Mục Lục Chi Tiết
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh
Đức Thích Ca thị hiện ở Ấn Độ, tại Vườn Lâm-tỳ-ni (Lumbini) thành Ca-tỳ-la-vệ(Kapilavatthu). Hiện nay là lãnh thổ của nước Népal. Con của Vua Suddhodana (Tịnh Phạn vương) và hoàng hậu Mahā Māyā (Ma Da, Đại Hòa) sinh ra thái tử Siddhattha (Tất Đạt Đa) về sau thành Phật hiệu là Sākyamuni (Thích Ca Mâu Ni). Năm 623 TCN. Cách nay hơn 25 thế kỷ.
Nếu tính đến nay là 2638 năm. Thời niên thiếu Thái tử được học văn, võ song toàn. Sau lần Thái tử Siddhattha dạo chơi bốn cửa thành cùng với Channa (Xa-nặc) là người hầu Thái tử, và đi ngang ra cửa thành phía Đông gặp ông lão nghèo nàn, lưng còng, răng rụng hết, đi thất thểu, mặt cúi xuống đất, hơi thở phì phào, đầu bạc như tuyết, tay chống gậy, run rẩy, khập khểnh. Ra cửa thành phía Nam gặp một người bệnh, thân hình tiều tụy, run rẩy, nằm trên phẩn và nước tiểu của mình bên lề đường, rên rĩ thảm thiết, hầu như sắp chết. Ra cửa thành phía Tây gặp một xác chết nằm bên vệ đường, bắt đầu sình ươn, hôi thúi, ruồi nhặng bu quanh, trông rất ghê tởm. Ra cửa thành phía Bắc thấy một vị sa môn mặc áo cà-sa, trang nghiêm trầm tĩnh, vẻ mặt thanh thoát, chân bước khoan thai. Vị Sa môn nói với Thái tử rằng: “Thưa thái tử, tôi nhận thấy con người tại gia luôn luôn bị đau khổ về sinh, già, bệnh, chết, tất cả các pháp ở thế gian đều vô thường, bại hoại, không an, nên tôi lìa gia đình, thân tộc, đến ở chỗ an nhàn, thanh vắng, để cầu thoát ách khổ não ấy. Tôi tu tập đạo vô lậu giải thoát, điều phục năm giác quan, không cho sa ngã vào năm cảnh dục lạc của thế gian, phát tâm từ bi để ban những pháp vô úy cho đời, và giữ tâm bình đẳng hộ niệm chúng sinh không bị ô nhiễm bởi các pháp thế gian, được đạo giải thoát. Đó là mục đích xuất gia của tôi.” (Trung Bộ Kinh, Majjhima Nikaya, Bài kinh số 26: Kinh Ariyapariyesana) Thái tử nghe xong trong lòng hoan hỉ, tự nghĩ rằng: “Trong toàn cõi nhân thiên, có lẽ chỉ có lối tu xuất gia này là hơn hết”. Thái tử liền giục tả hữu quày xe trở về thành. Chiều hôm đó Thái tử ngồi trầm ngâm suy nghĩ: “Chính thân ta phải chịu sanh, già, bệnh, chết, phiền não và ô nhiễm. Tại sao mọi người vẫn mải mê chạy theo tài sản danh vọng là những cái mà bản chất đều vô thường như vậy? Sống trong sanh, già, bệnh, chết, phiền não và ô nhiễm, ta đã nhận thức được sự tai hại của những điều ấy. Hay ta thử đi tìm cái chưa ai thành đạt, cái chân lý tuyệt đối, cái hạnh phúc tối thượng của cảnh niết bàn. “(Trung Bộ Kinh, Majjhima Nikaya, Bài kinh số 26: Kinh Ariyapariyesana).
Rồi thái tử lại nghĩ: “Đời sống tại gia thật tù túng chật hẹp, là chỗ ẩn náu của bụi trần ô trược, phiền não và ràng buộc. Chỉ có xuất gia mới có thể có được một đời sống an tịnh, thong dong, tự tại.” (Trung Bộ Kinh, Majjhima Nikaya, Bài kinh số 36: Kinh Mahāsaccaka). Thái tử Trầm tư và suy nghĩ muốn xuất gia chính là để cố tìm ra phương thức thoát khỏi những cảnh đau khổ trong sinh, già, bệnh, chết, sanh tử luân hồi cho chính ta và cho tất cả chúng sanh đang mê muội chìm đắm triền miên trong biển khổ sanh sanh tử tử.
Năm 595 TCN. Thái tử Siddhattha (Tất Đạt Đa) 291 tuổi, Ngài im lặng từ biệt công chúa Yasodharā và Rāhula (vợ và con trai) lần cuối và bỏ hoàng cung xuất gia làm Sa môn. Tầm sư học đạo, đến bờ sông Anomā thuộc làng Anupiya, xứ Malla, tham vấn ông Bhargava đang tu khổ hạnh; kế đến một làng gần thủ đô Vesālī, xứ Vajji (Bạt-kỳ), học với vị đạo sư thứ nhất là Ālāra Kālāma, đạt đến bậc thiền Vô Sở Hữu Xứ. Rồi ngài lại đến Rājagaha (Vương-xá), thủ đô xứ Magadha (Ma- kiệt-đà), học với vị đạo sư thứ hai là Uddaka Rāmaputta về bậc thiền Phi Tưởng Phi Phi Tưởng Xứ. Chỉ độ vài ngày đã học hết sở học của thầy. Nhưng chưa được thỏa mãn với trình độ chứng ngộ đó. Ngài đến làng Uruvelā bên bờ sông Neranjana chuyên tu khổ hạnh trong 6 năm nữa. Sau đó Ngài lại bỏ lối tu khổ hạnh để lập ra pháp tu trung đạo. Và 49 ngày sau, Ngài thành đạo dưới cội cây Bồ-đề (Tất-bát-la). Ngài đã trừ sạch nội ma, hàng phục tất cả ngoại ma và vào một buổi sáng tinh sương, đã thành bậc Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác tôn hiệu là Thích Ca Mâu Ni Như Lai. Thành đạo rồi, suốt 49 năm ròng rã, dấu chân của Ngài đã in khắp đó đây trong xứ Ấn và các miền lân cận chỉ vì một mục đích duy nhất là hóa độ chúng sinh để dẫn dắt họ qua biển mê đến bờ giác.
Vào ngày 15 tháng 2 Âm lịch, giữa rừng Sa la Song thọ, sau 49 năm 1 Theo Trường Bộ (Digha Nikaya), Kinh số 16 (Mahà Parinibbàna sutta)đã truyền dạy những điều quan yếu cho tứ chúng và độ cho vị lãnh tụ ngoại đạo là ông Tu-bạt-đà-la là người đệ tử cuối cùng, Đức Phật nhập Niết-bàn.
Vào năm 1950, trong một Đại hội Phật Giáo Quốc tế tại Tích Lan.
Tổng Hội Phật Giáo Thế Giới xác nhận Phật nhập Niết-bàn vào năm 544 TCN, Ngài 80 tuổi, từ đó suy ra năm Đản sanh của Ngài là năm 623 TCN.
Theo phong tục Ấn, tuổi được tính từ lúc thọ thai, đến lúc mới sinh đã kể một tuổi (Tạng Luật, Đại Phẩm, tập 1; 141). Nếu muốn tính năm Phật lịch thì lấy năm dương lịch cộng với 544.
Ví dụ: Dương lịch năm 2000 tương đương với Phật lịch là năm 2544, và nếu năm 2014 thì Phật lịch là 2558. Và toàn thể Phật giáo đồ đã đồng thuận lấy ngày Đấng Toàn Giác viên tịch làm Phật lịch, đồng thời cũng lấy ngày ấy làm lễ kỷ niệm Phật Đản hàng năm. Do đó, chúng ta nên đề: Kỷ niệm Đại Lễ Phật đản, Phật lịch năm (2558, 2559),… cho đúng với thực tế.
Sau khi Niết-bàn, Đức Phật đã để lại cho nhân loại nói chung và Phật giáo đồ nói riêng một kho tàng văn hiến đồ sộ. Kho tàng này đã trải qua 4 kỳ chỉnh trang là bốn kỳ Kết tập. Gọi là Đại Tạng Kinh.
1. Tại thành Vương-xá: Ngay trong năm Đức Phật viên tịch. Lần kết tập thứ nhất này cũng gọi là Ngũ bách kết tập, Quật nội kết tập, Thượng Tọa kết tập. Vị ngoại hộ cho kỳ kết tập nầy là Vua A-xà-thế.
2. Tại thành Tỳ-xá-ly: Sau khi Đức Phật diệt độ 100 năm. Kỳ này, do Trưởng lão Da-xá triệu tập khoảng 700 Thánh chúng tham dự.
3. Tại Ba-tra-lợi-phất: Sau khi Phật tịch diệt khoảng 235 năm. Lần kết tập thứ ba này do Mục-kiền-liên tử Đế-tu chủ trì và có 1000 vị Tỳ-khưu tham gia.
4. Tại Ca-thấp-di-la: Khoảng 400 năm sau khi Đức Phật nhập Niết-bàn.
Chính nhờ vào thần lực của kho tàng vô giá (Tam Tạng Kinh) ấy, nên đạo Phật đã dễ dàng phát triển khắp nơi, nhất là Á Châu. Cứ theo cuốn Sāratthadippanī sớ giải của Tạng Luật chép: “Vua A-dục (Asoka) sai 5 vị Tỳ-khưu sang 5 xứ ở nước Trung Hoa để truyền bá Phật pháp từ thế kỷ thứ III trước Tây lịch”.
Sau đó, vào năm 372 sau Tây lịch, đạo Phật từ Trung Hoa được truyền vào Triều Tiên (Đại Hàn). Năm 552, Phật giáo từ Triều Tiên truyền vào Nhật Bản. Và khoảng từ thế kỷ thứ II tới thứ IV hay thứ V, Phật pháp du nhập vào các quốc gia như: Việt Nam, Đài Loan, Tây Tạng, Mông cổ, Yarkan, Bokhara, Afghanistan v.v… Đây là nói về Bắc truyền Phật giáo hay Đại thừa Phật giáo.
Riêng về Nam truyền Phật giáo, quốc gia đầu tiên được tiếp nhận đạo Phật là Tích Lan. Vua A-dục (218 sau CN) sau khi trở thành Phật tử đã cho Hoàng tử Ma-hê-đà (Mahinda) và Công chúa Tăng-già-mật- đa (Sanghamitta) xuất gia và sau đó sai hai người con này sang Tích Lan truyền bá Phật giáo (xem sử ký Mahavamsa do các vị giám đốc quốc sử viện Tích Lan soạn). Trong thời gian truyền bá Phật giáo ở Tích Lan, Công chúa Tăng-già-mật-đa đã đem một nhánh cây Bồ-đề chiết tại cây chính nơi Đức Phật thành đạo và trồng tại Anuradhapura Tích Lan vào năm 306 trước Tây lịch. Cây ấy đến nay vẫn còn. Từ Tích Lan đạo Phật truyền sang Miến Điện, Arakam, Pegou. Và đến thế kỷ thứ VII Phật giáo lan rộng tới Thái Lan, Cam Bốt, Lào…