MA-HA CHỈ QUÁN

QUYỂN 3
(Phần Cuối)

Kế là Viên giáo chỉ nói nhất thật đế.

Đại kinh chép: Thật là nhất đế mà phương tiện cho nên nói ba. Nay cũng lệ theo đây. Thật là nhất đế mà phương tiện cho nên nói ba.

Kinh Pháp Hoa chép: Lại dùng phương tiện khác để trợ giúp hiển bày Đệ nhất nghĩa, đó gọi là tướng ly hợp hai đế ba đế nhất đế của Viên giáo.

Kế là nói tứ đế ly hợp: Trước thì ba đế hai đế nhất đế đều biện rõ theo chiều dọc, tứ đế thì nói về chiều ngang, có bốn loại tứ đế, đó là sinh diệt, vô sinh diệt, vô lượng và vô tác… sinh diệt tứ đế tức là theo chiều ngang khai hai đế tam tạng giáo, vô sinh tứ đế tức là ngang khai hai đế Thông giáo. Vô lượng tứ đế tức là theo chiều ngang khai hai đế Biệt giáo, vô tác tứ đế tứ là ngang khai nhất thật đế Viên giáo. Nay hợp luận Trung quán hợp với bốn loại tứ đế này.

Luận nói rằng: Pháp do nhân duyên sinh tức sinh diệt tứ đế; ta nói tức là không, tức là vô sinh tứ đế; cũng gọi là giả danh, tức vô lượng tứ đế; cũng gọi trung đạo, tức vô tác tứ đế.

Nói về trí ly hợp: Các kinh hoặc nói nhất thiết trí, hai, ba, bốn cho đến mười một trí… nếu nói ba trí có thể dùng quán ba đế, nếu như tăng giảm phải quán thế nào! Về nhất trí, kinh chép: Tất cả các Đức Như Lai cùng đồng một pháp thân, nhất tâm nhất trí tuệ lực vô úy cũng giống như vậy. Chỉ có nhất Phật trí tức nhất thiết chủng trí, một tướng vắng lặng tướng, các thứ hành loại tướng mạo đều biết, gọi là nhất thiết chủng trí. Trí này quán tam đế, nếu nói một tướng vắng lặng tướng, tức là quán trung đạo; hoặc nói các thứ hành loại tướng mạo đều biết, tức là song chiếu hai đế; hoặc hai trí thì đó là quyền thật. Quyền tức nhất thiết trí trí đạo chủng, quán hai đế hữu vô . thực tức nhất thiết chủng trí, quán Trung đạo đế. Ba trí quán ba đế có thể hiểu không nói.

Bốn trí: Như trong kinh đại phẩm nói: Đạo tuệ, đạo chủng tuệ, nhất thiết trí, nhất trí thiết chủng. Thích luận giải thích việc này có nhiều thứ: Hoặc trong nhân chỉ có lý thể, thì gọi là đạo tuệ, đạo chủng tuệ, trong quả sự lý đều đầy đủ gọi là nhất thiết trí, nhất thiết chủng trí. Hoặc nói trong nhân quyền thật cho nên nói đạo tuệ, đạo chủng tuệ, nhập không gọi là thật tuệ, nhập giả gọi là quyền tuệ. Hoặc nói trong quả quyền thật cho nên nói nhất thiết trí, nhất thiết chủng trí, thẳng duyên trung đạo gọi là nhất thiết trí, song chiếu hai đế gọi là nhất thiết chủng trí. Hoặc nói chung riêng trong nhân, chung riêng trong quả, hoặc nói đạo tuệ, đạo chủng tuệ là chỉ nói về quyền thật, nhất thiết trí, nhất thiết chủng trí là lại nói về quyền thật, các thứ bốn trí giải thích như vậy. Bốn trí chỉ là chiếu ba đế. Như trong kinh có nói năm đế, sáu, bảy, tám, chín cho đến vô lượng đế, hiểu được ý này, giải thích khiến nhập vào ba đế. Mười một trí; thế trí khác tâm trí, hai thứ chiếu tục đế, tám trí quán chân đế, như thật trí quán trung đạo, đó gọi là trí có ly hợp mà ba đế bất động… lại nữa, trí đế đều khai tùy theo kia ít nhiều tự nhiếp vào nhau như ba đế thì có ba trí, hai đế thì có hai trí, nghĩa này có thể hiểu. Lại, trí đế đều không khai: Vả lại căn cứ một đế một trí không thêm không bớt, đây cũng có thể hiểu. Hoặc trí tuy khai hiệp kết cuộc là thật trí năng hiển thật thể. Kế đến y cứ vào đế trí hiệp lại luận rõ, tam tạng giáo chân đế phát sinh một nhãn một trí, tục đế phát sinh một nhãn mộ trí, hai đế cùng phát một nhãn một trí, tuệ nhãn nhất thiết trí duyên chân đế, pháp nhãn trí đạo chủng duyên tục đế, Phật nhãn nhất thiết chủng trí đều chuyên cả hai đế chân tục, không đắc đạo song chiếu, chỉ đắc đạo tiền hậu cùng chiếu thôi! Chân đế của Thông giáo phát sinh hai nhãn hai trí, tục đế phát sinh một nhãn một trí, nhất thiết trí, nhất thiết chủng trí cùng duyên chân đế, đạo trí chủng duyên tục đế. Hoặc tạo biệt tiếp thông, tục đế phát một nhãn một trí, chân đế phát một nhãn một trí. Khai chân phát xuất từ bên trong một nhãn một trí, trí duyên đế cũng như vậy. Ba đế của Biệt giáo mỗi đế đều phát một nhãn một trí, trí duyên đế cũng như vậy. Nếu Biệt giáo có hai đế, trong tục không phát một nhãn một trí, trong tục có phát một nhãn trí một trí, chân đế phát một nhãn một trí. Trí duyên đế cũng như vậy.

Viên giáo: Nhất thật đế phát ba nhãn ba trí, trí duyên đế cũng giống như vậy.

Hỏi: Vì sao dùng biệt tiếp thông?

Đáp: Ban đầu dùng hai quán không và giả để phá hết lậu-hoặc trong chân đế tục đế rồi. Mới nghe Trung đạo. Vì thế mà phải tu quán phá vô minh, được tám tướng thành Phật. Phật này là quả, hai quán trước là nhân, cho nên nói dùng biệt tiếp thông. Không dùng quả Phật này tiếp nhân của ba A-tăng-kỳ trăm kiếp, gieo trồng tướng tốt, cho nên không tiếp tam tạng giáo; không đem quả này để tiếp nhân của Thập địa, cho nên không tiếp Biệt giáo. Chẳng đem quả này để tiếp Thập trụ đoạn vô minh, cho nên chẳng tiếp Viên giáo, chỉ được dùng biệt tiếp thông, nghĩa ấy như vậy.

Nói rõ đắc thất (được mất): Thất tức tư nghì, đắc tức bất tư nghì. Nếu nói trí do tâm sinh tự có thể chiếu cảnh, như đuốc chiếu soi vật, nếu chiếu hay chưa chiếu, vật này vẫn vốn có, hoặc quán hay không quán cảnh vẫn tự thiên nhiên. Đế trí chẳng thuận theo nhau chẳng dựa vào nhau (bất tương do tạ) nói trí không tự trí, do nương cảnh cho nên có trí, cảnh không tự có cảnh do trí cho nên có cảnh, như dài ngắn đối đãi lẫn nhau, đây là do tướng mà có. Hoặc nói cảnh không tự cảnh, cũng không do trí, cho nên có cảnh, cảnh trí do nhân duyên cho nên có cảnh, trí cũng lệ theo đây. đây là do cộng hợp mà đặt tên; nếu nói đều không như ba thứ trên, chỉ tự nhiên như vậy, tức là cảnh trí vô nhân. Bốn cách giải này đều có lỗi. Vì sao? Vì có bốn thủ thì có nơi nương tựa, nương dựa thì có phải trái, phải trái thì có ái nhuế, ái nhuế sinh tất cả phiền não, do phiền não sinh cho nên lý luận tranh cạnh sinh, tranh cạnh sinh cho nên thân riêng ý khởi nghiệp, nghiệp sinh cho nên luân hồi trong biển khổ, không kỳ hạn giải thoát. Phải biết bốn thủ là nguồn gốc của sinh tử, cho nên ngài Long Thọ dẹp nó: Các pháp không tự sinh, đâu đắc tự cảnh trí nhân duyên, “Vô tha sinh” thì làm sao đắc Tương do cảnh trí? “Vô cộng sinh” thì làm sao đắc Nhân duyên cảnh trí? “Vô vô nhân sinh” thì làm sao đắc cảnh trí tự nhiên.

Nếu chấp bốn kiến trước: Ngu hoặc lăng xăng làm sao gọi là trí! Nay do không tự sinh… phá bốn tánh. Vì tánh diệt cho nên không nương tựa, cho đến không có nghiệp khổ… tâm thanh tịnh thường nhất thì thấy được Bát-nhã, do nghĩa này cho nên tự cảnh trí khổ tập không sinh, tức sinh sinh không thể nói. Cho nên, ngài Thân Tử im lặng; cho đến cảnh trí vô nhân, khổ tập không sinh, tức là bất sinh bất sinh không thể nói. Cho nên, ngài Tịnh Danh im lặng, đường ngôn ngữ bặt, chỗ tâm hành diệt. Tuy không thể nói có nhân duyên bốn tất-đàn, nên cũng có thể được nói, hoặc nói tự sinh cảnh trí, cho đến hoặc nói cảnh trí vô nhân, tuy bốn lần nói tánh chấp lâu phá, như trước chỉ có tên gọi, tên gọi vô tánh, chữ vô tánh là chữ vô trụ, cũng chẳng phải bất trụ, đó gọi là bất khả tư nghị.

Cho nên, kinh Kim Quang Minh chép: Trí cảnh bất khả tư nghì,

trí chiếu bất khả tư nghị tức là ý này. Nếu phá bốn tánh cảnh trí, thì đó gọi là thật tuệ, hoặc bốn tất-đàn có duyên nói bốn cảnh trí, đây gọi là quyền tuệ, như vậy cảnh trí phàm phu cả hai đầu mất, hành Nhị thừa một được một mất, hàng Bồ-tát cả hai đều được. Vì sao? Vì hàng phàm phu có bốn tánh tự tu hành gọi là mất, không có bốn tất-đàn giáo hóa chúng sinh gọi là mất. Hàng Nhị thừa phá bốn tánh, nhập nghĩa đệ nhất tự tu hành là được, không độ chúng sinh giáo hóa chúng sinh là mất, hàng Bồ-tát đầy đủ cho nên cả hai đều được; lại nữa cả hai đều mất gọi là tư nghì thất, hàng Nhị thừa một được một mất, đều là tư nghì, hàng Bồ-tát cả hai đều được, đều bất tư nghi. Đây là y cứ Thông giáo nêu rõ được mất, hoặc Biệt giáo vọng đến Thông giáo, cả hai đều được, đều là tư nghị, Biệt giáo cả hai đều được, đều bất tư nghị; hoặc Viên giáo vọng Biệt giáo, Biệt giáo giáo đạo cả hai đều được, đều làtư nghị. Vì sao? Vì giáo môn phương tiện, hoặc nói vô minh sinh tất cả pháp, hoặc nói pháp tánh sinh tất cả pháp… hoặc nói duyên tu hiển bày chân tu, hoặc nói chân tự hiển bày, chấp đây trở lại thành tánh, lỗi đọa vào sự tư nghị, nếu chứng đạo ấy thì bất tư nghị. Hoặc Viên giáo giáo chứng đều bất tư nghị. Vì sao? Vì chí lý không nói nên gọi là duyên bốn thuyết, chỉ có giả danh, tên gọi là giả danh, danh tức vô sinh, cho nên giáo chứng đều bất khả tư nghị. Không suy không nghĩ cho nên không nương tựa không hý luận kết nghiệp, vì vô nghiệp cho nên không sinh tử đó gọi là tự tu hành là được (đắc), đối với thật thể dùng không thể nói để nói, giáo hóa dẫn dắt chúng sinh vượt ra sinh tử, chứng đắc thật thể, đó gọi là mình và người đều đắc thể.

Thứ tư: Nói về nhiếp pháp: Có người nghi rằng tên gọi chỉ quán lược nhiếp pháp không cùng khắp, nay thì không như vậy, chỉ quán tổng trì thâu tóm tất cả các pháp. Vì sao? Vì chỉ có công năng làm cho các pháp vắng lặng, như người châm cứu đúng huyệt thì hết bệnh quán năng chiếu lý, như được hạt châu vương thì các báu đều đạt được, đầy đủ tất cả Phật pháp. Kinh Phẩm nêu có một trăm hai mươi điều và tất cả pháp, đều nói nên học Bát-nhã. Bát-nhã chỉ là quán trí, quán trí đã thâu nhiếp tất cả pháp, lại chỉ là vua của Tam-muội, tất cả Tam-muội đều nhập trong đó. Nay lại nói rộng về nhiếp pháp gồm có sáu ý:

  1. Nhiếp tất cả lý.
  2. Nhiếp tất cả Hoặc.
  3. Nhiếp tất cả trí.
  4. Nhiếp tất cả hạnh.
  5. Nhiếp tất cả vị.
  6. Nhiếp tất cả giáo.

Sáu thứ lớp này là: Dù có Phật không Phật lý tánh vẫn thường trú, do mê lý cho nên khởi hoặc sinh tử, thuận lý mà quán cho nên luận về trí. Giải cho nên lập hạnh, do hạnh cho nên chứng vị, vị đầy đủ cho nên giáo hóa chúng sinh. Các thứ lờp sự lý, giải hạnh, nhân quả, tự tha… đều thấu nhiếp trọn trong chỉ quán.

1. Dùng ba chỉ quán nhiếp tất cả lý: Lý là đế pháp, như trên khai hợp thiên viên khác nhau, ngoài quyền thật không còn có lý khác như trừ Ma-lê sơn thì không có Chiên-đàn, nếu còn có tức là nói dối, đã dùng chỉ quán hiển bày thật thể, tức là thâu nhiếp tất cả lý.

2. Chỉ quán nhiếp tất cả hoặc: Do mê đế cho nên khởi hoặc, mê tức vô minh. Nếu mê quyền lý thì có giới nội tương ưng gọi là độc đầu. Cùng với Kiến tư các sử (phiền não) hợp, thì gọi là Tương ưng. Bất tương ứng thì gọi là Độc đầu. Do sự này, không biết cho nên khởi tham, không biết thì là vô minh, khởi tham là hành, là thức, thức cùng với bốn ấm khởi gọi là danh sắc, sắc động các căn gọi là sáu nhập, sáu nhập sở chấp gọi là xúc, xúc thuận theo trần gọi là thọ, thọ mà hỷ lạc thì gọi là ái, ái câu sinh trói buộc gọi là thủ, tạo nghiệp đời sau gọi là hữu, đời vì lai khởi gọi là sinh, ấm chín muồi là già, xả bỏ ấm là chết, mười hai thứ này xoay vần lẫn lộn làm nhân quả cho nhau. Phiền não chung cho nghiệp, nghiệp chung cho khổ, khổ chung cho phiền não, cho nên gọi ba đường luận thành duy thức chép: Tiền hành hậu tam trung. Hậu hành tiền thất trung. Bảy là nghiệp, còn gọi là đạo, năng thông đến đời sau, ba thứ sáu chẳng phải nghiệp mà thông đến bảy, cũng được gọi là đạo, trong kinh cũng gọi là thập nhị khiên liên, thập nhị luân (mười hai thứ tiếp nối, mười hai thứ xoay vần). Trói buộc không cùng, cho nên gọi là luân. Ba đời giáo cách nên gọi là phần đoạn, che lấp lý chân đế không được giải thoát, đây tức là bệnh nói bệnh liền biết thuốc, thuốc liền từ giả nhập vào không chỉ quán, quán thuốc thì biết bệnh, cho nên hoặc này thuộc về không chỉ quán. nếu mê thật lý thì có giới ngoại tương ưng với các vô minh như độc đầu… vì sao? Vì giới nội tuy dứt tương ưng độc đầu mà thói quen vẫn còn, trong hàng Tiểu thừa thói quen chẳng phải chánh sử, hàng Đại thừa thật thuyết thì thói quen tức biệt hoặc, gọi là vô minh giới ngoại.

Luận Bảo Tánh chép: Hành Nhị thừa tuy có vô thường, khổ, không, vô ngã… đối trị, nhưng đối với pháp thân Phật vẫn là điên đảo, điên đảo tức là vô minh độc đầu. Trí nghiệp vô lậu là thực hành ba thứ ý sinh thân, cũng là năm thứ ý sinh thân. Ý tức là thức, thức tức là danh sắc, sáu nhập, xúc thọ, vô minh vi tế hoặc nghiệp, hý luận chưa rốt ráo diệt, tức là ái thủ, phiền não nhiễm nghiệp, nhiễm sinh nhiễm, chưa rốt ráo, tức là hữu, ba thứ ý nhân đổi dời tức là sinh, quả kia biến đổi tức là già chết, mười hai thứ này là quả vô lậu trong bốn thứ chướng, gọi là duyên tướng sinh hoại; duyên là phiền não đạo, tướng là nghiệp đạo, sinh hoại tức khổ đạo, cho nên biết giới ngoại có mười hai nhân duyên. Vì sao? Từ Đức Phật trở xuống đều có vô minh, vô minh thấm nhuần nghiệp, nghiệp đã bị thấm nhuần thì ắt phải khô. Mười hai loại này xoay vần tuy không lui sụt nhưng đọa lạc xuống dần, không chướng ngại từ vô minh xoay vần đến già chết, từ già chết xoay vần đến vô minh, làm chướng ngại thật lý, bởi do hoặc này, hoặc này được đối trị bằng hai quan nhập giả nhập trung, lại phân biệt. Vì sao? Vì ba thứ ý sinh thân gồm có nhiều thứ. Nếu phân tích thể Nhị thừa và Bồ-tát không giáo… trước dứt hết hoặc trong giới nội, nhưng chưa từng tu tập giả trung, sinh ở giới ngoại, giới ngoại hoặc hoàn toàn chưa hàng phục thì căn kia độn. Hoặc đối với kia khi tu tập quán cần phải thứ lớp lần lượt trải qua nhiều kiếp tu hành, học tập hằng sa Phật pháp, trước hết phá Trần sa hoặc, trần sa tuy không sinh tưởng nhưng làm chướng ngại sự hóa đạo, cho nên cần phải dứt trước, dứt hoặc này chỉ là điều tâm, mới hàng phục hoặc giới ngoại, tiến lên là dứt ba đường, tương ưng với độc đầu chi mạt đều bỏ, cho nên biết giả quán chính thâu nhiếp được trần sa, cũng thâu nhiếp được vô minh. Nếu hoặc chung của hai hạng người Biệt giáo, Viên giáo trước dứt hết thì biệt hoặc bị hàng phục, sinh về cõi kia, được thần căn thuộc về lợi, chỉ tu trung quán trị ba đường kia, từ Sơ địa đến địa cuối cùng, trong mỗi địa đều có ba đường. Mỗi địa vô minh diệt từng phần, nghiệp diệt khổ diệt, mỗi địa tương ưng bỏ thì độc đầu cũng bỏ, mỗi địa tuy có trí nhưng trí và vô minh lẫn lộn, lẫn lộn cho nên cũng được gọi là trí chướng, do vì chướng ngại trí trên phần, chỉ trong tâm Phật mới không có vô minh, thì phiền não dứt hết, vì phiền não dứt hết cho nên nghiệp hết, nghiệp hết cho nên khổ hết, ba đường rốt ráo chỉ còn như lai, cho nên Trung quán thâu nhiếp được hoặc giới ngoại.

3. Chỉ quán thâu nhiếp tất cả trí: Các trí ly hợp như trước đã nói. Ba quán trước thâu nhiếp tất cả. Thế trí không chiếu lý, thâu nhiếp trong mười một trí, nếu nói rộng thành hai mươi trí thì cũng thuộc về ba quán.

4. Chỉ quán thâu nhiếp tất cả hạnh: Trước trí là giải, giải mà không hành thì rốt cuộc cũng không đâu. Hạnh có hai thứ: Nghĩa là tuệ hạnh hành hạnh, như tuệ hạnh hành hạnh trong tam tạng giáo cho đến tuệ hạnh hành hạnh trong Viên giáo. Tuệ hạnh là chánh hạnh, hành hạnh là trợ hạnh, Tỳ-bà-xá-na (quán) có công năng phá phiền não, lại phải dùng năng lực Ma-tha (chỉ) để giúp chánh tri kiến, hai hạnh chánh trợ tùy trí mà chuyển, như chân theo mắt. Nếu trong tam tạng giáo, vô thường tích quán là tuệ hạnh, bất tịnh từ tâm… là hành hạnh, hai hạnh này theo trí phân tích mà nhập không, nếu đối với Thông giáo mà thể nhập pháp như huyễn hóa thì đó là tuệ hạnh, trải qua tất cả sổ tức, niệm xứ, duyên sự chỉ quán là hành hạnh, hai hạnh này tùy thể pháp trí nhập không. Nếu vì giáo hóa chúng sinh đạo chủng trí duyên tục lý thuộc tuệ hạnh, duyên tục sự thuộc về hành hạnh, hai hạnh này tùy đạo chủng trí nhập giả. Nếu trung đạo duyên theo thật tướng, nhất đạo thanh tịnh là tuệ hạnh, trải qua tất cả pháp môn, các độ đều là Ma-ha-diễn mười hai nhân duyên tức là Phật tánh, niệm xứ tức là ngồi đạo tràng… là hành hạnh, hai hạnh này tùy trung trí nhập thật tướng. Lại nữa, căn bản là bốn thiền định tuệ… cho nên thâu nhiếp cả hai, cõi dục định ít tuệ nhiều quán nhiếp, trung gian cũng thế. Tứ không thì định nhiều tuệ ít thuộc về chỉ, bốn tâm vô lượng ba tâm trước thuộc về quán, xả tâm thuộc về chủ chín tưởng tám niệm mười tưởng thuộc về quán. trong toán bối xả, ba bối xả trước thuộc về quán. Năm thứ sau thuộc về chỉ. Chín định thứ lớp như sư tử mạnh mẽ vượt lên… là thuộc về Chỉ. Bốn Niệm xứ là tuệ tánh thuộc về quán. Nếu thực hành bốn ý chỉ thuyết: Là thực hành tâm ghi chép điều bất tịnh… đây thuộc về chỉ nhưng cuối cùng là quán làm chủ. Bốn Chánh cần làm thành niệm xứ một lần trải qua thuộc về quán, nếu hai điều ác không sinh là thuộc về chỉ, hai điều lành sinh là thuộc về quán. bốn Như ý túc từ bốn nhân duyên mà được định, tức quả là tên thuộc về chỉ. Năm căn: Ba căn tín, tấn, tuệ thuộc về quán, niệm định, thuộc về chỉ, lại tín niệm thuộc cả hai năm lực cũng như vậy. Bảy giác phần: Trạch pháp, hỷ tấn… thuộc về quán, trừ xả định thuộc về chỉ, niệm thuộc cả hai (Chỉ và Quán). Tám chánh: Chánh kiến, chánh tư duy thuộc về quán, chánh nghiệp, chánh ngữ, chánh mạng thuộc giới, tức thuộc về chỉ, chánh niệm chánh định chánh tinh tấn thuộc về chỉ. Bốn Đế ba đế là hạnh hữu vi thuộc quán môn, diệt đế là hạnh vô vi thuộc Chỉ môn. Thập lục hạnh (mười sáu hành tướng của Tứ đế) đều là quán môn, bốn thệ nguyện rộng lớn nương tứ đế khởi như kia. Mười tám pháp bất cộng, ba nghiệp tùy trí tuệ hành thuộc về quán. Ba vô thất thuộc về chỉ, biết ba đời thuộc về quán, ngoài ra có thể biết.

Bốn vô uý: Nhất thiết trí vô úy thuộc về quán, lậu tận vô úy thuộc về chỉ, chí xứ đạo thuộc về quán, chướng đạo thuộc về chỉ. Ba Tam-muội môn thuộc về chỉ ba môn giải thoát thuộc về quán sáu độ: Ba thứ trước là công đức thuộc về chỉ, ba thứ sau là trí tuệ thuộc về quán. lại công đức năm dộ thuộc về chỉ, Bát-nhã thuộc về quán, lại sáu Độ đều là công đức trang nghiêm, thuộc về chỉ, cho đến chín thứ thiền của Đại thừa, một trăm lẻ tám Tam-muội đều thuộc về chỉ, mười tám không, mười dụ, năm trăm Đà-la-ni đều thuộc về quán. Tất cả tuệ hạnh, như vậy… hành hạnh đều thuộc về chỉ quán, nên biết chỉ quán tên gọi thì lược, nhiếp nghĩa thì rộng…

5. Nhiếp tất cả vị: Nếu nói nhất địa tức nhị địa, nhị địa tức tam địa thì vắng lặng chân như làm gì có thư lớp địa vị, đây thì không có địa vị thứ lớp. Lại nữa, trong kinh Đại thừa thì xứ xứ đều nói tất cả địa vị, bởi do vô sinh vô diệt chánh tuệ vô sở đắc, có công năng đối trị nghiệp khổ phiền não. Nếu ba đường tịnh thì đối với pháp vô vi làng gì có sai biệt địa vị thứ lớp. Nếu phân tích pháp nhập không, hai môn hữu vô đã dứt bỏ được ba đường, như luận Tỳ-đàm nói bảy hiền bảy Thánh bốn quả Sa-môn. Luận Thành Duy Thức nói hai mươi bảy Thánh hiền… tướng vị khác nhau, cho đến giai vị phi hữu phi vô môn đều là Tích không quán. hoặc thể pháp bốn môn nhập không dứt bỏ ba đường, như trong đại phẩm nói ba thừa và mười giai vị, từ càn tuệ địa cho đến địa thứ tám nhập không thuộc về chỉ quán, hoặc giai vị từ không nhập giả, tu trải qua biệt hạnh, bất đắc ý thành ba mươi tâm hàng phục hoặc, tức thuộc về hai quán không giả, nếu đắc ý thì phá được ba đường thành giai vị thập địa, tức thuộc về quán thứ ba, hoặc toàn dùng giả thuộc về quán, cho đến bốn môn cũng như vậy. Hoặc viên tín giải hạnh ngay nơi sự mà chân, từ quán hạnh nhập tương tự, tiến lên phá vô minh khai thị chúng sinh ngộ nhập tri kiến Phật. Gồm bốn mươi hai địa vị đồng ngồi thừa báu thẳng đến đạo tràng, kinh Niết-bàn nói ngày mười lăm ánh sáng mặt trời, mặt trăng dụng xoay chuyển hiển bày, dụ cho trí đức, ngày mười sáu ánh sáng mặt trăng, mặt trời dụng giảm dần, dụ cho đoạn đức, cũng như mười bốn thứ Bát-nhã là nhân vị, mười lăm như diệu giác là quả vị, đều thuộc về Trung quán cho nên bốn môn cũng giống như vậy.

Hỏi: Đại thừa không nói địa vị chỉ quán làm sao biết thuộc về loại nào?

Đáp: Kinh luận Đại thừa đều nói về địa vị, ông sợ địa vị nhập vô địa vị, không tánh khỏi không bị trói buộc, lìa tánh văn tự tức là giải thoát, tuy nói địa vị tức vô địa vị.

Trung luận chép: Như người ngoại đạo phá nhân quả thế gian thì không có đời nay đời sau, phá nhân quả xuất thế gian thì không có Tam bảo bốn Đế, bốn quả Sa-môn, không có Tam bảo như thế, thấy đã không diệt thì không có Tam bảo, bốn Đế, bốn quả Sa-môn trong tam tạng giáo. Vẫn chưa đắc Chuyết độ đạo quả, thì chỗ nào mà có Tam bảo Tứ đế bốn quả sa môn của ba phiên sau?, đây là bác bỏ ngoại đạo hoàn toàn hông có Tam bảo… lần thứ tư. Nếu bác bỏ khác vọng, chỉ có Tam bảo, bốn Đế bốn quả sa-môn trong tam tạng giáo thì, không có đạo quả của ba phần sau. Như điều ta phá tức có Tam bảo bốn Đế bốn quả sa-môn. Vì sao? Vì nếu phân tích phá phiền não nghiệp khổ giới nội, thì có tam tạng giáo, tam bảo, bốn Đế, bốn quả sa-môn, nếu thể phá thì có Tam bảo, bốn Đế, bốn quả sa-môn ba lần. Chỉ một lời này có thể trị được sự ngưng trệ bên trong, phá sự tà vậy bên ngoài, bỏ sựtà tiểu hai bên, Tam bảo, bốn Đế chân chánh được thành. Vì sao nói không ư! Chỉ có vị không, vị chẳng chứng thì không rõ ràng, nay chỉ tin giáo, giáo có thì giai vị rõ ràng, giáo không thì hoát nhiên đồng với không tịnh. Nghĩa vô là cú nghĩa của Bồ-tát, y cứ vào không mà luận về giai vị thì giai vị không thật có, không nên sinh tranh luận. Lại y cứ hai kệ bốn câu trong Trung Luận cũng có nghĩa địa vị, kệ nói rằng: Pháp do nhân duyên sinh, ta nói tức là không tức phá phiền não nghiệp khổ, lại có Tu-đà-hoàn hoặc trí hoặc đoạn, Bồ-tát này là pháp nhẫn vô sinh. Lục địa ngang bằng với Nhị thừa thất địa là phương tiện, Thập địa là như Phật, địa vị này tự rõ ràng, tại sao nói không?

Kệ chép: Cũng gọi là giả danh, là dần dần phá ba đường của giới ngoại, tức có bốn mươi hai địa vị Hiền Thánh, vì sao nói không?

Kệ chép: Cũng gọi nghĩa Trung đạo, tức là viên phá năm trụ, liền có giai vị sáu tức, vì sao nói không? Chỉ dùng bốn câu thâu nhiếp tất cả địa vị, tất cả địa vị không ra bốn câu không ra ngoài chỉ quán, cho nên nói thâu nhiếp địa vị.

6. Thâu nhiếp tất cả giáo: Luận tỳ-sa chép: Tâm có khả năng vì tất cả pháp đặt ra tên gọi, nếu có tâm thì không có tất cả tên gọi, phải biết tên gọi thế gian, xuất thế gian đều từ tâm khởi. Nếu quán tâm không ngay thẳng thì càng thuận dòng vô minh, sẽ có tất cả các ác giáo sinh khởi, đó là chín mươi lăm thứ giào tà kiến sinh, cũng có các thiện giáo khởi. Tại sao danh giáo xuất thế gian đều từ tâm khởi?

Luận Kiên Ý Ngũ hành lục giáp, âm dương bát quái, ngũ kinh tử sử, thế trí vô đạo danh giáo, đều từ tâm khởi. Tánh chép: Có một quyển đại kinh lớn như Tam thiên đại thiên thế giới, ghi chép sự việc trong đại thiên thế giới sự. Như trung, như tiểu, tứ thiên hạ ba cõi… là đại, đều ghi chép việc ấy ở trong một hạt bụi. Một hạt bụi đã như vậy tất cả hạt bụi cũng như vậy. Một người xuất thế dùng thiên nhãn thanh tịnh này thấy quyển đại kinh này mà khởi ý rằng: Vì sao đại kinh trong hạt bụi mà không làm lợi ích cho tất cả chúng sinh, liền dùng phương tiện phá vượt ra quyển kinh này để lợi ích người khác. Kinh nói quyển kinh trí tuệ vô ngại của như lai đầy đủ trong thân chúng sinh, do điên đảo che lấp nên không tin không thấy. Phật dạy chúng sinh tu tám Thánh đạo, phá tất cả luống dối thấy được trí tuệ của mình đồng với như lai… đây là căn cứ hạt bụi làm ví dụ, lại căn cứ không làm ví dụ.

Luận phát Bồ-đề tâm chép: Thí như có người thấy Phật pháp diệt, dùng mười hai bộ kinh của như lai viết trong hư không, đầy đủ rõ ràng, tất cả chúng sinh không có người nào biết, về sau lâu lại có một người đi trong hư không, thấy kinh than rằng vì sao chúng sinh không biết không thấy, liền viết chép lại và chỉ dạy cho chúng sinh. Vì sao chép kinh? Là vì muốn chúng sinh tu tám Chánh đạo, phá luống dối.

Tu có nhiều cách: Hoặc quán tâm nhân duyên sinh diệt vô thường tu tám Chánh đạo, tức viết chép kinh tam tạng giáo; hoặc quán tâm nhân duyên tức không, tu tám Thánh đạo, tức viết kinh Tông giáo; hoặc quán tâm phân biệt so sánh có vô lượng thứ, hàng phàm phu Nhị thừa không thể so lường, hàng Bồ-tát có phán nhãn mới được đó là tu vô lượng tám Thánh đạo, tức chép kinh trung đạo, nói tất cả các pháp đều xuất phát từ trong tâm, tâm đức Đại thừa, tâm tức Phật tánh, tự thấy trí tuệ mình đồng với như lai. Lại quán tâm tức giả, tức trung liền thuộc về Kinh Hoa Nghiêm; hoặc quán tâm, pháp do duyên sinh là sinh diệt, tức thuộc về Tam tạng tứ A-hàm giáo như sữa; hoặc quán tâm tức không thì thuộc kinh về Bát-nhã như lạc; hoặc đầy đủ quán tâm nhân duyên sinh pháp tức không, tức giả, tức trung, tức thuộc về Phương Đẳng sinh tô; hoặc chỉ dụng tức không, tức giả, tức trung, thì thuộc kinh đại phẩm thục tô; hoặc dùng tức trung quán tâm, thì thuộc về kinh pháp hoa khai trì kiến Phật đại sự chánh trực đề hồ; hoặc dùng bốn câu tương tức quán tâm, tức có kinh Niết-bàn đồng thấy Phật tánh đề hồ. Như Lai quán nhân duyên, lại quán nhân duyên tức là Phật tánh, Phật tánh tức là như lai. Đó gọi là trong sữa (có chất độc) giết người, hoặc quán tích không, lại quán tích không tức là Phật tánh, Phật tánh tức là như lai, đó gọi là trong lạc giết người; nếu quán tức không, lại quán tức không tức là Phật tánh đó gọi là sinh tô giết người; nếu quán giả danh, lại quán giả danh tưc là Phật tánh, đó gọi là thục tô giết người; nếu quán tức trung, lại quán tức trung tức là Phật tánh, đó gọi là đề hồ giết người. Nay nói chung về chết người, tức nhị tử đã dứt, ba đường thanh tịnh, gọi là giết người, đó gọi là chỉ quán nhiếp bất định giáo, lược thâu nhiếp như trên. Rộng thâu nhiếp; là tất cả kinh giáo đều dùng chỉ quán thâu nhiếp không gì không cùng tận. Lại nữa, tâm thâu nhiếp các giáo lược có hai ý:

1- Tất cả chúng sinh trong tâm đầy đủ tất cả pháp môn, pháp của như lai lần lượt chiếu sáng tâm kia. Xét tâm kia mà nói, vô lượng giáo pháp từ tâm lưu xuất ra.

2- Đức như lai trải qua nhiều kiếp xa xưa từng tạo tác các phương tiện tiệm đốn quan tâm thiên viên đầy đủ, y tâm quán này nói cho chúng sinh nghe, giáo hóa đệ tử khiến học giáo pháp của như lai, đập vỡ hạt bụi lấy ra quyển kinh chép vào hư không, cho nên có tất cả kinh quyển, đều thuộc về ba chỉ ba quán.

Sáu ý trên thuộc về thứ lớp pháp có thể hiểu. Nay dùng thẳng một pháp thâu nhiếp tất cả pháp là một lý thâu nhiếp tất cả lý, tất cả hoặc, tất cả trí, tất cả hạnh, tất cả giáo. Lại một hoặc nhiếp tất cả lý, trí, hạnh, vị, giáo. Lại một thâu nhiếp tất cả lý, hoặc, hạnh, vị, giáo. Lại một hạnh thâu nhiếp tất cả lý, hoặc, trí, vị, giáo. Lại một vị thâu nhiếp tất cả lý, hoặc, trí, hạnh, giáo. Lại một giáo thâu nhiếp tất cả lý, hoặc, trí, vị, giáo.

Thứ năm: Nói về thiên viên: Người tu hành đã biết chỉ quán không pháp nào mà không thâu nhiếp, thâu nhiếp pháp đã nhiều, cần phải biết ý đại tiểu, công bất cộng, ý quyền thật tư nghị, cho nên chọn thiên văn.

Căn cứ vào đây chia làm năm:

  1. Nêu rõ đại biểu.
  2. Nêu rõ bán mãn (nửa đủ).
  3. Nêu Thiên Viên.
  4. Nêu rõ tiệm đốn.
  5. Nêu rõ quyền thật.

Chí lý thì không đại, không tiểu, cho đến không quyền, không thật. Đại tiểu, quyền thật đều không thể nói nếu có nhân duyên đại tiểu… đều có thể nói được. Dùng năng lực tiểu phương tiện vì năm Tỳkheo nói tiểu, dùng năng lực đại phương tiện vì các vị đại Bồ-tát nói đại. Đại tiểu tuy đều là phương tiện cần phải biết rõ nguyên nhân nguồn gốc, cho nên dùng năm cặp liệu giản để không hỗn tạp bừa bãi (hỗn lạm).

1. Tiểu là Tiểu thừa: Do trí tuệ kém, chỉ có khả năng tu phân tích pháp, chỉ quán chia chẻ sắc tâm, như luận giải thích đàn Ba-la-mật, phá gần với hư không của ngoại đạo rằng, trần này là có hay không, nếu có sắc cực vi thì có mười phương, nếu không có sắc cực vi thì không có mười phương phần, nếu chia chẽ phân tích cực vi sắc không cùng tận thì thành thương kiến hữu kiến, nếu phân tích sắc cực vi không cùng tận thì thành thường kiến hữu kiến, nếu phân tích cực vi cùng tận thì thành đoạn kiến vô kiến. Ngoại đạo này phân tích sắc, phân tích tâm cũng giống như vậy. Nếu chấp có tâm, vô tâm đều rơi vào đoạn kiến, đây đều thuộc sự phân tích sắc tâm của ngoại đạo. Văn luận vẫn nói pháp quán phân tích của tam tạng giáo rằng, sắc hoặc thô hoặc tế đều quán là vô thường vô ngã, vì sao? Vì sắc thô tế… đều từ vô minh sinh, do vô minh thật cho nên thô tế đều là giả, giả cho nên vô thường vô tánh, liền được nhập không. Lại do vậy nên tâm khởi phải nương vào căn trần, không có một pháp nào không từ duyên sinh, do từ duyên sinh nên đều vô thường. Hoặc nói một niệm tâm có sáu mươi sát-na hoặc nói ba trăm ức sát-na, sát-na không dừng, niệm niệm vô thường. Vô thường vô chủ phiền não vốn hoại, do vô nghiệp vô khổ sinh tử hoại, nên gọi là Niếtbàn, đó gọi là phân tích sắc tâm quán ý. Phân tích danh vốn là ngoại đạo đối phá phân tích tà vậy và nói về phân tích chân chánh. Đâu chỉ có ngoại tà phải phân tích chân chánh. Mà nếu đệ tử Phật chấp giáo môn của Phật mà sinh chấp trước cũng cần giải thích phân tích chánh. Cái gọi là tam tạng giáo bốn môn sinh bốn thứ kiến chấp cho đến bốn môn Viên giáo sinh bốn kiến chấp, hý luận tranh chấp, tự cho mình là đúng, người khác là sai, đều là uống cam lộ mà làm tổn thương tánh mạng, chết sớm, như xiềng xích vàng tự khóa buộc, trôi lặng trong vòng sinh tử, cần phải phân tích chân chánh, cho nên đại luận nói rằng: Phá Niết-bàn không phá Niết-bàn mà bậc Thánh chứng đắc, nhưng vì người học chưa đắc Niết-bàn chấp thành hý luận, cho nên nói phá Niết-bàn. Nếu vậy đều dụng pháp phương tiện phân tích để phá gồm có bốn môn, trong mỗi môn đày đủ mười pháp giới, hiểu nhân duyên chân chánh cho đến không khởi pháp ái, có thể đối với các môn thấy được Đệ nhất nghĩa, cho nên biết tam tạng giáo bốn môn phân tích pháp chỉ quán, quyết định là Tiểu thừa.

Kế là nói chữ Đại là Đại thừa. Trí tuệ thông minh tu pháp thể pháp chỉ quán bất sinh bất diệt, pháp đại nhân thực hành gọi là Đại thừa. Trung luận nói tức không là nói về Ma-ha-diễn, Ma-ha-diễn tức là Đại. Trong Ma-ha-diễn: Muốn đắc quả Thanh văn phải học Bát-nhã, vì vốn đây là pháp của Bồ-tát. Đại bao gồm tiểu, gần kề Thanh văn, thí như Chu tước môn do nhà trời lập, chính thông việc của vua không ngại các việc nhỏ, do đó ra vào, tuy thông tiểu nhân nhưng cuối cùn là thiên môn. Nay Ma-ha-diễn cũng như vậy, chính là Bồ-tát thể pháp nhập không, tuy có Tiểu thừa nhưng cuối cùng cũng gọi là đại; giống như tam tạng giáo phân tích pháp, tuy có Phật, Bồ-tát cuối cùng là Tiểu thừa. Có chỗ nói Đại thừa thể pháp quán khác với tam tạng giáo, tam tạng giáo gọi là giả nhưng pháp là thật, phân tích thật khiến thành không, thí như phá cột chống khiến cho không còn. Nay thể của Đại thừa ý gọi thật đều là giả, tự tướng là không, xưa nay vắng lặng, thí như gương chiếu cây cột, chứ vốn tự gương chẳng phải cây cột, không đợi cột diệt mới là không, mà ngay nơi hình bóng gương đã là không rồi, bất sinh bất diệt, khác với cây cột thật. Lại đại luận nói Ma-ha-diễn quán nhân thể pháp. Dẫn quán một đầu thì đầy đủ mười tám không, đó gọi là thể pháp quán. Lại nữa, tam tạng giáo đã phân tích gọi là tùy tình quán sắc tâm, quán phân tích hữu cũng là sự quán, đã nhập chân, chân chẳng phải Phật tánh, không hiểu thật lý chỉ tùy tình gọi là chân. Đại thừa thể pháp gọi tùy lý quán sắc tâm, như tìm huyễn gặp được nhà của thuật tìm nhà sở thuật được pháp ảo thuật, cũng như tìm mộng được ngủ, tìm ngủ được tâm, tìm sắc tâm huyễn được vô minh, tìm vô minh được Phật tánh, thể phpá thông lý cho nên gọi là tùy lý quán. thể pháp chỉ quán gồm có bốn môn, trong mỗi môn đều đầy đủ mười pháp thành quán, pháp quán này chẳng phải dữ thể sắc tâm quả báo của ngoại đạo, mà còn can dự tất cả chấp trước tam tạng giáo bốn môn, cho đến bốn môn của Viên giáo chưa được nhập, chấp môn thành kiến thể đều như huyễn, quyết định gọi là Đại thừa chỉ quán. nếu nay đắc dụng quán ý, các môn Đại thừa sinh chấp còn phải phá không, chứ không bao giờ đồng với các pháp sư, Thiền sư thế gian kia, xưng đạo đức của lão tử, tiêu diêu của Trang tử là ngang hàng với Phật pháp, nghĩa ấy không đúng. Viên môn sinh chấp trước còn là sơ môn của tam tạng giáo đã phá, Tiểu thừa còn không nhập, huống chi phàm phu kiến tâm nhỏ hẹp như ánh sáng con đom đóm và mặt trời khác nhau xa, không thể so sánh được, tự nói đạo chân thật, xem thường Đức Phật, đâu không phá được ư?

2. Nói về bán mãn: Bán là nói về chín bộ pháp, mãn là nói về mười hai bộ pháp, truyền bá ở đời, Niết-bàn thường trú bắt đầu lại là mãn, các kinh khác đều là bán.

Bồ-đề Lưu-chi nói: Tam tạng giáo là bán Bát-nhã, trở đi đều là mãn. Nay nói về bán mãn là nâng đỡ phụ giúp thành đại tiểu. Trước đã phân tích thể để phê phán đại tiểu, nay cũng dùng thể để phân tích, phê phán bán mãn, như trước…

3. Nói về thiên viên: Thiên là thiện lệch, viên là viên mãn. Thông thường gọi tiểu là thiên, đâu lại không được nghĩa riêng phân biệt ý thì không thể được, bán tiểu cả hai gọi là khắc, định hạn cuộc về ngắn, dẫn không được dài, nghĩa thiên thường thông từ tiểu đến đại, thí như nửa mặt trăng ngang bằng thượng huyền hạ huyền (ngày mồng bảy mồng tám và ngày hai mươi hai, hai mươi ba), dần dần mặt trăng không như vậy, bắt đầu từ cung nga cuối cùng là đêm mười bốn đều gọi là tiệm, chỉ có đêm mười lăm mới gọi là viên, là mặt trăng tròn đầy, tiểu bán cũng như vậy. Ngang bằng với sự phân tích pháp bán tự Tiểu thừa không được gọi là Đại, ý thiên thì xa, từ đầu tam tạng giáo phân tích pháp chỉ quán trở lên. Biệt giáo chỉ quán bỏ, bên như nhập trung trở xuống đều gọi là thiên. Cho nên, Đại Kinh chép: Từ trước đây về trước chúng ta đều là người tà kiến. Chỉ có Viên giáo chỉ quán nhất tâm ba đế tùy tự ý nói này mới được gọi là viên.

4. Nói về tiệm đốn: Tiệm là thứ lớp từ cạn đến sâu, đốn là nhanh chân đến cùng cực. Đây cũng không phải biệt ý lại giúp thành thiên viên, ba giáo chỉ quán thảy đều là Tiệm, Viên giáo chỉ quán gọi là Đốn. Đây là xét về danh, giải thích ý nghĩa đã rõ ràng.

Nay lại rộng phân biệt không để dư sót. Nếu chỉ quán của hai giáo trước là tiệm mà chẳng phải đốn, năng lực còn xa không sánh bằng, chỉ khế hợp với thiên chân, Viên giáo chỉ quán là đốn chẳng phải tiệm, như đi con đường rộng lớn ngay thẳng, tức bên mà trung, chỉ quán của Biệt giáo vừa tiệm vừa đốn. Vì sao? Vì hàng sơ tâm biết bên trong cho nên gọi cũng đốn. Trải qua phương tiện nhập cho nên gọi cũng Tiệm. Lại nữa, hai thứ quán trước quán giáo hạnh chứng đều gọi là Tiệm. Giáo quán hạnh của Biệt giáo đều gọi là Tiệm, chứng đạo là đốn, giáo quán hạnh của Viên giáo chứng đều gọi là đốn? Vì sao? Vì hai quán trước là phương tiện nói lều tranh nhà cỏ đường nhỏ quanh co cho nên giáo quán bốn thứ đều là tiệm, biệt quán đeo mang phương tiện nói, hoặc nương phương tiện thật hành trước phá chung, cho nên ba thứ đều là tiệm, sau phá vô minh thấy Phật tánh, cho nên chứng đạo là đốn. Viên quán chánh trực xả phương tiện chỉ nói đạo phương tiện, chỉ một sự thật này, hai thứ còn lại chẳng phải chân. Nói rất thật sự đó gọi là giáo thật, thật hành hạnh như lai, vào nhà như lai, đắp y như lai, ngồi tòa như lai… lại có một hạnh là hạnh như lai, đó gọi là hành thật. Đã thấy Trung đạo đức nhất rốt ráo, đồng với pháp thân như lai chứng đắc không sai không khác, đó gọi là chứng thật.

Hai quán trước trong nhân có người chứng giáo hạnh, trong quả chỉ có giáo không có người hành chứng. Vì sao? Vì người này trong nhân đã nguội thân nhập vào nơi vắng lặng, chìm đắm vào không tận diệt, không được thành quả Phật ban đầu, dùng phương tiện nói thẳng, cho nên có giáo mà không có hạnh không có người chứng, trong nhân của Biệt giáo có giáo hạnh có người chứng. Nếu y cứ vào quả chỉ có giáo mà không có hạnh và người chứng. Vì sao? Nếu khi phá vô minh bước lên Sơ địa, tức là địa vị sơ trụ của Viên giáo, chẳng trở lại vị Sơ địa của Biệt giáo, Sơ địa còn như vậy huống chi địa sau quả sau, cho nên biết vì người không đến nơi quả cho nên nói quả đầu tiên không có người, trong nhân Viên giáo thì người chứng giáo hạnh đều từ nhân đến quả, đều là chân thật, cho nên nói thật có người. Lại nữa, ba thứ chỉ quán trước giáo hạnh người chứng chưa gặp lúc, còn không biết viên huống chi nhập viện, nếu Phật hội tông khai tiệm bày đốn thảy đều thông nhập, tuy chẳng phải tức đốn mà là tiệm đốn. Cho nên Kinh Pháp Hoa chép: Các ông thực hành đạo Bồ-tát, xe báu các thừa là bổn nguyện của mỗi người, quyết liễu pháp Thanh văn là vua của các kinh, khai pháp thông với tiệm khiến cho được nhập, dùng lý riêng để tiếp nhân, cho nên trong kinh Niết-bàn hàng Nhị thừa chứng đắc đạo quả không ngăn cách viên thường, nhờ sự tu học này đều sẽ thành Phật, tức là từ tiệm nhập viên, cũng gọi là ý khai tiệm hiển đốn. Lại nữa, bốn thứ chỉ quán nhập viên không cần đợi hạnh mà thành nhập viên, không cần đợi khai tiệm hiển đốn mà nhập viên, nhập thì bất định, vì sao? Vì tất cả các tam tánh chánh nhân thí dụ như sữa, nghe pháp liễu nhân gọi là trí độc, chánh nhân không dứt mất như sữa bốn vi năm vị tuy biến đổi nhưng bốn vi thường còn, cho nên độc tùy bốn vi, mỗi vị đều giết người, tâm tánh chúng sinh cũng giống như vậy. Chánh nhân không hoại, chất độc liễu nhân theo chánh quá nhanh, chỗ nào cũng được phát, hoặc lý phát, hoặc giáo phát, hoặc hạnh phát, hoặc chứng phát, Bích-chi-Phật lợi trí tuệ bén nhạy, gốc lành thuần thục, sinh nhằm đời không có Phật tự nhiên được ngộ, lý phát cũng như vậy. Nhiều đời gieo trồng gốc lành đời này tuy không nghe Viên giáo, chất độc liễu nhân nhâm vân tự phát, đây là lý phát. Nếu nghe hoa nghiêm mặt trời mới mọc chiếu trên núi cao thì được ngộ, đây là giáo phát. Nghe rồi tư duy, tức ngộ, đây là quán hạnh phát. Hoặc là sáu căn thanh tịnh địa vị tăng tiến, phá vô minh là tương tự chứng phát hoặc là tăng đạo tổn sinh cũng gọi là chứng phát. Đây là y cứ vào viên g iáo luận nhập không nhất định. Nếu người tu hành ba giáo trước đều ở địa vị phàm phu mà phát tức là lý phát, hoặc nghe giáo pháp thì gọi là giáo phát; hoặc tu phương tiện tức là quán hạnh phát; nếu ở trong địa vị Hiền Thánh phát, tức là chứng phát. Ở đây là y cứ vào ba nhà mà nhập thì bất định. Lại có bất định mà chẳng giết người, như khi tu vô lậu thì hữu lậu không cầu mà tự phát, hoàn toàn không sát hai thứ tử.

Nếu tu trung đạo phát được vô lậu, từ biệt hẳn biển khổ luân hồi ba cõi mới là một lần chết mà chẳng phải hai lần chết, cũng gọi là bất định… lại nữa, bốn thứ chỉ quán phải chia ra viên tiệm. Trong tam tạng giáo có từ sơ tâm phương tiện đến nhập vị chân thật, đó gọi là tiệm. Ba mươi bốn tâm dứt bỏ kết thành quả, đâu không gọi là viên, trong Thông biệt, từ sơ tâm đến hậu tâm đâu không phải tiệm viên, trong viên nên thể lý cực gọi là viên, cũng có sơ tâm cho đến địa bốn mươi mốt đâu không phải là tiệm. Diệu giác rốt ráo đâu không phải là viên, viên viên chẳng phải tiệm, viên viên tiệm chẳng phải tiệm tiệm, cho nên biết sẽ chia, đều đủ hai nghĩa, trong pháp hoa sớ sẽ nói rộng, nhưng tiệm tiệm chẳng phải viên tiệm có thể đắc thành viên tiệm tiệm viên chẳng phải viên viên, không thể được thành viên viên. Vì sao? Kinh Pháp Hoa chép: Các ông thực hành đạo Bồ-tát, cho nên tiệm tiệm thanh viên tiệm, tiệm viên quyền thiết lập quả ba giáo, không thể đổi thành Phật diệu giác, chẳng hạn như tiểu tiểu chẳng phải đại tiểu có thể được thành đại tiểu, tiểu đại chẳng phải đại đại, không thể được thành đại đại. Quyền quyền chẳng phải thật quyền có thể được thành thật quyền, quyền thật chẳng phải thật thật không thể được thành thật thật. Vì sao? Vì trong ba giáo quả ban đầu có giáo mà không có người, cho nên quyền thật không thể thành thật thật. Bán mãn tiệm đốn đều lệ theo như thế mà phân biệt, không cần ghi chép phiền phức. Quán tâm suy xét việc đã qua, pháp tương ưng như vậy nhưng mọi người phần nhiều không tin, nay dùng năm thí dụ về Niết-bàn để giải thích thành ý nào.

Thứ sáu nói rằng: Phàm phu như sữa, Tu-đà-hoàn như lạc, Tư-đàhàm như bảo sống, A-na-hàm như bơ chín, A-la-hán Bích-chi-Phật như đề hồ.

Đại Luận chép: Trong kinh Thanh văn gọi a-la-hán là Phật địa, cho nên ba người đồng là đề hồ, đây là thí dụ, đâu chẳng phải giải thích ý năm vị viên đốn trong tam tạng giáo, giống như đây thì được thành.

Tam thập nhị nói rằng: Chúng sinh như máu sữa lẫn lộn, Tu-đàhoàn, tư-đà-hàm như sữa trong sạch, A-na-hàm như lạc, A-la-hán như tô sống, Bích-chi-Phật, Bồ-tát như tô chín, Phật như đề hồ, thí dụ này há không giải thích năm vị trong Thông giáo ư? Bích-chi-Phật thói quen ít hơn Thanh văn, cho nên cùng Bồ-tát đồng là bơ chín, Phật thì thói quen đã hết nên gọi là đề hồ. Nương vào loại Thông giáo này mà tiệm viên sẽ hiển bày. Thứ chín nói rằng: Chúng sinh như bò mới sinh máu sữa chưa phân biệt, hàng Thanh văn như sữa, duyên giác như lạc, Bồ-tát như bơ sống, bơ chín Phật như đề hồ, thì dụ đây đều là ý năm vị của Biệt giáo. Sơ trụ trong Thập trụ đã dất hết kiến hoặc, tư hoặc của Thông giáo gọi là sữa, nói tóm lại so sánh hàng Thanh văn với thập hậu tâm sâu sắc cho nên sánh Bích-chi-Phật như lạc, thập hạnh, thập hồi hướng như bơ sống, bơ chín, sơ tâm thập địa đã gọi là Phật, cho nên như đề hồ, nhờ đây mà hiển hiện thành biệt quán, sẽ chia ra ý tiệm viên.

Nhị thập thất nói rằng: Núi tuyết có loại cỏ tên là nhẫn nhục, trâu bồ ăn cỏ này vào thì thành đề hồ. Cơ dụ cho chánh đạo, nếu có thể tu chánh đạo thì thành Phật tánh, thí dụ này đều là ý viên. Không trải qua bốn vị tức thành đề hồ, nương vào đây thành ý tiệm viên…

Thứ tám nói rằng: Bỏ thuốc độc vào sữa, khắp trong năm vị đều có thể giết người, thí dụ này há không thí dụ với bất định, tức thành bốn thứ lý, giáo, hạnh, chứng mà được nhập vào viên… nay y cứ vào tiệm đốn mà liệu giản như thế, trước ba khoa sau một khoa cũng phải như vậy. Nhưng tiểu đại, bán mãn, tề giới hạn phạm vi khoông được giống nhau.

5. Nói về quyền thật: Quyền là mưu kế tạm dùng, xong việc nhỏ thì bỏ, thật là ghi chép sự thật, chỉ quy rốt ráo. Lập quyền được làm ba ý:

1. Là thật thí quyền; 2. Khai quyền hiển thật. 3. Phế quyền hiển thật.

Như ba thí dụ về hoa sen trong kinh pháp hoa, các Đức Phật vì, một việc nhân duyên lớn mà xuất hiện ở đời, vốn là viên đốn chỉ quán nhất thật mà lập bày chỉ quán ra ba quyền. Quyền chẳng phải bốn ý, ý cũng chẳng ở ngoài quyền, chỉ khai chỉ quán ba quyền mà hiển bày chỉ quán viên đốn nhất thật. Vì thật mà thi thiết quyền, thật nay đã lập, khai quyền hiển thật, quyền tức là thật, không có quyền để luận bàn. Cho nên, phế quyền hiển thật, quyền phất thật còn, tạm dùng giải thích danh nghĩa kia là thích hợp.

Hỏi: Vì sao dùng quyền thật này?

Đáp: Đức Phật biết các tánh dục của chúng sinh, nên dùng bốn tất-đàn thành thục, nếu có người muốn nghe nhân duyên chính thì nên nói cho họ nghe tam tạng quán, nếu muốn nghe nhân duyên thì không nên nói cho họ nghe về thông quán, muốn nghe trải qua nhiều kiếp tu hành nên nói cho họ nghe biệt quán, muốn nghe tức trung thì nên nói cho họ nghe về viên quán, đó gọi là tùy thế giới tất-đàn, cũng gọi là tùy lạc dục. Vì thật thi thiết quyền nên nói chỉ quán quyền thật. Vì việc phò chân mà khéo nói tam tạng quán, vì muốn phò lý chân nên khéo nói thông quán, vì muốn phò lý trung nên kheo nói viên quán, đó gọi là tùy vị nhân tất-đàn cũng gọi là tùy tiện nghi mà nói chỉ quán quyền thật. Vì phá tà nhân duyên, vô nhân duyên mà nói tam tạng giáo quán, vì phá vụng độ cho nên nói thông quán, vì phá cộng pháp cho nên nói Viên giáo, đó gọi là đối trị tất-đàn nói chỉ quán quyền thật. Vì hàng độn căn vụng độ khiến nhập chân đế mà nói tam tạng giáo quán, vì hàng lợi căn khéo độ tư nghì khiến nhập chân đế nên nói thông quán, vì hàng lợi căn khéo độ tư nghì khiến nhập kiến trung cho nên nói viên quán, đó goi là một thật mà lập bày ba quyền, quyền thật tương đối thì có bốn thứ chỉ quán. vì thật mà bày quyền, ý giống như ở đây. Quyền thật phát sinh là do tất-đàn, quyền thật có thể bỏ cũng do tất-đàn. Vì sao? Vì chúng sinh phiền não kiết sử sầu dày, gốc lành trí tuệ mỏng manh, cho nên sinh sơ quán, khởi việc lành kia, nếu việc lành sinh thì phiền não được hàng phục cạn mỏng, tức phế bỏ tam tạng giáo quán, vì chúng sinh lý thiện hưng khởi từ nơi thông quán, lý thiện đã sinh tức phế bỏ Thông giáo; vì chúng sinh giới ngoại sự thiện thì hưng khởi biệt quán, giới ngoại sự thiện đã sinh thì phế bỏ biệt quán; vì chúng sinh giới ngoại lý thiện tức hưng khởi Viên quán, đó gọi là hưng phế nhân duyên cho nên nói quyền thật chỉ quán, ba thứ tất-đàn còn lại hưng phát hay phế bỏ có thể hiểu.

Nếu y cứ năm vị giáo để nói về hưng khởi hay phế bỏ, kinh Hoa Nghiêm gọi đó là người đại hạnh. Phế bỏ hai quyền, hưng khởi một quyền một thật, tam tạng giáo phế bỏ hai quyền một thật, chỉ hưng khởi một quyền. Kinh Phương Đẳng bốn thứ đều hưng khởi, kinh Bát-nhã phế bỏ một quyền, hưng khởi hai quyền một thật, kinh Pháp Hoa phế bỏ ba quyền, hưng khởi một thạt, kinh Niết-bàn lại hưng khởi bốn thứ, đều nhập Phật tánh không gì có thể ngăn cách. Thế nên đức như lai khéo dùng tất-đàn, phát khởi phế bỏ hợp thời, thuận căn cơ mà làm, đều vì lợi ích chúng sinh, cho nên như lai bất không nói pháp, vì muốn độ người cho nên phải phát khởi, phải phế bỏ. Đối ba quyền nói một thật, thật còn quyền bỏ, đã như trước nói. Nay lại phân biệt chia làm bốn thứ chỉ quán, đều là thật chẳng phải luống dối. Vì sao? Vì nếu không khai thông quyết định thì không nhập lý, nay quyết định rõ ràng pháp Thanh văn đứng đầu trong các kinh. Mở cửa phương tiện, chỉ bày tướng chân thật, mỗi một chỉ quán đều được nhập viên, như ngựa thấy bóng roi liền chạy nhan và đúng đường, cho nên bốn thứ đều là thật. Lại bốn thứ đều là quyền, vì sao? Vì bốn lý đều không thể nói, quyền không thể nói cho nên chẳng phải quyền, thật không thể nói cho nên chẳng phải thật. Chẳng phải quyền mà gượng nói là quyền, chẳng phải thật mà gượng nói là thật, đều là gượng nói. Do ý gì mà không gọi là thật ư? Vì có nói cho nên đều là quyền. Lại quyền thật này đều là chẳng phải quyền, chẳng phải thậ. Vì sao? Vì đều là không thể nói, chẳng phải quyền chẳng phải thật này không được phân chia để hướng thật, hướng do thấy lý là thật, thật chỉ là chẳng phải quyền chẳng phải thật, do đó nghĩa này không khác. Nếu khác lẽ ra có tuệ riêng phải chiếu lý riêng, lý hoặc đã đồng thì kiến sử không thể khác. Đối quyền cho nên nói thật, phế bỏ giáo cho nên nói lý, cho nên chẳng phải quyền chẳng phải thật, ngay nơi giáo là lý, quyền thật chẳng phải quyền chẳng phải thật, không hai không khác, không hợp không tan, phi quyền phi thật, lý tánh thường vắng lặng gọi là chỉ, vắng lặng mà thường chiếu soi, vừa quyền vừa thật gọi là quán, quán cho nên xứng trí, xứng Bát-nhã, chỉ cho nên xứng nhãn, xứng Thủ-lăng-nghiêm, những thứ như vậy… gọi là không hai không khác, không hợp không tan, tức chỉ quán bất khả tư nghì. Đây chẳng những khai thật là chẳng phải quyền chẳng phải thật mà khai quyền cũng là chẳng phải quyền chẳng phải thật, cũng thuộc ý khai quyền hiển thật đó thôi.

Hỏi: Là một thật lập này ba quyền, chỉ có bốn thứ chỉ quán, nếu dùng biệt tiếp thông chỉ quán thì là quyền hay thật, lại vì ý gì mà không liên hệ đến bốn số, do ý gì mà chỉ nói tiếp thông, địa vị nào bị tiếp, tiếp nhập vào địa vị nào?

Đáp: Tiếp được nhập vào giáo này thì thuộc quyền, tiếp được nhập chứng này thì thuộc thật. Bốn giáo nói về từ đầu đến cuối, tiếp chỉ cuối cùng mà không phải ban đầu, cho nên không nhập bốn giao, các giáo đều tiếp cũng phải có nghĩa này, nghĩa này dùng, hai giáo nói về lý giới nội, hai giáo nói về lý giới ngoại, hai chỗ giao mé phải đặt trong một tiếp, cho nên chỉ dùng biệt tiếp thông. Nếu đều thông vì nói không luận phá vô minh, hàng bát địa gọi là Bích-chi-Phật địa, từ đây bị tiếp, biết có trung đạo, địa thứ chín hàng phục vô minh, thập địa phá vô minh, tức gọi là Phật. chỉ phá một phẩm đâu được gọi là cùng cực, cho nên biết là tiếp nhập vào biệt. Nếu hướng vọng về Biệt giáo tức nhập vào hạnh vị Sơ địa, hoặc y cứ vào đế để nói về tiếp, thì chân đế của Thông giáo trong không hiệp lại mà luận, từ đầu đến cuối chỉ quán là không trong chân, phá sạch kiến tư hoặc đạt đến địa thứ tám mới gọi là trung trong chân, cho nên nói trí giả thấy không và bất không, bị tiếp mới nghe, nghe rồi thấy lý, tức là nhập vào biệt vị. Bồ-tát tam tạng nói về vị thì không như vậy, cho nên không nói về tiếp. Biệt viên phát tâm đã biết trung đạo lại sẽ tiếp giáo nào, cho nên biết tiếp chỉ tại thông.

Hỏi: Ba quyền đều đắc, biết thật hay không?

Đáp: Biệt giáo biết đầu tiên, Thông giáo biết sau, tam tạng giáo từ đầu đến cuối không biết.

Hỏi: Nếu biết thì ý gì gọi là quyền, nếu không biết thì hai kinh trái nhau?

Đáp: Biệt tuy đầu nhưng mang phương tiện mới nghe, giáo còn gọi là quyền, thông tuy biết sau nhưng có thể tiếp rồi biết, chung cục của giáo là quyền, ý kia có thể thấy.

Nếu nói tam tạng giáo không biết, trái với hai kinh thì Đại Kinh chép: A-la-hán không biết tam bảo là thường trụ bất kiến, tất cả giới cấm cũng không đầy đủ, không thể chứng đạo Thanh văn, nghĩa này ở đây sẽ thông. A-la-hán tự lực không có tri kiến thường trụ, thí như thiên nhãn chưa khai mở không thấy được ngoại chướng, không nghe người khác nói, cũng không thể biết la-hán. Phật nhãn chưa mở lại không nghe Phật nói làm sao được tự biết thường trụ. Cho nên kinh pháp hoa nói: Tự mình đã chứng đắc công đức, sinh ý tướng diệt độ, nếu gặp các Đức Phật liền được quyết định rõ ràng.

Lại Chép: Hàng Thanh văn, Duyên giác, Bồ-tát không lui sụt cũng không thể biết, nên biết không nghe thì không biết. Kinh nói biết là đều biết lý chân đế vô vi của mình, cũng là đối với thường một tướng không biến đổi. Nếu người phân biệt chân đế hai tướng biến chuyển, thì chẳng thể phát chân, cần phải quán không mới nhập vô lậu, như Tu-Bồ-đề quán không, Kiều-trần-như chứng trí vô sinh… lại luật nghi không đầy đủ, nếu có thể quán không đắc đạo cộng giới, đây là giới cụ túc. Cho nên, kinh Hoa Nghiêm chép: Tánh tướng chân thật của các pháp là thường trụ nói thông đắc, giải thích như thế, nếu không giải thích như thế thì tam tạng giáo không nói Đại thừa thường trụ, Thanh văn đâu được đầy đủ, Thanh văn đạo đầy đủ giới cấm ư? Nếu giải thích như thế thì đạo công giới không mất mà càng thêm tốt đẹp. Lại nêu ra ví dụ để giải thích, như trong phẩm chép: Dâm dục làm chướng ngại sinh phạm thiên, huống chi Bồ-đề, vì sinh phạm thiên phải dứt bỏ dâm dục, muốn được Bồ-đề phải dứt dục hai bên. Tên dục tuy đồng ý kia thì khác, nghĩa này cũng giống như vậy. Muốn nhập chân đế phải biết vô vi thườngkhông biến đổi, muốn nhập thật tướng cũng biết thường trụ nhất tướng bất kiến, biết thường ngữ thì đồng, đại tiểu thì khác, cho nên tam tạng giáo chỉ quán không biết viên thật, không trái với kinh.

Kinh Thắng-man chép: Nếu không biết thường trú, tất cả ba quy đều không thành tựu, như thế làm sao thông? Xa tìm nguồn gốc ba thừa, nghiệp ban đầu không ngu dối đối với pháp, hoặc chọn bốn Niệm xứ văn tuệ làm sơ khởi, sự sơ khởi này biết chân đế thường trụ, không khởi sáu mươi hai kiếp chấp. Do không cậy chấp tâm Thánh hiền thành tựu, ở đây giải thích đồng như ý trước. Nếu lấy việc xưa làm nghiệp ba đầu thì trước hết phát tâm Bồ-đề sớm biết thường trụ, sợ hãi sinh tử, lui sụt tâm Đại thừa, chọn lấy Tiểu thừa. Vương tử pháp tài và các Bồ-tát lui sụt đối với Niết-bàn từ đầu đến nay quy định nhất thể tam bảo, huân tu giới thiện, có thọ pháp không xả pháp, tâm vô tận cho nên giới cũng vô tận, tất cả thiện giới do đây huân tập, thí như đất đai lợi ích cây cỏ, cây cỏ nảy mầm đều được thành tựu, quy giới Tiểu thừa không lìa giới Bồ-tát, giới Bồ-tát có năng lực thành tựu, là nghĩa này. Nếu không thực hành sơ nghiệp mà biết thường thì tam tạng giáo quy giới yết ma không thành tựu, nếu giải thich như thế thì đối với hai kinh đại tiểu nghĩa không trái nhau.

Pages: 1 2