MINH BÁO KÝ

Thời Tiền Đường, Lại bộ thượng thư Đường Lâm soạn thuật
Việt dịch: Linh Sơn Pháp Bảo Đại Tạng Kinh
Hội Văn Hóa Giáo Dục Linh Sơn Đài Bắc Xuất Bản

 

LỜI TỰA

Phàm, ngậm khí mà sinh không gì chẳng có thức, có thức mà có hành, tùy hành vi thiện ác mà nhận chịu quả báo đó. Như người nông phu gieo trồng, tùy sự gieo trồng ấy mà thâu hoạch kết quả, đó là lý thường của vật, hẳn không gì đáng nghi. Hàng thượng trí thấu đạt cội nguồn, biết mà không thấy, hàng hạ ngụ mờ tối vết tích đó, mê mờ mà chẳng trái đều hết phải nói, còn với hạng người trung lưu, chưa thể tự thấu đạt, theo duyên động thấy, theo thấy mà sinh nghi, nghi thấy có nhiều mối, mỗi tự ôm giữ chấp trước khác nhau. Kinh sách nhà Phật luận bàn phân biệt đó, có cả thảy sáu mươi hai kiến. Tà vạy trái ngược từ đó phát sinh vậy.

Đường Lâm tôi từ tuổi trung niên trở về sau may mà có tỉnh ngộ chút ít trong muôn một, nhân thấy mọi người không tin nhân quả, nói thấy tuy nhiều, đồng chi là thiện ác không có quả báo. Thuyết không quả báo lược có ba thứ: Một là Tự nhiên, nên không nhân quả, chỉ đang mặc tình muốn chờ đợi việc mà thôi. Hai là Diệt tận, nói chết là thân diệt hoại, Thức không chỗ nương trú, thân và thức đếu mất hết, ai nhận chịu khổ vui. Vì không nhận chịu nên biết không nhân quả. Ba là không quả báo, nói thấy người hiện nay có tu đạo đức, mà nghèo khổ thì chết sớm, có kẻ làm điều hung ác, giàu sang lại sống lâu dài. Với việc như vậy, nên biết không nhân quả. Đường Lâm tôi trộm cho rằng, sách của Nho gia luận bàn quả báo thiện ác có lắm nhiều. Gần thì quả báo ngay đương thời, vừa vừa thì quả báo ngoài nhiều năm, xa thì quả báo về sau đến con cháu. Quả báo ngay đương thời, như Sở Tử ăn nuốt đĩa, bệnh cố tật đều lành. Tống công không cầu đảo, yêu tinh phần nhiều lui tan. Náo xỷ hung nghịch, vụt chốc theo phục thù giết chết. Triệu Cao hoặc loạn bỗng chốc diệt mất tông tộc v.v… vậy. Quả báo nhiều năm, như Ngụy Lão vọng lấy chồng cuối cùng đem tế thầy. Tôn Tịch chôn rắn cuối cùng hưởng nhiều phước, Hán Chẩm Như ý thương cẩu thành tai họa. Tể giết bành sinh lập heo mà sùng quý v.v… vậy. Quả báo đến đời con cháu, như Phất Phụ cung kính Vương Mạng, Quảng Tuyên Đạo của Ni, Đặng Huấn mỗi năm sửa trị ngàn người để lại vui mừng của Hòa Hy. Trần Bình ngầm tính, tự biết không người nối dõi, Loan Yểm xa xỷ, đủ đầy bị ương họa ấy v.v… đó vậy. Đến như Ngu Thuấn vi hiếu hạnh mà lên ngôi, Chu Văn vì nhân hiền mà thọ mạng, Trụ Kiệt vì tàn nhẫn mà mất nước, U Lệ vì dâm dật phóng túng mà họa chung, công đức ba đời kéo vận lâu dài xuống dưới, Tần Hoàng kiêu ngạo hung bạo đến đời con bèn diệt mất, với lệ như vậy, cùng loại thật lắm nhiều, tuy là lớn nhỏ có khác nhau, nhưng cũng đều ứng nghiệm của thiện ác, chỉ việc phép vua, đạo lý liên quan thiên mạng, trong khoảng thường đàm, chẳng phải chỗ nên nói: Nay ghi lục đây lấy ngày ứng nghiệm nhỏ nhiệm, mong dùng phát khởi đồng loại, để lại báo cùng cháu con, răn dè giữa khoảng cách của người và quỷ, chỉ như vậy thôi.

Dòng họ Thích giảng nói giáo pháp, không gì chẳng là nhân quả. Nhân tức là tạo tác, quả tức là nhận chịu, không một pháp nào chẳng phải nhân, không một nhân nào chẳng quả báo. Nhưng thuyết quả báo ấy cũng có ba thứ: Một là Hiện báo: Tức ngay trong thân này tạo nghiệp thiện ác thì ngay thân này nhận chịu quả báo, đều gọi đó là Hiện báo. Hai là Sinh báo: Nghĩa là thân này tạo nghiệp, chẳng tự thân này nhận chịu quả báo, mà theo nghiệp thiện ác, sinh trong các đường, đều gọi là sinh báo. Ba là hậu báo: Nghĩa là thân trong đời quá khứ tạo nghiệp thiện ác hay được quả báo phải qua nhiều thân nhận chịu. Vì vậy hiện tại tạo nghiệp, chưa liền nhận chịu quả báo, hoặc đời kế tiếp hay đời sau nữa sinh ra nhận chịu, hoặc năm đời hoặc mười đời, mới bắt đầu nhận chịu. Đó đều gọi là hậu báo. Trong ba quả báo ấy nhiếp hết thảy pháp không gì chẳng hết. Các điều thấy như hiện nay lại là đại ngộ, nhưng các hàng tục sĩ nay còn có mê hoặc đó, phần nhiều tập nhân mà quên quả, nghi ngờ tai mà quên mắt, do đó nghe nói hậu báo thì như còn như mất, thấy có hiệu nghiệm thì kinh thán tin phục. Xưa kia, Cao sĩ Tạ Phu ở thời nhà Tấn, Thượng thư lệnh Phó Cao, Thái tử trung thư xá nhân Báo Diễn ở thời nhà Tống, Tư đồ sự trung lang lục quả ở thời nhà Tề.

Hoặc là lệnh vọng một thời, hoặc là danh gia ở đương thời, đều ghi lục “Quán Âm Ứng Nghiệm Ký” và Tề Cánh Lăng Vương Tiêu Tử Lương làm “Tuyên Nghiệm Ký”, Vương Viêm làm “Minh Tường Ký”, đều vì nêu rõ thiện ác, khuyên răn tương lai, thật khiến người nghe thâm tâm cảm ngộ.

Đường Lâm Tôi đã kính mộ Phong hóa yếu chỉ đó, lại nghĩ dùng khuyên người, liền biên ghi mọi sự thấy nghe nhóm tập thành văn ký này, nhưng trình bày đủ điều nhận chịu và nguyên do thấy nghe, lời không chải chuốt, việc chuyên nêu xác thực, ngõ hầu người sau trông thấy có thể lưu tâm để ý vậy.

 

 

MINH BÁO KÝ

QUYỂN THƯỢNG

1. Sa-môn Thích Tín Hạnh ở thời nhà Tùy

Đại đức Sa-môn Thích Tín Hạnh ở Kinh đô thời nhà Tùy, vốn là Tăng chúng ở chùa Pháp tạng tại Tương châu. Mới đầu mẫu thân không có con, qua thời gian lâu dài rất lo buồn, có vị Sa-môn đi ngang qua nhà khuyên nên xưng niệm Bồ-tát Quán Thế Âm. Từ đó, mẫu thân suốt đêm ngày cầu niệm, qua thời gian bèn có thai, sinh ra Tín Hạnh.

Thuở nhỏ, Sa-môn Tín Hạnh đã thông minh mẫn tuệ, học rành các kinh luận, nhận biết vượt quá người, lấy làm theo kinh Phật giảng nói chuyên việc tế độ, hoặc theo căn tánh, chỉ người bày đạo, hoặc theo thời nghi, nhân việc mà phán pháp, cho rằng đời nay cách Thánh đã lâu xa, căn tánh và thời cơ cũng khác, nếu đem hạng người thấp kém tu hành thượng pháp, pháp không xứng hợp căn tánh, dung chứa có thể thành sai trái, mới sao tập các kinh, tham tầm xét nghiệm nhân pháp thích đáng với người học, làm thành ba mươi sáu quyển, đề tên là “Nhân Tập Lục”.

Khoảng đầu niên hiệu Khai Hoàng (581) thời nhà Tùy, Tả Bộc Xạ Tề Công nghe tiếng tăm vang vọng của Sa-môn Tín Hạnh, tấu trình cùng vua Văn Đế (Dương Kiên 581-605), đề cử thỉnh mời vào kinh đô ở chùa Chân Tịch do Tề Công tạo dựng, Sa-môn Tín Hạnh lại y cứ kinh luật, biên soạn bộ “Tam Giai Lục” bốn quyển, ý chỉ đại khái trong đó là khuyên người cung kính khắp cùng, nhẫn chịu gốc ác, quán Phật tánh, tùy theo bệnh trao thuốc, đốn giáo Nhất thừa. Từ đó trong thiên hạ các bậc sĩ tinh tấn dõng mãnh đều lấy làm tông chỉ. Sa-môn Tín Hạnh thường tu hạnh Đầu đà chuyên hành khất thực, mỗi ngày sáu thời lễ bái, dốc sức tịnh tâm, hình không trí thật mà thôi. Mỗi lúc tọa thiền giảng pháp thường thấy có mười Đồng tử mặc áo xanh nắm hoa đứng đầu. Thường cùng đồ chúng tọa thiền trong giảng đường. Đại chúng chợt nghe có mùi hương kỳ đặc, ánh sáng khác lạ soi chiếu trong giảng đường, bèn cùng nhau lấy làm quái lạ nên thưa hỏi: Sa-môn Tín Hạnh bảo nên hỏi đệ tử mình là Sa-môn Tăng Ung, Huệ Như. Sa-môn Tăng

Ung đáp: “Vừa thấy có hóa Phật từ giữa hư không lại đến trước Thiền sư xoa đảnh và thọ ký”. Sa-môn Huệ Như bảo: “Cũng thấy có xoa đảnh đầu Tăng Ung và thọ ký”, ngoài ra, các tướng trạng khác đều đồng như Sa-môn Tăng Ung nói.

Về sau, Sa-môn Tăng Ung cùng đồ chúng của mình đến ẩn cư tại núi Thái bạch. Một sáng sớm nọ, bảo cùng chúng Tăng rằng: “Các ông hãy cùng thầy đồng trở về Kinh đô”. Đại chúng tôn kính, đều cùng đi theo. Bèn liền xuống núi, đêm nghĩ lại tại Võ Công, đến lúc chưa sáng bèn lại lên đường, mà bảo cùng Tăng chúng rằng: “Thầy trò chúng ta gắng dốc sức, tối nay hẳn phải vào được trong thành”. Chiều tối hôm đó, vừa đến vị Thượng, nghe tiếng trống gióng, Sa-môn Tăng Ung than rằng: “Cửa thành đã đóng vậy!” Bèn dừng nghỉ nơi quán trọ. Đến lúc tối trời, buồn khóc bảo rằng: “Không còn được kịp nữa!” Tăng chúng hỏi lý do gì thì không đáp. Sáng sớm vào thành, đến chùa Chân tịch, thì Sa-môn Tín Hạnh đã thị tịch đầu đêm qua lúc trời xẩm tối. Tăng chúng trong chùa lấy làm quái lạ sao Sa-môn Tăng Ung biết mà đến. Sa-môn Tăng Ung đáp: “Ở trên núi xa thấy có nhiều người mang cầm hương hoa phan lọng từ phía Tây đi đến vào cửa Khai viễn, hướng vào chùa Chân tịch, nghi Thiền sư muốn ra đi, nên trở về. Hôm qua lúc trời xẩm tối, thấy Thiền sư dẫn theo đi về hướng Tây, xoay mặt lại cùng giả biệt, nên biết là không kịp vậy”.

Mới đầu, chư Sư ở Kinh đô, có người nghi ngờ pháp của Sa-môn Tín Hạnh đến lúc đó mới cùng nhau bàn nghị, căn cứ theo kinh Tạng Phó Pháp, nếu người thông thân, là do quá khứ đã từng nghe chánh pháp vậy. Khi ấy cùng nhau dò thăm trên đảnh đấu cốt, hai tai của Samôn Tín Hạnh đều chánh thông mới cùng nhau hối hận tin phục!

Mới đầu, Sa-môn Tín Hạnh theo chúng ở năm chùa tại Kinh đô, sau tuy lớn rộng, nay vẫn còn xưng gọi là “Ngũ (05) Thiền sư”. (Theo các Lão Tăng và cậu của Đường Lâm tôi kể nói như vậy).

2. Sa-môn Thích Tuệ Như ở chùa Chân tịch

Sa-môn Thích Tuệ Như ở chùa Chân tịch tại Kinh đô. Thuở thiếu thời tinh cần khổ hạnh theo phụng thờ Sa-môn Tín Hạnh. Sau khi Samôn Tín Hạnh thị tịch, Sa-môn Tuệ Như bèn tuân theo pháp đó.

Trong khoảng niên hiệu Đại Nghiệp (605-617) thời nhà Tùy, nhân tọa thiền tu định, bèn qua bảy ngày không lay động. Đại chúng đều tán thán thật khác lạ, cho rằng đang nhập Tam-muội. Thế rồi Tuệ Như mở mắt buồn khóc lệ trào hoen my. Tăng chúng lấy làm quái lạ mà hỏi đó, Tuệ Như đáp: “Lửa đốt cháy cẳng chân đau nhức. Đến lúc nhìn vết thương xong mới nói. Đại chúng lại càng quái lạ mà hỏi. Tuệ Như đáp: “Bị vua Diêm-ma thỉnh mời hành đạo bảy ngày xong. vua Diêm-ma hỏi: “Muốn thấy biết Tiên vong tri thức chăng? Tuệ Như tôi đáp: “Muốn thấy gặp hai người”. vua Diêm-ma liền sai gọi một người, chỉ thấy một con rùa đến liếm nơi chân, trong khóe mắt ứa lệ rồi bỏ đi. Lại bảo gọi một người khác, thì bảo người đó tội nặng không thể gọi đến được nên khiến đến đó để thấy, Sứ giả dẫn Tuệ Như tôi đến nơi cửa ngục, cửa đóng rất chặt. Kẻ sứ gọi người giữ cửa, liền có người ứng tiếng đáp. Kẻ sứ bảo Tuệ Như tôi: “Sư nên gấp lánh đường chớ đứng ngay cửa”. Tuệ Như tôi vừa mới lánh, cảnh cửa bật mở, có lửa lớn dữ từ cửa tuông trào ra như một sao xẹt của sắt rèn tới dính cẳng chân, Tuệ Như tôi đưa chân phủi bỏ, ngửa mắt trông nhìn cửa, thì cánh cửa đã đóng bít lại, trọn không được cùng thấy gặp. vua Diêm-ma có cúng thí ba mươi xấp lụa quyên. Tuệ Như tôi cố từ, mà vua Diêm-ma không chịu bảo là đã sai người đưa đến sau phòng. Nghe vậy chúng Tăng tranh nhau đến sau phòng trông xem thì có lụa quyên đang nằm trên sàn giường vậy. Vết thương lửa đốt nơi cẳng chân Tuệ Như lớn như Đồng tiền, qua hơn trăm ngày mới lành. Đến khoảng đầu niên hiệu Võ Đức (618) thời Tiền Đường, Sa-môn Tuệ Như thị tịch, chùa Chân tịch chính là chùa Hóa độ ngày nay vậy. (Chùa đó do Tề Công tức ông ngoại của Đường Lâm tôi tạo lập. Tôi thường đến đó tham quan, được nghe người cậu kể lại như vậy).

3. Sa-môn Thích Tăng Triệt ở Ráng châu

Sa-môn Thích Tăng Triệt ở Ráng châu. Thuở thiếu thời đã siêng năng tinh luyện, đến Tây A-cô-sơn tạo lập phòng thất, trong nhiều cây rừng, rất được hình thắng ở núi. Tăng Triệt thường vân du giữa khoảng núi. Đến trong một hang đất thấy một người mắc bệnh hủi vết thương dơ bẩn hôi hám, theo Tăng Triệt xin ăn, Tăng Triệt gọi ra dẫn cùng đi về ở bên cạnh tinh xá, vì tạo cho hang đất để ở cấp cho thức ăn áo mặc, dạy bảo trì tụng kinh Pháp Hoa, nhưng đó lại không biết chữ, tánh lại ám độn, Tăng Triệt phải dạy cho từng câu một rất tốn hao công sức nhưng trọn không tỏ vẻ nhọc mệt. Người đó học tụng được nữa bộ kinh, bèn mộng thấy có người chỉ dạy cho, từ đó về sau hơi dần thông ngộ, học tụng đến năm -sáu quyển, các vết thương cảm thấy lành dần, học tụng xong trọn bộ thì lông mày mọc lại bình thường, da dẻ hình thể trở lại như cũ, mà lại hay vì trị bệnh cho người. Đường Lâm tôi thường mắc bệnh sưng thủng. Tăng Triệt sai người đó trì cấm chú có ứng nghiệm, tự nói đúng vậy. Về sau, Phòng nhân dụ làm Tần châu thứ sử, dâng biểu văn trình bày nói Tăng Triệt lập tinh xá làm thành chùa Hảm tuyền. Mới đầu chỗ đất đó không có nước, Tăng Triệt phải xa xuống dưới núi múc nước để tự sử dụng, một sáng nọ bỗng có một chỗ đất hỏm xuống, nơi hỏm đó có dòng suối tuôn chảy, nhân đó mà gọi tên là chùa Hãm tuyền. Tăng Triệt chuyên làm việc khuyến thiện và sự tu Thiền định, mọi người xa gần đều sùng kính như cha mình.

Đến tháng giêng năm Vĩnh Huy thứ hai (651) thời Tiền Đường, bỗng nhiên Tăng Triệt dặn dò đồ chúng, tự nói là sắp chết. Thế rồi ngồi đoan nghiêm nơi thằng sàn nhắm mắt không lay động. Ngày đó khí trời trong sáng và mưa hoa như tuyết có mùi hương thơm chẳng tan trong khoảng hai dặm vuông trên lá cây đều có sắc trắng như lớp phấn mỏng, suốt ba ngày mới trở lại sắc màu như thường. Và Tăng Triệt đã thị tịch, đến nay qua ba năm mà vẫn riêng ngồi như cũ, cũng không hôi thối rã hoại chỉ nước mắt hơi rỏ xuống. (Đệ tử của Tăng Triệt là Bảo Thái v.v… và người ở châu quận đó đều nói như vậy).

4. Cô Ni luyện hạnh ở Hà đông

Tại Hà đông có Cô Ni luyện hạnh thường trì tụng kinh Pháp Hoa, phỏng tìm một người khéo viết chữ trả giá gấp bội, đặc biệt làm một tịnh thất, nhờ biên tả kinh đó, mỗi lần dậy một lần tắm rửa, đốt hương xông ướp y phục, và nơi phòng thất biên tả kinh đục xuyên tường một lỗ thông ra ngoài cắm vào một ống trúc, khiến người biên tả kinh mỗi lúc muốn ra hơi thì ngậm vào ông trúc đó nhả hơi ra ngoài vách tường, biên tả một bộ kinh bảy quyển mất tám năm mới hoàn tất, dốc hết tâm chí kính, cúng dường rất nghiêm trọng. Có Sa-môn Pháp Đoan ở Long môn thường nhóm tập đại chúng giảng kinh Pháp Hoa, vì bản kinh của Cô Ni ấy rất tinh định, bèn sai người đến cầu thỉnh, Cô Ni ấy cố khước từ không cho, Sa-môn Pháp Đoan trách bỏ đó, Cô Ni ấy bất đắc dĩ mới tự đưa đến trao, Sa-môn Pháp Đoan v.v… mở kinh đọc xem, chỉ thấy trang giấy màu vàng trọn không có một chữ, lại mở các quyển khác đọc xem, thảy đều như vậy. Sa-môn Pháp Đoan thẹn sợ liền trả lại Cô Ni ấy. Cô Ni ấy buồn khóc nhận lấy, dùng nước hương thơm tẩy rửa hộp kinh. Tắm rửa thân mình, mang đội hộp kinh trên đảnh đầu đi nhiễu quanh tôn tượng Phật, hành đạo suốt bảy ngày đêm trọn chẳng tạm ngưng nghỉ. Thế rồi. Mở kinh ra trông xem, văn tự có lại y như cũ.

Năm Trinh Quán thứ hai (628) thời Tiền Đường, Sa-môn Pháp Đoan tự kể cho Đường Lâm tôi nghe như vậy (bấy giờ có nói rõ tên Cô Ni ấy, nhưng Đường Lâm tôi quên mất, chỉ ghi nhớ sự ấy thôi vậy).

5. Sa-môn Thích Đạo Huyền ở chùa Nhân thọ

Sa-môn Thích Đạo Huyền ở chùa Nhân thọ tại Bồ châu. Thuở thiếu thời rất thông mẫn, khéo ham học, được người trong châu quận kính sùng. Đạo Huyền giảng kinh Niết-bàn hơn tám mươi biến, được gọi là tinh rành thuần thục. Năm Trinh Quán thứ hai (628) thời Tiền Đường, Thôi Nghĩa Trực đến trấn nhậm Ngô hương huyện, bèn sai người thỉnh mời Đạo Huyền giảng kinh, mới đầu khai mở đề, Đạo Huyền buồn khóc bảo cùng mọi người rằng: “Cách Thánh lâu xa, lời huyền ẩn mất, điều lưu truyền của hàng Dong ngu như tôi không đủ làm mẫu mực, chỉ nên lấy tín tâm mà quy hướng, tự sẽ biết ngộ, việc giảng thuyết nay đây chỉ dừng ở phẩm “Sư Tử”, thời gian đã thúc giục mong mỗi tự giữ tâm mình”. Thế rồi lần lượt giảng đến phẩm “Sư Tử”. Một sáng nọ, không bệnh tật gì mà Đạo Huyền thị tịch. Các hàng Đạo tục đều kinh ngạc thương khóc, Thôi Nghĩa Trực tự thân đi chân đất tiễn đưa về phía Bắc Sơn nam, bấy giờ đang tháng mười một, đất lạnh đóng băng, tôn trí nhục thân Đạo Huyền xuống nơi đất, đất liền mọc hoa tợ hoa sen mà nhỏ, trên đầu và nơi tay chân mỗi nơi đều có một hoa. Thôi Nghĩa Trực lấy làm kỳ lạ bảo người canh giữ ban đêm, người canh giữ nhọc mệt ngủ quên, có người trộm lén bẻ cành hoa nơi đầu. Đến sáng sớm trông xem lại thì khắp thân mình đều có hoa mọc, tổng cộng có hơn năm trăm cành, qua bảy ngày mới héo khô. (Thôi Nghĩa Trực và các hàng đạo tục đều nói như vậy).

6. Sa-môn Thích Đạo Anh ở Hà đông

Sa-môn Thích Đạo Anh ở Hà đông, thuở thiếu thời tu tập Thiền hạnh, lấy luyện tâm làm gốc, chẳng thận trọng oai nghi, nhưng đối với ái nghĩa kinh luật không gì chẳng một lần nghe qua liền hiểu. Các hàng Tăng Ni xa gần đua nhau đến thỉnh hỏi phán quyết. Đạo Anh đều liền bảo họ rằng: “Các người còn chưa nghi, nên tạm tư duy điều nghi lắng ngưng thành, sau đó sẽ đến hỏi”. Các người đến hỏi trở về tư duy điều nghi nhiều. Có người cố tư duy giải mà chẳng dứt, có người tư duy mà chẳng ngộ, bèn trở lại thưa hỏi. Đạo Anh vì họ mà giảng nói cơ yếu, mọi người đều mừng vui tỏ ngộ trở về. Đạo Anh từng cùng nhiều người đi thuyền qua Hoàng hà, giữa dòng thuyền chìm mọi người đều chết. Các hàng đạo tục trong thấy Đạo Anh chìm mất, đến nơi bờ sông thương khóc. Bấy giờ cuối mùa Đông, sông đóng băng sắp tan lỡ, hai bên bờ đang còn cứng chắc. Đạo Anh mới từ trong nước đi ra đến bờ, xuyên qua băng mà đi. Mọi người trên bờ vừa kính vừa mừng đua nhau tự cởi áo mình muốn mặc cho Đạo Anh. Đạo Anh bảo: “Trong thân thể còn nóng, chớ đắp mặc thêm áo”. Thế rồi từ từ bước trở về, trọn không tỏ vẻ lạnh buốt, nhìn trên thân thể như nơi có đặt than lửa. Có người nhận biết, cho rằng Đạo Anh nhập định nên vậy. Hoặc có lúc Đạo Anh làm người chăn trâu, cưỡi xe, ăn dùng rau tỏi, hoặc mặc y phục người thế tục, để tóc dài vài tấc. Đạo Anh từng đến nơi chùa Nhân thọ. Sa-môn Đạo Anh cung kính xếp đặt nghỉ ở. Chiều tối, Đạo Anh đòi ăn. Sa-môn Đạo Anh nói: “Thượng đức không tướng ăn, há chẳng vì dứt nghĩ dèm phá chứ?” Đạo Anh cười đáp: “Huyền Công tâm mới rong ruỗi chẳng tạm ngưng nghỉ chốc lát, mà không đói khát, sao tự khổ vậy?” Sa-môn Đạo Huyền rất thán phục. Đạo Anh thị tịch trong khoảng niên hiệu Trinh Quán (627650) thời Tiền Đường (Sa-môn Pháp Đoan cùng các hàng Đạo tục đồng nói như vậy).

7. Sa-môn Trí Uyển ở U châu

Sa-môn Thích Trí Uyển ở U châu là người tinh luyện, rất có học thức. Trong khoảng niên hiệu Đại Nghiệp (605-617) thời nhà Tùy, phát tâm tạo Tạng kinh bằng đá, để phòng bị pháp diệt. Thế rồi đến Bắc sơn ở U châu, đục hang làm thạch thất, mài gọt bốn phía vách tường để khắc tả kinh, lại dùng tản đá vuông khác, gọt mài khắc tả cất chứa trong các thất, mỗi một thất chứa đầy thì dùng đá đóng bít cửa, dùng sắt khóa chặt. Bấy giờ vua Dương Đế (Dương Quảng 605-617) thời nhà Tùy đến Trác quận, có Nội sứ thị lang Tiêu Võ là em cùng mẹ với Hoàng hậu, tâm tánh rất sùng tín Phật pháp, đem việc đó mách cùng Hoàng hậu. Hoàng hậu cúng thí ngàn xấp lụa quyên và các tiền vật khác để hỗ trợ hoàn thành Phật sự đó. Tiêu Võ cũng cúng thí năm trăm xấp lụa quyên. Khắp cả triều đình cho đến thôn dã đều được nghe biết, nên tranh nhau cùng chung cúng thí nên Trí Uyển được toại công việc đó.

Trí Uyển thường vì thợ làm đã đông nhiều, các hàng Đạo tục lại luôn tìm đến, nên muốn ngay trước hang tạo một điện Phật bằng cây gỗ, cùng các thứ trai đường, phòng ngủ, mà nghĩ tính ngoái gỗ khó có để làm, sợ tổn hao kinh phí mọi vật nên chưa thể khởi công làm. Một đêm nọ bỗng nhiên mưa gió bão bùng, sấm sét nổ dùng cả núi rừng, sáng sớm đã tạnh mới thấy dưới núi có vài ngàn gốc cây tùng bách lớn bị nước trôi dạt đến sắp cặp theo đường. Tại Sơn đông ít cây gỗ rừng, tùng bách lại càng hiềm có, các hàng đạo tục rất kinh ngạc không biết từ xứ nào đưa lại, tìm theo dấu vết xa đến từ Sơn tây, bờ sườn vỡ đổ, cây cối gãy ngả trôi nổi đưa đến. Từ đó, mọi người xa gần đến thán phục, cho là do Thần hỗ trợ. Trí Uyển mới sai thợ chọn lấy cây gỗ đó, còn thừa đều phân giao cho trong thôn ấp, mọi người trong thôn ấp đều rất mừng vui, và cùng giúp tạo dựng nhà cửa, chỉ khoảng thời gian ngắn bèn hoàn thành, đều như chí nguyện đó. Trí Uyển tạo tạng kinh chất chứa đầy được bảy thất.

Đến năm Trinh Quán thứ mười ba (63) thời Tiền Đường, Trí Uyển thị tịch, các đệ tử còn nối tiếp công việc đó. (Điện trung thừa tướng Lý Huyền Tráng, Đại Lý Thừa Thái Tuyên Minh v.v… đều nói với Đường Lâm tôi như vậy. Năm Trinh Quán thứ mười chín (65) thời Tiền Đường, Đường Lâm tôi theo xa giá đến U châu, hỏi người trong thôn ấp cũng đồng nói như vậy, nhưng vì quân sự, chẳng được tận mắt đến trông thấy).

8. Người bị hang lấp vùi ở thời Đông Ngụy

Khoảng cuối thời Đông Ngụy (53-550) tại Nghiệp Hạ có một số người cùng vào Tây sơn lượm nhặt bạc đồng, khi trở ra hang chưa hết mà miệng hang sập, có một người còn sau, bị đá bít cửa hang, ra không được nhưng chẳng bị thương tổn gì. Nơi chỗ hang sập đó có một hang nhỏ chẳng kín lấp hơi thấy được ánh sáng mặt trời. Người ấy nghĩ suy trọn không còn phương cách ra khỏi, mới nhất tâm niệm Phật. Người cha nghe con đã bị hang sập bít lấp, không biết đâu để kiếm thấy xác, lại thêm cảnh nhà nghèo túng, không có gì để tu tạo cầu phước, mới dùng một bát thô mang đến chùa chư Tăng cầu thỉnh một vị chứng trai. Chúng Tăng phần nhiều theo sự nồng hậu, chẳng ai chịu thọ nhận, người cha đó bưng bát cơm mà khóc lớn, khi ấy có vị Tăng xót thương, bèn thọ nhận, ăn xong, vì chú nguyện cho người con ấy. Ngày đó, người con ấy ở trong hang bỗng từ nơi lỗ hỏng nhỏ có ánh sáng đó thấy có một vị Sa-môn từ trong hang đi lại mang theo bát cơm mà trao cho, người ấy ăn xong bèn hết đói khát, chỉ đoan tọa nghiêm giữ chánh niệm. Trải qua hơn mười năm đến lúc vua Văn Đế (Cao Dương) thời Bắc Tề lên ngôi (550), đến Tây sơn tạo dựng cung điện mát mẻ, các người thợ phá dẹp hang đá đó mới thấy trong hang có người còn sống, bèn đem ra cùng đưa về nhà, song thân người ấy rất vui mừng, cả nhà chung luyện hạnh. (Tư Mã Lô thừa nghiệp ở Ung châu kể cho Đường Lâm tôi như vậy và do từ Đặng Giáng lưu truyền đó).

9. Kẻ đày tớ ở Ký châu

Trong thời Bắc Tề, có người ở Ký châu theo quân lính đánh nhà Lương chiến bại nên bị bắt làm đày tớ. Song thân ở tại quê nhà không nghe tin tức, cho là đã chết, mới vì tu phước, tạo ngôi Phù đồ thanh tịnh, khi đã hoàn thành thì thiết lập trai hội cúng dường, các hàng Tăng tục cùng dự tham có vài trăm vị. Vừa mới ngồi thọ trai, nghe có tiếng gõ cửa, người cha là chủ nhà ra trông xem, thấy có một vị Tăng hình tướng rất cao nhã, nói cùng chủ nhà rằng: “Cho xin ít cháo rau gói bọc trong khăn tay, và cho xin một đôi dép”. Người chủ mời ở lại cùng thọ trai vị Tăng ấy không chịu nói: “Cần đi sớm gấp”. Người chủ bèn thuận theo dùng vải mới bọc đựng cháo và đưa ra đôi dép dâng tặng. Vị Tăng ấy nhận rồi bèn đi ngày đó ngay lúc tại nhà thiết trai hội, thì con của người chủ ấy đang ở trong đầm tại Giang nam, chăn trâu cho người chủ, thấy một vị Tăng trong tay xách bọc cháo và một đôi dép mới, đến nơi kẻ tớ ấy mà hỏi: “Có nghĩ muốn về thấy gặp cha mẹ chăng?” Kẻ đày tớ ấy khóc đáp: “Không dám nghĩ mong”. Vị Tăng đó trao cho bọc cháo và bảo ngồi ăn. Ăn xong lại trao cho đôi dép và bảo mang vào chân xong rồi trải chiếc y ca sa nơi đất, bảo vào ngồi trên y ca sa nơi đất, bảo vào ngồi trên y ca sa đó, và vị Tăng nắm bốn góc y túm dất lên mà xoay, chuyển dời cách khoản hai trượng xong, đặt để lại nơi đất. Kẻ đày tớ ấy mở mắt ra trông xem, không thấy vị Tăng đó và chiếc y ca sa đâu nữa, mà thân mình đã ở tại ngoài cửa vườn nhà, bước vào thấy mọi người đang thọ thực, song thân rất mừng vui ra hỏi. Kẻ đày tớ ấy kể lại nhân duyên, trông nhìn trong khăn còn ít cháo thừa và đôi dép mới mang ở chân, mới hướng đến trong chúng Tăng kính lễ, mọi người cả thôn ấp đều kinh ngạc, cùng nhau kính tin. Ngày đó là ngày mồng sáu, nên đặt gọi ngôi Phù đồ thanh tịnh đó là “Phù đồ mồng sáu”. Ngôi Phù đồ đó đến nay vẫn hiện còn. Mọi người trong thôn ấp còn lưu truyền việc ấy vậy.

10. Kẻ Hàn sĩ ở thời Nam lương.

Thuở thiếu thời, vua Võ Đế (Tiêu Diễn) thời Nam Lương, có biết một kẻ hàn sĩ. Đến lúc lên ngôi (502-550), vân du nơi vườn uyển lại thấy kẻ Hàn sĩ ấy kéo thuyền vua Võ Đế mới hỏi: “Còn nghèo hèn như xưa vậy ư?” và ban sắc: “Ngày mai có thể đến bái yết, ta sẽ chô ông làm huyện lệnh”. Người ấy vâng lời mà đến, gặp lúc có việc nên không thấy gặp được. Kẻ Hàn sĩ ấy từng đến nhiều lần nhưng đều bận việc trọn không được gặp vua, mới tự lấy làm quái lạ đem hỏi cùng Sa-môn Bảo Chí.

Khi ấy Sa-môn Bảo Chí đang vì mọi người mà giảng kinh. Thính chúng có vài ngàn vị, kẻ hàn sĩ ấy không tiến tới được. Sa-môn Bải Chí bảo đại chúng rằng: “Có người muốn đến ra mắt thưa hỏi điều gì, hãy mở lối cho vào”. Mọi người mới vì lánh đường. Kẻ Hàn sĩ ấy tiến tới chưa đến nơi, Sa-môn Bảo Chí đón mà bảo rằng: “Ông vì không được làm huyện lệnh nên đến hỏi phải chăng? Thật trọn không thể được, chỉ nhận ân ban trống rỗng mà thôi, bởi trong thời quá khứ, vua làm một trai chủ cúng dường, trong lời sớ ông hứa cúng năm trăm tiền mà trọn chẳng dâng cúng, cho nên ngày nay chỉ được hứa cho làm quan, nhưng trọn không được làm quan”, kẻ Hàn sĩ ấy nghe vậy bèn ra đi, vua Võ đế cũng chẳng kiếm tầm (các hàng Tăng tục ở Giang tây đến nay còn lưu truyền việc đó).

11. Nghiêm cung ở Dương châu

Nghiêm Cung ở Dương châu, vốn người xứ Tuyền châu, gia đình rất giàu có của cải mà không có anh em nên cha mẹ rất mến quý Nghiêm Cung, nói gì đều được, không bao giờ trái ý, khoảng đầu niên hiệu Thái kiến (56) thời nhà Trần, Nghiêm Cung vừa tuổi hai mươi, xin cha mẹ năm vạn tiền đến Dương châu mua vật. Song thân chấp thuận cho. Nghiêm cung theo thuyền mang tiền đi xuống, cách Dương châu khoảng vài mươi dặm, gặp một thuyển chở rùa đem đến chợ bán. Nghiêm cùng dò hỏi, biết được nguyên do, nghĩ rùa trong thuyền hẳn sẽ bị chết, nên xin mua chuột đó, ngươi chủ rùa bảo: “Rùa của tôi rất lớn, mỗi con phải một ngàn mới bán”. Nghiêm cung hỏi: “Có cả thảy là bao nhiêu con?” chủ rùa đáp: “Ta có năm mươi con”. Nghiêm Cung nói: “Tôi hiện có năm vạn tiền, xin dùng mua chuộc đó”. Người chủ rùa vui vẻ nhận lấy tiền, giao rùa cho Nghiêm Cung rồi đi, Nghiêm Cung đem tất cả rùa thả xuống sông, rồi đi thuyền không đến Dương châu. Người chủ rùa giả biệt Nghiêm Cung đi cách hơn mười dặm, thuyền bị đắm chìm mà chết. Ngày đó, cha mẹ của Nghiêm Cung ở tại nhà, vừa lúc trời xẩm tối, có năm mươi người khách mặc áo đen đến gõ cửa nhà xin nghỉ lại qua đêm, và đưa năm vạn tiền trao cho cha Nghiêm Cung mà nói: “Con của ông hiện ở chợ Dương châu, gởi nhờ mang tiền này về, xin y theo số mà nhận lấy”. Cha của Nghiêm Cung kinh ngạc cho rằng Nghiêm Cung bị chết, nhân đó dò hỏi. Người khách đáp: “Con của ông bình an không sao cả, chỉ không cần tiền nên gởi mang trở về. Cha của Nghiêm Cung bèn nhận lấy, nhớ rõ vốn số tiền đó do mình giao nhưng đều bị nước ướt, để khách nghỉ lại và vì dọn mời ăn tối. Ở lại qua đêm, đến sáng sớm, đoàn khách giả từ ra đi. Qua hơn tháng sau, Nghiêm Cung trở về, song thân rất vui mừng, thế rồi hỏi nguyên do gởi tiền về. Nghiêm Cung đáp: “Đâu có việc đó”. Song thân bèn kể lại hình trạng các người khách và ngày tháng mang tiền về. Đúng là ngày Nghiêm Cung mua chuộc rùa, khi ấy mới biết năm mươi người khách ấy chính là rùa do Nghiêm Cung đã mua chuộc, cha con cùng nhau kinh ngạc tán thán. Nhân đó cùng đến Dương châu tạo dựng tinh xá, chuyên việc biên tả kinh Pháp Hoa, bèn chuyển dời nhà đến đó ở, gia đình ngày càng giàu có, mới mở rộng phòng nhà biên tả kinh, trang nghiêm thanh tịnh, cung cấp rất nồng hậu, thư sinh biên tả kinh thường có khoảng vài mươi người, các hàng đạo tục ở Dương châu thảy đều sùng kính, xưng gọi là “Nghiêm Pháp Hoa”. Từng có người thân quen đền vay mượn một vạn tiền biên tả kinh, Nghiêm Cung bất đắc dĩ mà cho vay mượn. Người vay mượn nhận tiền dùng thuyền mang chở đi, giữa đường, thuyền lắc nghiêng đổ, tiền rơi vào nước mà người thuyền không chìm đắm. Ngày đó, Nghiêm Cung vào trong kho tiền, thấy có vạn tiền bị thấm ướt như vừa mới lấy từ nước ra, Nghiêm Cung rất lấy làm quái lạ, sau đó gặp thấy người vay mượn tiền trước kia, mời biết tiền ướt đó là tiền cho vay mượn. Lại có một thương nhân đến nơi Đình Hồ chỗ thờ thần cúng tế rượu thức ăn và dâng các vật. Đêm đó mộng thấy thần đưa vật trả lại và bảo: “Nhờ ông vì tôi mang vật này đến dâng biểu Nghiêm Pháp Hoa để cúng dường vào việc biên tả kinh”. Vả lại các vật dâng cúng thần đều hiện có trước mặt”. Thương nhân ấy kinh lạ tán thán, bèn đưa đến nơi Nghiêm Cung, và cùng thí nồng hậu thêm nhiều. Sau đó, nghiêm cung đến chợ mua giấy, gặp lúc thiếu tiền, bỗng thấy một người mang ba ngàn tiền đến trao cho Nghiêm Cung và nói: “Hỗ trợ ông mua giấy biên tả kinh”. Nói xong bèn biến mất, mà tiền thì tại trước mặt Nghiêm Cung. Những việc quái lạ như vậy xảy ra không chỉ một lần.

Đến cuối niên hiệu Khai Hoàng (605) thời nhà Tùy, con cháu vẫn duy trì nối dõi nghề nghiệp đó. Đến cuối thời nhà Tùy (618), giặc đến Giang tô, đều cùng ước định với nhau chớ vào trong làng Nghiêm Pháp Hoa. Dân chúng trong làng nhờ đó mà đều được bình an hoàn toàn. Gia đình của Nghiêm Cung đến nay vẫn chuyên việc biên tả kinh không thôi nghỉ. (Mọi người ở châu ấp đông thấy như vậy, các hàng nhân sĩ ở kinh đô phần nhiều đều biết việc đó, Phò mã Thú Quốc Công Tiêu Duệ rất rõ biết việc ấy vậy).

QUYỂN TRUNG

12. Thứ sử Thôi Ngạn Võ ở Ngụy châu

Trong khoảng niên hiệu Khai Hoàng (581-605) thời nhà Tùy, Thứ sử bác lăng Thôi Ngạn Võ ở Ngụy châu, nhân hành bộ đến một ấp nọ, chợt nhiên vừa kinh ngạc vừa vui mừng, nói cùng mọi người đi theo rằng: “Xưa trước, tôi từng làm vợ người trong ấp này, nay còn nhớ biết nơi nhà đó”. Bèn xoay ngựa đi vào một hẻm nhỏ, đến một ngôi nhà gõ cửa, người chủ tuổi già vội ra bái yết. Thôi Ngạn Võ vào nhà, trước tiên lên nhà trên, trông nhìn lên vách tường phía Đông cách đất khoảng sáu -bảy thước nơi có chỗ nổi cao, bảo cùng người chủ rằng: “Xưa trước, tôi đọc tụng kinh Pháp Hoa, và có năm chiếc vàng xuyến cất giấu trong vách tường này nơi nổi cao ấy. Ở trang sau cuối quyển bảy của kinh bị lửa cháy mất chữ, nên đến nay mỗi lần tụng kinh ấy đến cuối quyển bảy bèn quên mất, trọn không thể nhớ nỗi”. Nhân đó bảo mọi người đến tường vách dò tìm xem, quả nhiên có được bộ kinh, mở ra cuối quyển bảy và vòng vàng xuyến, đều đúng như lời Thôi Ngạn Cung nói. Người chủ buồn khóc mà nói rằng: “Ngày trước lúc vợ tôi còn sống thường đọc tụng kinh này, và vàng xuyến đó cũng là vật của vợ tôi. Vợ tôi nhân sinh nở mà qua đời, bèn mất, không biết ở đâu, chẳng nhớ Sứ quân chỉ bày cho chỗ ấy”. Thôi Ngạn Võ lại bảo: “Nơi gốc cây hòe trước sân, lúc tôi sắp sinh nở, tự cắt tóc trên đầu để nơi hang trống cây ấy, thử bảo người tìm xem”. Quả nhiên có được nắm tóc, khi ấy người chủ vừa buồn vừa mừng, Thôi Ngạn Võ lưu lại các vật và y phục cấp cho người chủ rồi ra đi. Thôi Thượng Thư Đôn Lễ nói như vậy. Năm trước gặp Lô Văn Lệ cũng nơi đồng vậy, mà chỉ nói là Thứ sử ở Tề châu chứ không nói được họ tên đầy đủ như Thôi Đôn Lễ. Đường Lâm tôi bèn y theo Thôi Đôn Lễ mà ghi lục.

13. Vị khách Tăng ở thời nhà Tùy

Trong khoảng niên hiệu Đại Nghiệp (605-617) thời nhà Tùy, có vị khách Tăng đến miếu Thái sơn xin nghỉ lại qua đêm. Người giữ miếu nói: “nơi đây không có phòng nhà, chỉ dưới hiên miếu thần là nơi có thể nghỉ, nhưng từ trước đến nay các người nghỉ lại đều bị chết”. Vi Tăng ấy đáp: Khỏi phải khổ ngại”. Người giữ miếu bất đắc dĩ mà sắp đặt giường dưới hiên. Đến đêm, vị Tăng ấy đoan tọa tụng kinh, đến khoảng canh một nghe trong phòng có tiếng vòng đeo va chạm nhau, chốc lát có vị thần ra kính lễ. Vị Tăng ấy hỏi: “Nghe từ trước đến nay, mọi người nghỉ lại tại đây phần nhiều đều chết, há Đàn Việt làm hại đó ư? Xin được bảo hộ!” Thần đáp: “Gặp các người đó thời điểm chết sắp đến, nghe tiếng đệ tử, nhân đó kinh sợ mà chết, chẳng phải đệ tử làm hại họ, xin Sư chớ lo”. Vị Tăng ấy bèn mời ngồi, cùng đàm nói như với người. Giây lâu, vị Tăng ấy hỏi: “nghe người đời truyền miệng Thái sơn là nơi Quỷ thống trị, có phải vậy không?” thần đáp: “Đệ tử phước mỏng nên thật có vậy. Sư muốn thấy gặp người thân của mình đã mất trước chăng?” Vị Tăng ấy đáp: “Tôi có hai vị Tăng là bạn đồng học đã mất trước, xin được thấy gặp họ”. Thần hỏi tên vị nào. Vị Tăng ấy đáp rõ họ tên. Thần nói: “Một người đã sinh tử lại nhân gian, còn một người hiện ở trong ngục, vì tội quá nặng không thể gọi lại thấy gặp. Có thể cùng Sư đến đó thấy gặp”. Vị Tăng ấy rất mừng, nhân cùng đứng dậy bước ra cửa, đi không xa bèn đến một nơi, thấy có nhiều chuồng ngục, ánh lửa hừng hực rất mạnh dữ. Thân dẫn vị Tăng ấy vào trong một viện, xa thấy có một người đang trong lửa kêu gào, nói không thể được, hình trạng lại không còn nhận biết, mà máu thịt cháy thối, khiến người thương tâm. Thần bảo: “Chính vị ấy vậy. Sư có muốn đi trông xem qua chăng?” Vị Tăng ấy buồn xót bảo muốn trở lui. Bỗng chốc đến nơi miếu cũ, vị Tăng ấy cùng thần đồng ngồi, nhân đó hỏi: “Tôi muốn cứu giúp bạn đồng học, có cách gì chăng?” Thần đáp: “Có thể được vậy. Nên vì biên tả một bộ kinh Pháp Hoa, tiện được thoát khỏi”. Thế rồi, sắp gần sáng, Thần giả từ trở vào trong miếu. Đến sáng sớm, người giữ miếu thấy vị Tăng ấy không chết, lấy làm quái lạ mà hỏi, nhân đó, vị Tăng ấy bèn vì kể rõ. Và bèn liền biên tả một bộ kinh Pháp Hoa. Khi kinh biên tả hoàn thành, trang nghiêm xong, vị Tăng ấy mang kinh đến nghỉ lại nơi miếu. Đêm đó, thần cũng ra như trước, vui mừng lễ bái, an ủi hỏi lý do đến nghỉ lại. Vị Tăng ấy bèn đem sự tình mà nói. Thần đáp: “Đệ tử biết đó vậy, Sư vì biên tả kinh, lúc mới hết đề mục, vị Tăng kia đã được thoát khỏi, thác sinh đến nay đã lâu, không còn trong ấy nữa. Nhưng đây là nơi không được thanh khiết, chẳng thể tôn trí kinh. Xin sư đưa kinh trở về lại chùa”. Cùng nói bàn thời gian lâu, đến lúc gần sáng, Thần giả 3 từ đi vào. Vị Tăng ấy đưa kinh trở về chùa (Hàng châu biệt giá Trương Đức nói là trước kia lúc trấn tại Duyệt châu có biết rõ vị đó, nên kể cùng Đường Lâm tôi như vậy).

14. Tiêu Cảnh

Tiêu Cảnh, vốn người xứ Lan lăng, là Huyền tôn của vua Võ Đế (Tiêu Diễn 502-550) thời Nam Lương, là con thứ năm của Lương Vương Vị. Khi nhà Lương mất vào thời nhà Tùy, chỉ của Tiêu Cảnh là Hoàng hậu của vua Dương Đế (Dương Quảng 605-617) thời nhà Tùy, sinh trưởng mà gia đình lại sùng tin Phật pháp. Trong khoảng niên hiệu Đại nghiệp (605-617) thời nhà Tùy, tự vì trì tụng kinh Pháp Hoa, mới y theo kinh văn, nêu dùng gỗ đàn hương tạo tháp Đa bảo. Tháp cao ba thước, phía trên hình vuông phía dưới dày, lại dùng gỗ tạo tôn tượng Phật Đa bảo. Qua vài năm sau đó, Tiêu Thuyên là con của người Tiêu Cảnh, một sớm mai ngủ dậy bỗng thấy trong lùm cỏ trước có một ngôi Phù đồ bằng gỗ, che dười có một tôn tượng bằng thau thạch, chế tác khác lạ so với ở Trung Hoa, hình dạng mặt mày tợ người Hồ, tròng mắt được làm bằng bạc, tròng ngươi đen lánh trong sáng sạch như tự nhiên. Tiêu Thuyên mới chạy đến mách báo cùng Tiêu Cảnh, Tiêu Cảnh trông thấy vừa kinh lạ vừa mừng vui bèn lấy che đưa về, thử tôn trí vào trên tháp, uyển nhiên tương xứng như cổ làm nên, tuy sắc gỗ có nhỏ khác nhưng hình tháp lại diệu tuyệt, đem tôn tượng Phật an trí trong tháp cũng tương xứng như đã làm trước. Tiêu Cảnh rất vui mừng, tự cho là bởi sự tinh thành mà cảm nên vậy. Trong hợp tôn tượng Phật có hơn trăm viên xá-lợi. Tiêu Cảnh có người con gái xuất gia làm Ni tuổi nhỏ trộm nghi ngờ các vị Hồ Tăng từng nói là xá-lợi lấy dùi đánh không vỡ nát, mới thử lấy ba mươi viên đem để trên đá và dùng búa đánh, xá-lợi trọn không sao cả, người nữ Ni ấy mới tìm kiếm nơi đất chỉ nhặc lượm được ba -bốn viên, ngoài ra đều biến mất không thấy đâu cả. Thế rồi kinh sợ mách báo cùng Tiêu Cảnh, Tiêu Cảnh đến trong tháp trông xem thì xá-lợi đều có ở đó như cũ. Từ đó, Tiêu Cảnh tụng kinh Pháp Hoa mỗi ngày một biến, cho đến trọn đời.

Năm Trinh Quán thứ mười một (637) thời Tiền Đường. Tiêu Cảnh cảm mắc cơn bệnh rất nặng. Tiêu Hậu cùng chị em trông thăm, Tiêu Cảnh thấy gặp mỗi mỗi đều bảo đốt hương cùng giả biệt, chỉ lưu lại người em là Tống Công Võ và người con gái cô Ni ấy đốt hương tụng kinh, chỉ chốc lát Tiêu Cảnh bảo cùng cô Ni rằng: “Ta muốn đi, Bồtát Phổ Hiền lại nghinh đón Ta hiện ở tại Đông viện, cô Ni có thể đến nghinh đón đó”. Cô Ni bèn vâng lời song nghinh đón, chưa trở về. Tiêu Cảnh lại bảo: “Viện nay bất tịnh, chẳng chịu lại, Ta phải đến đó, các người hãy khéo sống”, nhân đó giả biệt cùng Tống Công Võ, rồi bèn quỳ thẳng chấp tay, xoay mặt về chánh hướng Tây, khoảnh khắc bỗng ngã nằm lại mà qua đời. Tiêu Cảnh căn dặn lại riêng dùng một xe để chở, gom thay y phục ở tại thân, vợ và mọi người không được đưa đám tang, chở dùng rượu thịt để cúng tế, chế phần mộ mới khiến lấp vùi kín quan tài. Mọi người đều ngợi khen Tiêu Cảnh là bậc thông ngộ, người nhà đều vâng theo mà thực hành đó. (Hiếu, em của Trọng Khê đều làm người Đại lý chủ bộ vì kể cho Đường Lâm tôi biết, và nghe mọi người ở châu ấy cũng nói như vậy).

15. Lâm Ấn Vi Trọng Khuê

Lâm Ấn Vi Trọng Khuê vốn tánh rất hiếu để, rất được mọi người trong châu Lý mến kính. Năm mười bảy tuổi, Quận biểu Tả Dị làm Mông dương trưởng. Thân phụ là Liêm Mục vốn làm Dương quận thừa vì tuổi giả nên trở về. Đến trong khoảng niên hiệu Võ Đức (618-627) thời Tiền Đường, thân phụ mắc bệnh rất nặng. Trọng Khuê chẳng cởi đai mão mà tự dưỡng nuôi đến lúc thân phụ qua đời, Trọng Khuê từ tạ vợ con đến giữ bên phần mộ, do vốn rất kính tin Phật giáo, chuyên trì tụng kinh Pháp Hoa, ban ngày thì khiên đất đắp mộ, đêm lại đọc tụng kinh điển, tinh cần chí thành không biếng trễ, trọn ba năm chẳng trở về nhà, từng có con hổ ban đêm đến ngồi xổm trước chòi để nghe kinh, lâu mà chẳng đi Trọng Khuê giữ chánh niệm bảo rằng: “Chẳng mong thú dữ cùng bức hại vậy”. Hổ liền đứng dậy bỏ đi. Sáng ngày trông thấy nhiễu quanh mộ sinh mọc bảy mươi hai cành cỏ chi chi ngay trước mộ xếp theo thứ tự như có người trồng nên, đều táng màu đỏ tía, cành táng dài năm tấc, sắc màu sáng sạch khác thường. Có người ở gần thôn đem báo cùng châu huyện. Bấy giờ Tân Quận Xướng làm Thứ sử Thẩm Dụ làm Biệt giá cùng đến nơi ngộ đó xét xem, bỗng có một con chim như vịt ngậm hai con cá chép bay đến đặt để nơi đất rồi bỏ đi. Quân Xướng v.v… rất mực ngợi khen, hái cỏ chi niêm phong lại đem tấu trình, vua ban chiếu ngợi khen cả thôn ấp. (Năm Trinh Quán thứ bảy (633) thời Tiền Đường, Đường Lâm tôi vâng phụng đi sứ Giang đông, Dương Châu Chân Y Chân Đà kể cho biết như vậy).

16. Tôn Bảo ở Giang đô

Tôn Bảo vốn người xứ đất Bắc, khoảng cuối thời nhà Tùy (618) chuyển dời đến ở Giang đô. Thuở thiếu thời từng bị chết mà trong thân còn ấm nóng qua hơn bốn mươi ngày mới sống lại, tự kể rằng: “Mới đầu bị bắt đến trong Quan Tào, bỗng nhiên thấy mẹ mình bị giam cầm trong đó, Tôn Bảo vừa buồn vừa mừng vui. Người mẹ nhân đó tự nói là từ lúc chết đến nay đã lâu, bị giam cầm không tiến dừng được, chẳng do đâu để tự phân bua. Sáng sớm Chủ ty dẫn Tôn Bảo ra mắt Quan, Quan bảo “Tôn Bảo không có tội, nên phóng thả ra”. Nhân đó, Tôn Bảo xin hỏi: “Chưa xét rõ lúc sống tạo tác mọi việc tội phước, có thành quả báo chăng?” Quan đáp: “Nhất định sẽ có quả báo”. Tôn Bảo hỏi: “Người tạo tội vừa tạo phước có thể hủy trừ chăng?” Quan đáp: “Được”. Tôn Bảo nói: “Có người ở gần thôn xóm tôi lúc bình sinh tạo tội nhiều, làm phước ít, nay hiện ở ngoài, còn mẹ tôi tạo phước nhiều, tạo ác ít lại bị giam giữ lâu dài, nếu nhất định có quả báo, cớ sao lại như vậy?” Quan kêu đòi hỏi Chủ lại, Chủ lại đáp không có bản án, Quan mới gọi mẹ của Tôn Bảo đến xét hỏi, biết đúng là tạo phước nhiều tạo tội ít. Quan trách Chủ lại, Chủ lại đánh mất bản án nên không biết bản án trạng nhẹ nặng như thế nào. Quan lại xét ở bộ khác quả thật đúng như lời nói đó, nhân đó bảo phóng thả phối sinh đến Lạc đường. Mẹ con đều đi ra, Tôn Bảo đưa mẹ đến nơi thác sinh, Lạc đường ấy như cung điện đẹp xin có nhà gác lớn, có đông nhiều trai gái ở trong đó hưởng lạc. Tôn Bảo không có ý muốn trở về, chỉ rảo bước xem nhìn các nhà vui thú mà thôi, qua hơn tháng trời, chợt gặp người Bác ở giữa đường, trách Tôn Bảo rằng: “Ngươi chưa hợp chết, sao chẳng sớm trở về?” Tôn Bảo đáp: “Không muốn trở về nữa vậy”. Người Bác tức giận bảo: “Người chết mỗi mỗi đều theo bản nghiệp mà nhận chịu quả báo, ngươi tạo nghiệp ác chẳng được sống ở Lạc đường, chỉ vì chưa hợp chết nên được làm khách tạm ở trong ấy vậy. Nếu như đáng chết thì quan đã bắt lấy ngươi đâu được thấy gặp mẹ ngươi ư?” Nhân đó, dùng một bình nước rưới trên mình Tôn Bảo từ đảnh đầu đến chân khắp nơi đều thấm ướt chỉ còn chút ít nơi tay chưa khắp cùng vì nước hết, và chỉ một ngôi nhà trống không, bảo Tôn Bảo vào trong đó. Đã vào trong đó rồi bàn sống lại, nơi nước rưới không khắp, thịt bèn thối rửa rơi rớt, đến nay còn thấy cốt xương. (Năm Trinh Quán thứ bảy (633) thời Tiền Đường, Đường Lâm tôi vâng phụng đi sứ Giang đông, gặp Chân Đà kể nói như vậy. Tôn Bảo nay hiện còn sống).

17. Trương Lượng

Trương Lượng làm U châu Đô đốc phủ trưởng lại, rất sùng tin Phật pháp, thường vào một ngôi chùa, thấy tôn tượng Phật cao lớn ngang bằng thân mình, nhân đó Trương Lượng riêng vì cúng dường tôn tượng ấy. Sau, ngồi trong phòng nhà, có hai đứa tớ đứng hầu, bỗng nhiên nghe tiếng sấm chớp, mà tánh Trương Lượng vốn rất sợ sấm sét, nhân vậy mà tâm nghĩ nhớ tôn tượng Phật ngang bằng thân mình, bỗng chốc sấm sét nổ rền lay động cả trụ nhà, một đứa tớ đứng hầu kinh sợ chạy ra, vừa đến thềm cấp bèn chết, có một trụ gỗ tán loạn đánh trúng vào trán Trương Lượng mà không đau nhức lắm, trông xem đó mới có vết sẹo đỏ, mà trụ gỗ một nửa xé rơi nơi đất như có người chặt phá. Thế rồi, sau đó Trương Lượng đến chùa, thấy sau trán tôn tượng Phật có vết sẹo lớn như vật gì đánh vào đó, tương đương đúng nơi vết sẹo trên mình Trương Lượng vậy. Trương Lượng cùng mọi người đồng kinh sợ thở than. (Trương Lượng tự kể cho cao dục nghe việc đó, và mọi người ở U châu đếu biết việc đó).

18. Giám sát ngự sử Phạm Dương Lô Văn Lệ

Giám sát ngự sử Phạm Dương Lô Văn Lệ, mới đầu làm Văn Dương Úy, vâng phụng đi sứ Kinh châu, trên đường trở lại, đến Giang nam, cảm mắc bệnh rất nặng, bụng trướng cứng như đá, ăn uống nuốt không xuống, các thầy thuốc đều không thể chữa trị. Lô Văn Lệ tự cho rằng: “Hẳn chết, không còn trông mong được sống!” mới khuyên tâm xưng niệm danh hiệu Bồ-tát Quán Thế Âm, trải qua vài ngày, hoảng hốt như đang ngủ, bỗng thấy một vị Sa-môn đi đến tự xưng là Bồ-tát Quán Thế Âm, bảo cùng Lô Văn Lệ rằng: “Ngươi hay chuyên tâm xưng niệm, nên lại cứu giúp, nay sẽ vì ngươi mà dứt trừ bệnh trong bụng”. Nhân đó đưa tay nắm cây gỗ dùng xoay nơi bụng. Trong bụng nhả ra một vật dơ uế lớn hơn ba thăng rất hôi hám. Và bảo: “Hẳn được lành vậy”. Thế rồi, Lô Văn Lệ kinh ngộ, thân bụng thản nhiên, liền ăn và đậy được, và mọi bệnh cố tật đều lành, đến nay rất khỏe mạnh.

Lô Văn Lệ thật cùng Đường Lâm tôi đồng làm ngự sử, tự kể như vậy.

19. Mục Nhân Thiến

Mục Nhân Thiến, vốn người ở Cám Đan, Triệu Quận, thuở thiếu thời có trải qua học, chẳng tin quỷ thần, thường muốn cùng thử có hay không. Đến tư nhân tập học, hơn mười năm mà chẳng được thấy, sau đó dời nhà đến huyện ở, giữa đường đi thấy gặp một người như quan lớn, áo mão rất hùng vĩ, cưỡi ngựa béo tốt, có hơn năm mươi người cùng theo, trông nhìn Nhân Thiến mà không nói năng gì, sau vài lần thấy, thường như vậy. Trải qua mười năm, có đến vài mươi lần thấy gặp. Sau đó, bỗng nhiên dừng ngựa, gọi Nhân Thiến mà bảo: “Từ trước đến nay từng gặp thấy ông tâm tình cùng luyến mộ, nay muốn dẫn ông cùng giao du”. Nhân Thiến liền kính bái và hỏi: “Ông là người nào?” Kẻ ấy đáp: “Ta là Quỷ vậy, vốn dòng họ Thành, tên là Cảnh, người xứ Hoằng nông, xưa trước trong thời Tây Tấn (265-317) làm Biệt giá, còn nay đang nhậm giữ Trưởng lại ở nước Lâm Hồ”. Nhân Thiến hỏi: “Nước đó tại đâu? vua tên là gì?” Quỷ đáp: “Từ Hoàng Hà trở về phía Bắc, tất cả đều là nước Lâm Hồ, kinh đô đóng tại phía Tây Bắc Lâu Phiền, tức thuộc Chân Thích vậy. vua nước đó là Triệu Võ Linh Vương xưa trước, hiện nay thống trị nước ấy, tất cả đều nhận chìm Thái sơn khống nhiếp. Mỗi tháng các Sứ lên cùng chầu Thái sơn, do đó từng nhiều lần ngang qua đây cùng gặp gỡ ông, Ta mới hay có cùng lợi ích, khiến ông dự biết mọi sự họa nạn mà ẩn lánh trước có thể thoát khỏi hoạnh hại, chỉ trừ mạng sống chết cùng với quả báo họa phước lớn, không thể chuyển dời lay động đó”. Nhân Thiến bèn theo đó. Nhân đó, Thành Bảo bảo người cùng cưỡi theo thường chưởng sự (trông xét mọi việc) mà cấp tặng sai đi theo Nhân Thiến, có việc gì thì khiến báo trước, còn việc ông không biết nên báo lại cùng ta. Khi ấy cùng nhau giả biệt. Chưởng Sự thường luôn đi theo như người tùy tùng, khoảnh khắc có hỏi, không gì chẳng biết.

Bấy giờ, khoảng đầu niên hiệu Đại nghiệp (605) thời nhà Tùy, có Sầm Chi Tượng ở Giang lăng làm Cám Đan lệnh, có người con là văn bản chưa đủ tuổi hai mươi. Sầm Chi Tượng mời Nhân Thiến đến nhà để dạy cho văn bản học sách. Nhân Thiến mới đem việc ấy nói với Văn Bản, nhưng nói rằng: “Thành Trưởng sứ (Thành Bảo) nói ta có một việc xấu hổ với ông không thể nói, nhưng đã cùng ông tương giao kết bạn nên cũng không thể không nói với ông. Trong đạo quỷ thần cũng có ăn, nhưng chẳng thể no, khổ đói mãi hoài, nếu được người cho ăn bèn được no cả một năm. Các quỷ thần nhiềm trộm lấy thức ăn của người. Ta đã quý trọng, không thể trộm đó, nên theo ông xin cho một bữa ăn”. Nhân Thiến đã báo cùng Văn Bản như vậy, Văn Bản liền vì sắm sinh các thức ăn đầy đủ mọi thứ ngon lành. Nhân Thiến bảo: “Quỷ không muốn vào nhà người, nên đem ra ngoài bờ sông, căng màn trải chiếu, thiết bày các thứ rượu thức ăn lên đó”. Văn Bản bèn y theo lời đó. Đến giờ, Nhân Thiến thấy Thành Cảnh và hai khách đến ngồi, và có hơn trăm người cùng cưỡi theo đến. Đã ngồi xong, Văn Bản xoay mặt hướng đến chiếu kính bái, tạ lỗi vì thức ăn không tinh khiết, cũng truyền ý đến Thành Cảnh, xong rồi từ tạ. Mới đầu, Văn Bản sắp thiết bày các thức ăn để cấp thí, Nhân Thiến xin có vàng lụa để chuộc đó. Văn Bản hỏi: “Phải là các vật gì?” Nhân Thiến bảo: “Vật dụng của quỷ đều khác so với người, chỉ trừ vàng ròng và lụa quyên là thông dùng, nhưng cũng không như giả vậy, dùng màu sắc vàng bôi thoa vào sắt lớn để làm vàng, dùng giấy làm lụa quyên, rất là quý trọng”. Văn Bản đều y theo chí bảo mà làm. Đến lúc Thành Cảnh ăn xong, bảo các người cưỡi theo thay ngồi ăn, Văn Bản đem các thứ làm thành vàng tiền lụa quyên mà cấp tặng đó. Thành Bảo rất vui mừng cảm tạ rằng: Nhân Mục Nhân Thiến phát sinh làm phiền Lang Quân cung cấp. Lang Quân có muốn biết về thọ mạng của mình chăng?” Văn Bản đáp: “Không muốn biết điều đó”. Thành Cảnh giả từ mà đi.

Sau đó vài năm, Nhân Thiến mắc bệnh rất lắm khốn đốn, không thể dậy nỗi. Qua hơn một tháng, Nhân Thiến hỏi Thường Chưởng Sự, Chưởng Sự đáp: “Không biết”. Bèn hỏi Trưởng Sứ -Thành Cảnh, Trưởng sứ bảo: “Trong nước không biết, ngày sau nhân đến chầu Thái sơn sẽ vì hỏi tin tức mà báo lại”. Đến tháng sau, Trưởng sứ đến báo rằng: “Do người cùng quê ông là Triệu Võ làm Thái sơn chủ bộ, chủ bộ bị khuyết thiếu một thành viên, đề cử ông thay thế làm chức quan đó, nên làm văn án qua năm vời gọi ông vậy. Khi văn án đã hoàn thành vì ông sẽ chết”. Nhân Thiến hỏi: “Tính làm sao để ra khỏi?” Thành Cảnh bảo: “Tuổi thọ của ông đáng ngoài sáu mươi, nay mới vừa bốn mươi tuổi, chỉ vì Triệu chủ bộ nêu gọi vậy. Tôi sẽ vì ông mà cầu xin đó”. Xong, Thành Cảnh mới nói với Triệu chủ bộ, cùng hỏi: “Mục Huynh (Mục Nhân Thiến) ngày trước là bạn đồng học, ân tình rất sâu nặng, nay tôi may được làm Thái sơn chủ bộ, vừa gặp lúc khuyết thiếu một chủ bộ, phủ bảo chọn người, tôi đã khai bẩm Phủ Công, Phủ Công hứa sẽ cùng dùng, ông không được sống thọ, mạng sẽ có chết, chết gặp lúc cơ hội vừa đến, chưa hẳn được làm quan, sao tiếc một vài mươi năm, giả sử có tham sống mà nay văn thú đã ban xuất, cũng không thể ngưng lại được, xin quyết làm theo ý trong tương lai, không nên nghi ngờ vậy”. Nhân Thiến lo sợ, bệnh càng quá lắm, Thành Cảnh bảo cùng Nhân Thiến rằng: “Triệu chủ bộ hẳn muốn đặt để đến ông, ông có thể đến Thái sơn nơi chỗ Phủ quân mà trình bày tố giác, thì có thể được khỏi”. Nhân Thiến hỏi: “Do đâu mà được thấy gặp Phủ Quân?” Thành Cảnh bảo: “Quỷ cũng có thể thấy gặp được vậy, ông đến miếu Thái sơn, theo hướng Đông vượt qua một hang nhỏ, nơi chỗ đất bằng phẳng tức là Đô 0 sở, ông đến sẽ tự thấy gặp đó. “Nhân Thiến đem việc ấy nói cùng Văn Bản. Văn Bản vì chuẩn bị hành trang. Vài ngày sau, Thành Cảnh trở lại bảo cùng Nhân Thiến rằng: “Văn thư sắp hoàn thành, nếu ông tố giác, sợ cũng chẳng thể khỏi. Hãy gấp tạo một tôn tượng Phật thì văn thư kia tự tiêu mất”. Nhân Thiến lại bảo cùng Văn Bản, dùng ba ngàn tiền vì đắp họa một tòa tôn tượng nơi vách tường phía Tây chùa. Thế rồi, Thành Cảnh lại đến báo rằng: “Ông được khỏi vậy”. Nhân Thiến tình ý chẳng tin Phật pháp nên còn lắm nghi ngờ đó. Nhân đó hỏi Thành Cảnh rằng: “Trong Phật pháp nói có nhân quả ba đời, điều ấy là thật hay dối?” Thành Cảnh đáp: “Thật có vậy”. Nhân Thiến lại hỏi: “Tức như người chết đáng phần vào trong sáu đường, nào phải tất cả đều làm quỷ, mà Triệu Võ Linh Vương và ông đến nay vẫn phải làm quỷ vậy?” Thành Cảnh hỏi: “Trong huyện ông có bao nhiêu hộ nhà?” Nhân Thiến đáp: “Có hơn muôn hộ nhà”. Thành Cảnh hỏi: “Có bao nhiêu kẻ bị đày đọa tù ngục?” Nhân Thiến đáp: “Thường có khoảng hai mươi người trở xuống”. Thành Cảnh hỏi: “Trong muôn hộ nhà có được bao nhiêu người làm quan Ngũ phẩm? Nhân Thiến đáp: “Không có người nào cả”. Thành Cảnh hỏi: “Từ quan Cửu phẩm trở lên có được bao nhiêu người?” Nhân Thiến đáp: “Có vài mươi người”. Thành Cảnh bảo: “Trong sáu đường cũng đồng nhất như vậy đó. Người được sinh lên cõi trời, trong muôn người chỉ có một, như trong huyện ông không có một người làm quan Ngũ phẩm, kẻ sinh trong cõi người có được vài người, như quan Cửu phẩm của ông, còn vào địa ngục có cũng vài mươi người, như kẻ trong tù ngục ông, chỉ có ở loài quỷ và súc sinh thì có lắm nhiều. Tóm lại trong đây mà nói, lại còn có Đẳng cấp”. Nhân đó, chỉ kẻ cùng theo mà bảo: “Người kia lớn chẳng bằng Ta, còn kẻ lớn chẳng bằng người kia thì rất đông nhiều”. Nhân Thiến lại hỏi: Quỷ có chết chăng?” Thành Cảnh đáp: “Có chết”. Nhân Thiến hỏi: “Chết sinh vào đường nào?” Thành Cảnh đáp: “Không biết, như người biết chết mà không biết việc sau khi chết”. Nhân Thiến hỏi: “Đạo gia cúng tế là có ích lợi chăng?” Thành Cảnh đáp: “Đạo là Thiên đế thống trị cả sáu đường, đó gọi là Thiên Tào, còn vua Diêm-ma như Thiên tử trong cõi người, Thái sơn phủ quân như Thượng thư lệnh, Lục ngũ đạo thần như các thượng thư, còn nước của bọn tôi như châu quận lớn, mọi việc trong nhân gian, đạo dâng lễ bày tấu rõ thỉnh phước Thiên Tào nhận đó, ban xuống vua Diêm-ma bảo rằng: “Ngày… tháng… năm ấy, có người họ tên… ấy tố cáo việc… ấy đều nên theo hết Lý mà xét xử chớ khiến uổng lạm”. vua Diêm-ma kính nhận mà phụng hành đó. Như người vâng phụng sắc chiếu, không lý thì chẳng thể cầu thoát khỏi, có oan uổng hẳn sẽ được tỏ bày, không thể là vô ích vậy”. Nhân Thiến lại hỏi: “Trong nhà Phật tu phước thì như thế nào?” Thành Cảnh đáp: “Phật là bậc Đại Thánh, không văn thư ban hành xuống. Với người tu phước thì trời thần kính phụng được nhiều khoan dung ủng hộ. Nếu người tu tạo phước sâu dày, tuy có văn bộ trong ác đạo cũng không thể đuổi bắt. Đó không phải chỗ tôi có thể biết, cũng chớ biết lý do đó như thế nào”. Nói xong, Thành

Cảnh bèn đi. Một vài ngày sau Nhân Thiến dậy được và bèn lành mạnh.

Đến khi thân phụ của Văn Bản qua đời, nên trở về quê hương. Nhân Thiến gởi thư đến nói rằng: “Quỷ thần nhất định là có tham lam xiển nịnh, ngày trước muốn Lang quân ban thí ăn uống, mới ân cần đó, từ đó biết không đáp lại lợi ích nồng hậu thì cùng thấy khác lạc. Tự nhiên, Thường chưởng sự còn thấy theo, trong bản huyện bị giặc vùi lấp, chết mất gần hết, kẻ tớ nhờ Chưởng sự dẫn dắt nên thường như giặc không thấy, trọn được an toàn”.

Ngày mồng 0 tháng 0 năm Trinh Quán thứ mười sáu (62) thời Tiền Đường, Văn Quan Tứ Thức ở cửa phía Bắc Huyền Võ. Khi ấy, Văn Bản làm Trung thư thị lang, cùng người anh trong nhà là Thái phủ khanh, cùng Trị thư thị ngự sử Mã chu, Cấp sự Trung Vi Côn, cùng Đường Lâm tôi chung ngồi trò chuyện, Văn Bản tự kể cho mọi người nghe như vậy.

20. Tôn Hồi Phác

Điện Trung thị lang Tôn Hồi Phác, vốn người ở Tế âm. Năm Trinh Quán thứ mười ba (63) thời Tiền Đường, theo xa giá đến cốc Tam thiện ở cung Cửu thành, cùng ở gần nhà Ngụy Thái sư. Từng một đêm nọ vào lúc canh hai, nghe ngoài cửa có tiếng người gọi “Tôn Thị Y”. Tôn Hồi Phác ra xem, tự cho là Thái sư gọi. Khi đã ra, thấy có hai người bảo cùng Tôn Hồi Phác rằng: “Quan gọi”. Tôn Hồi Phác nói: “Tôi không thể đi bộ”. Liền lấy ngựa của Phác cưỡi đi theo hai người ấy, mới cảm thấy đất trời sáng sủa như ban ngày. Tôn Hồi Phác lấy làm ngờ lạ mà không dám nói. Hai người dẫn ra cửa cốc, trải qua chầu các nhà phía Đông, lại theo hướng Đông bắc, đi khoảng sáu -bảy dặm. Đến cốc Mục túc, xa thấy có hai người dẫn Hàn Phụng Phương đi, bảo hai người dẫn Tôn Hồi Phác rằng: “Các người sai nhầm rồi, kẻ ta bắt được đây mới là phải, các người nên thả người ấy ra”. Hai người đó bèn thả Tôn Hồi Phác. Tôn Hồi Phác theo đường lần dò trở về, chẳng khác lúc bình sinh. Về đã đến nhà, buộc ngựa, thấy đứa tớ đang ngủ nơi cửa nhà, gọi nó chẳng đáp, Tôn Hồi Phác bước vượt qua, vào cửa nhà, thấy thân mình cùng vợ đều ngủ, muốn đến đó mà trọn chẳng được, chỉ dính đứng nơi vách tường phía Nam, lớn tiếng gọi vợ, nhưng vợ vẫn không đáp. Trong phòng rất sáng, thấy trong góc vách tường có màn lưới nhền nhện, trong lưới có hai con ruồi, một lớn một nhỏ và thấy nơi xà nhà có dính vật thuốc, không gì chẳng rõ ràng, chỉ không được đến nơi sàn giường. Tôn Hồi Phác tự biết là đã chết, nên rất buồn bã, hận không được cùng vợ giả biệt, đứng tựa nơi phía vách tường phía Nam, lâu sau hơi ngái ngủ, bỗng kinh ngạc tỉnh giấc, thấy thân mình đã nằm trên giường mà trong phòng tối đen không trông thấy gì, Tôn Hồi Phác kêu gọi vợ, bảo vợ đốt lửa, mà thân mình đổ mồ hôi ướt đẫm, dậy trông nhìn màn lưới nhền nhện rõ ràng chẳng khác, thấy ngựa cũng đổ mồ hôi. Đêm đó, Hàn Phụng Phương bạo tử.

Về sau, đến năm Trinh Quán thứ mười bảy (63) thời Tiền Đường, Tôn Hồi Phác vâng phụng sắc chiếu đi ngựa trạm đến Tề châu trị bệnh cho Tề Vương Hựu xong trở về, đến trạm Hiếu Nghĩa ở phía Đông Lạc châu, bỗng thấy một người lại hỏi: “Ông có phải là Tôn Hồi Phác chăng?” Tôn Hồi Phác đáp: “Phải. Ông hỏi làm gì?” Người ấy đáp: “Ta là quỷ, Ngụy Thái sư có văn thư tìm bắt ông để làm ký thất”. Nhân đó đưa văn thư cho Tôn Hồi Phác. Tôn Hồi Phác đọc xem, thì đó là Trịnh Quốc Công Ngụy Huy Thự. Tôn Hồi Phác kinh ngạc hỏi: “Trịnh công chẳng chết, sao sai ông đưa thư?” Quỷ đáp: “Đã chết rồi vậy, hiện nay làm Thái dương đô lục đại giám, nên bảo ta tìm gọi ông”. Tôn Hồi Phác dẫn mời cùng ăn, quỷ vui mừng cảm tạ Tôn Hồi Phác, Tôn Hồi Phác xin rằng: “Tôi vâng mạng đi sứ chưa về. Trịnh Công không nên đuổi tìm tôi, đợi tôi trở về Kinh đô, tấu trình sự việc hoàn tất, sau đó tôi sẽ vâng mạng, có được chăng?” Quỷ bèn chấp thuận. Từ đó, ban ngày thì đồng đi, ban đêm thì chung ngủ. Về đến Văn Hương. Quỷ từ giả, bảo rằng: “Tôi tạm qua chỗ vượt ải chờ đợi ông”. Tôn Hồi Phác vượt qua ải ra cửa phía Tây, thấy Quỷ đã ở ngoài cửa, lại cùng đi, đến trạm Tư Thủy, Quỷ lại giả biệt, nói rằng: “Đợi ông tấu trình sự việc xong, sẽ cùng gặp lại. Ông nên chớ ăn dùng các thứ tanh nồng”. Tôn Hồi Phác hứa: “Vâng!”. Tấu trình sự việc xong, Tôn Hồi Phác phỏng hỏi Trịnh Công đã chết thật, ngay trước ngày đến trạm Hiếu nghĩa, Tôn Hồi Phác tự cho rằng: “Mình hẳn phải chết”, bèn cùng người nhà từ biệt, thỉnh mời chư Tăng hành đạo, chú tạo tôn tượng, biên tả kinh điển, khoảng năm -sáu ngày sau, ban đêm ngủ mộng thấy Quỷ trước đến gọi dẫn đưa lên núi cao. Trên đỉnh núi có cung điện lớn. Đã vào bên trong, thấy các quân tử nghinh đón mà bảo rằng: “Người này tu phước, không thể lưu ở lại đây, nên phóng thả đi”. Và liền xô đẩy Tôn Hồi Phác rơi xuống núi. Khi ấy tự nhiên kinh hãi tỉnh ngộ, mãi đến nay không bệnh hoạn gì. Tôn Hồi Phác tự nói cho Đường Lâm tôi nghe như vậy.

21. Hộ Bộ thượng thư Võ Xương Công Đái Vị

Hộ Bộ thượng thư Võ Xương Công Đái Vị, vốn cùng Thư Châu biệt giả Thẩm Dụ kết bạn thân. Năm Trinh Quán thứ bảy (633) thời Tiền Đường, Đái Vị qua đời. Đến tháng tám năm sau (63), Thẩm Dụ đang ở tại châu, mộng thấy tự thân mình đến nơi đường thông phía Nam thôn Nghĩa ninh tại Kinh đô, bỗng thấy Đái Vị vận mặc áo quần xấu cũ, nhan sắc rất tiều tụy khốn đốn, trông thấy Thẩm Dụ, vừa buồn vừa mừng. Thẩm Dụ hỏi: “Lúc bình sinh ông tu phước, nay cớ sao như vậy?” Đái Vị đáp: “Lúc sống, Tôi nhầm lẫn tấu giết một người. Sau khi tôi chết có người khác giết một con dê để cúng tế tôi. Do hai việc ấy mà phải đối biện, khốn khổ chẳng thể nói, nhưng cũng thế xong vậy”. Nhân đó, nói cùng Thẩm Dụ rằng: “Lúc còn sống, Tôi cùng ông kết bạn lành, nhưng cuối cùng không thể tiến tới địa vị quan quân, rất lấy buồn hận ấm ức trong lòng. Ông nay tự được làm quan Ngũ phẩm, văn thư đã qua đến Thiên Tào, cùng hỗ trợ hân hoan vui mừng, nên tôi báo cùng ông được rõ”. Nói xong, thế rồi Thẩm Dụ tỉnh mộng, bèn nói với mọi người là đã có mộng tức có điềm ứng. Mùa đông năm đó, Thẩm Dụ vào kinh đô dự tham tuyển chọn, vì có đồng phạt, không được làm quan, Thẩm Dụ lại nói với mọi người điềm mộng không ứng nghiệm. Qua mùa xuân năm Trinh Quán thứ chín (635) thời Tiền Đường, Thẩm Dụ sắp về Giang nam, vừa đi đến Từ châu, bỗng nhiên vâng phụng có chiếu thư ban trao cho Thẩm Dụ làm quan Ngũ phẩm, và làm Vụ châu Trị Trung (anh của Đường Lâm tôi làm Lại bộ thị lang nghe vậy, mời Thẩm Dụ đến hỏi và Thẩm Dụ nói như thế).

22. Lý Đại An ở Lũng tây

Lý Đại An ở Lũng tây là anh ruột của Công bộ thượng thư Lý Đại Lượng. Trong khoảng niên hiệu Võ Đức (618-627) thời Tiền Đường, Lý Đại Lượng làm Việt châu Tổng quản, Lý Đại An từ Kinh dô đến thăm, Lý Đại Lượng sai bảo vài người tôi tớ theo anh trở về. Về đến Lộc kiều ở Cốc châu, dừng nghỉ tại quán trọ. Các tôi tớ ấy có mưu ý giết hại Lý Đại An, đợi lúc ngủ say, dùng kiếm nhỏ đâm vào cổ Lý Đại An găm lút xuống dính sàn giường. Nhân đó, kẻ tớ ấy chẳng rút ra mà bỏ chạy trốn.

Lý Đại An kinh hãi tỉnh giấc, gọi kẻ tớ, kẻ tớ không phản hại đến, muốn rút kiếm ra, Lý Đại An bảo: “Rút kiếm ra hẳn sẽ chết vậy, nên lấy giấy bút để viết thư trước đã, kẻ tớ bàn báo cùng người chủ quán trọ tố cáo lên Quan huyện. Lúc Lý Đại An viết thư xong thì Quan huyện cũng vừa đến, nhân vì rút mũi nhọn ra, tẩy rửa vết thương, bôi thoa bó thuốc, Lý Đại An bèn chết ngất, bỗng nhiên như người nằm mộng thấy có một vật dài hơn một thước trơn nhẵn dày khoảng bốn -năm tấc, hình trạng tợ như thịt heo, cách đất khoảng hai thước, từ ngoài cửa dần vào đến trước sàn giường. Trong đó có tiếng bảo: “Hãy gấp hoàn trả thịt cho ta”. Lý Đại An hỏi: “Tôi chẳng ăn thịt heo, duyên gì mắc nợ ngươi?” Bỗng nghe ngoài cửa có tiếng nói: “Sai nhầm rồi, không phải, vật này tức trả lại”, rồi từ cửa đi ra, Lý Đại An bèn thấy trước sân có một ao nước, trong sạch cạn rất đáng thích, ở trên bờ phía Tây có một tôn tượng Phật bằng vàng cao khoảng năm tấc, chốc lát dần lớn mà hóa làm vị Tăng đắp mặc áo ca sa rất mới sạch, bảo cùng Lý Đại An rằng: “Ông bị thương ư? Ta nay sẽ vì ông mà khử bỏ nỗi đau đó, ông sẽ bình phục, trở về nhà mà niệm Phật tu thiện”. Nhân đó đưa tay thoa vào vết thương nơi cổ của Lý Đại An, rồi bỏ đi. Lý Đại An ghi nhớ rõ kỹ hình trạng đó thấy trên lưng vị Tăng có mãnh lụa sắc hồng vá áo ca sa vuông khoảng một tấc, rất rõ ràng. Thế rồi Lý Đại An tỉnh giấc sống lại và vết thương cũng không đau nhức, có thể ngồi dậy ăn uống được. Mười mấy ngày sau, con em ở Kinh đô đến đưa trở về nhà, người nhà cố lại trông thăm. Lý Đại An vì nói nguyên do trình trạng bị thương và việc thấy gặp vị Tăng. Có kẻ tớ ở tại phòng đó nghe nói như thế, nhân đó kể lại.

Từ đó, Lý Đại An bắt đầu thực hành. Vợ Lý Đại An sai bảo kẻ tớ đến người thợ làm tượng vì Lý Đại An mà tạo tôn tượng Phật. Lúc tượng hoàn thành, dùng màu để họa vẽ, có một chấm son làm dơ trên lưng, sai người thợ tẩy bỏ, nhưng chẳng chịu, đến nay vẫn hiện còn, hình trạng như điều nói của Lang quân (Lý Đại An). Nhân đó, Lý Đại An cùng vợ và mọi người trong nhà cùng đến trông xem tôn tượng, mới thấy chấm son trên lưng uyển nhiên như chỗ vá đắp, khi ấy mới thán dị, bèn kính tin Phật pháp vợ của Đại An vốn người thuộc dòng họ Hạ Hầu, là em gái của Lãng châu thứ sư Tuân, trước đã nói cho Đường Lâm tôi nghe. Về sau, còn của Anh Lý Đại An là Thương Dụ làm Đại Lý Khanh cũng nói như vậy.

23. Đô Thủy Sứ giả Tô Trường

(Xem chú thích 3, ở đây kết hợp với truyện thứ mười bốn ở sau).

24. Đổng Hùng ở Hà đông

Đổng Hùng ở Hà đông, thuở thiếu thời rất chí thành kính tin Phật Đạo. Ăn chay trường suốt vài mươi năm. Trong khoảng niên hiệu Trinh Quán (627-650) thời Tiền Đường, làm Đại Lý thừa. Mùa xuân năm Trinh Quán thứ mười bốn (61), vì bị liên lụy với việc của Lý Tiên Đồng, hệ thuộc với Ngự Sử Đài. Bấy giờ vua Thái Tông (Lý Thế Dân) lấy làm cam tâm vô cùng tức giận, sai Trị thư thị ngự sử nghiệp tông v.v… bắt khảo hỏi rất gấp, phòng cấm nghiêm mật. Có khoảng hai mươi người bị bắt giam cầm. Trong đó, Đại Lý thừa Lý Kính Huyền, Ty trực Vương Hân đều liên lụy việc đó, đồng bị giam cấm trong một phòng với Đổng Hùng, và bị xiềng xích rất chặt chẽ. Đổng Hùng chuyên trì niệm phẩm Phổ Môn trong kinh Pháp Hoa, qua vài ngày được ba ngàn biến. Nửa đêm riêng ngồi đọc niệm kinh, bỗng nhiên khóa tự mở rơi nơi đất, Đổng Hùng kinh ngạc bảo cùng Lý Kính Huyền và Vương Hân. Hân và Huyền đều trông thấy khóa nhưng vẫn cứng chắc kínn khít nơi đất, móc khóa cũng nghiễm nhiên không hư hoại mà móc và xích lìa cách nhau vài thước. Huyền, Hân v.v… vô cùng kinh lạ đó. Đổng Hùng lo sợ bị khiển trách tội, báo cùng người giữ, xin móc xích đó. Giám sát ngự sử Trương Kính Nhất trực đêm tại đó, bảo kẻ lại mở khóa, kẻ lại đem đuốc soi xem, thấy móc xích và khóa chẳng liên quan mà tự nhiên lìa nhau, rất quái lạ. Nhân đó móc xích khóa không lại, dùng giấy niêm phong ổ khóa viết đặt để trên niêm phong, kẻ lại làm xong, đi khỏi. Đổng Hùng lại ngồi tụng kinh, đến canh năm, khóa lại mở rơi mà có tiếng như người mở. Đổng Hùng kinh sợ lại báo cùng Huyền, Hân v.v… cho rằng, gần sáng không nên báo với kẻ lại. Đến sáng mọi người cùng trông xem, thấy móc và xích mỗi tự rời nhau nơi đất, mà móc khóa vẫn kín chặt, nơi niêm phong vẫn hoàn toàn như cũ không xê dịch, móc xích rất kín chắc, không lý nào mở được. Lý Kính Huyền từ thuở thiếu thời chẳng tin Phật pháp, thấy vợ đọc tụng kinh thì thường bảo rằng: “Sao lại vì một vẻ đẹp của Hồ thần mà đọc sách ấy ư?” đến lúc thấy việc này của Đổng Hùng mới rất thán phục, tỉnh ngộ, mới bảo rằng: “Nay tôi mới biết, Phật là Đại Thánh, không thể xếp đặt xem như thường tình, thật chẳng thể nghĩ bàn vậy”. Bấy giờ, Vương Hân, Lý Kính Huyền cũng trì tụng danh hiệu tám vị Bồ-tát, đủ ba vạn biến, hết ngày, khóa tự mở rơi, trông nhìn đò, móc khóa tướng trạng so với Lý Kính Huyền cũng không khác nhau”. Khi ấy, Kính Huyền tin phục hổ thẹn hối tạ. Thế rồi cả ba người đều được rửa sạch tội oan. Lý Kính Huyền mới biên tả kinh Pháp Hoa, họa vẽ tôn tượng tám vị Bồ-tát, quy y Tam bảo, phát tâm cúng 6 dường. (Khi ấy, Đường Lâm tôi mắc bệnh rất nặng ở tại nhà, Lý Kính Huyền đến tham bệnh, tự nói rõ sự việc ấy. Khi bệnh lành, Đường Lâm tôi lại nhiếp chức, hỏi đài nội quan lại, nói cùng như Lý Kính Huyền không khác, Đổng Hùng cũng tự nói việc đó, mà tinh cần cố gắng càng dốc chí. Đổng Hùng đến nay hiện còn, làm Chu lệ lệnh).

25. Đô Thủy Sứ giả Tô Trường

Trong khoảng niên hiệu Võ Đức (618-627) thời Tiền Đường, Đô Thủy Sứ giả Tô Trường làm Ấp châu thứ sử, Tô Trường dẫn đem người nhà đến nơi trấn nhậm, vượt qua sông Gia lăng, giữa dòng, gió nổi thuyền chìm, mọi người nam nữ có hơn sáu mươi người một lúc đồng chết đắm. Chỉ có một người thiếp thường đọc tụng kinh Pháp Hoa, nước sông vào, người thiếp đó đội hộp kinh trên đầu, thề cùng kinh chìm đắm. Thế rồi, thuyền chìm, riêng người tiếp ấy không đắm, theo sóng đẩy tấp, khoảnh khắc đến bờ, bèn mở hộp mà xem kinh. Trọn không thấm ướt, nay vẫn hiện còn ở Dương châu, lấy chồng làm vợ người mà càng dốc lòng kính tin. (Sầm Lệnh nói được nghe người tiếp ấy nói như vậy. Đường Lâm tôi nhân đi sứ trên sông đó, mọi người chung thuyền cũng đồng nói vậy).

26. Trung thư lệnh Sầm Văn Bản

Trung thư lệnh Sầm Văn Bản, từ thuở nhỏ đã kính tin Phật pháp, thường niệm tụng phầm Phổ Môn trong kinh Pháp Hoa. Từng đi thuyền đến Ngô giang, giữa dòng thuyền hư, mọi người đều chết, Sầm Văn Bản ở trong nước, nghe có tiếng người bảo: “Chỉ nên niệm Phật, hẳn sẽ không chết”. Nói như vậy ba lần, thế rồi theo sóng vọt ra, đã đến trên bờ phía Bắc. Sau đến Giang lăng, thiết trai hội cúng dường. Các hàng Tăng tục đều nhóm tụ nơi nhà Sầm Văn Bản. Có một khách Tăng đến sau, bảo cùng Sầm Văn Bản rằng: “Thiên hạ mới loạn, ông may chẳng dự phải tai họa ấy, cuối cùng gặp Thái Bình, đạt được phú quý”. Nói xong, liền rảo bước đi ra. Thế rồi, Sầm Văn Bản từ trong chén ăn có được hai viên xá-lợi. Về sau mọi việc quả nhiên đều như lời nói đó (Sầm Văn Bản tự đến Đường Lâm tôi nói như vậy).

27. Nguyên Đại Bảo ở Hà nam

Nguyên Đại Bảo ở Hà nam, trong khoảng niên hiệu Trinh Quán (627-650_ thời Tiền Đường, làm Đại Lý thừa, một đời không tin việc nhân quả. Cùng đồng quan liêu Trương Tán Sách kết bạn thân. Nguyên Đại Bảo từng nói với Trương Tán Sách rằng: “Hai người chúng ta, nếu ai chết trước thì nên trở lại báo việc nhân quả có hay không vậy. Đến năm Trinh Quán thứ mười một (637) thời Tiền Đường, Nguyên Đại Bảo theo xa giá đến Lạc dương, mắc bệnh mà chết, khi ấy Trương Tán Sách đang ở tại Kinh đô chưa biết. Một đêm nọ mộng thấy Nguyên Đại Bảo đến báo rằng: “Tớ đã chết vậy. Lúc bình sinh không tin có quả báo thiện ác. Nay mới nhất định biết có thật không hư dối, nên lại cùng báo. Ông cố gắng tu tạo phước nghiệp”. Trương Tán Sách hỏi tướng trạng đó như thế nào. Nguyên Đại Bảo đáp: “Sự khốn khổ trong minh báo thật không thể nói, kia cũng không thể giải bày, chỉ báo cho ông biết nhất định là thật có”. Trương Tán Sách tỉnh mộng, nói cùng các quan đồng liêu biết việc đó, hai ngày sau thì tin đám tang Nguyên Đại Bảo đưa đến. Trương Tán Sách xét lại giấc mộng đó là sau ngày Nguyên Đại Bảo đã chết (Trương Tán Sách tự nói cho Đường Lâm tôi biết như vậy).

28. Trịnh Sư Biện

Đông cung hữu giám môn binh tào tham quân Trịnh Sư Biện, lúc chưa tròn hai mươi tuổi, bị bệnh dữ, chết ngất, ba ngày sau sống lại, tự nói: “Có vài người đến bắt lấy, dẫn đi vào cửa lớn quan phủ, thấy có hơn trăm kẻ tù nhân đều xếp hàng xoay mặt về hướng Bắc mà đứng, có cả thảy sáu hàng. Những người đứng hàng thứ nhất hình trạng béo trắng vận mặc y phục đẹp sạch như thuộc hạng quý nhân. Tiếp hàng thứ hai sau, dần gầy ốm xấu xí, hoặc mang gông cùm, hoặc chỉ cởi bỏ khăn đai, binh lính nghiêm mật canh giữ đều xếp hàng liền tay áo. Trịnh Sư Biện đến, bị xếp đưa vào hàng thứ ba, tình đầu hàng từ phía Đông là đứng thứ ba cũng cởi bỏ khăn đai, xếp liền tay áo. Trịnh Sư Biện rất lo sợ nên chuyên tâm niệm Phật, bỗng thấy có một vị Tăng từng quen biết lúc bình sinh vào trong hàng binh lính vây quanh. Binh lính không cản ngăn, nhân đó đến nơi Trịnh Sư Biện mà bảo: “Lúc bình sinh chẳng lo tu phước nay bỗng đến đây như thế nào?” Trịnh Sư Biện tha thiết cầu xin cứu giúp. Nay ta cứu ngươi được ra khỏi, ngươi có thể trì giới chăng?” Trịnh Sư Biện hứa: “Xin vâng theo”. Chỉ khoảnh khắc, có kẻ lại dẫn vào các tù, đến trước mặt quan để lần lượt hứa hỏi đến Trịnh Sư Biện. Nhân thấy có vị Tăng vì quan nói về phước nghiệp của Trịnh Sư Biện. Quan bảo: “Thả cho ra”. Nhân đó, vị Tăng ấy dẫn Trịnh Sư Biện ra đến ngoài cửa vì trao cho pháp ngũ giới, dùng bình nước sạch rưới trên trán Trịnh Sư Biện và bảo: “Lúc mặt nhật lặng về hướng Tây, hẳn sẽ sống vậy”. Lại lấy một cái áo choàng màu vàng trao cho Trịnh Sư Biện và bảo: “Khoát áo này về đến nhà đặt để nơi sạch sẽ tôn nghiêm”.

Đồng thời chỉ đường trở về. Trịnh Sư Biện khoát áo choàng và đi về, đến nhà, xếp gấp áo choàng đặt để trên góc giường. Thế rồi, Trịnh Sư Biện mở mắt thân mình cử động, mọi người trong nhà đều kinh sợ chạy tan, chỉ mình người mẹ chẳng bỏ đi, hỏi Trịnh Sư Biện rằng: “Ngươi trị ư?” Trịnh Sư Biện nói: “Mặt nhật lặng về hướng Tây hẳn sống”. Trong ý Trịnh Sư Biện cho rằng lúc đó là giữa trưa nên hỏi mẹ, người mẹ đáp: “Đang là nửa đêm”. Mới biết sống chết trái ngược về đêm ngày vậy. Thế rồi hôm sau lúc mặt nhật lặng về hướng Tây, Trịnh Sư Biện bèn ăn được và lành, còn thấy chiếc áo choàng ở trên đầu giường. Đến lúc, Trịnh Sư Biện có thể dậy nỗi hình áo choàng dần ẩn diệt mất, mà còn có ánh sáng, qua bảy ngày sau mới hết. Trịnh Sư Biện bèn hành trì ngũ giới. Vài năm sau, có người khuyên mời ăn thịt heo, chẳng đặng đừng, Trịnh Sư Biện mới ăn một miếng, đêm đó mộng thấy đã hóa làm Lasát, ranh nanh mỗi cái dài vài thước, túm bắt heo sống mà ăn. Đến sáng tỉnh giấc trong miệng nồng tanh, khạc nhổ ra, mới bảo người trông xem đó, đầy trong miệng đều là huyết đọng. Trịnh Sư Biện kinh sợ chẳng dám ăn thịt. Lại vài năm sau, cưới vợ, người vợ bức ép Trịnh Sư Biện ăn thịt, ăn lâu mới không ứng nghiệm, nhưng từ năm – sáu năm trở lại nay, nơi lỗ mũi Trịnh Sư Biện có vết thương lớn chín mùi, mà tự trọn đời chẳng lành. Sợ rằng do phá giới nên như thế đó. (Ngày trước Đường Lâm tôi cùng Trịnh Sư Biện đồng trực ở Đông cung, được nghe Trịnh Sư Biện tự nói việc đó).

29. Phu nhân của Trần Công Thái

Phu nhân của Trần Công Thái, vốn người thuộc dòng họ Đậu lô, là chị ruột của Nhuế Công Khoan. Phu nhân rất tin tạo phước, tụng kinh Kim Cang Bát-nhã chưa hết quyển, chỉ một trang giấy lâu mà chẳng xong. Sau đó, một ngày nọ lúc trời xẩm tối, trên đầu đau nhức, tứ chi chẳng an, đêm nằm lại càng quá lắm, phu nhân tự nghĩ thản như nếu chết thì tụng kinh không được trọn bộ, muốn dậy tụng kinh mà trong nhà đèn đuốc đã tắt mất, phu nhân dậy gọi bảo kẻ tớ đốt đèn, chốc lát sau kẻ tớ trở lại, trong bếp không còn lửa, phu nhân lại bảo mở cửa đến nhà người để xin, lại cũng không có lửa, phu nhân càng rất than hận, bỗng nhiên thấy trong đóm có một đóm lửa lên thềm cấp vào trong nhà, thẳng đến trước giường, cách đất khoảng ba thước mà không người cầm nắm, ánh sáng như ban ngày, phu nhân vừa kinh hãi vừa vui mừng, đầu đau cũng giảm lành, liền lấy kinh ra trì tụng, khoảnh khắc sau, người nhà kéo dùi được lửa, đốt đuốc đem vào nhà thì ánh sáng đóm lửa đó tự nhiên ẩn mất, bèn ngay đêm đó tụng trọn bộ kinh. Từ đó, mỗi ngày phu nhân trì tụng năm biến kinh lấy làm lệ thường. Về sau, Nhuế Công sắp chết, phu nhân đến thăm. Nhuế Công bảo cùng phu nhân rằng: “Chỉ nhờ phước đức tụng kinh sẽ sống thọ đến trăm tuổi, khéo nên sống vậy”. Đến nay phu nhân vẫn còn khỏe mạnh, tuổi đã tám mươi. Phu nhân tự kể với chị dâu của Đường Lâm tôi như vậy.

30. Tả giám môn hiệu úy Phùng Dực Lý Sơn Long

Tả giám môn hiệu úy Phùng Dực Lý Sơn Long, trong khoảng niên hiệu Võ Đức (618-627) thời Tiền Đường, bị bạo bệnh chết ngất, mà trên tim không lạnh như ở lòng bàn tay, người nhà chưa nhẫn tẩm liệm. Đến bảy ngày sau, sống lại, Lý Sơn Long tự nói: Đang lúc chết bị quan thâu bắt xiềng xích đưa đến nơi một Quan tào, sảnh sự rất hoành tráng, sân đó cũng rộng lớn, trong sân có vài ngàn kẻ tù nhân, hoặc bị gông cùm, hoặc bị xiềng xích đều xoay mặt về hướng Bắc mà đứng đầy cả trong sân. Kẻ lại dẫn đưa Lý Sơn Long đến nơi sảnh sự, có một quan lớn ngồi nơi sàn tòa cao, có người canh hầu như vua, Lý Sơn Long hỏi: “Đó là quan nào?” Kẻ lại đáp: “Đó là vua vậy”. Lý Sơn Long đến trước dưới thềm cấp, vua hỏi: “Lúc bình sinh người tạo phước nghiệp gì?” Lý Sơn Long đáp: “Mỗi lúc người trong làng quê thiết trai hội giảng pháp, tôi thường thí vật đồng chung hỗ trợ”. vua hỏi: “Tự thân ngươi làm được thiện nghiệp gì?” Lý Sơn Long đáp: “Trì tụng kinh Pháp Hoa được hai quyển”. vua bảo: “Tốt lành thay! Có thể bước lên thềm cấp”. Lý Sơn Long đã lên trên sảnh, ở phía Đông bắc có một tòa cao như giảng tòa, vua chỉ đến đó ngồi, và bảo Lý Sơn Long: “Có thể lên tòa ấy trì tụng kinh”. Lý Sơn Long vâng phụng lệnh đến bên cạnh tòa. vua liền đứng dậy, xướng: “Thỉnh Pháp sư lên pháp tòa”. Lý Sơn Long lên tòa xong, vua mới xoay mặt hướng về pháp tòa mà ngồi. Lý Sơn Long cất tiếng tụng: “Kinh Diệu Pháp Liên Hoa, phẩm Tựa thứ nhất”. vua bảo: “Xin Pháp sư dừng!” Lý Sơn Long xuống khỏi pháp tòa lại đứng dưới thềm cấp, ngoảy trông nhìn trong sân, tất cả tù nhân đều mất không còn một người ở đó. vua bảo Lý Sơn Long rằng: “Phước lực của ông tụng kinh, chẳng chỉ tự lợi, mà khiến tất cả tù nhân trong sân đều nhờ nghe kinh mà được thoát khỏi. Đó chẳng phải tốt lành ư? Nay thả ông trở về”. Lý Sơn Long kính bái từ tạ, mới đi vài mươi bước. vua gọi trở lại, và bảo kẻ lại: “Có thể dẫn người này đi trông xem các ngục”. Kẻ lại liền dẫn Lý Sơn Long theo hướng Đông, đi hơn trăm bước, thấy một thành sắt rất rộng lớn, phía trên có nhà che phủ, bên cạnh thành đó có nhiều cửa sổ nhỏ, hoặc lớn như cái bồn nhỏ, hoặc như chén bát, thấy có các người nam nữ từ đất bay vào trong cửa sổ đó, rồi chẳng trở ra. Lý Sơn Long lấy làm quái lạ, hỏi kẻ lại. Kẻ lại đáp: “Đó là ngục lớn, trong ngục phần nhiều đều có phân cách, tội phạt mỗi nơi một khác, mỗi mỗi tùy theo bản nghiệp vào ngục nhận chịu tội”. Nghe thế, Lý Sơn Long buồn sợ, xưng niệm: “Nam-mô Phật!” Và xin kẻ lại đưa ra. Đến nơi cửa viện thấy một cái vạc lớn, nước sôi tuôn trào, bên cạnh có hai người ngồi ngủ. Lý Sơn Long hỏi đó, hai người ấy đáp: “Chúng tôi bị tội báo vào vạc nước sôi này, may nhờ hiền giả xưng niệm Nam Mô Phật nên người tội trong ngục đều được tạm ngưng nghỉ một ngày, vì quá nhọc mệt nên ngủ vậy”. Lý Sơn Long lại xưng niệm: “Nam Mô Phật!” Kẻ lại bảo Lý Sơn Long rằng: “Sổ quan phủ dời đổi, nay vua phóng thả ông đi, ông có thể trình vua xin sao, nếu không như vậy sợ các quan khác chẳng biết, lại đuổi bắt ông”. Lý Sơn Long lại đến bái yết vua xin sao lục. vua bảo lấy giấy, viết một hàng chữ, giao cho kẻ lại và bảo: “Hãy vì lấy Quan thự ở Ngũ đạo v.v…” kẻ lại vâng mạng, dẫn Lý Sơn Long đi qua hai Tào, mỗi một sảnh sự đếu có người canh hầu như trước. vua sai kẻ lại đều lấy Quan thự đó, mỗi nơi viết một hàng xong, giao cho Lý Sơn Long. Lý Sơn Long mang ra đến cửa, có ba người bảo Lý Sơn Long rằng: “vua phóng thả cho ông đi, có thể chẳng ít nhiều xin cho chúng tôi?” Lý Sơn Long chưa nói điều gì. Kẻ lại bảo Lý Sơn Long rằng: “vua phóng thả ông đi chẳng do ba người kia. Đó là kẻ sứ trước kia tóm bắt ông, trong đó một người là Thằng chủ, dùng sợi dây đỏ trói buộc ông, một người là bỗng chủ, dùng roi đánh đầu ông, và một người là đại chủ, hớp lấy hơi ông, thấy ông được tha trở về, nên xin các vật vậy”. Lý Sơn Long bàng hoàng kinh sợ cảm tạ ba người đó rằng: “Tôi kẻ phàm ngu, không biết các ông, xin đến nơi nhà sẽ có đủ các vật, chỉ không biết đưa đến nơi nào để dâng hiến?” Ba người ấy bảo: “Đưa đến bên bờ sông, hoặc dưới gốc cây lớn”. Lý Sơn Long hứa: “Kính vâng”. Rồi từ tạ kẻ lại, trở về nhà, thấy mọi người đang than khóc, sắm sửa mọi vật tẩn liệm, Lý Sơn Long vào nhà, đến bên cạnh thây mình, liền sống lại. Ngày hôm sau cắt giấy làm tiền lụa, và sắm các thứ rượu, thức ăn, tự đưa đến bên bờ sông mà thiêu đốt, bỗng thấy có ba người cảm tạ rằng: “Nhờ ông chẳng mất chữ tín, lại cùng cấp tặng, chúng tôi hổ thẹn mang đội!” Nói xong, liền không thấy nữa. Lý Sơn Long tự đến nơi vị Tăng chủ chùa Tổng Trì kể nói việc ấy, lại chuyển đến Đường Lâm tôi kể nói như vậy.

 

QUYỂN HẠ

31. Vương Nhâm ở Đại châu

Khoảng cuối niên hiệu Khai Hoàng (605) thời nhà Tùy, tái Đại châu có người dòng họ Vương, tên Nhâm, làm kỵ phiêu tướng quân, trấn thủ ở Kinh châu, tánh tình ham thích ruộng vườn săn bắn, giết hại đông nhiều vô số. Có năm người con trai, không có con gái, về sau sinh được một người con gái, tướng mạo đẹp xinh như tranh họa, mọi người trông thấy đều mến quý đó. Cha mẹ hợp nghĩ, đã trở về làng quê, thân tộc người làng tranh nhau làm y phục tốt lành đẹp xinh mà cùng mến thương đó. Người con gái ấy lên bảy tuổi, một ngày nọ bỗng mất, không biết đi đâu, mới đầu nghi các người trong làng lân cận đùa giấu, phỏng hỏi nhưng trọn không người nào thấy, các người anh cỡi ngựa đi tìm xa, cách nhà hơn ba mươi dặm, thấy trong bùn gai. Muốn lại kéo ra, nhưng liền kinh sợ bỏ chạy xa, ngựa đuổi không kịp. Các người anh dùng cả vài mươi người cưỡi ngựa vây quanh mới bắt được, trong miệng mở tiếng tợ người kêu oan, bèn bồng ẳm đưa về nhà, mà chẳng thể nói được, khắp trên thân thể cây gai châm chích tổn thương, người mẹ vì khươi mà bị châm chích đầy, ẳm bồng được hơn một tháng, mà không ăn, bèn chết, cha mẹ buồn đau, cả nhà đều cùng phát tâm hành trì trai giới luyện hạnh. Đại lý thừa Tuyên Minh từng làm Đại phủ pháp tào, vì Đường Lâm tôi mà kể nói như vậy.

32. Tư đồ Thôi Hạo ở thời Hậu Ngụy

Tư đồ Thôi Hạo ở thời Hậu Ngụy là người học rộng rất có mưu lược, phụng sự vua Thái Võ Đế (Thác Bạt Đào 2-52) thời Bắc (Hậu) Ngụy, nói làm hứa theo, dân chúng trong nước cho đó là khuôn phép. Thôi Hạo bắt chước phụng sự Khấu Khiêm Chi, rất không tin Phật, cho đó là hư dối làm tổn phí của muôn dân. Thôi Hạo thấy vợ mình đọc tụng kinh, liền đoạt lấy mà ném vất vào trong giếng. Theo vua Thái Võ Đế đến Trường an, vào chùa thấy có cung tên dao thuẩn, vua tức giận giết hại chư Tăng ở chùa. Thôi Hạo nhân đó tiến tới nói: “Giết hết Sa-môn, đốt phá kinh tượng, lưu lại đài phía dưới, khắp nơi đều y theo việc làm ở Trường an”. Khấu Khiêm Chi cùng Thôi Hạo tranh cãi nhưng Thôi Hạo chẳng nghe theo, Khấu Khiêm Chi bảo cùng Thôi Hạo rằng: “Khanh theo lệnh nhận giết hại, tức diệt mất tông tộc nhà cửa vậy”. Bốn năm sau, Thôi Hạo quả nhiên vô tội mà bị giết chết cả dòng tộc, sắp hành hình chuyển đến nơi đường lộ, Quan sứ có cả mười người tại trên xe, tiểu giải vào miệng Thôi Hạo, kéo đi vài dặm, chẳng kham khốn khổ, kêu gào thảm thiết, cuối cùng bị đủ năm cách hành hình, từ xưa trở lại giết hại nhục nhã như thế trước đó chưa từng có. vua Thái Võ Đế cũng giết hại Thái tử oan uổng, sau đó lại bị kẻ Hoạn quan Tông ái giết hại. Người thời bấy giờ cho rằng do vì hủy phá Phật pháp mà bị quả báo ứng nghiệm như vậy (Thấy ở “Hậu Ngụy Thư” và “mười sáu nước xuân thu”).

33. Vua Nguyên Đế thời Nam lương

Vua Nguyên Đế (Tiêu Dịch 552-555) thời Nam lương, lúc sáu tuổi, thấy trong hộp trang điểm của mẹ có hạt châu lớn, Nguyên Đế lén lấy ngậm trong miệng, bèn nhầm nuốt mất, người mẹ bị mất hạt châu, trong ý cho là các người chung quanh cắp trộm, phỏng hỏi mà không ai chịu nhận, mới nướng một con cá sống tự để nguyền rủa. Ngày hôm sau, Nguyên Đế đại tiện, hạt châu theo tiện mà ra, Nguyên Đế bèn bị chột mất một mắt. (Thấy Lương Hậu lược nói vậy).

34. Vua Võ Đế thời Bắc Chu

Vua Võ Đế (Võ Văn Cung 561-57) thời Bắc Chu, rất ưa thích ăn trứng gà mỗi lần ăn vài quả. Có Giám thiện nghi đồng tên là Bạt Bưu thường dâng ngự thực nên có được sủng ái. Mãi đến lúc vua Văn Đế (Dương Kiến 581-605) thời nhà Tùy lên ngôi, còn làm Giám thiện dâng thức ăn. Trong niên hiệu Khai Hoàng (581-605) thời nhà Tùy, Bạt Bưu bị bảo tử mà tim còn ấm nóng, người nhà, ba ngày sau mới sống lại, khi nói năng được, trước tiên bảo: “Đưa ta đến ra mắt vua, vì vua Võ Đế thời Bắc Chu có chuyển lời”. Thế rồi đưa đến ra mắt, vua Văn Đế dẫn hỏi. Bạt Bưu kể: Mới đầu thấy một người gọi, theo đến một nơi có hang rắn lớn, con đường phải đi, thẳng vào trong hang, vừa đến miệng hang, xa thấy từ phía Tây có hơn trăm người cưỡi lại, nghi vệ như vua, bỗng chốc đến cửa hang, thì ra đó là vua Võ Đế thời Bắc Chu, Bạt Bưu kính bái. vua Võ Đế bảo: vua gọi ngươi đến làm chứng việc ta rõ ràng, thân ngươi không tội lệ gì”. Nói xong, vua Võ Đế liền vào trong hang, Sứ giả cũng dẫn Bạt Bưu vào, tiện thấy cửa cung, dẫn vào sân, thấy vua Võ Đế cùng một người đồng ngồi, mà có dung mạo Tăng phần cung kính đó. Sứ giả bảo Bạt Bưu kính bái vua. vua hỏi Bạt Bưu: “Ngươi vì vua làm thức ăn, trước sau dâng cả thảy bao nhiêu quả Bạch đoàn?” Bạt Bưu không biết Bạch đoàn là gì, ngoảy lại hỏi các người chung quanh, các người chung quanh bảo: “Tên của trứng gà là Bạch đoàn”. Bạt Bưu liền đáp: “vua (Võ Đế) thường ăn Bạch đoàn, thật không thể nhớ được số lượng đó”. vua bảo Võ Đế: “Người này không nhớ, cần phải đưa ra đó”. vua Võ Đế buồn thảm tỏ vẻ không vui mà đứng dậy. Bỗng thấy trước sân có một chiếc giường sắt và vài mươi ngục tốt đều là đầu trâu thân người, vua Võ Đế đã đến nằm trên giường, ngục tốt dùng xà sắt cán ép đó, nơi hông vua Võ Đế bị xé rách, nơi xé rách gà con tuôn ra an toàn chốc lát đầy cả giường có hơn mười hộc, mới bảo tính đếm số đó xong, giường và ngục tốt bỗng chốc không còn trông thấy. vua Võ Đế đã trở lại nơi chỗ vua ngồi. vua bảo Bạt Bưu: “Tha cho ngươi về đi”. Có người dẫn đưa ra đến trong cửa hang, lại thấy vua Võ Đế theo ra, bảo cùng Bạt Bưu: “Nghe Đại Tùy Thiên Tử xưa trước từng cùng ta cộng tác. Các thứ ngọc lụa trong kho khố cũng là do ta tích trữ. Nay ta, lúc thân tự làm vua mà phá diệt Phật pháp nên phải nhận chịu tội khổ lớn. Có thể vì ta mà tạo giúp công đức vậy”. Khi ấy, vua Văn Đế ban sắc mọi người trong thiên hạ xuất một tiền để vì truy phước. (Ông ngoại của Đường Lâm tôi đích thân thấy điều đó, lúc về nhà kể nói lại như vậy).

35. Sĩ nhân dòng họ Lương ở thời Bắc Tề

Trong thời Bắc Tề (550-578), có Sĩ nhân vốn dòng họ Lương, gia đình giàu sang sung túc. Đến lúc sắp chết, bảo cùng vợ con rằng: “Lúc bình sinh, tôi mến thương kẻ tớ và con ngựa, đều đã cấp sứ cưỡi dùng nhiều ngày, xứng hợp ý người, nay tôi chết, có thể vì giết nó luôn, nếu không như vậy thì không có kẻ cấp sử và cưỡi dùng”. Đến lúc Sĩ nhân chết, người nhà dùng cái đãy đựng đầy đất, đè ép giết chết kẻ tớ, còn con ngựa thì chưa giết. Kẻ tớ chết, sau bốn ngày sống lại, nói rằng: “Ngay lúc mê man chẳng biết đi, chợt đến nơi cửa quan phủ, người giữ cửa nhân đó lưu dừng lại, nghỉ qua một đêm, đến sáng sớm, thấy ông chủ bị gông cùm, lính nghiêm canh giữ dẫn vào nơi quan sở, thấy kẻ tớ tôi mà bảo: “Ta đã chết, khi đang làm người thì có được tôi tớ sai khiến, kêu gọi ngươi, nay mỗi tự nhận chịu khổ, không liên quan gì nhau. Nay ta sẽ tâu thưa phóng tha ông”. Nói xong mà vào, khi ấy tôi lặng yên ở ngoài lén nhìn vào, thấy quan hỏi người canh giữ rằng: “Hôm qua ép mở được ít nhiều?” Người canh giữ đáp: “Được tám thăng”. Quan bảo: “Lại dẫn đi, ép lấy một hộc sáu đấu”. Ông chủ liền bị dẫn kéo ra, trọn không nói được gì. Qua ngày mai thấy lại có tỏ vẻ vui mừng bảo tôi: “Nay sẽ vì ngươi mà tâu trình vậy”. Lúc nào, Quan hỏi: “Ép có được mở không?” Người canh giữ đáp: “Không được”. Quan hỏi nguyên do sao không được, người canh giữ lại đáp: “Người này vừa chết ba ngày mà người nhà vì thỉnh mời chư Tăng, thiết lập trai hội cúng dường, mỗi lần nghe tiếng trong kinh thì xà sắt liền gãy nên ép không được”. Quan bảo: “Hãy tạm dẫn đi”. Nhân đó, ông chủ tấu trình quan: “Xin phóng thả cho kẻ tớ”. Quan liền gọi: “Phóng thả”: Cùng chung ra cửa, ông chủ có truyền lời bảo tôi về nói với vợ con rằng: “Nhờ các người tu tạo phước, nên được khỏi nỗi khổ lớn, nhưng còn chưa được thoát. Nếu hay lại vì biên tả kinh Pháp Hoa, tạo tôn tượng Phật, dùng đó để cùng cứu giúp, mong hẳn được thoát khỏi. Từ nay không nên thiết bày cúng tế, đã chẳng được ăn mà càng thêm tội cho tôi”. Ông chủ nói xong, bèn giả biệt, kẻ tớ sống lại mà nói dời đó đầy đủ, trong nhà quả thật ngày ấy có thiết trai hội cúng dường. Từ đó cả nhà đều vì tu tạo phước và đồng phát tâm luyện hạnh. (Cao Kinh Châu là cậu của Đường Lâm tôi nói như vậy và thấy người đất Tề nói về tai họa đó).

36. Thượng trụ quốc bồ sơn Huệ Công Lý Khoan

Trong thời nhà Tùy (581-618) có Thượng trụ quốc bồ sơn Huệ Công Lý Khoan tánh tình ham thích ruộng vườn săn bắn, thường nuôi vài mươi con chim săn, sau đó sinh được một đứa con trai mà miệng như mỏ chim ưng, bèn chẳng cử đó. (Huệ Công là cha của Lý Mật, cùng thân gần với nhà Đường Lâm tôi nên tôi thảy đều thấy đó).

37. Ưng Dương Lang tướng Thiên thủy nữ Khương Lược

Trong thời nhà Tùy (581-618) có Ưng Dương Lang tướng Thiên thủy nữ Khương Lược, thuở thiếu thời, ham thích ruộng vườn săn bắn, khéo giỏi thả chim săn. Về sau cảm mắc bệnh, thấy có đàn chim cả ngàn con đều không đầu vây quanh nơi giường Khương Lược, kêu réo: “Gấp trả đầu lại cho ta”. Mỹ Lược liền đau nhức trên đầu chết ngất, lâu sau mới sống lại, nói: “Xin sẽ vì các chim mà tu tạo phước”. Hứa xong, đàn chim đều bay đi. Thế rồi Khương Lược được lành mạnh, bèn trọn đời bỏ tuyệt uống rượu ăn thịt, chẳng giết hại sinh mạng (lúc Đường Lâm tôi ở lại Lũng Hữu Hạ, có thấy gặp Khương Lược. Năm sáu mươi tuổi, Khương Lược tự kể nói cho Đường Lâm tôi nghe như vậy).

38. Đứa bé trộm cắp trứng gà

Khoảng đầu niên hiệu Khai Hoàng (581) thời nhà Tùy, ở trong ngoại ấp tại Ký châu, có đứa bé khoảng mười ba tuổi thường trộm cắp trứng gà của nhà ở gần, đốt nướng mà ăn, về sau một sáng sớm nọ, người trong thôn còn ngủ chưa dậy, người cha nghe có tiếng gõ cửa gọi đứa bé ấy, mới bảo nó ra đáp lại. Vừa ra, thấy một người bảo: “Quan gọi ngươi làm việc”. Đứa bé nói: “Gọi ta làm việc thì tôi phải vào lấy theo y phục và lương thực”. Kẻ Sứ bảo: “Chẳng cần vậy”. Nhân đó, dẫn đứa bé ra cửa thôn, ở phía Nam của thôn trước kia là ruộng dâu, canh cày rồi mà chưa gieo giống. Khi ấy, đứa bé chợt thấy bên hữu đường đi, có một thành nhỏ, bốn mặt là cửa lầu, đỏ trắng rất tráng lệ. Đứa bé lấy làm quái lạ hỏi: “Có như vậy từ bao giờ?” Kẻ Sứ la trách nó, khiến chớ nói. Nhân đó dẫn đến cửa phía Bắc của thành, bảo đứa bé đi vào trước. Đứa bé vừa bước qua ngạch cửa, cửa thành bỗng nhiên đóng lại, không thấy một người nào, chỉ là thành trống không, dưới đất đều là than nóng lửa vụn, sâu lút mắt cá cha. Đứa bé chạy vượt đến cửa phía Nam thành, vừa đến nơi thì cửa liền đóng bít. Lại chạy đến cửa phía Đông phía Tây, cũng đều như vậy. Lúc chưa đến thì thấy mở, đã đến nơi thì đóng bít. Đến lúc mọi người trong thôn ra đồng, kẻ nam người nữ lớn nhỏ đều thấy đứa bé ấy ở trong ruộng cày, miệng tợ như có tiếng khóc, rong chạy khắp bốn phía, nên đều cùng nói với nhau rằng: “Đứa bé này điên cuồng ư, cớ sao như thế, chạy đùa chẳng ngưng nghỉ?” Đến giờ ăn, mọi người đều trở về, cha đứa bé hỏi rằng: “Có thấy con tôi chăng?” Các người hái dâu đáp: “Thấy nó chạy đùa trong phía Nam thôn, kêu gọi mà chẳng chịu lại”. Người cha ra phía Nam thôn, xa thấy đứa bé chạy, gọi lớn tên nói một tiếng, đứa bé liền dừng lại, thành và lửa cũng không tìm thấy, trông thấy người cha mà ngã té, gào khóc, nói chẳng được. Trông nhìn chân đứa bé từ nửa cẳng chân trở lên, máu thịt cháy khô, từ đầu gối trở xuống chín đỏ như than, người cha bồng đỡ về nhà, nuôi dưỡng chữa trị, thịt từ đùi vế thịt được trở lại như cũ, từ đầu gối trở xuống bèn thành cốt xương khô, mọi người ở thôn lân cận nghe vậy cùng đến trông xem nơi đứa bé chạy, dấu chân nhanh nhẹn, trọn không có than lửa. Từ đó mọi người ở ấp, kẻ nam người nữ già trẻ đều trì giới luyện hạnh. (Có Sa-môn Đại Đức Đạo Tuệ, vốn người ở Ký châu kể nói cho Đường Lâm tôi nghe như vậy. Đó là ấp lân cận vậy).

39. Tên lính canh ngục ở quận Kinh triệu

Trong khoảng niên hiệu Đại Nghiệp (605-617) thời nhà Tùy, tại quận Kinh triệu, có tên lính canh ngục (không rõ biết tên họ là gì) rất hung bạo đối với các tù nhân, tù nhân không kham nỗi các thứ khốn khổ mà tên lính ấy lại lấy làm vui thích. Về sau, sinh một người con mà dưới gò má, phía trên vai có thịt như gông cùm, không có cổ trước sau, sống được vài năm đi không được mà chết.

40. Người vợ ở Hà nam

Trong khoảng niên hiệu Đại Nghiệp (605-617) thời nhà Tùy tại Hà nam có người vợ của đứa cháu nuôi dưỡng bà cô mà bất hiếu, Bà cô bị mù cả hai mắt, người vợ ấy vằm trùn (giun) làm canh để cho ăn, Bà cô lấy làm quái lạ mùi vị đó lén giấu một lát cất giữ để cho đứa cháu xem. Đứa cháu trở về trông thấy vậy, muốn đưa người vợ đến quan huyện, chưa kịp đưa mà sấm sét đánh cướp mất người vợ, chốc lát sau từ giữa không trung rơi xuống, thân mình áo quần vẫn như cũ nhưng đổi thay cái đầu làm thành đầu chó trắng, nói năng chẳng khác. Hỏi nguyên do cớ sao vậy? Người vợ ấy đáp: “Bởi vì bất hiếu với Bà cô nên trời thần trách phạt”. Người chồng tức đứa cháu đưa đến quan. Khi ấy người vợ đó đi xin ăn nơi chợ, về sau không biết ở đâu.

41. Người cha của Biện Sĩ Du ở Dương châu

Biện Sĩ Du ở Dương châu, có người cha ở trong thời nhà Tùy vì Bình Trần có công được trao thức Nghi đồng. Tánh tình ông rất keo lậu, từng thuê mướn người làm vườn mà không trả tiền công. Người làm mướn đến đòi xin tiền, ông ta dùng roi đánh, lại tỏ vẻ tức giận nói: “Nếu thật ta có mắc nợ sau khi chết sẽ làm trâu mà đền trả đó”. Sau khi cha của Biện Sĩ Du chết, con trâu của người làm thuê mướn mang thai sinh ra một con Hoàng độc -trâu nghe, nơi eo có đường văn đen giăng ngang giáp vòng như giải eo lưng người, bên đùi chân trái có đường văn trắng xuyên suốt lớn nhỏ chánh như hình tượng hốt, người chủ trâu gọi lại hỏi: “Biện Công cớ sao mắc nợ ta?” Trâu nghe đến quỳ hai gối trước, cúi đầu sát đất. Biện Sĩ Du đem mười vạn tiền đến xin mua chuộc con trâu nghé ấy nhưng người chủ không bán. Để đến chết mới chôn (Chân Đà kể nói cho Đường Lâm tôi nghe vậy).

42. Ân An Nhân ở Kinh triệu

Tại Kinh triệu, có Ân An Nhân, gia đình giàu có của cải, vốn chuyên phụng sự chư Tăng ở chùa Tề môn. Khoảng đầu niên hiệu Nghĩa Ninh (617) thời nhà Tùy, có người khách đến dừng nghỉ nơi nhà. Người khách trộm lừa người khách giết chết, lột da để lại cho An Nhân. Đến năm Trinh Quán thứ ba (62) thời Tiền Đường, An Nhân chợt thấy gặp một người nơi đường, bảo An Nhân rằng: “Quan đòi bắt ông, sai người ngày mai đến, ông sẽ bị chết”. An Nhân kinh sợ đi thẳng đến trong điện Phật chùa Từ Môn. Ở lại qua đêm không ra. Hôm sau đến giờ ăn quả thật có ba người cưỡi ngựa và vài mươi người đi bộ đều nắm binh trượng vào chùa, xa thấy An Nhân bèn kêu gọi, nhưng An Nhân chẳng đá lại mà niệm Phật tụng kinh càng tinh chuyên hơn. Quỷ tự bảo với nhau rằng: “Hôm qua chẳng bắt lấy ngay, nay kẻ ấy tu phước như vậy, làm sao có thể bắt được?” Nhân đó cùng nhau bỏ đi, để lại một người canh giữ. Người ở lại đó bảo cùng An Nhân rằng: “Ngày trước ông giết lừa, nay lừa tố cáo ông, nên chúng tôi lại bắt ông vậy. Ông phải đối mặt với kia nói rõ sự tình xưa trước, không đi chẳng ích lợi gì”. An Nhân xa đáp rằng: “Ngày trước, kẻ trộm tự giết lừa, chỉ đem da đến cho tôi, chẳng phải tôi giết, sao lại đi đuổi bắt? Xin ông trở về hãy vì tôi nói với lừa rằng: Tôi vốn không hiết hại ngươi, nhưng nay sẽ vì ngươi mà tu tạo phước, đối với ngươi sẽ có được lợi ích. Và nên tha cho tôi. Người ấy bèn hứa vâng và bảo: “Nếu như lừa không chấp thuận thì ngày mai Tôi sẽ đến lại, còn như lừa chấp thuận thì không đến nữa”. Nói xong bèn đi, ngày mai không trở lại. Từ đó An Nhân vì lừa mà tu tạo phước, và cùng cả gia đình trì giới ăn chay (Lô Văn Lệ kể nói như thế, An Nhân nay hiện còn).

43. Đứa con gái của Triệu Sĩ Thứ

Tại thôn chợ Trường an có phong tục sau ngày mồng một tết hàng năm, mọi người cùng làm các thứ ăn uống đồng vui chơi, gọi đó là truyền thọ. Tại phía Đông chợ có người thợ vẽ tên là Triệu Sĩ Thứ đang vì bày biện mọi việc. Có một người khách đến trước nơi nhà xí, thấy trên cối xay có một bé gái tuổi khoảng mười ba -mười bốn, mặc quần màu xanh áo sam màu trắng, lụa gấp buộc cổ tay nối liền với cột trụ cối xay, khóc bảo với người khách rằng: “Tôi vốn là con gái của người chủ, năm trước, lúc chưa chết trộm lấy của cha mẹ một trăm tiền, muốn dùng mua son phấn, chưa kịp bèn chết, số tiền đó hiện nay ở trong vách tường góc Tây bắc nhà bếp, tuy chưa sử dụng nhưng đã là trộm cắp nên bị tội như thế này để đền trả cho cha mẹ”. Nói xong bèn hóa làm một con dê lông xanh khoan cổ trắng, người khách kinh ngạc báo cùng người chủ, người chủ hỏi về tướng mạo đứa bé thì ra đó là đứa con gái nhỏ đã chết hai năm trước. Xong đến nơi vách tường nhà bếp tìm kiếm có được tiền, tợ như cất giấu tại đó đã lâu. Khi ấy, bèn đưa Dê đến trong chùa Tăng, cả nhà đều phát nguyện không ăn thịt. (Lô Văn Lệ kể nói như vậy).

44. Phan Quả ở Kinh triệu

Tại Kinh triệu, có Phan Quả tuổi chưa đến hai mươi, trong khoảng niên hiệu Võ Đức (618-627) thời Tiền Đường, nhậm làm Đô thủy tiểu lại, lúc về trong thôn cùng vài thiếu niên ra đồng ruộng vui đùa, đi ngang qua gò mã thấy một con dê bị người bỏ rơi riêng đứng ăn cỏ. Nhân đó, Phan Quả cùng các thiếu niên bắt lấy dẫn đem về chùa, đi giữa đường con dê kêu ré, Phan Quả sợ chủ dê nghe biết bèn rút lưỡi dê, dê mới không kêu ra tiếng, đêm đó làm thịt dê mà ăn. Sau đó một năm, chiếc lưỡi của Phan Quả dần nhỏ lại, bèn tiêu hết, Phan Quả tấu trình văn điệp xin giải chức. Phú Bình huyện úy Trịnh Dư Khánh nghi Phan Quả lừa dối, bảo mở miệng khám nghiệm, đúng thật không có lưỡi. Xem nơi gốc thì chỉ còn bằng hạt đậu không tiêu hết, rất lấy làm quái lạ hỏi nguyên do. Phan Quả đúng như thật đạp lại trình bày đó. Quan huyện bảo nên vì dê mà tu tạo việc phước, Phan Quả mới thọ ngũ giới, tu tạo phước thiện, sau đó một năm, lưỡi mới dần mọc ra lại, sau đó được bình phục như cũ, Phan Quả đến Quan huyện trình bày, Quan huyện mới dùng lại làm Lý chánh.

Năm Trinh Quán thứ mười tám () thời Tiền Đường, Trịnh Dư Khánh làm giám sát ngự sử, tự kể nói cho Đường Lâm tôi nghe như vậy.

45. Người dòng họ Vương ở Lạc dương

Trong khoảng niên hiệu Đại nghiệp (605-617) thời nhà Tùy, tại Lạc dương có người dòng họ Vương chuyên tâm hành trì ngũ giới, thường nói những việc chưa xảy ra, mọi người trong thôn ấp thảy đều kính tin. Một ngày nọ, bỗng nhiên bảo với mọi người rằng: “Ngày nay sẽ có người cho ta một con lừa”. Trưa hôm đó quả nhiên có người dẫn đến cho một con lừa, tự buồn khóc mà kể rằng: “Tôi sớm đã chịu tang cha, người mẹ góa bụa nuôi dưỡng anh em tôi một trai một gái, đến lúc em gái tôi lấy chồng thì mẹ cũng qua đời, đến nay đã mười năm. Nhân ngày Hàn thực (tiết trước thanh minh), em gái tôi trở về nhà, ở nhà có con lừa vài tuổi tại Lạc dương có tập tục ngày Hàn thực mang rượu và các thức ăn ra cúng tế nơi phần mộ. Người ấy cưỡi lừa mà đi, mộ ở phía Đông sông ấy, muốn qua sông ấy nhưng lừa chẳng chịu đi, nên dùng roi đánh vào đầu mặt lừa bị thương đổ máu. Thế rồi, đến nơi mộ, thả lừa mà cúng tế, bỗng nhiên lừa biến đi đâu mất, chốc lát có lại như cũ. Ngày đó, người em gái riêng một mình ở nhà người anh, chợt thấy người mẹ về, đầu mặt đều đổ máu, hình dáng gầy ấn tiều tụy, khóc than bảo cùng em gái rằng: “Lúc sống ta lén anh người lấy năm thăng gạo cho ngươi, nên bị tội báo như thế này, phải nhận chịu làm thân lừa suốt năm năm để đền trả cho anh ngươi, ngày nay anh ngươi muốn qua sông ấy, vì nước sâu, ta sợ anh ngươi dùng roi đánh vào đầu mặt ta đều rách phá như vậy, nhưng trở về nhà, hẳn sẽ đánh ta đau khổ hơn nữa, nên ta chạy đến báo trước cùng ngươi. Nay ta đền trả oan trái cũng xong có thể rất phi lý nhận chịu khổ vậy”. Nói xong bèn chạy ra, sau đó không thấy nữa, người con gái ghi nhớ rõ kỹ hình trạng nơi vết thương, thế rồi người anh trở về, người em gái trước ra trông xem lừa, đầu mặt đều có vết thương, bèn ôm chầm lấy lừa mà khóc. Người anh lấy làm quái lạ hỏi nguyên do, người em kể rõ tình trạng lúc ở nhà, người anh cũng bảo: “Mới đầu lừa chẳng chịu lội qua sông. Đến lúc mất rồi có lại, tướng trạng cũng đồng như thế”. Khi ấy cả hai anh em ôm chầm lấy lừa mà khóc ròng, lừa cũng ứa trào nước mắt hoen my, chẳng chịu ăn uống cỏ nước, anh em cùng quỳ xuống cầu xin!” Nếu thật đúng là mẹ, xin nên vì ăn cỏ”. Lừa liền ăn cỏ, thế rồi lại thôi. Cả hai anh em chẳng biết làm sao, bèn chuẩn bị thóc đậu đưa đến nơi người dòng họ Vương chuyên trì ngũ giới, lừa mới chịu ăn uống lại. Về sau đến lúc lừa chết, người em gái mang đưa về chôn cất.

46. Khương Bảo

Trong thời nhà Tùy (581-618) có Khương Bảo làm quan tấn thân ở Giang nam, thuở thiếu thời có được học hành, cùng người anh một đều rất có tiếng tăm, năm Đại nghiệp thứ chín (613) thời nhà Tùy, Dương Huyền Võ dấy loạn, người anh của Khương Bảo nhận làm quan Trạng của Dương Huyền Võ, do đó Khương Bảo cùng anh đồng bị bắt đáng sẽ phải chết, mà Khương Bảo ngầm trốn lánh tự sống chìm lánh tại kinh đô. Qua năm sau (61), Khương Bảo nhân vào Bí thư tỉnh tìm kiếm người quen biết cũ, khi ấy. vua Dương Đế (Dương Quảng 605-617) không có ở đó, nên các cửa ở cung thành đều đóng bít, mọi sư ra vào chỉ do bằng một cửa An môn thượng. Khương Bảo vào đến cửa, thấy gặp một người quen biết xưa trước vốn dòng họ Tăng, Tăng cũng người Giang nam, bấy giờ phán ở lại trông giữ việc. Thấy gặp Khương Bảo, cùng nói năng trò chuyện, hỏi thăm sức khỏe bình an, Khương Bảo biết Tăng tường cùng chung nên cũng tình thật tỏ bày, thế rồi giả biệt mà vào. Tăng bèn sai người đuổi theo bắt, Khương Bảo vào Bí thư, người đuổi theo bắt báo lên quan. Khi ấy, Vương Thiệu làm Bí thư thiếu giám, thuở thiếu thời cũng cùng quen biết với Khương Bảo, không muốn bắt tội Khương Bảo, mới chặn đón người đuổi theo bắt mà bảo rằng: “Ta trước vốn có biết Khương Bảo, người ấy không phải là Khương Bảo”. Khương Bảo biết ý chỉ ấy liền ứng tiếng đáp: “Tôi thật là kẻ trai ở đất phía Nam trốn lính vậy”. Vương Thiệu xua đuổi người đuổi theo bắt đó ra và bảo đi. Người đuổi theo bắt đó trở về báo cùng Tăng, Tăng lại đến nơi An thượng môn chơi chờ đón bắt lấy. Khương Bảo biết không thoát khỏi, nên nói với Tăng rằng: “Ta thật có mắc nợ quan chết, chết tự phần ta, nhưng không mắc nợ ông, ông và ta quen biết xưa trước, đã không thể cứu giúp, sao lại trái phản nhau như vậy. Nếu chết thì thật có biết, ta sẽ cùng báo oán ông”. Sau đó, Khương Bảo chịu phục pháp luật bị chết. Sau vài ngày, nhà của Tăng vốn ở làng Thái bình sắp vào lưu thú càng Thiện Hòa đến trong cửa phía Tây, bỗng thấy Khương Bảo cưỡi ngựa, áo mão rất mới đẹp, có hai kẻ hầu mặc áo xanh theo sau, bảo cùng Tăng rằng: “Mạng tôi cũng sắp hết, nhưng còn có đến ba năm, do ông giết chết oan uổng, nay tôi đang nhậm Thái sơn chủ bộ, đã xin Thiên tào báo thù giết ông”. Tăng cúi đầu xin tạ tội, nguyện sẽ vì tu tạo phước hồi hướng, Khương Bảo hứa thuận mà bao nhiêu không thấy nữa, vài ngàysau lại gặp Khương Bảo, nói với Tăng rằng: “Ta nhất định sẽ giết ông, tạm tha cho ông bảy ngày để tu phước, qua thời hạn ấy sẽ trước đến lấy đầu ông đi. Nếu không tin thì sẽ thấy ông chết mặt xoay sau lưng”. Tăng kinh sợ trở về nhà tu tạo phước đức, đến kỳ hạn thì chết, xoay mặt lui sau lưng, đúng lời Khương Bảo nói (có người thân quen của Khương Bảo kể nói như vậy).

47. Người dòng họ Vi ở Lâm Ngang

Trong khoảng niên hiệu Võ Đức thời Tiền Đường (617-627) tại Lâm ngang, có người dòng họ Vi, cùng một người vợ mở lời thề thốt mong hẹn chẳng trái phụ nhau, trải qua nhiều năm đánh mất sự mến thương, người vợ oán hận. Vi lo sợ đó đã kịp bèn thắt cổ giết chết vợ, vài ngày sau khắp thân thể vi nhân phát bệnh hủi mà chết.

48. Mã Gia Vận ở Ngụy quận

Mã Gia Vận ở Ngụy quận, tháng giêng năm Võ Đức thứ sáu (623) thời Tiền Đường, đang ở nhà lúc trời chiều, ra nơi cửa lớn, chợt thấy hai người, mỗi người bắt một con ngựa, người trước đứng dưới cây ngoài cửa, Gia Vận hỏi: “Ông là người nào?” Người ấy đáp: “Tôi là Đông hải công sứ đến nghiênh đón Mã sinh vậy. Gia Vận vốn có học thức, biết các châu Lý từng có đài Lý và các khách quý ở bốn phương thường hay mời đón thấy gặp. Đến ghi nghe gọi mời vậy, chẳng lấy làm quái lạ, bảo cùng Sứ giả rằng: “Tôi không có ngựa”. Sứ giả liền dắt đưa ngựa và nói: “Dùng ngựa này để nghinh đón Mã sinh”. Gia Vận liền đến dưới tàng cây, leo lên ngựa mà đi, kỳ thật thân mình té ngã dưới gốc cây. Bỗng chốc đến một Quan tào, sắp vào cửa lớn có vài mươi người vừa nam vừa nữ đứng ở ngoài cửa như muốn kiện tụng, có một người phụ nữ trước kia từng quen biết với Gia Vận, là vợ của Trương Công Cẩn, người ở đồng quận, vốn dòng họ Thôi, trong tay nắm một văn thư bảo cùng Gia Vận rằng: “Mã sinh còn cũng biết chăng? Xưa trước cùng Trương tổng quản giao du, đã từng vài lần thấy gặp, Tổng quản không quan trạng vô lý giết hại tôi. Tôi tố cáo với Thiên tào đến nay đã ba năm, nhưng vì Thiên vương chủ cứu hộ Công Cẩn nên thường bị ép bức, nay đến lúc được tỏ bày, quan đã đi đuổi bắt, không bao lâu nữa Công Cẩn sẽ đến đây. Nghi tôi riêng bị giết hại oan uổng, Mã sinh sao cũng bị đến đây ư?” Gia Vận biết người họ Thôi này bị giết, đến nay thấy biết mình đã chết, Sứ giả dẫn vào cửa, người giữ cửa bảo: Công đang ngủ, chưa thể vào bái yết”. Nên dẫn đến ngồi nơi Hoắc Ty Hình, Gia Vận thấy Ty Hình, chính là Ích châu Hành đài Lang Trung Hoắc Chương, thấy Gia Vận đến bèn mời ngồi và bảo: Phủ này, ký thất bị khuyết thiếu người, Đông Hải Công nghe. Ông có tài học nên muốn khuất phục ông đến đây làm quan vậy”. Gia Vận nói: “Tôi vốn nhà nghèo khó, vợ con chẳng lập, xin ông vì nơi giúp được khỏi thì rất lấy làm may!” Hoắc Chương bảo: “Nếu vậy thì ông có thể tự nói là không được học hành nhiều lắm, tôi sẽ có thể cùng biện giải rõ ràng”. Bỗng chốc có người đến báo: “Công ngủ đã đậy”. Bèn dẫn Gia Vận vào, thấy một người ngồi nơi sảnh sự, thân hình béo thấp sắc da đen ngâm gọi Gia Vận đến phía trước và bảo: “Nghe ông có tài học vấn, muốn cùng khuất phục đưa đến đây làm ký thất, có thể làm được chăng?” Gia Vận bái tạ thưa: “Rất may, chỉ vì quê kệch tôi chuyên việc ruộng rẫy, cũng có dùng kinh nghiệp chỉ dạy người sau, chẳng đủ khả năng để đảm nhậm cai quản ký thất”. Công bảo: “Có biết Hoắc Chương chăng?” Gia Vận đáp: “Có biết”. Nhân đó sai người gọi Hoắc Chương đến hỏi về tài thuật của Gia Vận. Hoắc Chương đáp: “Bình sinh thấy Gia Vận có kinh học nhưng chưa từng thấy làm văn chương”. Công bảo: “Phóng thả Mã sinh trở về”. Và liền bảo người đuổi tìm bắt Trần Tử Lương, Gia Vận giả từ lui ra, Hoắc Chương cùng Gia Vận giả biệt, bảo rằng: “Nhớ ông về nói với Tam Cẩu nhà tôi, lúc lâm chung nói ngươi bán con ngựa của tôi thường cưỡi để làm Phù đồ, người nào bán ngựa sao tự phí vậy? Hãy chóng nghe lời tôi bảo tạp lập phù đồ”. Tam Cẩu tức là con trai trưởng của Hoắc Chương. Nhân đó Gia Vận hỏi: “Vừa rồi gặp vợ của Trương Công Cẩn có nói là Thiên chủ, vậy đó là ai?” Hoắc Chương đáp: “Vương ngũ giới là người đồng hương với Trương Công Cẩn, sau khi chết làm Thiên chủ thường cứu hộ cho Công Cẩn nên mãi được đến nay, nhưng nay tợ như chẳng được khỏi vậy”. Nói xong bèn già biệt, sai sứ giả đưa Gia Vận đi đến một đường tắc rít sáp, chỉ bảo theo đường ấy mà về. Gia Vận vào con đường tắc đó, bèn sống lại, giây lát sâu sau mới dậy được, lúc ấy đã là nửa đêm vợ con đều ngồi quanh khóc, Gia Vận kế dại rõ đủ sự việc vừa xảy ra.

Đến tháng bảy năm đó (623), tại Miên châu có người danh hiệu Trần, tên là Từ Lương bị bạo tử, qua đêm mới sống lại, tự nói rằng: “Đến thấy gặp Đông Hải Công, muốn dùng làm ký thất, nhưng từ chối nói là không biết chữ, riêng có Trần Tử Lương -người đất Ngô rất khéo giỏi văn chương khi ấy Đông Hải Công bảo tìm bắt kia mà thả tôi vậy”. Qua năm sau (62) Trần Tử Lương ở đất Ngô chết, và Trương Công Cẩn cũng chết. Sau hai người ấy chết, Gia Vận từng cùng vài người đồng đi, giữa đường bỗng thấy gặp quan phủ, thần sắc Gia Vận tỏ vẻ lo sợ, chỉ rảo chạy, giây lát sau mới định tỉnh. Các bạn đồng hành hỏi nguyên do, Gia Vận đáp: “Người thấy vừa rồi chính là kẻ sứ của Đông Hải Công, nói là muốn đến Ích châu tìm bắt người, Tử Lương rất mực tố cáo ông. Hoắc Ty Hình vì ông tụng độc, ông sao chẳng khỏi, nhờ ông có phước cứu chuộc kẻ khác sống, nên được khỏi vậy”. Mời đầu Gia Vận ở tại đất Thục, người dân đất Thục vét ao bắt cá, khi ấy Gia Vận vì người giảng sách, có được vài mươi xấp lụa quyên, nhân đó mua cá ao ấy phóng thả đi, đó tức là phước cứu chuộc sống vậy. Đến trong khoảng niên hiệu Trinh Quán (627-650) thời Tiền Đường, xa giá nhà vua ở tại cung Cửu thành nghe vậy bèn sai Trung thư thị lan Sầm Văn Bản đến hỏi sự việc ấy. Sầm Văn Bản biên ghi lại đầy đủ tấu trình xong. Về sau, Gia Vận làm Quốc tử Bác sĩ, cuối cùng chết đang lúc là quan chức.

49. Khổng Khác

Khoảng đầu niên hiệu Võ Đức thời Tiền Đường (618). Toại châu tổng quản phủ ký thất tham quân Khổng Khác mắc bệnh dữ mà chết, một ngày sau sống lại tự nói rằng: Bị bắt dẫn đến quan sở hỏi: “Cớ sao giết hại hai con trâu?” Khổng Khác đáp: “Tôi không giết”. Quan bảo: “Em của ông làm chứng ông giết, cớ sao ông không nhận?” Nhân đó, gọi người em đến, người em chết đã vài năm trước. Khi đã đến nơi, người em bị gông cùm rất nghiêm mật, quan hỏi: “Ông nói anh ông giết trâu là thật hay dối?” Người em đáp: “Anh trước vâng phụng sứ, chiêu vời an ủy giặc Lão sai bảo giết trâu để tiếp đãi gặp gỡ đó. Thật tôi theo lệnh anh chứ không phải tự giết”. Khổng Khác nói: “Khổng Khác tôi sai em giết trâu để tiếp đãi gặp gỡ giặc Lão, việc ấy có thật nhưng đó là việc nước nhà, Khổng Khác tôi nào có tội gì?” Quan bảo: “Ông giết trâu để tiếp đãi gặp gỡ giặc Lão muốn lấy việc chiêu vời an ủy làm công, để cầu thưởng quan, chỉ vì tự lợi, sao lại nói là việc nước nhà ư?” Nhân đó, bảo người em của Khổng Khác rằng: “Vì người làm chứng anh ngươi nên lưu giữ ngươi ở lại đây lâu, nay anh người đã thừa nhận là sai giết hại, ngươi không có tội, nên thả ngươi đi thọ sinh”. Nói xong, bỗng nhiên người em biến mất không trông thấy nữa, cũng trọn không nói được lời nào. Quan lại hỏi Khổng Khác rằng: “Lại nhân vì sao ông giết hai con vịt?” Khổng Khác đáp: “Ngày trước làm huyện lệnh, giết vịt là để tiếp đãi Quan khách, đâu phải tội Khổng Khác tôi ư?” Quan bảo: “Quan khách tự có lo liệu lương thực, không vịt, ngươi giết hại để tiếp đãi, vì mong cầu danh dự tốt lành, há không phải tội sao? Lại nữa, cớ sao giết hại sáu cái trứng gà?” Khổng Khác đáp: “Bình sinh tôi không ăn trứng gà, chỉ nhớ lúc chín tuổi, nhân ngày Hàn thực mẹ tôi có cho sáu cái trứng gà, và tự nấu ăn”. Quan bảo: “Vậy, muốn đổ tội cho mẹ nữa ư?” Khổng Khác đáp: “Chẳng dám, đó chỉ nói cái nhân ấy vậy, chứ đó chính tự Khổng Khác tôi giết nó”. Quan bảo: “Ngươi giết hại mạng sống kẻ khác, thì phải tự nhận chịu lấy tội báo”. Nói xong, bỗng nhiên có vài mươi người đều mặc áo xanh bắt dẫn Khổng Khác đưa ra. Khổng Khác kêu lớn tiếng rằng: “Quan phủ cũng rất uổng lạm”. Quan nghe thế, kêu gọi lại hỏi: “Uổng lạm điều gì?” Khổng Khác nói: “Lúc bình sinh có tội thì đều ghi lục đầy đủ không sót, nhưng từ lúc mới sinh đến nay tạo phước, khiến người không ghi, há chẳng uổng lạm ư?” Quan bèn hỏi Chủ ty: “Khổng Khác có tạo phước gì, cớ sao chẳng ghi lục?” Chủ ty đáp: “Phước cũng có ghi lục, chỉ để lường tội phước ít nhiều ra sao, nếu phước nhiều tội ít thì trước hưởng thọ phước, còn tội nhiều phước ít thì trước khiến nhận chịu tội, Khổng Khác đây tội nhiều phước ít, nên buông qua, chưa luận xét về phước ấy”. Quan tức giận bảo: “Tuy trước buộc nhận chịu tội, cớ sao chẳng nên điều phước chỉ bày rõ ràng?” Và bảo tánh Chủ ty một trăm gậy. Chốc lát đánh xong, máu me đầy đất, thế rồi Chủ ty nêu bày các điều phước mà Khổng Khác đã tu tạo trong lúc bình sinh, cũng không quên sót một điều nào”. Quan bảo Khổng Khác rằng: “Ông đáng trước phải nhận chịu tội, nay ta tạm thả ông về nhà bảy ngày, có thể lo siêng năng tu tạo phước đức”. Nhân đó sai người đưa ra.

Được sống lại, Khổng Khác thỉnh mời các Tăng ni, hành đạo sám hối tinh chuyên hành đạo, tự kể nói việc đó. Đến ngày thứ bảy, Khổng Khác bèn giả biệt mọi người trong gia đình, bỗng chốc mà qua đời. Nhà người anh của Lâm Đường tôi cùng quen thuộc nơi Toại phủ nên rõ biết vậy.

50. Lạc châu Đô đốc Tán Công Đậu Quỷ

Lạc châu Đô đốc Tán Công Đậu Quỷ tánh tình rất ưa thích giết hại. Mới đầu làm Ích châu hành đài bộc xa đã từng giết hại nhiều tướng sĩ, lại giết hại cả Hành đài thượng thư Vi Vân Khởi. Đến mùa Đông năm Trinh Quán thứ hai (628) thời Tiền Đường, khi ấy đang ở tại Lạc dương, Đậu Quỷ cảm mắc bệnh rất nặng, bỗng nhiên nói: “Có người đem dưa đến cho ta ăn”. Mọi người chung quanh bảo: “Mùa đông không có dưa”. Đậu Quỷ nói: “Một mâm dưa tươi tốt, sao bảo là không?“ Thế rồi kinh ngạc trông nhìn, Đậu Quỷ lại bảo: “Chẳng phải dưa, mà tất cả đều là đầu người đến theo ta đòi mạng”. Lại bảo: “Nâng đỡ ta dậy, thấy gặp Vi thượng thư (Vi Vân Khởi) nói xong bèn chết.

51. Thượng thư hình bộ thị lang Tống Hành Chất

Thượng thư hình bộ thị lang Tống Hành Chất vốn người xứ Tào lăng. Tánh tình không kính tin Phật, có những lời kinh mạn khác thường. Tháng năm năm Vĩnh Huy thứ hai (651) thời Tiền Đường, Tống Hành Chất mắc bệnh nặng mà chết. Đến ngày mồng 0 tháng 06 (năm 651), Thượng thư đô quan lệnh sứ Vương Thọ mắc bạo bệnh chết ngất, hai ngày sau sống lại, tự kể nói: Lúc đầu mới chết thấy có bốn người đến nơi Sở bảo: “Đuổi bắt ngươi”. Vương Thọ bèn theo đi vào một cửa lớn, thấy trên sảnh phía Tây có một Quan nhân ngồi, hình dung mập mạp sắc da đen ngâm, và phía Đông sảnh có một vị Tăng ngồi cùng quan nhân tương đương xoay mặt về hướng Bắc, mỗi bên đều có chăn giường án ghế, có khoảng vài trăm Đồng tử đứng hầu, hoặc có đội mão hoặc không đều là dung mạo đẹp xinh. Dưới thềm cấp có quan lại văn án, có một người giả mang gông mặt xoay về hướng Tây, trói đứng dưới thềm. Vương Thọ đến nơi sân đó cũng đã bị trói buộc. Có một kẻ lại nắm giấy bút đến phỏng hỏi Vương Thọ rằng: “Năm Trinh Quán thứ mười tám (6) thời Tiền Đường, ngày ông nhận nhiệm vụ Trường an Tả sứ, cớ sao thay đổi sổ bộ?” Vương Thọ đáp: “Đó không phải tội bởi Vương Thọ tôi”. Quan lớn trên sảnh đọc lời từ biện bạch xong, xoay mắt bảo kẻ tù già dưới thềm cấp phía Đông: “Cớ sao ông dối tố cáo kẻ khác?” Kẻ tù già ấy đáp: “Tuổi Tu-đạt tôi thật chưa đến lúc, do vì Vương Thọ cải đổi sổ bộ thêm tuổi của Tu-đạt tôi, không dám dối vọng vậy”. Vương Thọ nói. Năm Trinh Quán thứ mười bảy (63) tôi đã đổi nhiệm vụ khác, Cáo Thân hiện còn ở tại nhà, xin tìm lấy xét nghiệm đó”. Quan lớn nhân đó gọi ba người mở trói cho Vương Thọ, đi lấy cáo thân, cáo thân mang đến, quan lớn tự xem đọc đó, và bảo kẻ Tù-già kia rằng: “Vương Thọ đổi thay nhiệm vụ rất rõ ràng, ông nói vô lý”. Nhân đó, bảo kẻ tù già ấy ra cửa phía Bắc tăm tối, có nhiều thành, trên thành đều là nữ tướng , tợ như nơi xấu ác. Quan lớn nhân viết trên án, bảo Vương Thọ: “Ông không tội, tha cho đi”. Vương Thọ bái từ, kẻ lại dẫn Vương Thọ đến dưới thềm cấp phía Đông, kính sái vị Tăng. Vị Tăng ấy dùng ấn in trên vai Vương Thọ chữ “khéo đi”. Kẻ lại dẫn Vương Thọ ra cửa phía Đông, theo hướng Nam đi qua ba lớp cửa, mỗi cửa đều khám xét dấu dấn trên vai, sau đó mới chấp thuận cho ra. Đến cửa thứ tư, cửa ấy rất lớn, nhiều lớp lầu đan xen phòng nhà đều mở, hình trạng như cửa thành của quan, người canh giữ rất nghiêm mật, kiểm xét dấu ấn rồi cho ra cửa. Lại theo hướng Đông nam đi vài mươi bước, nghe có tiếng người gọi Vương Thọ. Vương Thọ xoay mặt trông nhìn lại, thấy Thị Lang Tống Hành Chất mặt mày thảm não, sắc da đen nám, bày đầu rách eo, mặc áo bào lụa đào cũ kỹ, đầu tóc ngắn xủ xuống như người Hồ đứng dưới thềm cấp sảnh sự, có lính lại canh giữ. Thềm cấp phía Tây gần thành, có một bia gỗ lớn cao hơn một trượng, rộng hai thước, có sách lớn trên bia, đó là khám xét xác đáng qua cả vua người. Trông giữ đó lớn vương hơn cả thước rất rõ ràng. Trên sảnh sự có giường tòa ghế án như là quan phủ mà không có người. Tống Hành Chất trông thấy Vương Thọ vừa buồn vừa mừng hỏi: “Cớ sao ông được lại đây?” Vương Thọ đáp: “Quan đuổi bắt khám xét thay đổi sổ bộ, nhưng việc ấy không có nên được phóng thả trở về”. Tống Hành Chất duỗi hay tay và nói với Vương Thọ rằng: “Tôi bị trách hỏi sổ bộ công đức, nhưng trong tay tôi không có sổ bộ công đức, nên bị khốn khổ này lại thêm bị đói khát, khổ chẳng thể nói. Ông có thể gắng sức đến nói nhà tôi bảo mọi người tu tạo công đức”. Ân cần căn dặn như thế xong mới giả từ. Vương Thọ cất bước đi, vừa đi được vài mươi bước, lại gọi Vương Thọ trở lại, chưa kịp nói lời nào, trên sảnh bỗng có quan nhân đến ngồi, tức giận bảo Vương Thọ rằng: “Ta mới vừa khám nghiệm các việc, ông là người nào liền đến nơi tù?” Nhân đó, sai lính xả lỗ tai Vương Thọ, xả lỗ tai rồi đẩy bảo Vương Thọ đi, Vương Thọ chạy lại đến một cửa. Kẻ lại giữ cửa đó bảo: “Ông bị xả lỗ tai, tai sẽ điếc, nay ta vì ông lấy vật trong đó ra”. Nhân đó đưa tay khêu lỗ tay, trong tai có tiếng kêu mới nghiệm thực, và liền tha cho ra. Ra phía ngoài cửa, đen như sơn, Vương Thọ chẳng biết đi đâu, đưa tay sờ mò từ phía Tây đến phía Nam, đều là vách tường, chỉ có phía Đông không vậy chướng ngại nhưng đen tối chẳng thể đi. Vương Thọ dừng đứng chốc lát, thấy kẻ lại vừa rồi phỏng hỏi Vương Thọ từ cửa đi ra bảo Vương Thọ rằng: “Ông còn hay chờ đội tôi, rất tốt! Có thể vì xin cho tôi ngàn tiền?” Vương Thọ không lên tiếng trả lời mà trong tâm tự suy nghĩ: “Ta vốn không tội, quan phóng thả ta về, cớ sao phải có đút lót kẻ lại ư?” Kẻ lại liền bảo: “Ông không thể không thực hành, vừa rồi nếu tôi chẳng sớm dẫn ông qua quan, khiến hai ngày nhận chịu trói buộc, há không khốn khổ ư?” Vương Thọ tỏ rõ trong tâm như vậy, nhân đó hổ thẹn xin tạ rằng: “Kính cẩn y theo lời chỉ bảo”. Kẻ lại bảo: “Tôi không sử dụng tiền Đồng như ông, chỉ muốn có được tiền giấy trắng, kỳ hạn cho ông mười lăm ngày trở lại”. Vương Thọ xin hứa kính vâng, nhân đó hỏi đường trở về. Kẻ lại bảo: “Chỉ đi theo hướng Đông khoảng hai trăm bước sẽ thấy một thành cũ bị phá thủng, thấy sáng thì có thể xô đẩy ngã đó, tức đến nhà ông. Vương Thọ y theo lời nói ấy, đi đến bức tường, xô đẩy giây lâu mới ngã đổ. Vương Thọ theo nơi ngã đổ ấy đi ra liền đến nơi ở. Đó chính là cửa phía Nam phường Long chính. Khi ấy bèn trở về nhà, mọi người trong nhà đang gào khóc, Vương Thọ vào nhà mà sống lại. Đến ngày thứ mười lăm, Vương Thọ quên chẳng cấp tặng tiền, sáng hôm sau lại cảm mắc bệnh khốn khổ, tắt hơi thở, thấy kẻ lại đến, tức giận bảo: “Ông quả thật là người không giữ chữ tín, hẹn cho ta tiền mà trọn chẳng cho. Nay đáng lại bắt ông đi”. Nhân đó ép đưa đi ra cửa Hàm quang, khiến vào trong một cái hầm lớn. Vương Thọ kính lạy tạ hơn trăm lạy, xin sẽ vì làm tiền, mới được tha trở về. Sống lại, Vương Thọ bảo người nhà mua trăm trang giấy làm tiền để cấp tặng. Ngày hôm sau, Vương Thọ lại mắc bệnh nặng dữ, thấy kẻ lại đến bảo: “Ông may hay cho tiền, mà xấu, không được tốt đẹp”. Vương Thọ lại từ tạ xin làm lại, kẻ lại hứa thuận. Đến ngày thứ hai mươi, Vương Thọ bào dùng sáu mươi tiền mua một trăm trang giấy trắng làm tiền và đem các thứ rượu thức ăn, tự đến trên cừ sông phía Tây phường Long Chính mà thiêu đốt đó. Thế rồi, thân thể được nhẹ nhàng, dần dần mạnh khỏe.

Bấy giờ, Đường Lâm tôi nghe việc ấy, bèn cùng Hình bộ thị lang lưu yến khách, Đại lý thiếu khanh Tân Mậu cùng ở tại Đại lý cốc ngục Gia Lưu vời gọi Vương Thọ đến cùng các Tể quan đáp hỏi nói như vậy.

52. Vi Khánh Thực ở Kinh triệu

Trong khoảng niên hiệu Trinh Quán (627-650) thời Tiền Đường. Ngụy vương phủ Trưởng sử Kinh triệu Vi Khánh Thực, có một người con gái không may chết sớm, cả cha mẹ vô cùng đau xót tiếc thương. Sau đó hai năm, Khánh Thực sắp nhóm tụ thân thích tân khách, kẻ mổ thịt chuẩn bị thức ăn, người nhà mua được một con dê chưa giết. Vợ của Khánh Thực ban đêm ngủ mộng thấy đứa con gái của mình đã chết đó vận mặc quần xanh áo sam trắng trên đầu tóc có đôi ngọc xuyến. Đó là cách vận mặc lúc bình sinh của đức con ấy đến trông thấy mẹ, đổ lệ khóc than nói rằng: “Con thường riêng sử dụng các vật mà không nói với cha mẹ nên bị nghiệp báo này, nay nhận chịu làm thân dê lại phải đền trả mạng cho cha mẹ, ngày mai sẽ bị giết chết, con dê xanh đầu trắng đó chính là con vậy. Kính cẩn xin ban ân từ xót thương tha cho tánh mạng con”. Người mẹ kinh hãi tỉnh giấc, sáng sớm đến trông xem, thấy cổ dê và xương đùi đều trắng, trên đầu có hai chấm trắng tương đối như hình ngọc xuyến. Người mẹ đối trước mặt nó liền khóc, bảo người nhà chớ giết hại, đợi Khánh Thực đến phóng thả đi. Bỗng chốc Khánh Thực đến thúc giục làm thức ăn, mọi người trong bếp thưa: “Phu nhân không cho giết con dê xanh”. Khánh Thực tức giận bảo cứ giết. Kẻ mổ thịt trói buộc dê muốn giết. Có vài người khách đã đến, mới thấy một bé gái dung mạo đoan chánh, mách báo người khách rằng: “Con là con gái của Vi trưởng sứ, xin hãy vì cứu mạng”. Người khách kinh ngạc cản ngăn kẻ mổ thịt. Kẻ mổ thịt sợ Khánh Thực tức giận, lại chỉ thấy con dê kêu, nên bèn giết chết nó. Thế rồi, khách cùng ngồi dự, thức ăn đem đến, khách đều không ăn, Khánh Thực lấy làm lạ hỏi, khách bèn nói rõ sự tình vừa rồi. Khánh Thực buồn đau phát bệnh bèn chẳng dậy nỗi.

Các hàng sĩ nhân ở dưới kinh đô đều biết việc đó. Thượng thư Thôi Đôn Lễ kể nói cho Đường Lâm tôi nghe như thế. Thượng thư Diêm Lập Đức cũng nói như vậy.

53. Trương Pháp Nghĩa

Tại Hoa châu Trịnh Luyện có người tên là Trương Pháp Nghĩa, thuở thiếu thời nghèo khổ quê mùa, không tu lễ độ. Năm Trinh Quán thứ mười (636) thời Tiền Đường, vào Hoa sơn chặt cây, gặp thấy một vị Tăng ngồi trong hang, Pháp Nghĩa bèn đến cùng trò chuyện, gặp lúc trời chiều tối ngồi lâu chẳng thể về, nhân đó nghỉ lại qua đêm. Vị Tăng ấy thiết bày bột tùng bách để mời cùng ăn, và bảo Pháp Nghĩa rằng: “Bần đạo ở nơi đây đã lâu, không muốn người ngoài biết, Đàn Việt lúc ra về, xin cẩn trọng chớ nói việc thấy gặp bần đạo”. Nhân đó, vì nói rằng: “Người thế tục có lắm nhiều tội lụy, chết rồi thác sinh vào đường ác, thành tâm sám hối mới có thể diệt trừ được”. Mới bảo Pháp Nghĩa tắm gội sạch sẽ vận mặc y phục vị Tăng, vì sám hối, xong rồi, giả biệt mà ra đi. Đến năm Trinh Quán thứ mười chín (65) thời Tiền Đường, Pháp Nghĩa mắc bệnh mà chết, đưa chôn vùi ngoài đồng hoang, vì nghèo khổ không có quan quách, nên dùng củi che đậy thô sơ không chôn cất kỹ, bảy ngày sau, Pháp Nghĩa sống lại xô đẩy mà đi ra trở về nhà, người nhà kinh ngạc xét hỏi, biết thật là sống lại mới vui mừng. Pháp Nghĩa tự nói: Lúc đầu mới chết có hai người đến bắt lấy vượt giữa khoảng không theo hướng Nam mà đi, đến nói quan phủ vào cửa lớn, lại dần qua đường hẻm đều là Quan tào, cửa cổng đối xứng nhau, nhiều chẳng kể xiết. Pháp Nghĩa đến một Tào thấy Quan nhân từ xa trách kẻ sứ rằng: “Đó phải Trương Pháp Nghĩa ở Hoa châu chăng. Vốn hạn định ba ngày đến, sao lâu bảy ngày mới đến?” Kẻ sứ đáp: “Nhà Pháp Nghĩa có chó hung dữ lại có chú Sư, thần bị đánh rất lắm”. Nhân đó vạch áo trông xem trên lưng, lưng đều có các vết sưng bầm xanh. Quan bảo: “Xét qua có lắm tội, cho hai mươi gậy”. Đánh gậy đã xong, máu đổ nơi đất. Quan lại bảo: “Có thể dẫn đưa Pháp Nghĩa đến Lục sự”, Lục sự đặt phát văn thư, bảo đưa giao Phán quan. Phán quan gọi Chủ điển lấy án Pháp Nghĩa. Án bộ rất nhiều, đầy cả một giường, Chủ điển đối tước Pháp Nghĩa, mở bày kiểm xét, sổ bộ đó phần nhiều câu chấm son trước đã hết, chỉ có câu cuối cùng. Điển thì ghi lục đó là: “Năm Trinh Quán thứ mười một (637) thời Tiền Đường, Pháp Nghĩa do cha sai bảo đi cắt lúa, Pháp Nghĩa trái lại trợn mắt trông nhìn và lén mắng chửi. Phạm tội bất hiếu, đáng đánh tám mươi gậy”. Mới đầu có ghi lục một điều, liền thấy vị Tăng từ trong hang lại, Phán quan đứng dậy nghinh đón, hỏi vị Tăng ấy có việc gì? Vị Tăng ấy đáp: “Trương Nghĩa là đệ tử của bần đạo, những tội lỗi của nó đều đã sám hối trừ diệt, trong bản án của Thiên tào đã móc hết cả, nay bị oan uổng bị đuổi bắt đến đây, chưa đáng phải chết”. Chủ Điển thưa: “Trải qua sám hối, bản án đây cũng đã móc xong, đến như trừng mắt mắng chửi cha, tuy nhờ được sám hối nhưng sự việc ấy chưa móc xong”. Vị Tăng ấy bảo: “Nếu không như vậy, phải lấy bản án để khám xét đó, nên có phước lợi, Phán quan bảo Chủ điển dẫn đưa Pháp Nghĩa đến thưa hỏi vua, cung tại phía Đông, điện vũ rất hoành tráng, có đến vài ngàn người hầu giữ. Vị Tăng ấy cũng theo đến nơi chỗ vua. vua đứng dậy nghinh đón vị Tăng và hỏi: “Sao Sư phải đến đây ư?” Vị Tăng ấy đáp: “Chưa đóng phải đến, vì có đệ tử Trương Pháp Nghĩa, bị ghi lục bắt lại đây, người ấy có các điều tội xưa trước, bần đạo đều đã xin móc, chưa đáng phải chết”. Chủ Điển lại đem việc trừng mắt dò hỏi vua. vua bảo: “Trừng mắt là việc sau khi đã sám hối, chẳng thể miễn khỏi, nhưng sư đã vì lại đây xin có thể đặc biệt phóng tha cho bảy ngày”. Pháp Nghĩa nói với vị Tăng ấy rằng: “Bảy ngày đã chẳng phải thời gian nhiều, lại phải đến đây, sợ không gặp thấy Sư, nên xin ở đây theo Sư”. Vị Tăng ấy bảo: “Bảy ngày tức là bảy năm vậy. Có thể nên gấp đi”. Pháp Nghĩa cố nài nỉ xin theo vị Tăng ấy. Nhân đó, vị Tăng ấy xin mượn viết vua viết một chữ “Nhất” nơi lòng bàn tay Pháp Nghĩa, lại xin mượn ấn vua in vào đó, và bảo: “Ông nên gấp đi trở về nhà tu phước, nếu sau này lại đây không thấy gặp ta, nên đưa dấu ấn này trình vua, vua tự sẽ phóng thả ông vậy”. Pháp Nghĩa mới từ tạ đi ra, vị Tăng ấy bảo người dẫn đưa Pháp Nghĩa đến nhà. Trong nhà đen tối, Pháp Nghĩa chẳng dám vào, kẻ sứ xô đẩy Pháp Nghĩa vào, bèn sống lại. Cảm nhận mình đang ở trong đất rất trống rỗng, Pháp Nghĩa đưa tay đẩy vạch được mà ra. Nhân đó vào núi đến nơi vị Tăng ấy tu đạo, chỗ đường văn dấu ấn in trong lòng bàn tay chẳng biết đó, nhưng đều biến thành vết sẹo trọn chẳng thể lành. Đến nay vẫn hiện còn.

Lũng Tây Vương Bác Xoa Cư cùng Pháp Nghĩa là chỗ thân gần thảy đều rõ biết, nói kể Đường Lâm tôi nghe như vậy.

54. Liễu Trí Cảm ở Hà đông

Liễu Trí Cảm ở Hà đông, khoảng đầu niên hiệu Trinh Quán (627) thời Tiền Đường, làm Hưng châu trưởng cử huyện lệnh. Một đêm nọ chết ngất, đến sáng ngày sống lại, nói rằng: “Mới đầu bị Minh quan đuổi bắt đưa đến một quan phủ lớn, sắc giới dẫn vào thấy vua. vua bảo: “Nay có một viên quan khuyết thiếu, nên ép uổng đưa ông đến đây để đảm nhận đó”. Trí cảm lấy cớ còn người thân tuổi già mà từ chối, vả lại tự tỏ bày phước nghiệp của mình chưa đáng phải chết. vua sai khám xét đó, tin đúng như vậy. Nhân đó bảo: “Ông chưa đáng phải chết, có thể giữ quyền Phán lục sự”. Trí Cảm hứa kính vâng và bái từ. Kẻ lại dẫn lui đưa đến nơi Tào. Tào có năm vị Phán quan cộng thêm Trí Cảm nữa là sáu người. Sảnh sự ấy, người trưởng ốc ở nơi ba gian, mỗi mỗi có đủ giường án, công việc có lắm nhiều chồng chất. Ở đầu phía Tây có một tòa trống không có Phán quan, kẻ lại dẫn Trí Cảm đến tòa trống ấy, có các kẻ lại dẫn đem văn bộ lại lấy Trí Cảm phán đặt trên án rồi lui đứng dưới thềm cấp. Trí Cảm hỏi nguyên do. Kẻ lại ấy đáp: “Vì hơi hôi hám chẳng đổi thay bức ngặc Công, nên chỉ đứng xa, theo việc trong án mà đáp”. Trí Cảm xét đọc án như án ở nhân gian vậy. Từ đó liền có khoảng thời gian làm Phán câu. Có người mang thức ăn đến, các Phán quan đồng ăn, Trí Cảm cũng đến ngồi dự, các quan bảo: “Ông đã giữ quyền Phán, không nên ăn đây”. Trí Cảm cũng nghe theo đó, trọn không dám ăn. Đến chiều tối, kẻ lại đưa Trí Cảm trở về nhà, sống lại thì vừa chiều. Từ đó trở về sau, trong nhà đến lúc mờ tối thì kẻ lại liền đến nghinh đón đến kia thì vừa sáng, nên biết giữa U Hiển, đêm ngày trái ngược nhau. Từ đó, ban đêm Trí Cảm phán xét minh sự, ban ngày đến vẫn giữ chức tại huyện, trở thành việc thường qua hơn năm sau. Trí Cảm lúc đang ở tại Minh tào, nhân dậy đến nhà xí, ở phía Tây nhà thấy có một người phụ nữ tuổi khoảng ba mươi, dáng mạo đoan chánh, áo quần mới sạch, dứng mà lau nước mắt khóc, Trí Cảm hỏi: “Ngươi là ai?” Người nữ ấy đáp: “Thiếp là vợ của Hưng Châu Ty Thương Tham Quân, bị bắt lại đây, vừa mới giả biệt chồng con, vì vậy mà buồn thương”. Trí Cảm đem hỏi kẻ lại. Kẻ lại bảo: Quan dẫn đưa đến, có chỗ án hỏi làm chứng đầy đủ về việc của chồng, Trí Cảm nhân đó hỏi bảo người nữ ấy: “Trí Cảm tôi làm Trưởng cử lệnh, phu nhân nếu có bị khám hỏi, mong chỉ tự phân bày rõ ràng chớ làm lôi kéo cả y thương cùng chết không ích lợi gì”. Người nữ ấy đáp: “Thật chẳng muốn lôi kéo, chỉ sợ quan cùng lôi kéo vậy”. Trí Cảm bảo: “Chỉ mong phu nhân chớ lôi kéo thì không phải lo ngại bị bức ép”. Người nữ ấy bèn hứa đó. Thế rồi, Trí Cảm trở về châu, trước tiên hỏi về người vợ của Ty Thương có tật bệnh gì? Ty Thương đáp: “Vợ tôi tuổi còn trẻ nhỏ không tật bệnh gì.” Trí Cảm đem điều thấy gặp người nữ mà báo cùng, nói rõ về dung mạo y phục, vả lại khuyên nên tu phước. Ty Thương chạy về nhà thấy vợ dệt trong khung máy, không tật bệnh gì, nên rất không tin. Qua hơn mười ngày sau, vợ Ty Thương cảm mắc bệnh dữ mà chết. Ty cảm mới kinh sợ, lo việc tu tạo phước đức.

Lại có hai Quan nhân Châu Mãn ở Hưng châu sắp đến kinh đô dự tuyển chọn, nên hỏi Trí Cảm rằng: “Ông phán xét việc ở Minh đạo, xin hỏi tôi nay dự tuyển chọn được làm quan gì?” Trí Cảm đến Minh tào, đem tên họ người đó hỏi Lục sự. Lục sự đáp: “Danh bộ đều niêm phong tại trong hộp đá, kiểm xét đó, phải hai ngày sau mới báo đáp được”. Đến kỳ hạn lại báo, mới thấy hai người năm nay đỗ đạt danh hiệu quan. Trí Cảm báo lại cho hai người ấy biết. Hai người ấy đến Kinh đô dự tham tuyển chọn. Lại bộ ghi chú phỏng định chức quan đều chẳng đồng như Trí Cảm báo. Các quan ở châu nghe thế đem báo lại cùng Trí Cảm, Trí Cảm lại hỏi Lục sự. Lục sự lại kiểm xét sổ bộ và ghi là: “Nhất định như kiểm xét trước không sai nhầm vậy”. Thế rồi, hai người dự tuyển chọn qua dưới cửa, dưới cửa xét lùi lại đến Lại bộ ghi chú quả đúng như sổ bộ Minh tào kiểm báo, khi ấy mọi người thảy đều tin phục. Mỗi lúc đến nơi sổ bộ ở Minh tào, trông thấy danh trạng của các thân thức, đến đúng ngày tháng, Trí Cảm đều báo cho, vào bảo khuyên tu phước, phần nhiều đều được miễn khỏi. Trí Cảm giữ quyền Phán quan ba năm, kẻ lại trước kia đến báo: “Đã có được Lý Tư Hộ ở Long châu, trao nhậm chánh quan để thay thế Công, Công chẳng phải lại làm quyền Phán nữa. Trí Cảm sáng ngày đến châu, báo cùng Thử Lại Lý Đức Phụng, sai người đến Long châu xét xem, thì Tư Hộ đã chết, hỏi về ngày chết, tức đúng trước lúc kẻ lại báo cùng Trí Cảm vậy, từ đó bèn thôi nghỉ.

Về sau, Châu ty sai phái Trí Cảm lãnh dẫn kẻ tù đến Kinh đô, vừa đến ranh giới Phụng châu, tù nhân đều chạy trốn, Trí Cảm rất lo sợ, đuổi bắt qua vài ngày mà chẳng thể được. Ban đêm từng nghỉ nơi tinh xá. Bỗng thấy Bô minh lại trước kia đến báo: “Các tù nhân đều bắt được cả, trong đó một người đã chết, còn ba người hiện ở trong cốc tại Nam sơn, và đều đã bắt trói, xin Công chớ phải lo ngại”. Nói xong, bèn từ tạ mà đi. Trí Cảm liền xin binh lính vào cốc phía Tây nam sơn, quả nhiên thấy bốn kẻ tù. Các tù nhân biết chạy không khỏi, nhân đó lại chống cự, Trí Cảm phân cách, giết chết một người, còn ba người nhận chịu trói buộc, thật đúng như điều báo. Trí Cảm đến nay hiện còn, đang nhậm chức Từ châu tư mã quan lục khanh.

Liễu Hanh kể nói cho Đường Lâm tôi nghe như vậy. Liễu Hanh làm Tào châu thứ sử, thấy gặp Trí Cảm thân gần hỏi như vậy, và Ngự sử Bùi Đồng Tiết cũng nói thấy nói đều như lời ấy vậy.