mã nhĩ ba

Phật Quang Đại Từ Điển

(馬爾巴) Tạng: Mar-pa. Cao tăng Tây tạng, người La lạp cách (Tạng:Lho-brag), Nam Tạng, là tổ khai sáng của phái Ca nhĩ cư (Tạng:Bka-brgudpa), trong Phật giáo Tây tạng. Lúc còn nhỏ, sư lễ ngài Bát xá tinh làm thầy, nhưng đến năm 15 tuổi thì ông thân sinh đưa sư đến xin làm đệ tử ngài La khắc di (Tạng: Fbrog-mì). Vì muốn trở thành vị tăng dịch kinh nên sư chuyên tâm học tiếng Phạm và du học Ấn độ. Sau khi trở về Tây tạng, sư lại đến Nepal ở 3 năm. Trong thời gian này, sư cố gắng học tập các loại Đát đặc la (Phạm: Tantra). Lại nhờ sự chỉ dẫn của ngài Phan đạt phạ đề ca (Phạm: Paiịđapàtika) ở Nepal, sư tôn ngài Na lạc ba (Tạng: Nà-ro-pa) làm thầy, được ngài trực tiếp trao truyền các nghĩa bí mật như: Hô kim cương (Phạm: Hevajra), Thành tựu pháp, Cứu cánh thứ đệ (Phạm: Utpanna- Krama) v.v… Ngoài ra, sư và ngài Kiệt nhã na cát lỗ ba (Phạm: Jĩànagarbha) là giáo thụ sư Đại thừa, cùng học Đát đặc la của Tập hội bí mật (Phạm: Guhyasamàja), rồi sư lại được ngài Na lạc ba giảng dạy cho các nghĩa bí áo như: Đăng tác minh (Phạm: Pradìpodyotana-nàma-ỉìkà), cho đến Đại huyễn luân (Phạm:Mahàmàyà-cakra). Sau khi thành tựu việc học, sư trở về Tây tạng sáng lập phái Ca nhĩ cư. Sau, sư nghe danh tiếng ngài Di đặc lợi (Phạm: Maitrì), sư lại đến Ấn độ học giáo pháp Đại thủ ấn (Phạm: Mahàmudrà ) và chứng được trí trực quán. Sau khi về nước, sư lại đến Nepal tìm cầu các bậc danh sư học được các giáo nghĩa. Trên đường trở về quê hương, sư mộng thấy ngài Sa la ha (Phạm: Saraha) truyền cho nghĩa bí mật, sư liền phát sinh chân trí và tỏ ngộ toàn thế giới là nhất vị. Năm 1097 sư thị tịch, thọ 86 tuổi. Đệ tử nối pháp là Mật lặc nhật ba (Tạng:Mi-laras-pa). [X. J.Bacot: La Vie de Marpa; G.N. Roerich: The Blue Annals, 2 vols.; S.C.Das: Pag Sam Jon Zang; Ch.Bell: The Religion of Tibet (Kiểu bản Quang bảo dịch: Lạt ma giáo Tây tạng)].