ma ha tát đoá

Phật Quang Đại Từ Điển

(摩呵薩埵) Phạm: Mahàsattva. Pàli: Mahàsatta. I. Ma Ha Tát Đóa. Gọi tắt: Ma ha tát. Hán dịch: Đại hữu tình, Đại chúng sinh. Từ gọi chung bậc Bồ tát hoặc Đại sĩ. Tức là bậc có Nguyện đại, Hạnh đại, Độ chúng sinh đại, là bậc tối thượng trong các chúng sinh ở thế gian và không bao giờ lui sụt đại tâm ấy, cho nên gọi là Ma ha tát đóa. [X. luận Đại Trí Độ Q.5; Pháp Hoa Nghĩa Sớ Q.2; Pháp Hoa Huyền Tán Q.2]. II. Ma Ha Tát Đóa. Cũng gọi Tát Đóa Vương Tử. Tên của Đức Phật ở đời quá khứ khi tu hạnh Bồ tát. Ở đời quá khứ xa xưa, có 1 vị vua tên là Ma Ha La Đà (Phạm:Mahà-ratha, Hán dịch: Đại xa), siêng tu các pháp lành. Vua có 3 người con, đều tướng hảo đoan nghiêm, người con thứ 1 tên là Ma Ha Ba Na La (Phạm: Mahà-praịàda), người thứ 2 tên là Ma Ha Đề Bà (Phạm:Mahàdeva) và người thứ 3 tên là Ma Ha Tát Đóa. Một hôm, 3 vương tử vào chơi trong rừng trúc, thấy con hổ mẹ sinh 7 hổ con, các hổ con đang vây quanh hổ mẹ, đói lả tiều tụy, thân thể gầy ốm, sinh mệnh sắp dứt, 3 vương tử trông thấy đều thương tâm mà bỏ đi. Nửa đường, Ma Ha Tát Đóa, động lòng thương quá, bảo 2 anh về trước, còn 1 mình trở lại khu rừng, đến chỗ hổ đói, phát nguyện vì cầu đạo Vô Thượng Bồ đề mà xả bỏ cái thân nhơ nhớp này; nguyện rồi, cởi y phục vắt lên cành tre, gieo mình vào trước những con hổ đói. Nhưng hổ sợ uy lực từ bi của Tát Đóa không dám ăn thịt; Tát Đóa thấy thế liền leo lên ngọn cây gieo mình xuống đất, bấy giờ thần đất đưa tay đỡ lấy Tát Đóa nên không bị thương tổn. Tát Đóa lại dùng khúc tre khô đâm vào cổ, ngay lúc ấy mặt đất rúng động, hoa từ trên hư không rơi xuống, hổ đói thấy máu của Tát Đóa chảy ra, đi đến liếm máu và ăn thịt, chỉ còn bộ xương. Bảy hổ con lúc bấy giờ, sau này là tôn giả Mục Kiền Liên, Xá Lợi Phất và 5 vị Tỉ Khưu khi Đức Phật còn tại thế. Đức Thế Tôn cũng nhân công đức này mà thành Phật trước 11 kiếp. X. kinh Hiền Ngu Q.1; kinh Kim Quang Minh Q.4; kinh Đại Bảo Tích Q.80; kinh Bồ Tát Bản Hạnh Q.hạ; luận Phân Biệt Công Đức Q.2].