LUẬT DI SA TẮC BỘ HÒA HÊ NGŨ PHẦN

Hán dịch: Đời Lưu Tống, Tam tạng Phật Đà Thập người nước Kế Tân, cùng Trúc Đạo Sinh
Việt dịch: Linh Sơn Pháp Bảo Đại Tạng Kinh

 

QUYỂN 25

Phần 5: NÓI VỀ CÁC PHÁP: PHÁ TĂNG, NGỌA CỤ, TẠP PHÁP, OAI NGHI, NGĂN BỐ TÁT, BIỆT TRÚ V.V…

Đoạn 1: NÓI VỀ PHÁP PHÁ TĂNG

Bấy giờ, lần thứ ba Điều-đạt suy nghĩ: Nay ta phá Tăng của Samôn Cù-đàm, thì tên của ta được vang lừng, mọi người sẽ nói: Sa-môn Cù-đàm có Đại thần lực mà Điều-đạt có thể phá được Tăng của ông ta. Nghĩ như vậy rồi, Điều-đạt bèn nói với quyến thuộc: Ất-tỳ-phân-na, Bà-tẩu-ban-na, Lô-hê-già, Lô-đế-xá-cù-gia, Ly-khiên-trà-đà-bà, Tamvăn-đạt-đa… Trong số người đó, Tam-văn-đạt-đa-là bậc đại thông minh, nói với Điều-đạt: Sa-môn Cù-đàm có đại oai đức, Tăng của ông ta làm sao có thể bị phá được? Điều-đạt nói: Ta sẽ thuyết minh năm pháp giữa Tăng, cần nên suốt đời thọ trì:

  1. Không ăn muối.
  2. Không ăn tô và sữa.
  3. Không ăn cá thịt, nếu ăn thì pháp thiện không sinh.
  4. Khất thực, nếu nhận sự mời ăn của người thì pháp thiện không sinh.
  5. Tám tháng của mùa Xuân và mùa hạ nên ngồi nơi đất trống, bốn tháng mùa Đông thì ở trong am tranh, nếu nhận phòng xá của người thì pháp thiện không sinh.

Dân chúng trong hai nước Ma-kiệt và Ương-già đều tin ưa khổ hạnh. Chúng ta thực hành năm pháp này, số người theo ta chắc chắn sẽ nhiều, đủ để phá Tăng. Tam-văn-đạt-đa nghe rồi cùng tán đồng với Điều-đạt: Có thể chia rẽ được khối chúng Tăng của Đức Phật, tiếng tăm sẽ được vang dội. Tam-văn-đạt-đa cũng theo luôn. Khi ấy, Điều-đạt có người đệ tử Ưu-bà-tắc, tên là Hòa-tu-đạt, thường cúng dường Điều-đạt, Điều-đạt nhiều lần thuyết phục nên ông ta cũng tán đồng. Hôm ấy vào ngày mười lăm Bố-tát, giữa chúng Tăng, Điều-đạt nêu ra năm việc trên, chính mình hành trù, xướng: Vị nào đồng ý năm điều ấy thì rút thẻ này. Lúc này, năm trăm Tỳ-kheo đều rút thẻ, chỉ trừ Tôn giả A-nan và một Tỳ-kheo Tu-đà-hoàn không rút trù. Hôm đó, Tôn giả Xá-lợi-phất, Mục-liên, các đại La hán đều không có mặt trong kỳ Bố-tát ấy. Điềuđạt hành trù xong, liền cùng năm trăm Tỳ-kheo hòa hợp Bố-tát. Tôn giả A-nan và một Tỳ-kheo Tu-đà-hoàn không rút thẻ, liền bỏ đi ra, đến chỗ Đức Thế Tôn, đầu mặt kính lễ sát chân, đem vấn đề ấy bạch Phật. Đức Phật nhân việc đó nói kệ:

Người thiện, dễ hội nhau
Người ác, thiện khó hội
Người ác, dễ hội nhau
Người thiện, ác khó hội.

Bấy giờ, Xá-lợi-phất, Mục-kiền-liên nghe sự việc ấy, bèn đến chỗ Đức Phật. Từ xa, Đức Phật thấy, Ngài bỗng vui khen ngợi:

-Thiện lai! Xá-lợi-phất, Mục-kiền-liên! Hai thầy có thể đến trong chúng của Điều-đạt dẫn năm trăm Tỳ-kheo trở về.

Hai vị thọ giáo, kính lễ sát chân Phật rồi đi.

Khi ấy, Tỳ-kheo Tu-đà-hoàn đi theo Tôn giả A-nan, thấy Xá-lợiphất, Mục-liên ra đi, bèn bùi ngùi khóc lớn.

Đức Phật hỏi Tỳ-kheo ấy:

-Tại sao khóc như vậy?

Tỳ-kheo thưa:

-Xá-lợi-phất, Mục-liên là đệ tử bậc nhất của Đức Phật, nay cũng đến với chúng Điều-đạt, con sợ hai Tôn giả học theo pháp của Điềuđạt, chính vì thế mà con khóc.

Đức Phật nói với Tỳ-kheo ấy:

-Thôi đi, ông đừng khóc nữa! Xá-lợi-phất, Mục-liên, không bao lâu họ sẽ dẫn năm trăm Tỳ-kheo trở về.

Khi Xá-lợi-phất, Mục-liên đi thẳng vào chỗ chúng của Điều-đạt, thì Tam-văn-đạt-đa từ xa trông thấy liền chạy vào nói với Điều-đạt: Xá-lợi-phất, Mục-liên là hàng đệ tử bậc nhất của Sa-môn Cù-đàm, nay đến đây, nhằm phá ý định của các Tỳ-kheo, không nên nói chuyện, cũng đừng nên mời ngồi. Điều-đạt chủ quan với năm pháp làm đường hướng, không chấp nhuận lời của Tam Văn cũng không bận tâm đến vấn đề. Khi Xá-lợi-phất và Mục-liên đến nơi, Điều-đạt bèn nói: Thiện lai Xá-lợi-phất, Mục-liên có thể đến ngồi nơi chỗ này, rồi nói tiếp: Là người có trí, điều gì trước chưa nghe, nay nghe để nhận lấy mà hành trì. Hai vị, trước là hàng đệ tử bậc nhất của Sa-môn Cù-đàm, nay lại đến đây làm đệ tử bậc nhất của tôi, âu cũng là điều tốt! Xá-lợi-phất và Mục-liên im lặng không trả lời, Điều-đạt tưởng đó là chấp thuận lời nói của mình. Điều-đạt liền phỏng theo nếp sống của Phật bảo Xá-lợi-phất và Mục-liên: Quý thầy có thể vì chúng hội nói pháp, tôi bị đau lưng, nằm nghỉ một chút. Điều-đạt xếp Tăng-già-lê thành bốn lớp để gối, nằm nghiêng phía bên phải, hai chân chồng lên nhau, nhưng không hệ niệm tiền nên chỉ trong giây lát ngủ muồi, lăn qua phía bên trái, xoải người lên đất, ngáy khò khò… Khi ấy, Tôn giả Mục-liên hiện các thần lực theo chuyên môn của mình còn Tôn giả Xá-lợi-phất nói các pháp mầu, đoạn trước, đoạn sau cùng, chặng giữa đều thiện, nghĩa thiện, vị thiện, với tướng phạm. Năm trăm Tỳ-kheo nghe rồi, liền nơi tòa ngồi xa trần, lìa cấu, đối với các pháp, đặng mắt trong sạch, thấy pháp đắc quả rồi, bèn nói với nhau: Chúng ta có thể đứng dậy trở về chỗ Đức Phật. Hai Tôn giả Xá-lợi-phất, Mục-liên liền từ chỗ ngồi đứng dậy, cùng năm trăm Tỳ-kheo trở về chỗ Đức Phật.

Lúc đó, Tam-văn-đạt-đa dùng ngón chân đụng nhẹ vào Điều-đạt và mắng: Tôi tớ dòng họ Thích hãy thức dậy! Xá-lợi-phất và Mục-liên dùng những phương tiện dẫn các Tỳ-kheo đi rồi! Điều-đạt thức dậy kinh hãi mắng: Đích thị là Tỳ-kheo ác dục, mới đó có thiện ý, tại sao bỗng lại sinh tâm ác dùng phương tiện dẫn hết Tỳ-kheo của ta đi! Vì quá giận dữ và sợ sệt nên máu nóng từ lỗ mũi trào ra, ngay nơi thân còn sống mà đọa vào địa ngục.

Xá-lợi-phất và Mục-liên về đến chỗ Đức Phật rồi, đầu mặt đảnh lễ sát chân, ngồi lui qua một bên.

Tôn giả Mục-liên bạch Phật:

-Con muốn khiến năm trăm Tỳ-kheo này thọ lại giới Cụ túc.

Đức Phật dạy:

-Khỏi phải thọ lại. Tại sao? Năm trăm Tỳ-kheo này ngu si nên dùng pháp tưởng rút thăm, nay chỉ cho phép Tăng khiến họ tác pháp hối quá Thâu-lan-giá.

Tôn giả Mục-liên bạch Phật:

-Kỳ lạ thay! Bạch Đức Thế Tôn! Điều-đạt bắt chước Phật đọa vào xứ khổ như thế. Đức Phật dạy:

-Không phải chỉ bây giờ, Điều-đạt bắt chước Ta mà đọa vào địa ngục, xưa kia cũng đã từng bắt chước Ta, phải đọa vào xứ khổ.

Tôn giả Mục-liên lại thưa hỏi Phật:

-Chuyện ấy như thế nào?

Đức Phật dạy:

-Thuở đời quá khứ, nơi chỗ rộng vắng có một ao nước, một con voi lớn vào trong ao lấy ngó sen rửa sạch rồi ăn, sức khỏe được dồi dào. Lại có một con voi cũng bắt chước vào ao lấy ngó sen, không rửa mà ăn, đưa đến trọng bệnh rồi chết. Nhân sự việc này Đức Phật liền nói kệ:

Đừng bắt chước voi chúa
Bắt chước không thể được
Bắt chước sai voi chúa
Nên ăn bùn rồi chết.

Đức Phật bảo Mục-liên:

-Con voi lớn chính là thân Ta, còn con kia là Điều-đạt. Xưa bắt chước Ta nên mới bỏ mạng, nay bắt chước Ta nên phải nhận lấy cái khổ như vậy.

Tôn giả Mục-liên bạch Phật:

-Kỳ lạ thay! Bạch Đức Thế Tôn: Điều-đạt theo Phật nghe pháp, tụng tám mươi bốn ngàn pháp tạng, đặng năm thần thông, tại sao lại phản, kiêu mạn đối với Đức Thế Tôn?

Đức Phật dạy:

-Không những đời này mà xưa kia Điều-đạt cũng từng theo Ta nghe pháp nhưng khinh mạn đối với Ta.

Tôn giả Mục-liên bạch Phật:

-Chuyện ấy như thế nào?

Đức Phật nói:

-Thuở đời quá khứ, có một Tượng sư (người nài dạy voi) rất cao tay nghề điều phục voi, được nhà Vua đối xử rất trọng hậu. Khi ấy, có một người đến chỗ vị Tượng sư, thưa: Dạy cho con nghề điều phục voi, con xin làm đệ tử. Tượng sư liền dạy, không giấu một thuật nào. Người kia biết được rồi, bèn sinh tâm đố kỵ, đến chỗ nhà Vua tâu: Sự hiểu biết của người kia đâu hơn gì tôi, tại sao cung cấp như thế mà không nghĩ gì đến tôi? Nhà Vua kêu vị Tượng sư hỏi: Ông cùng đệ tử ông, ai hơn ai? Tượng sư đáp: Xin nhà Vua cho phép lui về, sau bảy ngày sẽ thực hiện pháp điều tượng. Nhà Vua chấp thuận. Tượng sư trong bảy ngày lại điều khiển các con voi: Bảo tới thì đi thụt lùi, bảo lùi thì đi tới, bảo ngồi thì bắt nó lại đứng, bảo đứng thì bắt nó lại ngồi, điều khiển các con voi với những động tác ngược lại như vậy. Đúng bảy ngày, đối trước nhà Vua, Tượng sư cùng đệ tử biểu diễn các thuật điều khiển voi. Ban đầu cả hai người chưa ai có cái gì khác lạ, nhà Vua hỏi người đệ tử: Nhà ngươi có thuật nào khác lạ hay không? Người đệ tử đáp: Tâu bệ hạ, không. Nhà Vua lại hỏi người thầy của ông ta: Ngươi có phương pháp nào khác lạ nữa hay không? Tượng sư đáp: Tâu bệ hạ, có. Nhà Vua bảo biểu diễn. Tượng sư điều voi làm ngược lại những điều sai bảo, voi răm rắp làm theo. Khi ấy, nhà Vua mới biết người đệ tử của Tượng sư trước đây đã nói hư dối. Nhà Vua nổi giận, nói: Tại sao ngươi dám khi dối đối với ta? Vị Tượng sư tâu với Vua: Người này là học trò của tôi, trước đây tôi dạy cho nó hết lòng, nó chưa biết hết, thoáng chốc lại đã khinh dối, nay xin được nói ví dụ, nguyện nhà Vua cho phép dẫn chuyện: Xưa kia có một người, tháng cuối mùa Xuân mang đôi giày một lớp, đất nóng nên giày bị co lại, giày siết chặt nên chân bị thương… Bổn ý là muốn bảo hộ đôi chân thì phản lại làm cho đôi chân bị tổn thương. Tôi cũng như vậy, trước kia dạy đệ tử, hy vọng là có ích, nhưng lại bị hại. Bấy giờ, Đức Thế Tôn nói kệ:

Như người mang giày da
Dụng ý bảo vệ chân
Khi nắng nóng bất ngờ
Giày rút chân bị thương.
Thế gian kẻ ngu ác
Không nghĩ mình mang ơn
Ơn thầy dạy kỹ thuật
Lại phản, vu khống thầy.

Đức Phật dạy:

-Tượng sư chính là tiền thân của Ta, người đệ tử là Điều-đạt, đời nào cùng theo Ta thọ học mà trở lại khinh mạn đối với Ta.

Tôn giả Mục-liên bạch Phật:

-Bạch Thế tôn, thật hy hữu! Tôn giả Xá-lợi-phất một lần thuyết pháp mà phá cả chúng của Điều-đạt.

Đức Phật dạy:

-Không những đời này, mà xưa kia Xá-lợi-phất cũng đã từng nói pháp để phá chúng của Điều-đạt.

Mục-liên thưa hỏi:

-Chuyện ấy như thế nào?

Đức Phật nói:

-Thuở đời quá khứ, có một Xạ sư tên là Câu-hòa-ly. Có người theo học pháp bắn, sáu năm dạy nên cầm cây cung như thế này, vót cái tên như thế này, mà chưa dạy cách bắn. Sau đó, người đệ tử nghĩ: Trong sáu năm ta học cầm cây cung, vót cái tên mà chưa bắn lần nào,

nay ta thử bắn xem sao. Người đệ tử nhắm bắn vào một cây đại thọ tên xuyên thủng qua khỏi cây rồi rơi vào lòng đất. Người thầy nghe được hỏi: Ông đã bắn một mũi tên phải không? Đệ tử đáp: Vâng, con đã bắn. Người thầy lại hỏi: Ông bắn vào chỗ nào? Người học trò chỉ vào cây đại thọ mà mình đã bắn. Người thầy nói: Ông đã thành xạ thủ, tôi là hạng nhất ông là hạng hai. Người thầy lại nói: Nơi địa điểm đó có năm trăm tên giặc cướp chặn đường, không ai dám đi qua nơi ấy. Ông có thể đến tảo thanh đám cướp nơi trục lộ đó, sẽ có công rất lớn. Ông thầy liền giao cho một chiếc xe ngựa, một mỹ nữ, cùng với cái bát bằng vàng và năm trăm mũi tên. Bấy giờ, người đệ tử cưỡi xe, chở người nữ, cầm cung như ý, mang năm trăm mũi tên vâng lệnh ra đi. Chính lúc ấy, đám giặc đường đang cùng phân chia các vật, sai người canh phòng nơi hiểm yếu. Người canh phòng từ xa thấy, vội vã chạy đến tâu với tướng soái của giặc. Tướng soái của giặc nói với đồng bọn: Chúng ta làm giặc, chưa từng thấy có một người, một mình dẫn một người đàn bà đi trên trục lộ này. Người này chắc là kẻ dũng kiện không sợ bất cứ ai, nên để họ đi qua, đừng gây nên phiền toái. Xạ thủ kia bèn dừng chân một nơi, khiến người đàn bà bưng bát bằng vàng đến chỗ đám giặc, xưng tên mình để khất thực. Người đàn bà ấy làm cho đám giặc rất thích, chúng lại ham cái bát bằng vàng, liền cùng nhau nghị bàn: Nữ sắc như thế đó, bát bằng vàng như thế đó, tại sao chúng ta lại cho phép họ đi. Tướng soái của giặc lại nói: Người kia chắc tự lượng sức của mình không sợ nên mới làm việc như vậy, cần phải nhẫn nại, chận sự nóng giận, đừng nên chiêu lấy tai họa. Đồng bọn nghe rồi bèn cho đầy bát với thức ăn ngon. Người đàn bà mang thức ăn trở lại, xạ thủ kia lại bảo đến nói: Các ông chia vật, cho tôi một phần với. Đám giặc cả giận: Con mẹ này là người gì lại dựa vào người chồng kia dám khinh cả bọn mình. Chúng ta phải giết ngay, đừng ôm lấy cái nhục này. Tướng soái của giặc vẫn nói như trước. Đám giặc chia cho một phần rồi quay trở lại. Xạ thủ kia lại bảo đến nói với đám giặc: Có thể cùng tôi chiến đấu chứ không thể để yên như thế này được. Lũ giặc lại nói: Người này thừa thắng xông lên, khinh miệt ta quá đáng, không thể nhẫn chịu được. Tướng soái của giặc khuyên dụ nhưng không được. Cơn giận của đám giặc nổi lên quên lường được sự nguy hại cùng nhau dùng sức tiến đánh hai con người kia. Người xạ thủ liền bắn một phát, giết ngay một người, bốn trăm chín mươi chín phát, giết chết bốn trăm chín mươi chín tên, còn một phát để hầu tên tướng soái, song tên giặc lẫn tránh theo người phụ nữ nên không bắn được. Tay xạ thủ bèn khiến người đàn bà lõa hình đứng trước tên giặc, tên tướng soái tâm loạn, nhân đó bị một phát, chết luôn. Cám cảnh này, người đàn bà kia liền nói kệ:

Tuy có cung tên bén
Chưa từng bắn một phát
Tử thương đã đầy dẫy
Tại sao không hối hận?

Người xạ thủ cũng dùng kệ trả lời:

Ta có cung kỳ diệu
Tâm hợp nên tay cung
Giết một sinh vui liền
Tại sao phải ăn năn.
Ta vốn đi đường này
Vì người trừ oán hại
Không hề tiếc thân mạng
Để thành người dũng kiện.

Đức Phật dạy:

-Người thợ bắn kia là tiền thân của Ta, người đệ tử của người thợ bắn là Xá-lợi-phất, năm trăm tên giặc là năm trăm Tỳ-kheo hiện nay, tướng soái của giặc chính là Điều-đạt. Xưa kia Xá-lợi-phất dùng những mũi tên phá lũ giặc, nay một thời thuyết pháp phá chúng của Điều-đạt.

Tôn giả Mục-liên lại bạch Phật:

-Bạch Thế tôn, lạ lùng thay! Điều-đạt mắng: Tỳ-kheo ác dục, liền khi ấy thân còn sống mà đọa vào địa ngục.

Đức Phật dạy:

-Không những bây giờ mà xưa kia Điều-đạt cũng đã từng dùng ác khẩu, hiện còn sống mà thọ đại khổ.

Mục-liên lại hỏi:

-Chuyện ấy như thế nào?

Đức Phật dạy:

-Thuở đời quá khứ, bên bờ ao của nước A-lan-nhã, có hai con nhạn cùng một con rùa kết làm bạn thân, sau một thời gian, nước trong ao bị khô cạn, hai con nhạn bàn bạc với nhau: Nay ao nước này bị khô cạn, bạn thân của ta chắc bị đại khổ. Nghĩ rồi nói với rùa: Nước trong ao bị cạn, bạn không có cách nào sống được, bạn có thể ngậm giữa cái cây, chúng tôi mỗi đứa ngậm một đầu, đem bạn đến chỗ nhiều nước, nhưng với điều là khi ngậm cái cây, bạn thận trọng đừng nên nói. Đồng ý, chúng liền thực hiện, nhưng khi bay ngang qua một xóm nọ, đám trẻ nít thấy vậy đều la ầm lên: Nhạn ngậm rùa bay đi! Nhạn ngậm rùa bay đi!! Con rùa liền nổi giận buông miệng nói: Việc này dính dự gì đến chúng bây? Miệng rùa tuột ra khỏi cây, rùa rớt xuống đất chết ngay.

Bấy giờ, Đức Thế Tôn nhân việc này nói kệ:

Đời sống kẻ sĩ
Búa ở trong miệng
Sở dĩ chém mình
Do nơi lời ác.
Nên chê lại khen
Nên khen lại chê
Tự nhận lấy họa
Trọn không có vui.
Nếu giành nhau tài lợi
Ác ấy chưa phải lớn
Tâm ác hướng về Phật
Ác đây mới là to.
A-phù có trăm ngàn
Ni-la, ba mươi sáu
Ác ý với người hiền
Phải đọa địa ngục ngay.

Đức Phật dạy:

-Con rùa kia chính là Điều-đạt, xưa kia do nói lời giận mà chết đau khổ, nay lại giận mắng, đọa vào đại địa ngục.

Đức Phật bảo các Tỳ-kheo:

-Nếu Ta thấy nơi Điều-đạt có một pháp thiện bằng sợi lông thì hoàn toàn không ghi nhận sự đọa vào đại địa ngục thọ một kiếp khổ của Điều-đạt. Ví như một người bị chìm dưới hầm phân, nếu có người muốn cứu họ, mà không thấy nơi thân họ có một chỗ nào sạch, bằng một sợi lông để có thể cầm được. Ta quán sát nơi Điều-đạt cũng lại như vậy.

Đức Phật lại bảo các Tỳ-kheo:

-Ta không thấy pháp nào phá hoại tâm đạo vô thượng của con người bằng tiếng khen và lợi dưỡng. Điều-đạt sở dĩ phá Tăng là do lợi dưỡng. Điều-đạt gây tạo tám phi pháp cho nên phá Tăng: lợi, không lợi, khen, không khen, kính, không kính, ưa ác và nhận thức làm theo điều ác.

Tôn giả Ưu-ba-ly thưa hỏi Phật:

-Thế nào được gọi là phá Tăng?

Đức Phật dạy:

-Có bốn việc gọi là phá Tăng: Nói năm pháp, tự hành trù, rút thăm, trong nội giới làm Tăng sự riêng.

Tôn giả Ưu-ba-ly lại hỏi:

-Thế nào gọi là Tăng không hòa hợp mà chẳng phải phá?

Đức Phật dạy:

-Nếu Vua trợ lực phá Tăng, khiến cho Tăng không hòa hợp, thì chẳng phải phá. Nếu Đại thần, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di, Tỳ-kheo-ni, Thứcxoa-ma-na, Sa-di, Sa-di-ni, một Tỳ-kheo cho đến bảy Tỳ-kheo trợ lực phá Tăng cũng như vậy. Nếu không hỏi Thượng tọa mà hành Tăng sự, tức là không hòa hợp mà cũng chẳng phải phá Tăng, nếu không cùng đồng thọ thực, trong khi ăn, khác chỗ ngồi, tranh cãi mạ lị cũng như vậy. Chủ yếu phải là ở trong một giới, tám Tỳ-kheo, chia làm hai bộ, làm Tăng sự riêng thì mới gọi là Tăng bị phá.

Tôn giả Ưu-ba-ly lại hỏi:

-Trong số đó, ai là người phá Tăng?

Đức Phật dạy:

-Người nào chủ động.

Tôn giả Ưu-ba-ly lại hỏi:

-Ai là người phải đọa vào đại địa ngục một kiếp mà không thể cứu?

Đức Phật dạy:

-Người nào đóng vai chủ động.

Tôn giả Ưu-ba-ly lại hỏi:

-Hễ người phá Tăng đều bị đọa vào đại địa ngục thọ khổ một kiếp phải không?

Đức Phật dạy:

-Không nhất thiết đều bị đọa vào đại địa ngục một kiếp để thọ khổ. Có tám người phá Tăng thọ một kiếp khổ nơi đại địa ngục: Hoặc pháp, pháp tưởng mà nói là phi pháp; hoặc phi pháp, phi pháp tưởng mà nói là pháp; hoặc pháp, phi pháp tưởng mà nói là pháp; hoặc phi pháp, pháp tưởng mà nói là phi pháp; hoặc pháp, phi pháp, pháp tưởng mà nói là pháp; hoặc pháp, phi pháp nghi mà nói là pháp; hoặc pháp phi pháp nghi mà nói là phi pháp. Có sáu người phá Tăng không bị đọa vào đại địa ngục một kiếp để thọ khổ: Hoặc pháp, pháp tưởng mà nói là pháp; hoặc phi pháp, phi pháp tưởng mà nói là phi pháp; hoặc pháp, phi pháp tưởng mà nói là phi pháp; hoặc phi pháp, pháp tưởng mà nói là pháp; hoặc pháp, phi pháp, phi pháp tưởng mà nói là phi pháp; hoặc pháp, phi pháp, pháp tưởng mà nói là pháp.

Đoạn 2: NÓI VỀ PHÁP NGỌA CỤ

Đức Phật ở tại thành Vương-xá. Bấy giờ, Tỳ-kheo Át-bệ hầu Phật, sau đó đắp y bưng bát vào thành khất thực, oai nghi rõ nét, ngó xuống đất mà đi. Có một Trưởng giả thấy, khởi ý nghĩ: Ta chưa từng gặp một người nào như thế này, bèn đến hỏi:

Thầy là ai? Thầy là đệ tử ai? Xuất gia với ai? Phụng hành đạo pháp của vị nào?

Khi ấy, Đức Phật mới thành đạo, người đời đều gọi Ngài là Đại Sa-môn. Vị Tỳ-kheo trả lời:

Tôi tên Át-bệ, Đại Sa-môn là thầy của tôi, tôi xuất gia với Ngài, phụng hành đạo pháp của Ngài.

Ông Trưởng giả nghe rồi, khen:

-Chưa từng có người nào như vầy, tự có oai nghi như vầy, mà theo Đại Sa-môn xuất gia, phụng hành đạo pháp của Người.

Ông Trưởng giả lại hỏi:

-Hiện nay thầy ở đâu?

Tỳ-kheo đáp:

-Tôi ở nơi A-lan-nhã, bên cây Sơn Nham, chỗ đất trống gò mả là chỗ của tôi.

Ông Trưởng giả nghe rồi lại càng thêm hoan hỷ, khen:

-Oai nghi rõ nét hòa nhã, vị này chắc chắn là hơn hết, mà lại ở chỗ vắng vẻ như vậy!

Ông Trưởng giả lại hỏi:

-Lấy thứ gì trải ngồi?

-Tôi dùng cỏ Thi, cỏ Câu-thi, cỏ Bà-bà, cỏ Văn-nhu, cho đến lá cây… kể cả cát đất, tôi đều có thể trải ngồi.

Ông Trưởng giả nghe rồi lại thêm vui mừng cung kính, khen:

-Lại có thể sống với nếp sống thiểu dục như vậy!

Ông Trưởng giả lại hỏi:

-Nếu tôi vì Đại đức làm cái phòng thì có thể thọ dụng hay không?

Vị Tỳ-kheo trả lời:

-Đức Thế Tôn chưa cho phép chúng tôi thọ dụng phòng xá.

Ông Trưởng giả thưa:

-Đại đức có thể đem vấn đề này bạch Phật, tôi cũng sẽ đích thân đến bạch.

Át-bệ im lặng nhận lời đề nghị. Sau khi thọ trai xong, trở lại chỗ

Đức Phật, đầu mặt kính lễ sát chân, rồi đem vấn đề bạch Phật. Nhân việc này, Đức Phật tập hợp Tỳ-kheo Tăng, khen người thiểu dục, tri túc, khen giới, khen người trì giới rồi bảo các Tỳ-kheo:

-Từ nay cho các Tỳ-kheo nhận các phòng xá của người cúng.

Ông Trưởng giả kia, sau đó đến chỗ Đức Phật, từ xa thấy dung mạo của Đức Thế Tôn thù thắng đặc biệt, giống như núi vàng, trong lòng đầy ắp sự vui mừng, cung kính, đến trước Đức Phật kính lễ sát chân, rồi lui qua một bên. Đức Phật vì ông nói các pháp diệu… cho đến khổ, tập, tận, đạo. Ngay từ chỗ ngồi, ông đặng mắt pháp trong sạch, thấy pháp đắc quả, thọ Tam quy và Ngũ giới, rồi bạch Phật:

Bạch Đức Thế Tôn! Con muốn cất phòng xá cúng dường cho các Tỳ-kheo, xin Ngài chấp thuận.

Đức Phật đồng ý bằng sự im lặng.

Ông Trưởng giả biết Đức Phật chấp thuận rồi, liền từ chỗ ngồi đứng dậy, đến trước kính lễ sát chân Phật, đi quanh bên phải ba vòng rồi cáo lui.

Liền trong ngày ấy, ông cho cất sáu mươi phòng xá, lại cúng dường ẩm thực cho Phật và Tăng. Toàn gia quyến của ông đều cùng nhau lo liệu cúng dường những mỹ vị quý giá nhất trong đời không thiếu một thứ gì. Người bửa củi, người lấy nước, người làm thức ăn, người quét dọn, người rưới nước hoa trên đất, kẻ trải chỗ ngồi, người rải hoa, kẻ trải tòa cao.

Bấy giờ, trong thành Xá-vệ có Trưởng giả tên là Tu-đạt-đa, xuất ba mươi vạn kim tiền cho người nơi thành Vương-xá vay, hằng năm đến thu về. Ông Trưởng giả thành Vương-xá thường ra một do-tuần nghinh đón, đãi đại tiệc. Đến lần này không có Trưởng giả ra tiếp, Tu-đạt-đa lại có suy nghĩ: Ông ta, hoặc bị nạn của nhà Vua hay nạn nước, lửa, giặc cướp, nhân, phi nhân nên không ra nghinh đón? Khi đến nơi, Tu-đạt-đa tới nhà ông Trưởng giả trước, thấy bày biện trân trọng các thức ăn mỹ vị, hỏi:

-Ông làm đám cưới, mở hội hay rước nhà Vua?

Ông Trưởng giả trả lời:

-Chẳng phải làm đám cưới, mở hội, cũng chẳng phải rước nhà Vua.

Lại hỏi:

-Không vậy, tại sao sửa soạn thức ăn uống mỹ diệu thế này?

Ông Trưởng giả nói:

-Đức Phật ra đời có đại oai đức, các đệ tử của Ngài cũng đều như vậy. Nay tôi thỉnh quý Ngài để cúng dường, cho nên không ra để cùng nghinh đón ông được.

Tu-đạt-đa nói:

-Tôi cũng thường nghe nói Phật ra đời, hiệu là Như Lai Ứng Cúng Đẳng Chánh Giác, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngư Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn.

Người mà nay ông thỉnh là Phật sao? Hay không phải là Phật?

Trưởng giả đáp:

-Chính là Phật.

Lại hỏi:

-Hiện nay Ngài ở đâu?

Ông Trưởng giả kia liền để trống vai bên phải, đầu gối bên phải chấm đất, tay bên phải chỉ về chỗ Đức Phật ở, nói:

-Phật ở nơi đó.

Tu-đạt-đa nghe rồi, vui mừng phấn khởi, để trống vai bên phải vọng hướng về chỗ Đức Phật ở kính lễ Ba lần. Đêm đến, ông ta niệm danh hiệu: Nam mô Phật. Dù nhọc mệt ông vẫn ngủ được. Người thiện tri thức đời trước của ông ta là vị thần ủng hộ. Vị thần nghĩ: Ta sẽ khiến ông Trưởng giả này không phải đợi qua một đêm, mới được thấy Đức Phật. Vị thần liền khiến cho trong đêm sáng rực lên, Tu-đạt-đa tưởng là trời đã sáng, liền thức dậy đến cửa thành, cửa thành tự mở, ra khỏi cửa tự đóng, bỗng nhiên trời tối lại. Tu-đạt-đa hoảng sợ nghĩ và nói: Vừa rồi ta đâu phải là cuồng! Vị thần biết ý niệm đó, liền nói kệ:

Nay là lúc đến Phật
Mỗi một bước chân đi
Lợi hơn thí ngàn vàng
Voi ngựa không sánh kịp.

Vị thần lại nói: Đừng hốt hoảng. Đừng sợ hãi, cứ tiến bước, tiến bước trong giây lát sẽ thấy Phật. Tu-đạt-đa nghe rồi sự sợ hãi biến mất, hăng hái bước tới, từ xa thấy Đức Thế Tôn dung mạo thù đặc, giống như núi vàng.

Đức Thế Tôn thấy ông Trưởng giả, khen:

-Lành thay! Đến đây Tu-đạt-đa!

Tu-đạt-đa nghe, rất vui mừng: Đức Phật lại biết luôn cả tên do cha mẹ ta đặt! Tu-đạt-đa đầu mặt kính lễ sát chân, rồi ngồi lui qua một bên. Đức Phật vì Trưởng giả nói các pháp diệu… cho đến khổ, tập, tận, đạo. Ngay nơi chỗ ngồi, ông ấy đặng mắt pháp trong sạch. Thấy pháp đắc quả rồi, Tu-đạt-đa liền thọ Tam quy, Ngũ giới và bạch Phật:

-Bạch Đức Thế Tôn! Nguyện Phật và Tăng nhận lời mời của con, an cư mùa hạ nơi thành Xá-vệ.

Thỉnh Ba lần như vậy, Đức Phật đều im lặng, đến lần thứ tư Ngài mới bảo:

Nếu chỗ nào không có sự ồn ào, yên tịnh, không có tiếng động, chư Phật mới an cư nơi đó.

Ông Trưởng giả bạch Phật:

-Con đã hiểu lời dạy của Đức Thế Tôn, xin Ngài sai một Tỳkheo, người có kinh nghiệm cho việc thiết lập này.

Đức Phật hỏi:

-Nay ông muốn vị nào?

-Bạch Thế tôn! Con muốn nhờ Tôn giả Xá-lợi-phất.

Đức Phật liền nói với Tôn giả:

-Thầy có thể đến đó làm người trông coi công việc.

Tôn giả vâng lời ra đi.

Bấy giờ, vị Trưởng giả thành Vương-xá, vào buổi sáng đích thân đến bạch Phật:

-Thức ăn đã sửa soạn xong, xin Thánh tri thời.

Đức Phật cùng Tỳ-kheo Tăng mặc y bưng bát, kẻ trước người sau vây quanh đến nơi nhà thọ trai, an tọa theo thứ tự.

Ông Trưởng giả tự tay sớt thức ăn, ăn xong dâng nước rửa rồi bạch Phật:

-Bạch Đức Thế Tôn! Con xin dâng cúng ngôi vườn và phòng xá này cho Tăng bốn phương

Đức Phật nhận lời bằng sự im lặng. Biết Đức Phật nhận lời rồi, Trưởng giả lấy chiếc ghế nhỏ ngồi phía trước, Đức Phật bèn vì ông, tùy hỷ nói kệ chú nguyện:

Vì ngăn gió lạnh nóng
Và ngăn các thú dữ
Che mưa sương và bụi
Cùng trừ nạn mòng muỗi.
Cúng dường người trì giới
Tọa thiền, thuyết, tụng pháp
Ai nghe hiểu nghĩa này
Trừ hết các gốc khổ.

Đức Phật nói kệ rồi, lại nói các pháp diệu, chỉ vẽ điều lợi ích để được hoan hỷ rồi trở về trú xứ.

Ngày về, Trưởng giả Tu-đạt đưa Tôn giả Xá-lợi-phất trở lại thành Xá-vệ. Qua các xóm làng, nơi nào Trưởng giả cũng đều rao truyền: Đức Phật ra đời, có đại oai đức, các đệ tử của Ngài cũng như vậy, tôi đã thỉnh Ngài an cư nơi thành Xá-vệ, các người ai nấy đều sửa soạn nhà cửa, tu bổ đường sá và các cầu đò, chuẩn bị mọi thứ để đón Đức Thế Tôn. Dân chúng nơi các xóm làng ấy nghe rao truyền như vậy, biết Đức Phật Thế tôn sẽ đi qua nơi mình ở nên rất vui mừng ghi nhận làm theo lời rao kia một cách cung kính. Trưởng giả Tu-đạt, khi đến Xá-vệ nghĩ: Chỗ nào tốt nhất để cất Tinh xá? Chỗ duy nhất nơi thành này là Kỳ lâm của Đồng Tử, nơi có vườn cây ăn trái quý giá, cảnh sắc tốt tươi, nước trong thanh khiết, suối róc rách, ao tắm, hoa thơm thật hoàn chỉnh, ta nên mua nơi đó để xây cất. Nghĩ rồi liền đến chỗ chủ nhân ngôi vườn, ngỏ lời:

-Tôi muốn mua sở vườn, ông có thể bán không?

Đáp:

-Ông hãy dùng kim tiền trải khắp hết mặt đất, không bỏ trống một chỗ nào, được như vậy tôi sẽ cùng ông trao đổi.

Tu-đạt liền dùng kim tiền trải khắp mặt đất.

Kỳ-đồng-tử bảo:

-Nói đùa như thế thôi, chứ tôi không muốn trao đổi.

Tu-đạt nói lại:

-Điều kiện này là từ lời của ông nói làm thành một giá trị, đâu được hối tiếc để làm khác đi.

Hai bên giằng co tranh cãi nên phải đưa đến cửa quan. Quan y theo pháp luật xử, Tu-đạt thắng cuộc.

Kỳ-đồng-tử hỏi Tu-đạt:

-Vì lý do gì mà ông không tiếc vàng bạc để mua khu vườn này với giá như vậy?

Tu-đạt trả lời:

-Đức Phật ra đời, có đại oai đức, các đệ tử của Ngài cũng như vậy. Tôi đã mời Ngài đến an cư nơi đây, do đó, tôi trút hết gia tài cũng không hề tiếc nuối.

Kỳ-đồng-tử lại nói:

-Nếu để tôi được đặt tên vườn là Tinh xá Kỳ viên, thì tôi sẽ để cho.

Tu-đạt nói:

-Tốt!

Tu-đạt liền ra lệnh đem kim tiền trải lên mặt đất, tính luôn cả những gốc cây cũng đều trải cho đầy đủ. Sau đó, Tôn giả Xá-lợi-phất lấy dây đo đạc, tính toán làm chỗ đi kinh hành, giảng đường, nhà giữ ấm, nhà ăn, nhà tắm, và các phòng xá, tất cả đều đầy đủ tiện nghi. Khi ấy, các phòng xá dùng bùn trét không được kín, gió bụi, rắn, chuột vào phá ngọa cụ của Tăng, gây xúc não cho các Tỳ-kheo. Vấn đề này được bạch Phật. Phật dạy: Cho phép dùng bùn bọc trong ngoài và các ngưỡng cửa. Tăng nên sắm búa, rìu, dao, cưa…, ghế thang các dụng cụ để làm nhà, cũng cho phép những chỗ bị nước tạt làm cửa sổ có vòng móc phên che, làm khóa cửa. Không cho phép làm như cán dao đeo nơi lưng, vi phạm, phạm Đột-kiết-la. Có các Tỳ-kheo chấp tác bị đất bùn làm nhớp thân cần phải tắm, Phật cho phép tắm. Chỗ tắm có bùn… Phật dạy: Cho phép dùng gạch đá hay tấm ván để trên mặt đất. Có các Tỳ-kheo ở nơi gò mả lượm được phu cụ, giường dây không dám lấy. Phật dạy: Cho phép lấy, nếu lớn nên cắt ra.

Bấy giờ, giữa hai thành Vương-xá và Xá-vệ có một trú xứ, các cư sĩ đem cúng cho các Tỳ-kheo mà không có ai ở. Phật dạy: Cho phép các bạch y mời tri sự ở và cung cấp cho họ mọi thứ cần dùng. Khi ấy, các trú xứ không có hàng rào, bò ngựa vào ra làm hư hoại chỗ kinh hành, Đức Phật dạy: Cho phép đào hào và rào chung quanh. Bò ngựa vẫn tìm cách vào được. Phật dạy: Cho phép dùng các loại cây gai kéo chung quanh. Bò ngựa vẫn tuông phá vào được. Phật dạy: Cho phép đắp đất làm tường hoặc xây tường gạch, bên trên có mái che, cho phép làm nhà canh giữ. Hư cũng cho phép làm lại, cho phép làm hai phên cửa. Có các Tỳ-kheo dùng nhánh dương chà răng, rửa tay, rửa mặt, rửa chân trong phòng, làm cho đất bị ẩm thấp, hư ngọa cụ của Tăng. Phật dạy: Không nên làm như vậy. Có các Tỳ-kheo già bệnh khi trời lạnh không thể ra ngoài rửa được. Phật dạy: Cho phép dùng các chậu đựng nước rửa và viên gạch dùng kê chậu. Có phòng xá bị đất bũn nổi lên. Phật dạy: Nên dùng đất bùn để trét và dùng một trong mười loại y trải lên trên. Có các Tỳ-kheo hạ tọa rửa chân trước, sau đó Thượng tọa đến rửa chân, vị hạ tọa rửa chưa xong, bị đuổi đi. Phật dạy: Nếu hạ tọa rửa trước nên cho phép rửa cho xong. Có các Tỳ-kheo kinh hành nơi đất trống, khi trời mưa y bị ướt, nên phế bỏ việc kinh hành. Phật dạy: Cho phép làm cái hành lang. Có các Tỳ-kheo đi trong sân, khi trời mưa đất nhão nhớp chân. Phật dạy: Cho phép làm đá gạch lót làm đường đi. Có các Tỳkheo ở chỗ không có nước. Phật dạy: Cho phép đào giếng, hoặc nước ao tác tịnh. Các Tỳ-kheo muốn làm nệm trải trên giường. Phật dạy: Cho phép dùng một trong mười thứ y rồi độn lông dê, lông lạc đà, hoa Kiếp bối… cho đến loại cỏ mềm vào bên trong để làm nệm. Các Tỳ-kheo làm nệm quá dày. Phật dạy: Dày nhất là tám ngón tay, cho phép Tăng làm một loại dành cho Tăng bốn phương và làm một loại riêng. Phu cụ của Tăng hư hoại, không biết làm thế nào, bạch Phật. Phật dạy: Nên nhờ người giặt vá tu bổ lại.

Lúc này, các Tỳ-kheo phân ngọa cụ cho Tăng hàng ngày. Phật dạy: Không nên làm như vậy, cho phép ngày cuối mùa Xuân, ngày đầu mùa hạ khi kiết giới An cư thì phân ngọa cụ. Lục quần Tỳ-kheo chọn lựa phòng tốt, ngọa cụ tốt để lấy phần. Phật dạy: Không nên làm như vậy, nên bạch nhị Yết-ma sai một Tỳ-kheo làm người phân ngọa cụ. Tỳ-kheo được sai nên ghi rõ để biết ngọa cụ nào thuộc phòng nào, tùy theo thứ cấp Thượng tọa mà chia, nếu có dư mà còn tốt, Thượng tọa cần thì nên đưa, nếu Thượng tọa không cần thì tiếp theo, tùy theo hạ tọa, theo chỗ ngồi mà phân. Nếu có Tỳ-kheo đến sau, tùy theo lớn nhỏ, theo thứ tự phân bố, từ phòng kế lần lượt cho đến phòng chót, nếu hạ tọa không có phòng thì thôi. Các Tỳ-kheo muốn làm giường dây, giường cây mới. Phật dạy: Cho phép làm. Nếu không có thợ khéo thì Tỳ-kheo có thể tự làm cũng được. Cho phép dùng mười loại tơ sợi, làm giường dây cũng được. Có các Tỳ-kheo muốn độn nệm trong giường dây, Phật cho phép độn. Có các Tỳ-kheo đi đứng trên giường dây, dây bị đứt. Phật dạy: Không nên đi đứng trên giường dây. Có các Tỳ-kheo nhỏ người thấp, muốn móc cái y hay lấy cái y trên giá, vói không tới. Phật dạy: Cho phép chánh niệm, quỳ gối trên giường dây để lấy. Có các Tỳkheo-ni ngồi trên giường dây có độn, nguyệt thủy nhớp, bất tịnh, thối nát, hư hoại. Phật dạy: Tỳ-kheo-ni không nên ngồi trên giường dây có độn. Có Sa-di nhỏ nằm trên giường dây có độn, đái dầm, bất tịnh, hư mục. Phật dạy: Sa-di nhỏ cũng không được nằm trên giường dây có độn. Có các Tỳ-kheo ở trên giường cao mà nghe kinh, hỏi nghĩa. Phật dạy: Nghe kinh, hỏi nghĩa đều nên ngồi nơi chỗ thấp. Trong sân của trú xứ các Tỳ-kheo cỏ mọc, Phật cho phép khiến tịnh nhân dọn theo luật. Nơi phòng bị bụi bặm làm nhớp giường, ngọa cụ, Phật cho phép tùy ý lau quét. Khi đại hội, các Tỳ-kheo đến đông, phòng xá lớn mà thiếu chỗ ở. Phật dạy: Trong phòng theo thứ tự trải ngọa cụ vừa đủ nằm mà nằm, nếu muốn dùng y ngăn phía trước thì cho phép, vị nào cũng được ngăn. Nếu đủ thì tốt, bằng không đủ thì bên ngoài có chỗ đất trống nào cho phép làm am thất, Tỳ-kheo cựu trú nên đứng ra làm. Cất am thất, đại hội xong, không giở bỏ, bị lửa cháy, cháy luôn cả trú xứ, Đức Phật dạy: Đại hội xong, phải giở bỏ rồi mới đi. Nếu Tỳ-kheo cựu trú tiếc không cho giở, Tỳ-kheo khách phải dặn dò Tỳ-kheo cựu trú rồi mới đi. Lúc trời mưa lớn, các Tỳ-kheo không có chỗ tụ hội. Phật dạy: Cho phép làm nhà lớn. Mùa lạnh, các Tỳ-kheo tụ tập bị rét, Đức Phật dạy: Cho phép làm nhà sưởi ấm.

Bấy giờ, do Tỳ-xá-khư-mẫu muốn xây dựng nên Tôn giả Xálợi-phất cho xây cất nhà lớn mới, bà đem lúa gạo đến cúng cho Tăng bốn phương, các Tỳ-kheo không dám thọ. Phật dạy: Nếu vì Tăng bốn phương, khi làm cho phép tùy ý thọ thực. Có các Tỳ-kheo khất thực, trở lại cúng cho Tăng bốn phương, không biết ai nên thọ. Phật dạy: Vì Tăng bốn phương mà làm thì được thọ thực. Có phòng xá bị hư hoại, các Tỳ-kheo không sửa chữa. Phật dạy: Nên khuyến hóa, bạch nhị Yết-ma giao cho kẻ đạo tục muốn sửa chữa, cho họ sửa chữa. Một Tỳ-kheo nên xướng đọc:

Đại đức Tăng xin lắng nghe! Cái phòng… hư hoại không có người sửa chữa, kẻ đạo tục… muốn sửa chữa, nay Tăng giao cho người ấy sửa chữa. Nếu thời gian thích hợp đối với Tăng, Tăng chấp thuận. Đây là lời tác bạch.

Đại đức Tăng xin lắng nghe! Cái phòng… hư hoại… cho đến câu: Nay Tăng trao cho người ấy sửa chữa. Các Trưởng lão nào đồng ý thì im lặng. Vị nào không đồng ý xin nói.

Tăng đã đồng ý giao cho… sửa chữa phòng cũ, số… rồi. Tăng đồng ý nên im lặng. Việc như vậy, thọ trì như vậy.

Nếu muốn đề tên người đàn-việt đã sửa chữa vào phòng ấy thì cho phép đề. Ngọa cụ cũng như vậy.

Có một trú xứ nước lớn bị ngập. Các Tỳ-kheo ai nấy lo dọn dẹp ngọa cụ phòng của mình, phòng không có Tỳ-kheo ở, không ai thu dọn, bị nước trôi và hư mục, sau đó những người đàn-việt của những phòng ấy thấy vậy, nổi sân, chê trách các Tỳ-kheo: Tại sao chỉ có ngọa cụ phòng của tôi cúng bị ướt, hư hoại mà thôi?! Đức Phật dạy: Nếu khi bị thủy hỏa nên la lớn, đánh kiền chùy khiến cho tất cả Tăng đều cùng nhau hỗ trợ dọn dẹp. Nếu vị nào không hỗ trợ dọn dẹp thì phạm Độtkiết-la.

Bấy giờ, La-hầu-la đến thôn Na-la, một người Ưu-bà-tắc thân tín vì La-hầu-la cất một cái phòng, khi cất xong, La-hầu-la có một duyên sự nhỏ nên du hành trong nhân gian.

Lúc đó, Tôn giả A-nan đến nơi thôn kia, vị Ưu-bà-tắc ấy lại đem phòng cúng cho Tôn giả A-nan. Khi La-hầu-la trở về, bảo Tôn giả Anan đi chỗ khác. A-nan nói: Trước kia tuy người ta cúng cho thầy, nhưng thầy đi, sau đó người ta cúng cho tôi thì phòng này là của tôi. Thế là cả hai vị đều đến người Ưu-bà-tắc hỏi để họ quyết định là phòng của ai. Người Ưu-bà-tắc trả lời: Tuy trước kia tôi cúng cho Tôn giả La-hầu-la, nhưng La-hầu-la bỏ đi, sau đó tôi mới cúng cho Tôn giả A-nan. Các Tỳkheo bạch Phật. Nhân việc này, Đức Phật tập hợp Tỳ-kheo Tăng, bảo các Tỳ-kheo:

Ưu-bà-tắc không những đời này mà xưa kia cũng đã từng làm như vậy.

Các Tỳ-kheo thưa hỏi:

-Chuyện ấy xảy ra như thế nào?

Đức Phật dạy:

-Thuở đời quá khứ, có nhà Vua tên là Bà-lâu, trong cương giới nước của Vua có hai vị Tiên, một tên là La-hầu-la ưa tọa thiền, một tên là A-nan đa văn vô úy. Nhà Vua kia, trước thấy La-hầu-la, rất kính trọng nên cất một cái phòng để cúng. Phòng làm xong thì La-hầu-la xuất hành trong nhân gian. Sau đó, A-nan lại đến, nhà Vua cũng kính trọng nên đem cái phòng đó cúng cho A-nan. Khi La-hầu-la về, bảo Anan đi và nói: Phòng này là của tôi. A-nan cũng nói phòng này là của mình. Cả hai đều đến nhà Vua hỏi, để quyết định là phòng của ai. Nhà Vua nói: Tuy trước đây tôi cúng cho La-hầu-la, nhưng La-hầu-la bỏ đi, sau đó tôi mới cúng cho A-nan, vậy nay là phòng của A-nan. Bấy giờ, các thiên, long, quỷ, thần đều nói: Nhà Vua này làm phi pháp, tại sao trước đã cúng cho La-hầu-la, sau lại tự ý đoạt lại cúng cho A-nan, chúng ta sẽ phá hoại quyến thuộc của nhà Vua. Họ liền cùng nhau đến cung Vua, dùng đá ném, đánh giết hại quyến thuộc của nhà Vua. Nhân việc này, Đức Phật nói kệ:

Vua cúng không trước sau
Tiên nhân cùng tranh cãi
Làm cho quỷ thần giận
Chuốc hại quyến thuộc mình.
Nếu xử sự theo ái
Không được người trí khen
Do vậy nên xả ái
Hoan hỷ nói đúng nghĩa.

Đức Phật dạy:

-Tiên nhân tên La-hầu-la trước kia, nay là La-hầu-la. Tiên nhân tên A-nan trước kia, nay là A-nan. Quốc vương trước kia, nay là Ưu-bàtắc.

Đức Phật bảo các Tỳ-kheo:

Từ nay không cho phép nhận phòng trước đó thí chủ đã cúng cho người khác, vị nào phạm, phạm Đột-kiết-la.

Bấy giờ, Đức Phật cùng đại Tỳ-kheo Tăng một ngàn hai trăm năm mươi vị đầy đủ du hành trong nhân gian, ở nước Câu-tát-la hướng đến ấp Ngật-la Ngật-liệt. Tại đó có năm Tỳ-kheo cựu trú, nghe Phật cùng đại chúng sẽ đến, cùng nhau nghị bàn: Trong chúng của Phật có các Tôn giả Xá-lợi-phất, Mục-liên, chắc chắn sẽ gây xúc não cho chúng ta. Chúng ta có thể phân chia phòng xá, ngọa cụ, vườn cây trái trong trú xứ này làm năm phần thành tư hữu của mỗi người. Bàn bạc xong liền phân chia. Đức Phật và chúng Tăng đến nơi, các Tỳ-kheo bảo: Các thầy mở phòng trải ngọa cụ, chúng tôi cần có chỗ ở. Năm Tỳ-kheo nói: Đức Phật là vị pháp chủ, mở cửa phòng hạng nhất mời Ngài ở, ngoài ra chúng tôi đã phân chia hết, là vật riêng không phải thuộc của Tăng, quý vị có thể vào trong xóm làng, tùy theo sự quen biết mà tìm chỗ ở. Khi ấy, hai Tôn giả Xá-lợi-phất, Mục-kiền-liên không có chỗ ở, đêm ấy phải ngủ nhờ nơi hiên phòng Đức Phật nghỉ. Sáng ngày, Đức Phật nhân việc này tập hợp Tỳ-kheo Tăng, bảo các Tỳ-kheo: Có năm thứ thuộc Tăng bốn phương không được giữ lấy, không được bán, không được chia. Năm thứ ấy là gì?

  1. Đất của trú xứ.
  2. Phòng xá.
  3. Vật cần dùng.
  4. Cây ăn trái.
  5. Hoa quả.

Tất cả Tỳ-kheo Sa-môn Thích tử đều có phần trong đó. Ai giữ lấy, bán hay phân chia đều phạm tội Thâu-lan-giá.

Chỗ năm Tỳ-kheo kia phân chia, sau đó Tăng bốn phương đến tập hợp lại cùng nhau phân chia, tiếp đến Tỳ-kheo khách tới, nói: Mở phòng để tôi vào ở. Các Tỳ-kheo tới trước nói: Chúng tôi là Tăng bốn phương đến thì đây là phần của chúng tôi, đã cùng nhau chia rồi, không thuộc về của thầy, thầy có thể đến trong xóm làng tìm nơi để ở. Tỳkheo tới sau, bèn đến trong xóm làng tìm chỗ ở. Các bạch y nói: Thưa Đại đức! Ở nơi đó có Tăng phòng tại sao không ở mà đến đây? Các Tỳkheo trở lại chỗ Tăng phòng, lúc ấy trời đã tối nên trên đường đi bị cọp làm hại. Các Tỳ-kheo bạch Phật, nhân việc này, Đức Phật tập hợp các Tỳ-kheo Tăng, bảo các Tỳ-kheo: Trước nay Ta há đã không nói, Tăng bốn phương có năm thứ không được chiếm giữ, không được bán, không được chia hay sao? Tại sao người bảo vệ trú xứ của Tăng lại không cho Tỳ-kheo tới sau ở, để đến nỗi bị cọp làm hại?

Bằng mọi cách quở trách rồi, Đức Phật lại nói: Vị nào chiếm đoạt, bán hay chia của Tăng bốn phương đều phạm tội Thâu-lan-giá.

Có các Tỳ-kheo ở bên bờ biển, cây gỗ khó được, không thể cất thất để ở. Nơi đó lại có nhiều loại xương của loài cá lớn, muốn dùng để cất, bạch Phật. Phật dạy: Được phép sử dụng. Các Tỳ-kheo sợ hôi mùi xương cá. Phật dạy: Cho phép dùng bùn có mùi thơm để trát. Có các Tỳ-kheo xây dựng làm trú xứ cho Tăng, làm rồi, Tỳ-kheo khách đến là bậc Thượng tọa, đuổi người ở trong phòng ra. Vị kia giận dữ nói: Tôi xây dựng khổ cực mà không được ở yên, bạch Phật. Phật dạy: Cho phép người chủ xây dựng tùy ý ở phòng nào mình thích. Các Tỳ-kheo lại ở với thời gian dài, bạch Phật. Phật dạy: Nên tính theo công phu của người kia nhiều hay ít, nhiều nhất là cho phép ở mười hai năm. Nên bạch nhị Yết-ma trao cho. Một Tỳ-kheo đọc lớn:

Đại đức Tăng xin lắng nghe! Tỳ-kheo này tên là… làm chủ xây dựng, nay Tăng cho tùy ý ở phòng theo sở thích, thời gian là (bao nhiêu) năm. Nếu thời gian thích hợp đối với Tăng, Tăng chấp thuận. Đây là lời tác bạch.

Đại đức Tăng xin lắng nghe! Tỳ-kheo này tên là… làm chủ xây dựng, nay Tăng cho tùy ý ở phòng theo sở thích, với thời gian là (bao nhiêu) năm. Các Trưởng lão nào chấp thuận thì im lặng. Vị nào không đồng ý xin nói.

Tăng đã đồng ý cho Tỳ-kheo tên là… tùy ý ở phòng theo sở thích rồi. Tăng đồng ý nên im lặng. Việc như vậy, thọ trì như vậy.

Có các Tỳ-kheo làm giường cây, giường dây để trong phòng, hoặc trét đất, hay khi tu bổ nho nhỏ, bèn xin chỗ tùy ý ở. Phật dạy: Không nên xin. Nếu tu bổ phòng công phu ít nhất là một phần ba thì cho phép đến xin Tăng chỗ ở tùy ý.