phương, Ngài nói về nhân duyên thái tử Tu-xà-đề lấy thịt của mình để cứu cha mẹ, hoặc lên cõi trời Đao-lợi thuyết pháp cho mẹ nghe.
 
[4] Thất thánh tài 七聖財: bảy thánh pháp để thành tựu Phật đạo. Đó là tín, giới, tàm, quí, văn, thí, tuệ. Vì bảy pháp được giữ gìn này có công năng trợ giúp cho việc thành Phật, nên gọi là tài.
 
[7] Dư báo 餘報: nghiệp báo đời trước còn sót lại.
 
[8] Luận Tát-bà-đa (Tát-bà-đa luận 薩婆多論): luận, chín quyển, mất tên người dịch, được xếp vào kinh sách đời Tần.
 
[9] Kinh Phân biệt nghiệp báo (Phân biệt nghiệp báo kinh 分別業報經): kinh, một quyển, bồ-tát Đại Dũng soạn, ngài Tăng-già-bạt-ma đời Tống dịch. Kinh này đều là kệ tụng; nội dung giải thích nghiệp báo của năm đường.
 
[10] Nhiếp Luận 攝論 (S: Mahãyãmã-Samparigraha-Sastra): luận, ba quyển, do ngài Vô Trước người Ấn Độ soạn, ngài Huyền Trang dịch, được xếp vào Đại chính tạng, tập 31. Nội dung luận này bao gồm tất cả yếu nghĩa pháp môn thánh giáo của Phật giáo Đại thừa.
 
[11] Kinh Niết-bàn (Niết-bàn kinh 涅槃經; Gđ: kinh Đại bát Niết-bàn; S: Mahã-parinirvãna-Sũtra): kinh, ba quyển, do ngài Pháp Hiển dịch vào đời Đông Tấn, Trung Quốc, Được xếp vào Đại chính tạng, tập 1. Nội dung kinh này giảng thuyết về giáo nghĩa Như Lai thường trụ, chúng sinh đều có Phật tính, hạng xiển-đề thành Phật.
 
[12] Luận Đại trang nghiêm (Đại trang nghiêm luận 大莊嚴論. Gđ: Đại trang nghiêm kinh luận): luận, mười lăm quyển, do ngài Mã Minh sáng tác; ngài Cưu-ma-la-thập dịch. Nội dung ghi chép rộng rãi những câu chuyện về tiền thân, hiện đời của Đức Phật, cho đến những chuyện liên quan đến việc thiện ác, nhân duyên, thí dụ vào thời đại của người biên soạn, với mục đích đưa con người vào chính tín.
 
[13] Kinh Tăng nhất A-hàm (Tăng nhất A-hàm kinh 僧一阿含經; S: Ekottari kãgama): kinh, năm mươi mốt quyển. Do ngài Tăng-già-đề-bà thời Đông Tấn dịch. Gồm nhiều bài kinh ngắn do Đức Phật tùy thời nói cho chư thiên và người nghe. Kinh này mang đậm tư tưởng Đại thừa.
 
[14] Kinh Xuất diệu (Xuất diệu kinh 出曜經; S: Dharmatrāta): kinh hoặc luận , ba mươi quyển, do tôn giả Pháp Cứu soạn, ngài Trúc Phật Niệm đời Diêu Tần, Trung Quốc dịch vào khoảng năm 351-417 đời Đông Tấn, được xếp vào Đại chính tạng, tập 4. Nội dung kinh này gồm 34 phẩm, được hình thành bởi những bài kệ tụng theo hình thức giáo huấn của Phật giáo và tập hợp các sự tích theo lối chú thích.
 
[15] Luật Thập tụng (Thập tụng luật 十誦律): luật, sáu mươi mốt quyển, do hai ngài Phất-nhã-đa-la và Cưu-ma-la-thập cùng dịch vào đời Diêu Tần, Trung Quốc, được xếp vào Đại chính tạng, tập 23. Nội dung bộ luật này chia giới luật thành mười phần để giải thích.
 
[16] Diệt thụ tưởng định 滅受想定 (Cg: diệt tận định; S: nirodha-samāpatti): định diệt trừ tâm và tâm sở để trụ ở vô vi tâm, cùng với Vô tưởng định, gọi là nhị vô tâm định. Nhưng vô tưởng định là quả vị chứng đắc của hàng dị sinh phàm phu. Còn định này là quả vị chứng đắc của Phật và các vị a-la-hán, bậc đã xa lìa định chướng, đầy đủ sự giải thoát.
 
[17] Ưu-bà-di 優婆夷 (S: upāsikā): người nữ tôn kính tam bảo, thụ tam qui, giữ năm giới, thực hành thiện pháp, là một trong hai chúng đệ tử tại gia của Phật.
 
[18] Ưu-bà-tắc 優婆塞 (S: upāsaka): người nam phụng thờ tam bảo, thụ trì năm giới, là một trong hai chúng đệ tử tại gia của Phật.
 
[19] Kinh Bách duyên: tức kinh Soạn tập bách duyên (Soạn tập bách duyên kinh 撰集百緣經; S: Avadāna-śataka), mười quyển, do ngài Chi Khiêm dịch vào đời Ngô, được xếp vào Đại chính tạng, quyển 4. Nội dung bộ kinh này gồm mười phẩm, nói về nhân duyên nghiệp báo thiện ác của chúng sinh.
 
[20] Kinh Phó pháp tạng (Phó pháp tạng kinh 付法藏經; Cg: Phó pháp tạng nhân duyên truyện): kinh hoặc truyện, sáu quyển, do ngài Cát-ca-dạ và Đàm Diệu cùng dịch vào đời Nguyên Ngụy, Trung Quốc, được xếp vào Đại chính tạng, tập 50. Nội dung nói về sự tích truyền pháp và thế hệ truyền thừa của hai mươi ba vị tổ Ấn Độ.
 
[21] Kiền chùy 犍椎 (Cg: kiền trĩ): khí cụ để đánh báo giờ trong tự viện. Theo luật Ngũ phần 18 và đại tì-kheo tam thiên uy nghi, quyển hạ, khi bố-tát hoặc tụng kinh, để tập hợp chúng tăng thụ trai.., các chùa đều có đánh kiền chùy, giống như đánh bảng trong tự viện ngày nay.
 
[22] Chính báo 正報: quả báo chính thể của hữu tình do nghiệp nhân quá khứ mà cảm được. Tức thân tâm của hữu tình hiện tại.
 
[23] Tập báo 集報: quả báo do tập khí ác quá khứ còn sót lại.
 
[24] Lục độ tập kinh 六度集經: kinh, tám quyển, do ngài Khương Tăng Hội dịch vào đời Ngô, Trung Quốc, được xếp vào Đại chính tạng, tập 3. Nội dung kinh này gồm chín mươi mốt câu chuyện bản sinh của Đức Phật, phối hợp với lục độ mà thành.
 
[25] Kinh Trường A-hàm (Trường A-hàm kinh 長阿鋡經; S: Dīrghāgama): kinh, hai mươi quyển, do ngài Phật-đà-da-xá và Trúc Phật Niệm cùng dịch vào năm 413 đời Hậu Tần, Trung Quốc, được xếp vào Đại chính tạng, tập 1; là một trong bốn bộ A-hàm Bắc truyền.
 
[26] Kinh Tu hành đạo địa (Tu hành đạo địa kinh 修行道地經; S: Yoga-cārya-bhūmi-sūtra): kinh, bảy quyển, ba mươi phẩm, do sa-môn Chúng Hộ soạn, Trúc Pháp Hộ đời Tây Tấn dịch. Nội dung luận này nêu rõ pháp tướng của ngũ ấm và hành pháp tam thừa.
 
[27] Câu-kỳ 拘耆: tên loài quạ mỏ đỏ.
 
[28] Kinh Tạp thí dụ (Tạp thí dụ kinh 雜譬喻經): kinh, một quyển, ba mươi chín dụ, ngài Cưu-ma-la-thập dịch. Nội dung chủ yếu là nêu các nhân duyên thí dụ để thuyết minh, lí luận về thiện ác nghiệp báo.
 
[29] Luật Tăng-kỳ (Tăng-kỳ luật 僧祈律; S: Mahāsaṅghavinaya): luật nói về hai trăm năm mươi giới tì-kheo và ba trăm bốn mươi tám giới tì-kheo-ni.
 
[30] Kinh Bột (Bột kinh 孛經): kinh, do cư sĩ Chi Khiêm dịch ở nước Nhục-chi vào đời Ngô. Bột là tên vị quốc sư nước Lam-đạt, tiền thân Đức Phật.
 
[31] Luật Thiện kiến (Thiện kíên luật 善見律; S: Samantapăsădikă.): luật, nói về sự kết tập kinh điển lần thứ nhất, thứ hai, thứ ba và việc truyền trì luật tạng và việc con vua A-dục tên Ma-thẩn-đà đến Tích Lan truyền giáo. Từ quyển 4 trở về sau chủ yếu chú thích luật Tứ phần.
 
[32] La nghén chửa (la hoài nhâm 騾懷妊): con la sinh sản một lần rồi chết.
 
[33] Kinh Đại phẩm tức kinh Đại phẩm bát-nhã (Đại phẩm bát-nhã kinh 大品般若經; S: Pañcaviṃśati-sāhasrikā-prajñāpāramitā): kinh, hai mươi bảy quyển, chín mươi phẩm, ngài Cưu-ma-la-thập dịch (402-412). Nội dung nói về bát-nhã không quán thuộc thời kì đầu của Phật giáo Đại thừa.
 
[34] Kinh Bồ-tát Địa trì (Bồ-tát Địa trì kinh 菩薩地持經): kinh, hai mươi bảy phẩm, nêu rõ phương tiện tu hành của bồ-tát Đại thừa, chia làm ba phần: sơ phương tiện xứ, thứ pháp phương tiện xứ và tất cánh phương tiện xứ .
 
[35] Năm thứ lửa (ngũ hỏa 五火): lửa bốn phía và ánh nắng mặt trời.
 
[36] Kinh Nguyệt Quang đồng tử (Nguyệt Quang đồng tử kinh 月光童子經): kinh, do ngài Trúc Pháp Hộ dịch vào đời Tây Tấn. Nội dung kinh này nói về ông Thân Nhật và lục sư ngoại đạo mưu hại Đức Phật, dù cho con ông khuyên can mà ông vẫn không nghe. Ông Được Đức Phật dùng thần lực giáo hoá, cuối cùng ăn năn sám hối và qui y Phật.
 
[37] Lục sư ngoại đạo 六師外道: sáu phái ngoại đạo có thế lực lớn ở Trung Ấn Độ vào thời Đức Phật còn tại thế.
 
[38] Kinh Quán Phật tam-muội (Quán Phật tam-muội kinh 觀佛三昧經; S: Buddha-dhyāna-samādhisāgara-sūtra): kinh, nói về việc Đức Phật thuyết pháp để độ cho phụ vương là Duyệt-đầu-đàn và di mẫu là Kiều-đàm-di tại rừng Ni-câu-lâu-đà, thành Ca-tỳ-la-vệ.
 
[39] Kinh Tát-già ni-kiền tử (Tát-già ni-kiền tử kinh 薩遮尼乾子經; S: Bodhisattva-gocaropāya-viṣaya-vikurvaṇa-nirdeśa): kinh thuật lại việc lục sư ngoại đạo Đại Tát-già Ni-kiền-tử trả lời câu hỏi của bồ-tát Văn-thù về pháp Đại thừa thâm diệu, được Phật khen ngợi và thụ kí.
 
[40] Lục thân 六親: sáu loại người gần nhất với mình. Đó là cha, mẹ, anh, em, vợ, con.
 
[41] Bảy báu (Thất bảo 七寶; S: sapta ratnāni): bảy thứ đồ quý. Theo phẩm Thụ ký trong kinh Hoa nghiêm ghi: “vàng, bạc, lưu li, xa cừ, mã não, trân châu, mai khôi”. Theo kinh Vô lượng thọ: “Vàng, bạc, lưu li, pha lê, san hô, mã não, xa cừ”.
 
[42] Bốn diệu (tứ diệu 四妙; Cg: tứ đức): bốn đức của Chuyển luân thánh vương. Đó là trường thọ, không bệnh, dung mạo xinh đẹp và nhiều của báu.