LUẬT DI SA TẮC BỘ HÒA HÊ NGŨ PHẦN

Hán dịch: Đời Lưu Tống, Tam tạng Phật Đà Thập người nước Kế Tân, cùng Trúc Đạo Sinh
Việt dịch: Linh Sơn Pháp Bảo Đại Tạng Kinh

 

QUYỂN 21

Phần 3: NÓI VỀ CÁC PHÁP: THỌ GIỚI, BỐ TÁT, AN CƯ, TỰ TỨ, Y, GIÀY DÉP DA, THỨC UỐNG V.V…

Đoạn 5: NÓI VỀ PHÁP Y (Tiếp Theo)

Bấy giờ, nước Xá-di còn tuân theo cựu điển, không cho những người khác họ được cưới nhau. Vua Ba-tư-nặc ham mê người nữ của họ ấy, ỷ mình quân sự mạnh, sai sứ khuyến cáo: Nếu không cho ta cưới, sẽ tiêu diệt nước của ngươi. Các người dòng họ Thích cùng nhau nghị bàn: Nên tương kế tựu kế thế nào để tránh khỏi điều bạo ngược mà lại không trái với cựu điển của nước ta. Mọi người đều nhất trí, chọn một đứa tớ gái đẹp, có dáng dấp thùy mị, trang điểm với đồ trang sức đẹp nhất đời, gọi là dòng họ Thích, để đáp ứng cho nhà Vua. Nghị bàn xong, liền thông báo cho Vua Ba-tư-nặc sắm đủ lễ cưới rước về. Sau sinh được một con trai, diện mạo tuấn tú. Nhà Vua ra lệnh cho các thầy tướng dựa theo tướng mà đặt tên. Các thầy tướng nói: Nhà Vua vốn dùng oai mà cưới mẹ đứa nhỏ này, y theo nghĩa đó nên đặt tên đứa nhỏ là Lưu Ly. Đến năm tám tuổi, nhà Vua muốn mời thầy dạy Lưu Ly học, Vua nghĩ: Trong các nghề, nghề bắn cung là hơn hết. Trong cõi Diêm-phù-đề chỉ có dòng họ Thích. Khi Phật còn là Bồ-tát bắn xa một do-tuần với một Câu-lô-xá. Thích-ma-nam bắn xa một do-tuần, tay bắn thấp nhất bắn xa không dưới một Câu-lô-xá. Ta nên cho nó về bên ngoại để học. Vua liền ra lệnh cho Đại thần, tử đệ thị tùng thái tử đến Thích-ma-nam để thọ giáo nghề bắn.

Lúc này, các người dòng họ Thích mới xây một tòa nhà lớn, cùng nhau giao ước, trước hết phải cúng dường Phật và các đệ tử của Ngài, vậy sau chúng ta mới ở. Thái tử Lưu Ly cùng với quyến thuộc vội vào trong tòa nhà ấy vui chơi. Các người dòng họ Thích thấy, nổi giận mắng: “Con của đứa tớ hạ tiện, ta không coi ngươi là nơi phước điền tốt, tại sao Đức Thế Tôn chưa vào ngồi mà ngươi dám vào trước”. Thái tử Lưu Ly liền phẫn hận, ra lệnh cho một người tùy tùng: Ngươi nhớ kỹ điều này, khi ta làm Vua, tâu lại với ta. Thái tử nói rồi bỏ ra đi. Sau đó các người dòng họ Thích đào bỏ tòa nhà lớn đó, làm lại chỗ đất mới. Công việc hoàn tất mới thỉnh Phật và Tăng vào trong, cúng dường và diễn nói pháp diệu. Thái tử Lưu Ly học xong nghề bắn, trở về thành Xá-vệ.

Tuổi còn thiếu niên, Lưu Ly đã nối ngôi Vua và những người cùng học ngày trước đều giao cho chức quan trọng. Vị Đại thần trước kia nhận lệnh phải ghi nhớ, tâu với Vua: Nhà Vua có nhớ khi ấy các người dòng họ Thích mắng hay không? Nhà Vua nói: Ta nhớ. Đại thần lại tâu: Nay không trả thù còn đợi lúc nào nữa? Nghe lời ấy, nhà Vua liền ra lệnh: Chỉnh đốn bốn binh chủng để đến chinh phạt dòng họ Thích.

Khi hay tin, Đức Thế Tôn vội đến bên lộ ngồi cạnh cây Xá-di, một loại cây không có bóng mát. Nhà Vua từ xa thấy Đức Phật, xuống xe đi bộ đến, đầu mặt kính lễ sát chân Phật và bạch: Kính bạch Đức Thế Tôn! Cây tốt rất nhiều, vì lý do gì Ngài lại ngồi nơi cây không có bóng mát? Đức Thế Tôn trả lời: Thân tộc là bóng mát vui thích nhất. Nhà Vua biết ý Phật: Ngài đã rủ lòng thương đến các người dòng họ Thích, liền lui binh trở về. Lần thứ hai, vị Đại thần kia cũng lại tâu với Vua như trước, nhà Vua lại ra lệnh nghiêm giá binh chủng để đến chinh phạt các người dòng họ Thích.

Đức Phật biết rõ các người dòng họ Thích không thể tránh khỏi túc nghiệp phải đối đầu này, nên Ngài không xuất hiện. Các người dòng họ Thích nghe Vua Lưu Ly đến chinh phạt đất nước mình, cũng chỉnh đốn bốn binh chủng ra chống trả. Cách một do-tuần, dùng tên bắn vào quân địch: Tên xuyên qua sát lỗ tai, tên làm đứt tóc, tên gọt sạch tóc râu, khiến cho râu, lông mày không còn sót một sợi nào và các chiến cụ của đối phương nhất loạt bị phá hoại nhưng không thương tổn đến da thịt. Vua Lưu Ly hỏi các quan tả hữu: Các người dòng họ Thích ở cách đây xa gần? Các quan tâu: Cách đây một do-tuần. Nhà Vua rất sợ hãi nói: Trận chiến chưa xáp chiến mà đã như thế này, huống là khi chạm trán nhau, quân ta thua là điều chắc chắn, nên rút quân về là điều hay nhất.

Khi ấy, một Đại thần tâu: Dòng họ Thích đều giữ năm giới, thà chết chứ không hại ai, Vua nên tiến quân, đừng lo chuyện bại trận. Nhà Vua nghe theo, ra lệnh tiến quân. Dòng họ Thích rút vào trong thành đóng cửa tự thủ. Vua Lưu Ly sai sứ rao: Mở cửa thành liền, sẽ có sự tha thứ, nếu để ta phá thành thì không một người nào thoát chết. Lúc này, Tôn giả Mục-liên nghe Vua Lưu Ly muốn công phá thành Xá-di, bạch Phật: Xin Phật cho phép con hóa làm một cái lồng bằng sắt để trùm lấy cả đại thành. Đức Phật bảo Mục-liên: Tuy ông có thần lực, làm sao có thể cải được nhân duyên định báo này. Do ý nghĩa ấy, Đức Phật nói kệ:

Luận nghiệp có trắng đen
Không có chuyện hư thối
Tuy lâu cũng sẽ đến
Trở lại mình phải chịu.
Vào trong không, biển cả
Hay vào trong núi đá
Không thể đến chỗ nào
Mà tránh khỏi quả kia.
Báo ứng sẽ đưa đến
Không gần xa, thâm u
Tự nhiên hướng đến nó
Không nhất định nơi nào.

Bấy giờ, các Thích chủng thấy quân của đối phương đông đúc, có người nói, mở cửa thành để được toàn thân, có người nói, dù chết cũng cố thủ, phân vân không nhất trí, nên phải bỏ phiếu, phía ít phục tùng phía đông. Khi ấy, ma Ba-tuần yểm trợ cho phe mở cửa thành, nên bảy lần bỏ phiếu, phe mở cửa thành đều nhiều phiếu hơn, nên cửa thành được mở. Vua Lưu Ly chiếm được thành rồi, ra lệnh cho ba quân: Tất cả dòng họ Thích đều giết hết, nếu chẳng phải người dòng họ Thích thì cẩn thận đừng làm hại. Ba ức người dòng họ Thích nghe, đều cầm cỏ lau chạy ra, nói: Tôi là người cắt cỏ cho dòng họ Thích, quân giữ cửa thành tin theo lời, để cho chạy. Thích-ma-nam tức tốc đến chỗ Vua Lưu Ly. Vì là ông ngoại nên được Vua Lưu Ly thưa hỏi: Ông ngoại cầu điều gì? Thích-ma-nam nói: Xin đừng giết các người thân tộc của tôi nữa. Nhà Vua nói: Điều đó không thể được, có thể nguyện cầu điều khác. Thích-ma-nam lại nói: Xin cho tôi từ khi lặn xuống nước cho đến lúc nổi lên, trong thời gian ấy, cho phép các người dòng họ Thích được phép chạy ra, đừng giết họ. Vua Lưu Ly nghĩ: Thời gian một hơi thở ở dưới đáy nước ngắn ngủi, chuyện gì không chấp thuận. Vua bèn đồng ý. Thích-ma-nam bèn xổ đầu tóc lặn xuống, lấy tóc cột vào gốc cây dưới nước, nên không trồi lên. Thấy đã khá lâu, Vua lấy làm lạ, sai người lặn xuống nước xem, thì ra Thích-ma-nam đã chết vì lấy tóc cột vào gốc cây. Sứ giả tâu với Vua, Vua liền khen: Mới hay vì thân quyến, không tiếc thân mạng! Vua liền ra lệnh cho ba quân: Nếu người nào còn giết dòng họ Thích sẽ bị quân pháp nghiêm trị.

Khi ấy, các Tỳ-kheo nghe Vua Lưu Ly tàn sát người nước Xá-di, bạch Phật, Phật bảo các Tỳ-kheo: Vua Lưu Ly ngu si, bảy ngày sau sẽ thọ tội, hại ông thầy đã dạy mình, cả quyến thuộc của nhà Vua kẻ lớn người nhỏ cũng đều chung một số phận. Vua Lưu Ly nghe Phật nói như thế, tâm niệm: Lời nói của Phật không bao giờ sai. Vua thầm nghĩ: Trong các nỗi khổ khác hãy còn có thể tránh, chỉ sợ bị lửa đốt, liền cùng quyến thuộc dùng thuyền vào trong sông A-di. Thời hạn bảy ngày đến, nước sông bỗng nhiên lớn kinh khủng, thế là thuyền bị chìm, nhất loạt chết hết. Các người dòng họ Thích còn sống sót, bị lột hết y phục, đến chỗ các Tỳ-kheo nói: Tôi là dòng họ Thích, thân tộc với Đức Thế Tôn, cho tôi xin một ít y. Các Tỳ-kheo không dám cho với ý nghĩ: Đức Phật chưa cho phép chúng ta cho y cho dòng họ Thích. Quý vị bạch Phật. Phật dạy: Được phép cho. Lại có Ưu-bà-tắc năm giới cũng bị cảnh như trên, đến chỗ các Tỳ-kheo mượn y, các Tỳ-kheo không dám cho mượn, nói: Đức Phật chưa cho phép chúng tôi cho Ưu-bà-tắc mượn y. Quý vị bạch Phật. Phật dạy: Được phép cho mượn, nếu trả lại thì lấy, không trả thì cho luôn.

Lúc này, Bạt-nan-đà vì vật cúng An cư nên kiết An cư hai chỗ, các Tỳ-kheo bạch Phật. Phật dạy: Mỗi chỗ nên lấy phân nửa phần.

Khi ấy, các Tỳ-kheo trên đường đi không dám vén y lên, bị vướng đất nhớp, bạch Phật. Phật dạy: Không nên như vậy, vi phạm, phạm Đột-kiết-la, nên làm đãy để đựng. Các Tỳ-kheo làm đãy quá dài, bạch Phật. Phật dạy: Không nên như vậy, dài nhất là phía trước tới rún, phía sau tới eo lưng. Các Tỳ-kheo dùng vật quý giá làm đãy đựng y, bạch Phật. Phật dạy: Không nên như thế, nên dùng vật thô để may. Có các Tỳ-kheo trên đường đi, nhờ người gánh y hoặc gánh y cho người, hoặc tự mất y, hoặc mất y người, bạch Phật. Phật dạy: Không nên như thế, nếu nhờ người gánh y, trước phải mở ra đếm cho họ thấy, nếu gánh y cho người cũng phải xem trước. Các Tỳ-kheo đựng y đầy đãy rồi may miệng lại, khi muốn lấy bị khó khăn, bạch Phật. Phật dạy: Không nên như vậy, nên làm dây buột lại, nếu không lấy dùng thường, thì cho phép may. Các Tỳ-kheo để y Khâm-bà-la và Kíp bối chung lại một chỗ nên sinh trùng cắn hư nát, bạch Phật. Phật dạy: Nên để Kíp bối cách Khâm-bà-la rồi dùng hương Khuất-thi-la, hương Na-tỳ-la, hương Thanh mộc bỏ vào, những loại hương này làm cho các loại trùng tránh xa. Sau đó, các Tỳ-kheo lấy y nhầm, bạch Phật. Phật dạy: Nên đề tên hay làm dấu. Nếu Tỳ-kheo gởi y, trải qua mười hai năm mà không trở lại lấy, nên tập hợp Tăng bình giá, để cho Tăng bốn phương dùng. Nếu sau đó Tỳ-kheo kia trở lại, dùng vật của Tăng bốn phương trả lại, vị ấy không nhận càng hay. Lúc đó, Tôn giả A-nan nhận được y mà không dùng, vì Tôn giả Xá-lợi-phất nên thọ, sai một Tỳ-kheo mang đến chỗ Tôn giả Xá-lợi-phất. Tỳ-kheo kia sinh ý nghĩ: Trưởng lão Xá-lợi-phất là người may mắn nhận được nhiều sự cúng dường, mà ta thì không có y, nay ta nên sinh ý tưởng vị ấy đồng ý để lấy. Lấy rồi bèn mặc, sau đó vị ấy sinh nghi, bạch Phật. Phật dạy: Vị kia tuy là thọ mà chưa xả, nên đối với Tỳkheo được cho, khởi ý tưởng đồng ý để lấy thọ trì thì chẳng phải là lấy thọ trì đúng. Nếu đối với Tỳ-kheo sẽ được cho, tác ý tưởng đồng ý để lấy thọ trì thì mới là lấy thọ trì đúng. Tôn giả A-nan lại nhận được sợi dây lưng mà không dùng, vì A-na-luật nên thọ, cũng sai một Tỳ-kheo đem đến nói: Đây là sợi dây đã thuộc về A-na-luật. Tỳ-kheo kia cũng khởi ý niệm như trước để lấy, rồi sau sinh nghi, bạch Phật. Phật dạy: Vị kia đã nói là thuộc về A-na-luật, như vậy là đã xả rồi. Nếu đối với Tỳkheo được cho, tác tưởng đồng ý để lấy thọ trì, thì gọi là lấy đúng để thọ trì, nếu đối với Tỳ-kheo sai đi, tác tưởng đồng ý để lấy thọ trì, thì chẳng phải là lấy đúng để thọ trì.

Bấy giờ, các Tỳ-kheo không mặc y lót thân, bị nhơ nhớp bất tịnh, chuột cắn hư hoại, bạch Phật. Phật dạy: Không nên như vậy, vi phạm, phạm Đột-kiết-la.

Khi ấy, Lục quần Tỳ-kheo may y lót thân, lớn nhỏ như Tăng-kỳchi, hoặc như Nê hoàn tăng, bạch Phật. Phật dạy: Không nên may như vậy, nên may ba loại: loại thượng từ trùm đầu cho đến mắt cá, duỗi ra phủ cả tay bên tả, úp lại khiến cho bằng nhau. Loại trung, từ phủ đầu cho đến nửa ống chân, phủ cánh tay bên tả, úp lại bằng với cổ tay. Loại hạ, từ phủ đầu cho đến đầu gối, duỗi ra phủ cánh tay bên tả, úp lại bằng với nửa khuỷu tay. Các Tỳ-kheo không dùng y lót thân, phủ chung cả cánh tay bên phải, thông cả y nên nhơ nhớp bất tịnh, bị chuột nhấm, bạch Phật. Phật dạy: Không nên như vậy.

Có các Tỳ-kheo khi thọ kinh, khi thăm hỏi Hòa thượng, A-xà-lê, mặc y bị lệch qua một bên, thòng xuống đất, hoặc ban đêm đứng dậy đi không thể vén lên, vứt bỏ dưới đất nhơ nhớp, bạch Phật. Phật dạy: Khi thọ kinh, thăm hỏi mặc lệch bên trái, phải cách đất, ban đêm khi thức dậy nên vén lên thông rẽ ra, đừng để bị đất nhớp. Các Tỳ-kheo mặc y bị rách không vá, bạch Phật. Phật dạy: Nên vá lại. Không biết ai vá. Phật dạy: Bốn tháng mùa Đông, ba tháng mùa hạ, người sử dụng nên vá.

Có các Tỳ-kheo ở nơi A-lan-nhã, khi đi không dọn ngọa cụ của Tăng, để bị hư mục, bạch Phật. Phật dạy: Nên gởi nơi xóm làng, nếu không có chỗ gởi, nên trả lại người chủ của phòng, nếu có nghi sợ dân chúng trong xóm làng thì nên di chuyển đi hết, hay nên dời đến chỗ an ổn. Các Tỳ-kheo không lui về để tìm xem ngọa cụ có còn sót lại hay rơi rớt, bạch Phật. Phật dạy: Nên lui về trông chừng. Đã đưa đến chỗ an ổn rồi, các Tỳ-kheo mới tớikhông cho phòng ở, cũng không cho phòng để cất đặt các y vật, bạch Phật. Phật dạy: Phải cho phòng đầy đủ. Nếu chỗ ở trước không lập trở lại nên sử dụng chỗ hiện ở. Nếu sau đó lập trở lại, nên đem những cái khác hoàn lại. Nếu đã hết không có thứ gì, Tỳkheo ở chỗ kia nên ít nhiều chia cho. Có các Tỳ-kheo lấy ngọa cụ phòng này đến phòng kia dùng, các vị chủ phòng chê trách nói: Tại sao lấy vật phòng của tôi, đem đến phòng khác dùng, nơi đây không cho lấy, bạch Phật. Phật dạy: Không nên như vậy. Có các Tỳ-kheo khách muốn thăm viếng thầy và thọ kinh, mang ngọa cụ nơi phòng ở đến nơi phòng kia, Tỳ-kheo chủ phòng không cho phép, bạch Phật. Phật dạy: Nên nói trước với Tỳ-kheo của bản phòng, nếu cho phép thì tốt, bằng không cho phép cũng cứ mang đi. Nếu từ đó đi xa, nên đem trả lại cho phòng cũ.

Có các Tỳ-kheo mặc y của Tăng vào trong nhà sưởi ấm và chỗ làm thức ăn, vào ăn trong Tăng và xung quanh nơi tiện lợi, khói xông nhơ nhớp, bạch Phật. Phật dạy: Không nên như vậy.

Có các Tỳ-kheo bệnh cần mặc đến các nơi, mà không dám, bạch Phật. Phật dạy: Có bệnh thì cho phép mặc đến các chỗ khác, nhưng phải hết sức bảo hộ nó, tuyệt đối, không được mặc đi đại tiểu tiện lợi.

Bấy giờ, Lục quần Tỳ-kheo mặc y thượng, hạ và cầm một tấm vải rộng bằng năm ngón tay, tương đương với ba y mà vào trong xóm làng, các Tỳ-kheo thấy, vặn hỏi: Đức Thế Tôn há không chế cấm, không mặc ba y không được vào xóm làng hay chăng? Lục quần Tỳ-kheo liền chỉ vào vải mà nói: Đây là đủ ba y của tôi. Các Tỳ-kheo Trưởng lão nghe bèn quở trách, rồi bạch Phật. Nhân việc này, Đức Phật tập hợp Tỳ-kheo Tăng, hỏi Lục quần Tỳ-kheo: Thật sự các ông có như vậy không? Bạch Thế Tôn! Có. Đức Phật bằng mọi cách quở trách rồi, bảo các Tỳ-kheo: Không nên như vậy, vi phạm, phạm Đột-kiết-la. Từ nay cho phép làm ba y: thượng, trung, hạ, như lượng y lót thân.

Có một trú xứ, Tăng nhận được y có thể chia, một Tỳ-kheo mang đến trên giới tràng, riêng một mình lấy thọ trì, quý vị bạch Phật. Phật dạy: Không nên vậy, vi phạm, phạm Đột-kiết-la, Tăng hiện có mặt nên chia.

Có một Tỳ-kheo Thượng tọa, cùng các Tỳ-kheo du hành trong nhân gian, trong đó có khách, có cựu, nhận được y nên chia, vì ít không đủ để chia, bạch Phật. Phật dạy: Tỳ-kheo cựu trú nên nói với Tỳ-kheo khách: Trưởng lão, y này ít không thể chia. Nếu Tỳ-kheo khách nói: Cùng nhau thọ trì, đưa cho các vị thì nên giữ lấy. Nếu nói: Cho đến một sợi chỉ cũng không tương nhượng, thì nên cùng chia. Tỳ-kheo khách nói với Tỳ-kheo cựu trú cũng vậy.

Có Tỳ-kheo lấy y phủ trên mồ, người chủ mồ thấy mất y, nhờ người tìm hỏi: Ai lấy y trên mồ của tôi. Có người nói: Các Tỳ-kheo lấy. Họ bèn nổi giận chê trách: Các Tỳ-kheo ăn trộm y của Tiên nhân tôi. Các Tỳ-kheo Trưởng lão nghe, bạch Phật. Phật dạy: Không nên vậy. Nếu xóm làng dời đi mà sau đó còn y, cho phép khởi ý tưởng là y phấn tảo để lấy.

Có các Tỳ-kheo lấy phướn lọng trong miếu thần cũng vậy.

Có các Tỳ-kheo đến chỗ chiến đấu, lấy y của người chết, quân nhân dị nghị nói: Các Tỳ-kheo này muốn khiến cho chúng tôi giết nhiều người. Các Tỳ-kheo Trưởng lão nghe, bạch Phật. Phật dạy: Không nên như vậy.

Có các Tỳ-kheo ít người quen biết, muốn tới chỗ chiến đấu để lấy y người chết mà không dám đến, bạch Phật. Phật dạy: Cho phép sau khi quân nhân đi rồi đến lấy.

Có các bạch y, sau khi quân nhân đi, thu lượm xương cốt để mai táng, thấy các thây chết đều bị lột trần, không thể nhận diện, bèn trách cứ nói: Tại sao Tỳ-kheo lại lột y của bà con tôi, nếu còn y phục thì có thể nhớ lại được. Các Tỳ-kheo bạch Phật. Phật dạy: Cho phép lấy khi không có người thấy. Đến chỗ giết người lấy y cũng như vậy. Có các Tỳ-kheo lấy y người chết, không làm cho hoại sắc mà làm y Tỳ-kheo để mặc, các bạch y thấy, nói: Đây là y của bà con tôi, bèn đến kêu khóc, các Tỳ-kheo bạch Phật. Phật dạy: Nên làm cho hoại sắc liền, mới làm y Tỳ-kheo để mặc. Nếu những đồ bằng sắt nên mau làm thành bát lớn, bát nhỏ hay cái móc cửa hoặc các đồ dùng.

Có một gia đình rất giàu có, giặc cướp đến lấy, không thể mang đi hết, chúng đem giấu trong đống rác, ngày sau trở lại lấy, vì ban ngày không dám đến, từ xa rình đợi thăm chừng. Có một Tỳ-kheo lượm y phấn tảo, đến chỗ đống rác giấu đồ đó thấy cái chéo y bày ra bèn kéo lấy y. Đám giặc từ xa nói: Đại đức đừng lấy vật của chúng tôi. Lính đi tuần tra kẻ cướp nghe, biết đó là đám giặc cướp, liền bắt trói áp giải đến cửa quan, quan ra lệnh giết hết. Khi đám giặc bị trói, đau khổ nói: Nếu Tỳ-kheo không lấy y của tôi, lính tuần tra làm sao biết tôi, như vậy là Tỳ-kheo giết tôi chứ chẳng phải ai khác. Các Tỳ-kheo bạch Phật. Phật dạy: Nếu khi kéo lên thấy nặng thì không nên lấy.

Có các Tỳ-kheo nơi ngả tư đường hẻm, ngó đất mà đi, các bạch y thấy, hoặc có người nói tìm tiền, hoặc có người nói tìm y phấn tảo. Có một đệ tử ngoại đạo, dùng y gói tiền, để giữa đường, Tỳ-kheo thấy lượm đi. Người ấy bèn nói với mọi người: Các Tỳ-kheo quả thật là tìm tiền. Các Tỳ-kheo đem vấn đề ấy bạch Phật. Phật dạy: Không nên lấy vật gì có gói lại nơi ngả tư đường hẻm.

Có một Tỳ-kheo vì cần y nên đến nơi gò mả, thấy một người nữ mới chết, trước đầu có một cái hộp, Tỳ-kheo tưởng là cái hộp không, bèn lấy đem về nơi trú xứ, mở ra xem, thấy có các đồ nữ trang, không biết làm thế nào, bạch Phật. Phật dạy: Khi lấy nên mở ra coi trước, nếu không coi trước mà lấy, phạm Đột-kiết-la.

Có các Tỳ-kheo cùng với một ngoại đạo đi trên một lộ trình. Ngoại đạo bị giặc giết, Tỳ-kheo lấy y của họ mà không làm hoại sắc, đem làm y Tỳ-kheo, ngoại đạo khác thấy nói: Đây là y của dòng họ ta, chắc các Tỳ-kheo giết rồi lấy. Các Tỳ-kheo đem vấn đề ấy bạch Phật. Phật dạy: Không nên lấy, nếu đã lấy, liền nên làm cho hoại sắc, rồi mới làm y của Tỳ-kheo.

Có các Tỳ-kheo thiểu dục, tri túc không nhận y của gia chủ dâng cúng, các Cư sĩ luận bàn: Chúng ta bằng phương tiện nào, khiến Tỳkheo kia nhận y của chúng ta dâng cúng. Chúng ta nên xé rách hay đốt cháy sơ sơ, để khắp nơi ngả tư đường hẻm, chờ khi vị ấy vào xóm làng nói: Thầy xem xung quanh nếu có thấy thứ chi thì lấy. Họ liền làm theo sự luận bàn. Tỳ-kheo kia thấy khởi ý nghĩ: Chúng ta không nhận y do gia chủ dâng cúng, chắc là các Cư sĩ vì chúng ta mà làm thế này, đem vấn đề bạch Phật. Phật dạy: Nên khởi tưởng phấn tảo mà lấy.

Có một Tỳ-kheo qua đời, các Tỳ-kheo để nằm ngửa giữa sân, không lấy y phủ lại, lộ hình nam căn trướng lên, các Cư sĩ thấy chê bai nói: Sa-môn Thích tử không tu phạm hạnh nên nam căn mới lớn như thế. Các Tỳ-kheo đem vấn đề bạch Phật. Phật dạy: Không nên để nằm ngửa lộ hình, phải lấy y che lại, nếu vi phạm, phạm Đột-kiết-la.

Có một Tỳ-kheo mập phì qua đời, các Tỳ-kheo đem để trên cỏ tươi sống, mỡ chảy ra chết các cỏ tươi sống, các ngoại đạo thấy, chê bai nói: Sa-môn Thích tử tự nói từ niệm, nay tại sao làm tổn hại đến cỏ tươi sống. Các Tỳ-kheo bạch Phật. Phật dạy: Không nên để trên vật còn sống, nên chôn hay đốt, hoặc để trên đá.

Có một Tỳ-kheo bị chết trôi, y bát treo trên nhánh cây trong nội giới, các Tỳ-kheo thấy, tưởng y bát trong nội giới của Tăng, thì thuộc về Tăng, không dám lấy, bạch Phật. Phật dạy: Cho phép xem như y phấn tảo để lấy. Các Tỳ-kheo không biết có bao nhiêu y phấn tảo, bạch Phật. Phật dạy: Có mười loại y phấn tảo: khi Vua thọ vị, bỏ y cũ, y nơi gò mả, y phủ nấm mồ, y nơi đường hẻm, người nữ mới lấy chồng bỏ y cũ, khi người nữ lấy chồng, y nói lên sự tiết tháo, y của sản phụ, y trâu nhơi, y chuột gặm, y lửa cháy.

Khi ấy, các Tỳ-kheo mặc y, màu sắc sáng rực, bạch y chê trách, bạch Phật. Phật dạy: Không nên mặc y màu sắc sáng rực, vi phạm, phạm Đột-kiết-la.

Có Tỳ-kheo chứa y tắm mưa, không đủ năm khuỷu tay, bạch Phật. Phật dạy: Y tắm mưa, không được giảm năm khuỷu tay, vi phạm, phạm Ba-dật-đề.

Lúc đó, các Cư sĩ, trong thời gian An cư, vì nữ nhi cạo đầu, nên đem y cúng cho Tăng, các Tỳ-kheo thọ rồi, muốn xoay về thành phẩm vật cúng An cư, bạch Phật. Phật dạy: Không nên như vậy, đây gọi là dâng cúng tùy theo sự việc, Tăng hiện tại nên chia, vi phạm, phạm Độtkiết-la.

Có các Tỳ-kheo, trước đã thọ ba y, không xả, lại thọ y khác. Do trước kia cái y đã thọ tịnh thí và thí cho người, sau nhớ lại bạch Phật. Phật dạy: Được gọi là thọ lại, cũng gọi là tịnh thí, thí cho người, chỉ không xả mới phạm Đột-kiết-la.

Khi ấy, các Tỳ-kheo có y Ni-tát-kỳ chưa xả, chưa hối quá, mà bị lửa cháy, nước cuốn trôi, giặc cướp, hư hoại, không biết nên thế nào, bạch Phật. Phật dạy: Đây tức là xả, chỉ nên tác pháp hối quá Ba-dật-đề.

Lúc này, các Tỳ-kheo chứa y không tịnh thí, bạch Phật. Phật dạy:

Không nên như vậy, vi phạm, phạm Đột-kiết-la.

Có một trú xứ, chúng Tăng nhận được gấm, cúng cho các Tỳkheo, không biết thế nào, bạch Phật. Phật dạy: Nên thọ rồi dùng để trang nghiêm tháp, hoặc làm đồ dùng cho tháp, hoặc làm đồ dùng cho Tăng.

Có một trú xứ, Tăng muốn chia y, có Tỳ-kheo thiểu dục không nhận phần mà chỉ cần cái dây lưng, dây ngồi thiền, cái mão, đãy lọc nước, các Tỳ-kheo bạch Phật. Phật dạy: Nên cho. Cho rồi lại đòi phần, bạch Phật. Phật dạy: Khi chia vật nên hỏi trước: Thầy có nhận phần hay không? Nếu nói: nhận, thì nên chia đều. Nếu nói: cần dây lưng… nên cho một phần ba, nếu lại đòi nữa thì không nên cho.

Có một Tỳ-kheo có cái câu nhiếp, Tăng bốn phương có Tăng-giàlê muốn trao đổi, các Tỳ-kheo không dám cho đổi, bạch Phật. Phật dạy: Cho phép đổi, nếu cái câu nhiếp giá trị cao hơn thì Tăng nên bồi cho Tỳ-kheo, nếu Tăng-già-lê cao giá hơn, Tỳ-kheo nên bồi cho Tăng, nếu nghèo không có vật gì để hồi cho Tăng hay là thiểu dục, tri túc cũng được phép cho. Các loại y khác cũng như vậy.

Bấy giờ, Tỳ-kheo Ly-bà-đa bị lạnh chân, đến người Bà-la-môn xin y Khâm-bà-la để trùm chân, xin rồi sinh nghi: Đức Thế Tôn chế giới không cho phép chúng ta xin y nơi người không phải là bà con, không biết nên thế nào, bạch Phật. Phật dạy: Do nhân duyên như vậy cho phép được xin các loại y cần thọ trì, như y che gót, y che bắp, bả vai, y che đầu, khăn lau tay, lau mặt, lau thân hình… Khi ấy, các Tỳ-kheo đối với Tăng, Tăng bốn phương và tháp, với người không đồng ý đều khởi tưởng đồng ý để lấy y, bạch Phật. Phật dạy: Không nên như vậy, đối với Hòa thượng, A-xà-lê, đồng Hòa thượng, A-xà-lê hoặc đệ tử và các người đồng ý mới được khởi tưởng đồng ý để lấy.

Có các Tỳ-kheo chưa qua đời, đối với vấn đề phân chia y vật nói: Sau khi tôi chết, dùng y vật này cho… dùng y vật này vào việc như vậy, như vậy, bạch Phật. Phật dạy: Không nên như thế, vi phạm, phạm Độtkiết-la, cho không thành cho, sử dụng không thành sử dụng.

Bấy giờ, Tôn giả A-nan thường tới lui gia đình Lực sĩ Lô-di, sau đó đến không có Lô-di ở nhà, khởi tưởng đồng ý lấy Kíp bối quý giá, vẫn sinh nghi hối, khởi ý niệm: Phật chưa cho phép chúng ta đối với bạch y khởi tưởng đồng ý để lấy y, bạch Phật. Phật dạy: Cũng cho phép đối với bạch y khởi tưởng đồng ý để lấy. Khi ấy, các Tỳ-kheo lìa y tắm mưa, không biết lúc tắm nên mặc y nào, bạch Phật. Phật dạy: Có năm nhân duyên được lìa y tắm mưa: không mưa, không nghi là có mưa, không lội qua sông, ăn khi bệnh, may chưa xong. Có năm nhân duyên được gởi Tăng-già-lê: Khi mưa, khi nghi là có mưa, lội qua sông, ăn khi bệnh, may chưa xong.

Có một trú xứ, Tăng muốn chia y, có Tỳ-kheo khách đến, các Tỳkheo vì nhận được ít y nên muốn chia, bạch Phật. Phật dạy: Cho đến chỉ nhận được trị giá bằng một sợi dây lưng cũng nên chia, nếu ít không đủ chia, nên bạch nhị Yết-ma, cho một Tỳ-kheo không có y. Một Tỳ-kheo xướng: Đại đức Tăng xin lắng nghe, Tăng này nhận được y, hoặc phi y, nay đều đem cho Tỳ-kheo… nếu thời gian thích hợp đối với Tăng, Tăng chấp thuận. Đây là lời tác bạch.

Đại đức Tăng xin lắng nghe, Tăng này nhận được y, hoặc phi y… cho đến câu: Nếu vị nào không đồng ý xin nói.

Tăng đã đồng ý cho Tỳ-kheo… y rồi. Tăng đồng ý nên im lặng.

Việc như vậy, thọ trì như vậy.

Đoạn 6: NÓI VỀ PHÁP GIÀY DÉP DA

Đức Phật ở tại thành Xá-vệ. Bấy giờ, Tôn giả Ma ha Ca-chiêndiên ở nơi nước A-thấp-ba-a vân đầu, trụ trong núi ba-lâu-đa. Nơi nước đó có ông Trưởng giả tên là Sa-môn Ức-nhĩ, tin ưa Phật pháp, thường cúng dường cho các Tỳ-kheo, thấy pháp đắc quả, thọ ba quy, năm giới, thường vào Tăng phường để nghe pháp. Lúc này, Sa-môn Ức-nhĩ ở chỗ vắng tự nghĩ: Như Đức Phật dạy: Tại gia nhiễm vướng, không thể rộng tu phạm hạnh, xuất gia không vướng mắc cũng như hư không! Nay ta sao không ở trong pháp vô vi, cạo bỏ râu tóc, xuất gia học đạo. Nghĩ rồi, sáng sớm đến chỗ Tôn giả Ca-chiên-diên, đầu mặt kính lễ sát chân, trình bày đầy đủ ý nghĩ, muốn cầu xuất gia, thọ giới Cụ túc. Tôn giả Ca-chiên-diên nói: Tại gia nhiễm vướng, đúng như lời ông vừa nói, chỉ có xuất gia mới đủ điều kiện tịnh tu phạm hạnh, một mình ngồi bên gốc cây, ngày ăn một bữa. Nhưng, ông vốn giàu sang thì đây là một điều rất khó. Ức-nhĩ nghe rồi, bèn trở về nhà mình. Ba lần như vậy, thấy rõ ý nuốn của đương sự, bèn cho xuất gia. Tại nước ấy, không đủ chúng mười người, nên phải làm Sa-di đến sáu năm. Tôn giả Ca-chiên-diên bèn dùng thần lực tập hợp chúng mười người ở nước khác, để trao giới cụ túc. Ức-nhĩ thọ giới rồi bèn nghĩ: Ta nghe Đức Như Lai là bậc Ứng Cúng Đẳng Chánh Giác mà chưa được phụng kiến, nay ta nên đến để thăm hỏi Đức Thế Tôn. Nghĩ rồi, đến chỗ Tôn giả Ca-chiên-diên, đầu mặt kính lễ sát chân, xin phép tới hầu Phật. Tôn giả Ca-chiên-diên nói: Tốt lắm! Tôi tùy theo sự hoan hỷ của ông, ông nên đi liền. Ông có thể nhân danh tôi thăm hỏi Đức Thế Tôn và thưa xin Đức Phật năm điều:

1. Nước A-thấp-ba-a-vân-đầu không có đủ chúng mười vị, nên Ức-nhĩ phải làm Sa-di đến sáu năm, không được thọ giới cụ túc, Tôn giả Ca-chiên-diên dùng sức thần thông tập trung Tăng các nước khác, vậy sau mới được thọ. Cúi xin Đức Thế Tôn cho phép nước này, không đủ chúng mười vị, được thọ giới cụ túc.

2. Nước này có nhiều sỏi đá chông gai, xin Thế Tôn cho phép Tỳkheo nước này được mang giày guốc hai lớp gót.

3. Nước này đều dùng da lót trên đất làm tọa, ngọa cụ, xin Thế Tôn cho phép Tỳ-kheo nước này dùng da lót trên đất.

4. Người nước này ngày nào cũng tắm rửa, xin Thế Tôn cho phép Tỳ-kheo ở nước này hằng ngày tắm rửa.

5. Có Tỳ-kheo gởi y cho Tỳ-kheo ở phương khác, y chưa đến, có Tỳ-kheo nói cho Tỳ-kheo, Tỳ-kheo sinh nghi sợ phạm chứa y dư, xin Thế Tôn vì Tỳ-kheo này trừ nghi.

Ức-nhĩ vâng lời thầy dạy ra đi. Khi đến chỗ Đức Phật, cúi đầu đảnh lễ sát chân Phật, tuyên lời thăm hỏi của Hòa thượng bổn sư lên Đức Thế Tôn. Đức Phật bảo Tôn giả A-nan: Trải ngọa cụ cho Tỳ-kheo khách nghỉ. Tôn giả A-nan nghĩ: Đức Phật muốn cho Tỳ-kheo này cùng nghỉ, nên khiến ta trải ngọa cụ, do đó liền trải ngay nơi phòng của Phật. Đức Phật và Ức-nhĩ cùng nghỉ một phòng. Đầu đêm, giữa đêm im lặng không nói chuyện, cho đến cuối đêm, Đức Phật khởi ý nghĩ: Đây là con nhà tộc tánh, oai nghi điều phục, nên khiến nói pháp, Đức Phật bèn bảo: Thầy có thể nói pháp! Ức-nhĩ vâng lời, liền nói mười sáu nghĩa phẩm kinh, nói rồi đứng im lặng. Đức Phật dạy: Lành thay! Người trong nước thầy đều nói được như vậy chăng? Ức-nhĩ thưa: Có người hơn con! Đức Phật lại hỏi: Tại sao thầy ở lâu nơi nước đó mà không đến gặp Ta? Ức-nhĩ thưa: Con biết điều lỗi đó, vì có nhân duyên nên không đến sớm được. Nhân đó Đức Thế Tôn nói kệ:

Thấy lỗi lầm của đời
Tự thân nương pháp hành
Kẻ hiền không ưa ác
Vì ác không thích thiện.

Khi ấy, Ức-nhĩ khởi ý nghĩ: Hòa thượng bảo ta xin Phật năm việc, nay chính là lúc, bèn bạch Phật. Sáng ngày, Đức Phật tập hợp Tỳ-kheo Tăng bảo Ức-nhĩ: Ông có thể nói lại năm điều mà Tôn giả Ca-chiêndiên xin. Ức-nhĩ liền nói lại. Đức Phật bằng mọi cách khen ngợi người thiểu dục, tri túc, khen giới, khen người trì giới, rồi bảo các Tỳ-kheo: Từ nay cho phép nơi nước A-thấp-ba-a-vân-đầu và tất cả biên địa, chỗ thiếu Tỳ-kheo, năm người trì luật, trao giới cụ túc, cũng cho phép những nơi có sỏi đá chông gai được mang guốc dép, hai lớp gót, cũng cho phép chỗ có các loại da, làm ngọa cụ bằng da, cũng cho phép chỗ cần tắm rửa, nếu Tỳ-kheo gởi y cho Tỳ-kheo chỗ khác, tuy Tỳ-kheo trước có nghe biết, y chưa vào tay, không phạm tội chứa y dư.

Bấy giờ, các Tỳ-kheo làm các loại guốc dép bằng nhiều kiểu, cách, lắm màu sắc, việc này được bạch Phật. Phật dạy: Không cho phép

làm guốc dép khác hình, khác màu sắc, vi phạm, phạm Đột-kiết-la.

Có Tỳ-kheo làm guốc dép bằng da ngựa, da voi, da người, bạch Phật. Phật dạy: Không cho phép. Nếu dùng da người thì phạm Thâulan-giá, nếu da ngựa, da voi phạm Đột-kiết-la.

Lúc này, Bạt-nan-đà thường tới lui một gia đình chăn bò, mặc y bưng bát đến nhà ấy. Nhà này có một con bò nghé sắc lông lang lỗ, Bạtnan-đà nhìn kỹ, sinh lòng ham thích, ước gì được da con nghé này làm phu cụ. Người chủ hỏi: Tại sao sư đăm đăm nhìn con nghé như thế? Bạtnan-đà nói: Con nghé này có sắc lông lang lỗ khả ái có thể làm phu cụ. Người chủ liền thưa: Đại đức thường lo liệu công việc cho nhà con, con đâu có tiếc gì con nghé mà không dâng cúng. Người chủ liền giết con nghé trước mặt mẹ nó để lấy da cúng. Bạt-nan-đà nhận được tấm da rồi đem về Tăng phường. Con bò mẹ theo sau rống kêu buồn não, các Tỳkheo buồn hỏi: Con bò này tại sao rống kêu buồn não đi theo thầy? Bạtnan-đà nói: Không biết. Các Tỳ-kheo lại hỏi: Con bò này theo thầy chớ không theo người khác, tại sao thầy không biết?! Khi ấy, Bạt-nan-đà mới đem sự thật nói ra. Các Tỳ-kheo liền quở trách rồi bạch Phật. Nhân việc này, Đức Phật tập hợp Tỳ-kheo Tăng, hỏi Bạt-nan-đà: Thật sự ông có như vậy không? Bạch Thế Tôn! Có thật như vậy. Đức Phật bằng mọi cách quở trách rồi, bảo các Tỳ-kheo: Từ nay không cho phép chứa tất cả các loại da. Sau đó, các Tỳ-kheo cần một miếng da nhỏ mà không dám dùng, bạch Phật. Phật dạy: Cho phép dùng một miếng da nhỏ.

Có các Tỳ-kheo từ ngoài trở về đạp trên ngọa cụ của Tăng, bùn nhơ bất tịnh, bạch Phật. Phật dạy: Cho phép mang guốc ra vào.

Có các Tỳ-kheo già bệnh, ở nơi chỗ có sự sợ sệt, cùng bạn đồng đi, đi chậm không kịp, các bạn nói: Đại đức đi mau, đừng để bị cướp đoạt. Vị ấy nói: Chúng tôi già bệnh không thể đi kịp. Các bạn nói: Đây có voi, ngựa, lừa, lạc đà, xe bò thầy có thể cỡi để đi. Các Tỳ-kheo không dám, bạch Phật. Phật dạy: Từ nay cho phép các Tỳ-kheo già bệnh được cuỡi ngựa, chỉ không được cưỡi súc sinh cái. Có các bạch y dùng kiệu bằng da cúng cho chư Tăng, các Tỳ-kheo không dám thọ, bạch Phật. Phật dạy: Cũng cho phép thọ, nhưng thay da bằng thứ vải khác. Có các bạch y dùng cái kiệu bằng da cúng riêng cho Thượng tọa, Thượng tọa không dám thọ, bạch Phật. Phật dạy: Cũng cho phép nhận riêng nhưng cũng thay da như trên. Các Tỳ-kheo Thượng tọa già bệnh, muốn đi kiệu vào xóm làng mà không dám, bạch Phật. Phật dạy: Cho phép. Quý vị không biết khiến ai khiêng, bạch Phật. Phật dạy: Nhờ tịnh nhân khiêng.

Có các Tỳ-kheo ở chỗ có sự sợ sệt, muốn qua sông mà không có đò, có người chăn bò, lùa bò qua sông nói có thể nắm đuôi bò để qua sông, các Tỳ-kheo không dám, bạch Phật. Phật dạy: Cho phép nắm.

Khi ấy, Lục quần Tỳ-kheo nắm đuôi của con bò cái để qua sông, lấy tay thọc vào mụt ghẻ của nó, bạch Phật. Phật dạy: Không được phép nắm đuôi súc sinh cái để qua sông. Có các Tỳ-kheo muốn qua sông, cũng không có súc sinh để có thể nắm, không biết làm thế nào, bạch Phật. Phật dạy: Cho phép buộc cỏ cây làm bè để qua. Từ nay cho phép các Tỳ-kheo sắm phao nổi, hoặc làm bằng da dê hay da bò. Tăng và Tăng bốn phương đều nên sắm.

Đức Phật ở thành Vương-xá. Bấy giờ, là Vua Bình-sa, hai nước Ma-kiệt và Ương Già có bốn mươi hai ngàn thôn làng. Các hào kiệt nơi đó, không người nào không tin Phật, Pháp, Tăng, chỉ trừ trong thành Chiêm-bà, có con ông Trưởng giả tên là Thủ-lâu-na, ông ta rất giàu, có Hai-mươi-ức tiền, người đương thời gọi ông là Thủ-lâu-na Hai-mươi-ức. Ông ta hưởng sự vui sướng ngay lúc chào đời, tay chân mềm mại, dưới chân mọc lông. Vua Bình-sa khởi ý nghĩ: Trong cương giới của ta chỉ có Hai-mươi-ức chưa tin Phật pháp. Ta nên làm thế nào khiến cho ông ta tin. Nếu ta đến nhà ông ấy, ông sẽ hoảng sợ, nếu kêu ông ta tới, chắc sẽ có sự nghi sợ. Ta nên thông tri cho sau mươi gia đình hào kiệt trong thành Chiêm-bà đến dự lễ hôn nhân của Vương tử. Nhân cuộc gặp gỡ này ta sẽ hướng dẫn ông đến với đạo pháp. Nhà Vua nghĩ xong liền cho thông tri. Khi ấy, thân tộc đều tâu với Vua: Hai-mươi-ức chưa từng bước xuống đất, dưới chân lông mọc như tóc trên đầu không thể tuân lệnh đến được, xin nhà Vua đặc biệt miễn trừ cho một người này. Nhà Vua nói: Có thể cỡi voi, ngựa, xe, kiệu. Thân tộc tâu: Thân thể ông ta rất mềm cũng không thể đi bằng các phương tiện đó được. Nay Vương tử làm lễ thành hôn cần sự hiện diện, cho phép thân tộc của ông tận dụng mọi phương tiện đưa ông ấy đến. Thân tộc cùng nhau nghị bàn: Chỉ còn có cách là đào con kênh thông thuyền đưa ông ta đi ngày vài dặm mới khỏi nhọc mệt, để cung kính phụng mệnh nhà Vua. Họ bèn dùng kế hoạch này đưa Hai-mươi-ức đến thành Vương-xá. Thân tộc tâu: Haimươi-ức vừa đến nơi, nguyện xin được như nếp sống ở nhà. Nhà Vua nói: Nếp sống ở nhà như thế nào? Tâu đức Vua: Dùng vải trải trên đất rồi đi lên đó. Nhà Vua nói: Được. Nhà Vua liền ra lệnh. Lại trải vải mịn trên tòa, khiến ông ta ngồi trên đó. Nhà Vua hỏi: Dưới chân ông thật có mọc lông hay không? Tâu Đại vương, thật có. Vua nói: Ta muốn xem. Hai-mươi-ức tâu: Xin sai người tin cậy để xem. Nhà Vua nói: Ta muốn thấy tận mắt. Hai-mươi-ức tâu: Xin phép Vua cho được duỗi chân ra. Nhà Vua nói: Được. Hai-mươi-ức liền duỗi chân ra, chỉ cho nhà Vua. Đúng như lời đồn, ánh sáng của lông tỏa ra, làm cho mắt nhà Vua không thể nhìn kỹ được. Vua sinh lòng hy hữu, nghĩ: Nước ta đại phước đức mới sinh được con người phước đức này. Vua nhìn hai bên, trước Vua có ba đại Cư sĩ, bây giờ có cả Hai-mươi-ức là bốn. Nhà Vua hỏi: Mỗi người có bao nhiêu của được gọi là Cư sĩ? Người thứ nhất nói: Số tiền của tôi có là mười ba ức. Người thứ hai nói: Tôi có mười bốn ức. Người thứ ba nói: Tôi có mười bốn ức và lại một ngọc Ma-ni vô giá. Hai-mươi-ức nói: Tôi có Hai-mươi-ức, lại có năm trăm ngọc Ma-ni, một ma-ni bảo sàng. Nhà Vua hỏi Hai-mươi-ức: Do đâu ông có của ấy? Haimươi-ức tâu: Của ấy không phải cha mẹ để lại, cũng không phải do kinh doanh mà có, tôi ngủ trên lầu cao, khi thức dậy bèn thấy của ấy trước mặt tôi. Nhà Vua nghe câu nói này rất đỗi ngạc nhiên, khó hiểu, nghĩ: Phước đức của người này chỉ có Đức Phật mới biết, ngoài ra không ai hiểu nổi. Nhà Vua liền nghiêm giá đến chỗ Phật, rồi đầu mặt kính lễ sát chân, bạch Phật: Bạch Thế Tôn! Hai-mươi-ức có năm trăm ngọc Ma-ni, một Ma-ni bảo sàng, từ đâu mà có? Đức Phật dạy: Người này trước kia ở nơi cung trời Đâu suất, có năm trăm thiên nữ, cùng nhau rất ái kính. Sau đó, người ấy sinh tới đây, thiên nữ đều nghĩ: Thiên tử của chúng ta nay sinh nơi nào? Họ dùng thiên nhãn xem, thấy sinh nơi đây, mỗi người mang một ngọc ma-ni và cái bảo sàng trước kia nằm biến hóa khiến cho tương xứng với thân hiện nay, đem để trước mặt rồi đi. Vua nghe Phật dạy rồi kính lễ cáo lui. Trở về thành Chiêm-bà, tập hợp sáu mươi hào kiệt tuyên bố: Nay ta phong cho Hai-mươi-ức là bậc Cư sĩ tối đại ở trong thành kia, các ngươi phải tôn kính. Nhà Vua lại nói với Haimươi-ức và sáu mươi người: Ta là Vua của các người, dùng pháp trị hóa, đã cùng các người làm việc lợi ích cho hiện thế, nay có Đức Phật Thế tôn ở tại núi Kỳ-xà-quật, chúng ta đều có thể đến đó để cầu điều lợi cho hậu thế. Mọi người đều vâng lệnh đến đó. Khi ấy, Trưởng lão Ta-kiệtđà ở trong núi, kinh hành trên bàn thạch, các Cư sĩ đến chỗ ấy thưa: Đại đức vì chúng con, bạch Phật: Hai-mươi-ức và sáu mươi Cư sĩ ở thành Chiêm-bà muốn đến thăm hỏi Đức Thế Tôn. Ta-kiệt-đà ở trên bàn thạch, trước mặt các Cư sĩ mất tăm dạng rồi xuất hiện trước Đức Phật, trình bày đầy đủ vấn đề lên Đức Phật. Phật dạy: Thầy có thể về trước trên bàn thạch, trải tòa ngồi, Ta sẽ đến sau. Vâng lời dạy, trước Đức Phật, Ta-kiệt-đà chìm khuất dạng rồi xuất hiện nơi bàn thạch, trước mặt chúng Cư sĩ, vì Đức Phật trải tòa ngồi. Đức Phật với oai nghi thường có đi bộ đến sau. Các Cư sĩ nghĩ: Tỳ-kheo này có Đại thần lực, vắng mặt và xuất hiện nơi bàn thạch cũng như vào trong nước. Khi Đức Thế Tôn ung dung xuất hiện họ vô cùng cung kính. Đức Thế Tôn đến rồi, an tọa nơi tòa. Thường pháp của chư Phật, trước hết khiến cho người khởi tâm hoan hỷ rồi sau mới nói pháp, Đức Phật nói với Ta-kiệt-đà: Ông đứng dậy quạt Phật. Vâng lời dạy, Ta-kiệt-đà đứng dậy quạt trong giây lát, hiện các thứ thần biến như Ưu-vi-ca-diếp, rồi trở lại trước Phật, cúi đầu đảnh lễ sát chân, bạch Phật: Đức Phật là Đại sư của con, con là đệ tử của Phật. Thưa như vậy Ba lần, rồi ngồi lại chỗ cũ. Khi ấy các Cư sĩ khởi ý nghĩ: Đệ tử mà thần lực như thế huống gì là bậc Như Lai Ứng Cúng Đẳng Chánh Giác. Họ bèn hướng về chăm chú chiêm ngưỡng Phật. Đức Phật vì họ nói các pháp diệu chỉ bày sự lợi ích để họ hoan hỷ… cho đến câu: Khổ, tập, tận, đạo. Họ đều từ nơi chỗ ngồi được mắt pháp trong sạch, thọ ba quy y, năm giới. Hai-mươi-ức từ chỗ ngồi đứng dậy, đi chân không đến chỗ Đức Phật, cúi đầu tác lễ, Đức Phật bèn mỉm cười. Ta-kiệt-đà khởi ý niệm: Do nhân duyên gì mà Đức Phật cười. Nghĩ rồi, liền từ chỗ ngồi đứng dậy, để trống vai bên phải, quỳ gối bạch Phật: Do nhân duyên gì mà nay Đức Phật mỉm cười? Đức Phật nói với Ta-kiệt-đà: Hai-mươi-ức này, chín mươi mốt kiếp vừa qua, nay mới bước chân xuống đất. Ta-kiệt-đà liền hỏi: Hai-mươi-ức, do nhân duyên gì mà chín mươi mốt kiếp chân không bước xuống đất? Đức Phật dạy: Thuở đời quá khứ, khi ấy có Đức Phật Thế tôn xuất hiện nơi đời, tên là Tỳ-bà-thi, phụ vương cai trị nơi thành dài mười hai do-tuần, rộng bảy do-tuần, dân chúng đông đúc an ổn phong phú, vui vẻ. Đức Phật Tỳ-bàthi cùng Đại Tỳ-kheo Tăng .000 người đầy đủ, đều là bậc A-la-hán, trụ ở nơi đó. Nhà Vua ấy hằng ngày thỉnh Phật và Tăng thọ trai trong cung. Lúc này, trong đại chúng có một người tên là Tu-tỳ-xa cùng mọi người đến chỗ nhà Vua, tâu: Nay Vua làm các công đức, nguyện xin cho phép chúng tôi cùng được dự vào. Nhà Vua nói: Nay Phật và chúng Tăng gồm có .000 người, sợ các người không chuẩn bị được, có khi lại làm phiền cho Tăng. Họ lại tâu với Vua: Chúng tôi tự kham nổi, xin nhà Vua cho phép. Nhà Vua nói: Tốt lắm! Nhà Vua còn sợ họ không chuẩn bị kịp nên ra lệnh cứ làm thức ăn như thường lệ, nếu họ không chu toàn sẽ dùng vào thức ăn đó. Do chỗ họ thiết cúng hơn thức ăn của nhà Vua nhiều ngày như vậy, cho nên thức ăn do nhà Vua cho làm cuối cùng không thiết trai được. Tu-tỳ-xa tuần tự thiết cúng, sai người đào đường, dùng đất mềm mại trải lên trên, lấy bùn thơm trét, hai bên dựng tám mươi cây trụ quý báu, dùng châu Ma-ni tạp sắc gắn trên đầu trụ, treo phướn đủ màu, trương màn tạp sắc, phủ khắp trên lộ trình, trên đường đi để các loại nước uống, trong nhà trang bị .000 chỗ ngồi, mỗi Tỳ-kheo ngồi một chỗ, dùng năm trăm cái chảo nấu canh để cúng dường. Dâng cúng cho mỗi Tỳ-kheo hai trương vải kíp bối, một đôi giày da. Lại vì Tăng bốn phương làm một cái phòng, dưới đất trải ngọa cụ đều bằng thứ diệu hảo. Tu-tỳ-xa thời ấy, nay là Hai-mươi-ức. Từ đó về sau thọ phước ngang bằng với loài người trên cõi trời không có sai khác. Nếu nay không thấy Ta, thì Hai-mươi-ức chân vẫn chưa đạp đất.

Bấy giờ, Hai-mươi-ức quỳ gối bạch Phật: Cho phép con xuất gia thọ giới Cụ túc. Đức Phật hỏi: Cha mẹ người đã cho phép chưa? Bach, chưa. Cha mẹ không cho phép không được xuất gia. Hai-mươi-ức thưa: Con sẽ trở về nhà xin phép cha mẹ. Phật dạy: Tốt lắm, nay chính là đúng lúc. Khi ấy, Hai-mươi-ức kính lễ sát chân Phật, nhiễu quanh bên phải, rồi trở về thành Chiêm-bà, thưa với cha mẹ: Nay con muốn xuất gia học đạo. Bà mẹ nói: Thôi! Thôi! Chuyện gì phải xuất gia! Cha mẹ chỉ có một mình con, dù chết, cha mẹ còn không muốn cách xa nhau, làm sao còn sống mà xa lìa? Nay nhà ta của cải, châu báu, tôi tớ, ruộng nhà nhiều vô số, con tùy ý làm việc phước, thọ vui năm dục, Hai-mươiức thành khẩn cầu xin Ba lần, mới được cha mẹ đồng ý, liền đến trước mẹ, kính lễ sát chân, đi quanh bên phải ba vòng, rồi trở lại chỗ Đức Phật, đầu mặt kính lễ sát chân, quỳ gối bạch: Mẹ của con đã cho phép, xin Phật cho con được xuất gia thọ giới cụ túc. Đức Phật dạy: Tỳ-kheo đến đây! Xuất gia thọ giới Cụ túc, rộng tu phạm hạnh, Ta sẽ nói pháp để dứt hết gốc khổ. Khi Phật nói lời như vậy, Hai-mươi-ức râu tóc tự rụng, Tăng-già-lê mặc vào người, bình bát bưng nơi tay. Xuất gia không bao lâu, ở nơi rừng Thi-đà tinh tấn kinh hành, chân bị thương tổn, máu chảy, chim chóc đi theo để ăn, Hai-mươi-ức khởi ý niệm: Trong hàng đệ tử của Phật, về tinh tấn không ai hơn ta, mà nay chưa hết được các gốc khổ, gia đình của ta may mắn có nhiều của cải, ta có thể hoàn tục, vui thích làm các công đức. Đức Phật biết ý niệm đó, từ núi Kỳ-xà-quật đi xuống, thấy chim chóc đang mổ máu ăn, hỏi Tôn giả A-nan: Vì sao có máu nơi đây, chim chóc tranh nhau ăn thế này? Tôn giả A-nan thưa: Hai-mươi-ức kinh hành nơi đây, chân bị thương máu chảy nên chim tranh nhau ăn. Đức Thế Tôn liền đến chỗ đó, hỏi Hai-mươi-ức: Thật sự ông có nghĩ như vậy không? Đáp: Bạch Đức Thế Tôn, sự thật con có nghĩ như vậy. Đức Phật lại hỏi: Nay Ta hỏi ông, tùy ý ông trả lời: Khi ông còn ở tại gia, khéo sử dụng cây đờn cầm phải không? Đáp: Bạch

Thế tôn, phải. Hỏi: Khi dây của đờn quá thẳng tiếng đờn có hay không?

Đáp: Bạch Thế tôn, không. Hỏi: Khi dây đờn không thẳng tiếng có tốt không? Đáp: Không tốt. Hỏi: Vậy dây đờn phải như thế nào tiếng đờn mới tốt? Đáp: Bạch Thế Tôn! Không căng quá, không dùn quá tiếng đàn mới tốt. Đức Phật dạy: Ở trong giáo pháp của Ta cũng như vậy, gấp quá hoãn quá đâu đắc đạo được, tinh tấn với mức trung bình, không bao lâu sẽ hết gốc khổ. Hai-mươi-ức nghe Phật nói rồi, liền nơi chỗ kinh hành dứt hết các lậu hoặc. Do dưới bàn chân của Hai-mươi-ức bị thương tích, Đức Phật bảo các Tỳ-kheo: Nay cho phép Hai-mươi-ức mang dép da dày một lớp. Hai-mươi-ức bạch Phật: Bạch Đức Thế Tôn! Con bỏ Hai-mươi-ức tiền, năm trăm bảo châu ma-ni, một cái giường ma-ni bảo, hai mươi phu nhân, vô lượng thể nữ, bấy giờ mang dép da một lớp, người ta sẽ chê bai con: bỏ của cải như vậy, mà còn ham thọ nhận mang dép da một lớp. Nếu Đức Thế Tôn cho phép tất cả Tỳ-kheo đều mang thì con sẽ mang. Đức Phật bèn khen ngợi người thiểu dục, tri túc, khen giới, khen người trì giới, rồi bảo các Tỳ-kheo: Từ nay cho phép các Tỳkheo mang dép da một lớp.

Có các Tỳ-kheo mang dép da hai lớp, bạch Phật. Phật dạy: Không cho phép, ai vi phạm, phạm Đột-kiết-la.

Lúc ấy, Lục quần Tỳ-kheo mang dép da đi kinh hành trước hay sau Hòa thượng, A-xà-lê, có các Tỳ-kheo khác cũng bắt chước làm như vậy. Các Tỳ-kheo bạch Phật. Phật dạy: Không nên mang dép da trước Hòa thượng, A-xà-lê, vi phạm, phạm Đột-kiết-la. Nếu có nhân duyên thì ở trước Hòa thượng, A-xà-lê mang dép da, không phạm. Nếu đất có chông gai, hoặc đất có cỏ nhọn, hoặc đất có đá sỏi, hoặc khi bệnh hay lúc trời tối thì mang cũng không phạm. Khi đó, các Tỳ-kheo mang guốc bằng vàng, bạc, ngà voi, đá, các Cư sĩ thấy, chê trách nói: Các Tỳ-kheo này như Đại thần của nhà Vua, thường nói ít ham muốn, biết vừa đủ, mà nay phung phí vô độ, thật không có hạnh Sa-môn, phá pháp Sa-môn. Các Tỳ-kheo Trưởng lão nghe, bằng mọi cách quở trách, rồi bạch Phật. Đức Phật nhân việc này tập hợp Tỳ-kheo Tăng, bảo các Tỳkheo: Từ nay không cho phép mang guốc dép như vậy, vi phạm, phạm Đột-kiết-la.

Đức Phật ở tại Tỳ-xá-ly. Có một trú xứ ẩm thấp, mang dép da bị ẩm ướt sinh trùng hư mục, các Tỳ-kheo bạch Phật. Phật dạy: Cho phép các Tỳ-kheo mang dép bằng cỏ Bà-bà, cỏ Thi-la, cỏ Văn-nhu, cỏ Lưu- thi… Các Tỳ-kheo mang lội qua nước sau đó chân bị thấm nước, bạch Phật. Phật dạy: Cho phép dùng da sống lót dưới đáy. Có các Tỳ-kheo mang guốc gỗ, giày gỗ đi trong Tăng phường có tiếng khua làm ồn các Tỳ-kheo tọa thiền. Lại có một Tỳ-kheo mang guốc gỗ đi tiểu ban đêm đạp rắn chết, bạch Phật, Đức Phật nhân việc này tập hợp Tỳ-kheo Tăng, bảo các Tỳ-kheo: Từ nay không cho phép mang guốc gỗ, giày gỗ, vi phạm, phạm Đột-kiết-la, cho phép ba chỗ được mang guốc vì không phải thường đi lại: chỗ đại tiện, chỗ tiểu tiện, chỗ rửa chân.

Có các Tỳ-kheo mang dép da độn Đâu-la, bạch Phật. Phật dạy: Không nên như vậy, vi phạm, phạm Đột-kiết-la.

Có các Tỳ-kheo bị lở ngón chân do mũi nhọn của dép da, bạch Phật, Phật cho phép dùng vật mềm độn nơi mũi nhọn. Có các Tỳ-kheo gót chân bị nứt ra, bạch Phật. Phật dạy: Cho phép dùng mỡ gấu thoa, lấy da gấu bao lại.

Khi ấy, Tất-lăng-già-bà-ta thường chánh niệm vào việc đi, không hay biết đến ngón chân bị thương, Đức Phật thấy vậy, bảo các Tỳkheo: Từ nay cho phép các Tỳ-kheo mang Phú-la. Các Tỳ-kheo làm Phú la sâu quá, các Cư sĩ chê trách nói: Tỳ-kheo này mang giày Phú-la như giày ủng của chúng ta, bạch Phật. Phật dạy: Không nên làm giày ủng sâu quá, cho phép làm đến trên mắt cá. Có các Tỳ-kheo làm như giày ủng, các Cư sĩ chê trách như trên, bạch Phật. Phật dạy: Nên hở phía trước. Có các Tỳ-kheo mang giày có vẽ hình, bạch Phật. Phật dạy: Không nên mang như vậy, vi phạm, phạm Đột-kiết-la, nếu nhận được, cho phép làm cho hoại sắc để mang.

Bấy giờ, Tôn giả Ly-bà-đa ở nước Đà-bà du hành trong nhân gian, gặp lúc tuyết lạnh thành băng, chân bị thương tích. Khi đến Kỳ-hoàn, đầu mặt kính lễ sát chân Phật, rồi ngồi lui qua một bên. Đức Phật hỏi: Tại sao chân như vậy? Ly-bà-đa trình bày sự việc rõ ràng. Đức Phật hỏi: Người nơi nước đó họ có mang thứ gì không? Ly-bà-đa thưa: Người nơi đó mang Phú-la, mang dép da. Đức Phật bằng mọi cách khen ngợi hạnh ít muốn, biết đủ, khen giới, khen người trì giới rồi, bảo các Tỳ-kheo: Từ nay cho phép nơi quốc độ có tuyết lạnh được mang Phú-la, mang dép da, hoặc giả nơi nước họ có mang thứ gì cũng cho phép mang.

Có các Tỳ-kheo đi trong tuyết lạnh chân bị hư hoại vì tuyết đóng, bạch Phật. Phật dạy: Cho phép dùng muối sữa, mỡ gấu thoa, dùng da gấu làm ủng. Có các Tỳ-kheo đi trên lộ trình không biết dùng cái gì để đựng lương thực, bạch Phật. Phật dạy: Cho phép dùng da cừu, da bò, da nai và Kíp bối để làm cái đãy. Có các Tỳ-kheo dùng da đựng thức ăn bị dơ nhớp, bạch Phật. Phật dạy: Nên rửa cho sạch. Các Tỳ-kheo bèn giặt cái đãy da, hong phơi bị hư hoại, trùng sinh, bạch Phật. Phật dạy: Không nên giặt cái đãy da, nên lật ngược nó và lau, nếu sạch thì tốt, bằng không thì không nên dùng. Có các Tỳ-kheo trú xứ ở A-lan-nhã chứa phu cụ bằng da, các thú dữ nghe mùi, đến sát hại các Tỳ-kheo, các Tỳ-kheo bạch Phật. Phật dạy: Ở chỗ A-lan-nhã không nên dùng phu cụ bằng da, nên đem cho các trú xứ ở xóm làng, dùng lót nơi cấp đi. Có các Tỳ-kheo đi sau Phật, chân bị gai chích không thể đi được, các Cư sĩ thấy nói: Thưa Đại đức! Đức Phật đi đã xa rồi, sao không đi nhanh cho kịp? Đáp: Tôi bị đạp gai không thể đi được. Các Cư sĩ thấy nói: Có thể mang giày được không? Tỳ-kheo không dám mang, đi đến trước bạch Phật. Phật dạy: Cho phép mang.

Có Tỳ-kheo ở nơi gò mả được dép da, không dám lấy, bạch Phật. Phật dạy: Cho phép lấy. Có Tỳ-kheo đuợc loại dép da đủ loại, đủ màu sắc, không dám lấy, bạch Phật. Phật dạy: Trừ da người, da ngựa, da voi, ngoài ra cho phép lấy, làm cho nó hư hoại màu sắc cũ, nếu màu sắc cũ không thể làm hư hoại thì nên mang trong Tăng phường, đừng nên mang ra ngoài. Có các Tỳ-kheo nhận được dép da mới không dám thọ, bạch Phật. Phật dạy: Cho phép thọ, bảo tịnh nhân mang đi bảy bước rồi mang. Có các Tỳ-kheo đối với dép da, giày Phú la bị rách không biết bảo ai vá, bạch Phật. Phật dạy: Nên nhờ người vá, nếu không nhờ được thì Tỳ-kheo có thể tự vá, cũng cho phép sắm cái dùi lớn, dùi nhỏ, dao lớn, dao nhỏ dây cước để vá da. Có các Tỳ-kheo vì Tỳ-kheo phá kiến vá dép da và các vật khác cho họ, bạch Phật. Phật dạy: Không nên vì hạng người như vậy mà làm, nên vì người biết xấu hổ muốn học giới mà làm. Các Tỳ-kheo không biết dùng cái gì để đựng dụng cụ bằng da, bạch Phật. Phật dạy: Nên dùng cái đãy bằng da để đựng.