ma quân

Phật Quang Đại Từ Điển

(魔軍) Ma, Phạm:Màra. Gọi đủ: Ma la. Hán âm: Ma la. Cũng gọi Ác ma. Hán dịch: Sát giả, Chướng ngại. Quân lính của ác ma. Vì dùng quân để ví dụ thế lực của các ma nên gọi là Ma quân. Khi đức Phật sắp thành đạo, Ma vương và bọn thuộc hạ đến quấy nhiễu, gây chướng ngại, nhưng đều bị Ngài hàng phục và rút lui. Kinh Phật bản hạnh tập quyển 25 thì coi phiền não là Ma quân, bảo có 12 loại: Tham muốn, không vui vẻ, đói khát lạnh nóng, yêu thương đắm đuối, thích ngủ nghỉ, lo lắng sợ hãi, ngờ vực mê hoặc, giận dữ phẫn nộ, tranh giành danh lợi, ngu si không biết, tự kiêu tự đại và thường chê bai người khác. Trong các kinh luận Đại thừa ở thời kì sau cũng thấy có thuyết này, như luận Đại trí độ quyển 5 nói có 10 loại quân phiền não là: Ham muốn, lo buồn, đói khát, tình ái, ngủ nghỉ, sợ hãi, ngờ vực, tâm độc hại, thích tiếng tăm lợi lộc và khen mình chê người… Tóm lại, các kinh luận đều dùng các loại phiền não nói trên để ví dụ cho thế lực của bọn Ma quân và cho rằng Bồ tát nhờ đã hàng phục được bọn Ma quân này mà thành đạo.