LUẬT DI SA TẮC BỘ HÒA HÊ NGŨ PHẦN

Hán dịch: Đời Lưu Tống, Tam tạng Phật Đà Thập người nước Kế Tân, cùng Trúc Đạo Sinh
Việt dịch: Linh Sơn Pháp Bảo Đại Tạng Kinh

 

QUYỂN 2

 

Phần 1: GIỚI PHÁP CỦA TỲ KHEO

Đoạn 1: NÓI VỀ BỐN PHÁP BA LA DI (Tiếp Theo)

Đức Phật ở tại Tỳ-xá-ly. Bấy giờ, Đức Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo tu pháp quán bất tịnh thì được quả lớn về lợi lạc. Kể từ ấy, các Tỳ-kheo đều tu tập pháp ấy càng nhàm chán, xấu hổ, gớm ghiếc thân này chẳng khác nào một thiếu niên đang hồn nhiên trong trắng, thân thể tắm rửa thơm phức, mặc áo mới tinh, bỗng đâu có ba xác chết trẻ mới sinh đem quấn vào cổ, máu mủ chảy nhớp cả thân, dòi bò nhung nhúc khắp người thiếu niên kia. Cậu ta đau khổ quá sức không thể nào tưởng tượng nổi và rồi với ý nghĩ còn lại là làm thế nào để thoát khỏi thân khổ nạn ấy. Các Tỳ-kheo nhàm chán, ghét bỏ thân này cũng giống như vậy. Trong số những Tỳ-kheo ấy, hoặc có vị tự sát, hoặc lần lượt từng mạng giết hại nhau, hoặc thắt cổ, hoặc uống thuốc độc. Có một Tỳ-kheo nhàm chán thân này rồi, bèn đến chỗ người Chiên-đà-la-di-lân nói: “Hãy vì tôi, ông đoạn mạng này đi, y bát ấy tôi cho ông”. Ngay lúc đó, Chiênđà-la vì y bát nên đã dùng dao chặt phứt mạng sống của Tỳ-kheo ấy. Chiếc dao đẫm máu, người Di-lân đem đến sông Bà-cầu-mạt để tẩy rửa, bỗng lòng đầy hối hận, liền gợi lên ý nghĩ: “Nay ta làm điều bất thiện, tại sao chỉ vì chút lợi nhỏ mà sát hại tính mạng của vị Sa-môn trì giới, tội này trời đất không dung tha”. Lúc ấy, Thiên ma cõi Tự Tại biết được tâm niệm đó, nhanh như cái duỗi tay của một tráng sĩ, Thiên ma từ dưới nước vọt lên, đứng trên mặt nước, sừng sững trước Di-lân với lời khen ngợi: “Lành thay! Ông đã được điều lợi lớn, do đoạn mạng vị Samôn trì giới, độ người chưa được độ, phước đức vô lượng, thiên thần ghi nhận điều đó, nên ta đến tin cho ông biết”. Thật đúng lúc, Chiên-đà-la liền sinh tà kiến ác độc, lòng rất vui mừng nói: “Nay ta sẽ lại độ người chưa độ”. Người Chiên-đà-la ấy biết rõ được tướng trạng thân nào đã nhàm chán, thân nào chưa nhàm chán. Nếu Tỳ-kheo phàm phu chưa lìa dục, khi đưa dao đến, thân họ sợ sệt, đó là người chưa nhàm chán thân, ta giết người này được phước quá ít, nay ta nên tìm những vị đã đắc đạo quả, người không có sự sợ sệt. Với ý nghĩ như thế, tay cấm trường đao, ông ta đi từ phòng này sang phòng kia, từ chỗ kinh hành này đến chỗ kinh hành khác, cao giọng lớn tiếng rao: “Ai muốn diệt độ, tôi sẽ độ cho”. Lúc đó, các Tỳ-kheo nhàm chán, ê chề về thân xác đều sẵn sàng tìm đến để nhờ đoạn mạng. Có ngày ông ta giết mười vị, hai mươi vị, cho đến sáu mươi vị. Do nhân duyên như vậy nên số lượng Tăng càng giảm, nhất là các Đại đức Thanh văn đều tuần tự vắng bóng.

Bấy giờ, Đức Thế Tôn ra khỏi Tam-muội, đứng dậy, đến ngồi trên chỗ đất trống, đại chúng vây quanh. Đức Phật quan sát Tăng chúng, rồi hỏi Tôn giả A-nan:

– Hôm nay sao Tăng chúng lại giảm sút như vậy?

Tôn giả A-nan bạch Phật:

– Có một thuở, Đức Thế Tôn vì các Tỳ-kheo nói phép quán bất tịnh, các Tỳ-kheo tu tập, nhàm chán ghét bỏ thân xác khổ đau này nên đã lần lượt cùng nhau tìm cái chết tai hại. Thậm chí chỉ nội trong một ngày mà Di Lân nhẫn tâm sát hại đến sáu mươi vị phạm hạnh. Vì vậy, hôm nay số lượng Tăng giảm nhiều như thế. Lành thay, Đức Thế Tôn! Cúi xin Ngài chỉ cho con đường pháp thiện khác, khiến các Tỳ-kheo sống vững trong an lạc.

Đức Phật bảo Tôn giả A-nan:

– Nay ông thông báo cho các Tỳ-kheo y chỉ nơi Tỳ-xá-ly này về hội hợp tại giảng đường.

Tôn giả làm theo lời dạy, lệnh gọi các Tỳ-kheo về hội. Sau khi tập hợp xong, Tôn giả đến bạch Phật:

– Đã đông đủ, con xin cung thỉnh Thế Tôn.

Đức Thế Tôn liền từ chỗ ngồi đứng dậy, đến giảng đường ngồi uy nghi trên pháp tòa. Ngài hỏi các Tỳ-kheo:

– Thật có sự việc như trên không?

Các Tỳ-kheo thưa:

– Bạch Thế Tôn, có sự thật như vậy.

Đức Phật bằng mọi cách quở trách:

– Các ông là người ngu si, làm việc phi pháp, các ông há không nghe ta nói, để hộ niệm chúng sinh thì phải có lòng từ và sự kiên nhẫn, tại sao các ông không nhớ điều này.

Sau khi bằng nhiều cách quở trách, Đức Phật bảo các Tỳ-kheo:

– Nếu ai tự sát, phạm tội Thâu-lan-giá.

Đức Phật lại bảo:

– Từ nay về sau nên tu niệm An-ban, quán Lạc tịnh, quán Lạc hỷ. Quán như vậy rồi, nên điều ác sinh ra thì pháp bất thiện này có thể trừ diệt. Do mười điều lợi, Ta vì các Tỳ-kheo kiết giới, từ nay giới này được nói như sau: “Nếu Tỳ-kheo tự tay sát hại, giết chết mạng sống của chính mình, Tỳ-kheo này phạm tội Ba-la-di, không được sống chung”.

Lúc ấy, số đông Tỳ-kheo mắc trọng bệnh, có các Tỳ-kheo đến thăm hỏi:

– Bệnh tình của Đại đức có bớt không? Có đau đớn lắm không?

Tỳ-kheo bệnh nói:

– Bệnh chắc khó giảm, đau đớn khó chịu lắm.

Tỳ-kheo bệnh lại van xin các Tỳ-kheo:

– Cho tôi con dao hay sợi dây, cho tôi thuốc độc, cho tôi thức ăn làm cho bệnh tăng thêm, đem tôi đến chỗ bờ cao của sông.

Trước tình cảnh đó, các Tỳ-kheo thuận theo ý của bệnh nhân. Tỳ-kheo bệnh đã tự sử dụng một trong các phương tiện trên để đoạn mạng. Sau khi các Tỳ-kheo chứng kiến người bệnh chết, lòng đầy hối hận, thưa với Tôn giả A-nan. Tôn giả đến chỗ Đức Phật trình bày đầy đủ sự việc. Đức Phật dùng nhân duyên này tập hợp các Tỳ-kheo Tăng, hỏi các Tỳ-kheo:

– Thật sự có các việc như vậy không?

Các Tỳ-kheo thưa:

– Bạch Thế Tôn, sự thật có như vậy.

Đức Phật bằng mọi cách quở trách: Các thầy là người ngu si, tự đoạn mạng người và đưa dao khiến cho họ tự sát, khác nhau chỗ nào? Từ nay giới này được nói như sau: “Nếu Tỳ-kheo tự đoạn mạng người, cầm dao trao cho người, phạm tội Ba-la-di, không được sống chung”.

Lại có Tỳ-kheo mắc trọng bệnh, các Tỳ-kheo đến thăm hỏi (như trên)… bảo đưa dao, dây, thuốc độc cho tôi. Các Tỳ-kheo nói: “Đức Phật không cho chúng tôi đưa dụng cụ cho người tự sát, song chúng tôi có người thợ săn quen biết, sẽ vì thầy, kêu người ấy đến để đoạn mạng thầy”. Tỳ-kheo bệnh nói: “Hãy vì tôi gọi họ mau mau đi”. Tỳ-kheo kia hối hả đến nói với người thợ săn: “Này bạn! Có Tỳ-kheo bị bệnh nặng, không muốn sống, bạn đoạn mạng vị ấy sẽ được phước lớn”. Người thợ săn nói: “Nếu sát sinh được phước lớn, thì người làm lò sát sinh kia được phước lớn lắm hay sao?”. Các thầy Tỳ-kheo tự nghĩ: “Mình có lòng từ bi, nay lại bảo người giết, khác nhau chỗ nào? Khi ấy các Tỳ-kheo đều sinh tâm hối hận, đến nói với Tôn giả A-nan, Tôn giả cùng đưa đến chỗ Đức Phật và trình bày đầy đủ sự việc lên Ngài. Nhân việc này, Đức Phật tập hợp Tỳ-kheo Tăng, hỏi các Tỳ-kheo: Các thầy thật sự có như vậy hay không? Các Tỳ-kheo thưa: Bạch Thế Tôn, có thật như vậy. Đức Phật bằng mọi cách quở trách rồi nói với các Tỳ-kheo: Tự mình giết và dạy người giết có gì khác nhau?! Từ nay giới này được nói như vầy: “Nếu Tỳ-kheo tự mình giết, dạy người giết, phạm Ba-la-di không được sống chung”.

Lại có Tỳ-kheo mắc bệnh nặng, các Tỳ-kheo đến thăm hỏi như trên, rồi nói với Tỳ-kheo bệnh: Giới hạnh của thầy đầy đủ nên nhận lấy phước của cõi trời. Nếu thầy tự sát chắc được sinh thiên, chuyện gì phải nhận lấy cái khổ triền miên thế này?! Tỳ-kheo bệnh nói: Sự việc sẽ như vậy, tuy dù có sự khổ đấy nhưng không thể tự sát. Tại sao? Vì nếu tự sát thì không những phạm tội Thâu-lan-giá mà còn không thể rộng tu phạm hạnh. Vị ấy lại quở trách: Tự tay mình giết người, dạy người khác tự giết đâu có cái gì khác, đã là Tỳ-kheo các thầy làm theo nghiệp ác này chăng! Các Tỳ-kheo Trưởng lão nghe, bằng mọi cách quở trách, rồi cùng đưa các Tỳ-kheo đến chỗ Đức Phật, trình bày lên Ngài đầy đủ sự việc. Nhân việc này, Đức Phật tập hợp Tỳ-kheo Tăng hỏi các Tỳ-kheo: Thật sự các thầy có như vậy không? Các Tỳ-kheo thưa: Bạch Thế Tôn, có đúng như vậy. Đức Phật bằng mọi cách quở trách: Các thầy ngu si, tự tay giết người, dạy người khác tự giết có gì khác đâu. Từ nay giới này được nói như sau: “Nếu Tỳ-kheo tự tay giết người, dạy người khác tự giết, phạm Ba-la-di không được sống chung”.

Lại có Tỳ-kheo mắc bệnh nặng, các Tỳ-kheo đến thăm giống như trên, cũng nói với các Tỳ-kheo bệnh: Với phạm hạnh đã lập của mình, thầy chết chắc chắn nhận quả an vui của cõi trời, tại sao không tự sát để sinh thiên, lại cam chịu khổ triền miên vì bệnh như thế này? Tỳ-kheo bệnh nói: Dù cho có như vậy, tôi cũng không thể tự sát. Tại sao? Vì Đức Phật cấm tự sát, nếu tự sát phạm Thâu-lan-giá. Vả lại, khi được lành bệnh tôi sẽ tu phạm hạnh.

Vào thời gian ấy, ở nước nọ, lại có giặc giã, các cư sĩ bị nạn cốt nhục phân ly, đầy dẫy khổ não. Tỳ-kheo nói: Các người đã tu phước báo sinh thiên, tại sao không tự sát, lại cam sống trong nỗi khổ cốt nhục chia lìa, ưu não thế này? Họ trả lời: Chúng tôi tuy chịu nỗi khổ não, nhưng không thể tự sát. Tại sao? Vì ở đời có gặp khổ mới biết tu đạo nghiệp. Họ lại quở trách: Đạo của Sa-môn vì chúng sinh mà từ bi, nhẫn nhục, tại sao lại khen ngợi sự chết, thôi thúc người tự sát? Tự sát hay khen ngợi sự chết đâu có khác gì! Các Tỳ-kheo Trưởng lão nghe, bằng mọi cách quở trách, rồi đưa các Tỳ-kheo đến chỗ Đức Phật, trình bày đầy đủ sự việc lên Ngài. Nhân sự việc này Đức Phật tập hợp các Tỳ-kheo Tăng hỏi các Tỳ-kheo: Thật sự các thầy có như vậy không? Các Tỳkheo thưa: Bạch Thế Tôn, thật vậy. Đức Phật bằng mọi cách quở trách: Việc của các thầy làm là phi pháp, tự sát và khen ngợi sự chết đâu có gì khác.

Từ nay giới này được nói như sau: “Nếu Tỳ-kheo, hoặc người, hoặc tương tợ người, hoặc tự sát, hoặc đưa dao hay thuốc độc để giết, hoặc dạy người giết, hoặc dạy người tự sát, đề cao sự chết, khích lệ sự chết, nói: Ôi! Ông sống khổ quá, sống mà làm gì, chết sướng hơn sống, tùy theo tâm sát sinh khởi tâm như vậy, như vậy dưới mọi hình thức khác nhau của vấn đề, đã làm cho người kia chết vì nguyên nhân như thế, Tỳ-kheo này phạm tội Ba-la-di, không được sống chung”.

Từ khi vào thai mẹ cho đến bốn mươi chín ngày gọi là tương tợ người, sau bốn mươi chín ngày đến ra khỏi thai gọi là người. Tự tay mình cầm dao, gậy, thuốc độc… để giết gọi là đích thân giết. Người nào đó muốn tự sát, tìm phương tiện để sát, mình đưa cho họ dao, thuốc độc gọi là sự giết do mình trao cho. Sai khiến người khác, gọi là bảo người giết. Dạy người khác tự sát: tức là bảo người tự làm cho mình chết. Nói chết còn hơn sống gọi là đề cao, khen ngợi cái chết. Nhờ cậy quỷ thần giết theo ý mình gọi là tùy tâm sát, sinh khởi tâm sát.

Trường hợp phạm: Tự giết mình, sai khiến người giết, lần lượt sai, sai lại, chỉ bày lời lẽ, nói khi ngủ, hướng đến người ngủ nói, nói khi say, hướng đến người say nói, nói khi cuồng, hướng đến người cuồng nói, nói khi tâm loạn, hướng đến người tâm loạn nói, viết thư, ra dấu, nói bằng tay, nói tương tợ, một mình tưởng là một mình, không một mình tưởng là một mình, một mình tưởng là không một mình, nói giỡn, sắc, thanh, hương, vị, xúc, ưu ba đầu, ưu ba xà, ưu ba hại.

– Tự mình giết: Chính mình cầm dao gậy… giết, người kia chết, phạm Ba-la-di.

– Sai người: Sai khiến giết người kia, người kia chết, phạm Ba-la-di

– Lần lượt sai: Khiến ông A giết, ông A không giết được, rồi sai ông B giết, người kia chết, phạm Ba-la-di

– Sai lại: Người đầu tiên nhận, không giết được, về báo với Tỳkheo. Tỳ-kheo lại sai người khác giết, người kia chết, phạm Ba-la-di.

– Chỉ bày: Chỉ mặt trời, mặt trăng, tinh tú, nói với người kia: Phước của ông nên sinh đến đó, ông nên tự sát. Do thế họ chết, phạm Ba-ladi.

– Lời lẽ: Nói sống là tội lỗi, xấu xa, khen ngợi, tán thán sự chết. Do vậy người kia chết, phạm Ba-la-di.

– Nói khi ngủ: Tỳ-kheo trong khi ngủ, nói việc đã nghĩ trước: Công đức của ông đã thành, ông có thể tự sát. Người kia nghe rồi, đợi Tỳkheo thức dậy hỏi: Tại sao thầy nói lời ấy? Trong khi ngủ tôi muốn ông có được điều lợi ích như vậy nên nói thế. Nay ông thức cũng nên làm theo lời nói ấy. Ông có thể chết theo lời nói của tôi. Người kia do thế mà chết, Tỳ-kheo phạm Ba-la-di.

– Hướng đến người ngủ nói: Tức hướng đến người ngủ nói lên điều này: Công đức của ông đã thành, có thể dùng dao… tự sát. Quỷ thần khiến người ngủ nghe, liền thức dậy hỏi: Tại sao thầy nói lời ấy? Đáp: Khi ông ngủ, tôi muốn tạo lợi ích cho ông nên nói lời ấy, nay ông thức cũng nên làm theo lời nói đó. Ông có thể chết theo lời nói của tôi. Do thế người kia chết, Tỳ-kheo phạm Ba-la-di.

– Nói khi say: Khi say nói những điều trước đó đã nghĩ: Công đức của ông đã thành, nên dùng dao… tự sát. Người kia nghe rồi, đợi Tỳkheo tỉnh dậy hỏi: Tại sao thầy nói lời ấy? Đáp: Khi tôi say muốn cho ông có được lợi ích, nên nói lời ấy, nay tỉnh cũng nói như vậy. Ông có thể chết theo lời nói của tôi. Người kia nhân thế mà chết, Tỳ-kheo phạm Ba-la-di.

– Hướng tới người say nói, nói như thế này: Công đức của ông đã thành, ông có thể dùng dao… tự sát. Khi tỉnh say rồi hỏi: Tại sao thầy nói lời ấy? Đáp: Vì muốn tạo lợi ích cho ông. Khi ông say nói như vậy, nay ông tỉnh cũng nói như vậy, ông có thể theo lời nói của tôi mà chết, nhân đấy người kia chết, Tỳ-kheo phạm Ba-la-di.

– Nói khi cuồng, hướng về người cuồng nói, nói khi tâm loạn, hướng về người tâm loạn nói, nói lúc tâm bệnh hoạn, hướng về người tâm bệnh hoạn nói, cũng như vậy đều phạm Ba-la-di.

– Viết thư: Tỳ-kheo viết thư bảo người kia chết, khi viết thư mỗi chữ phạm một Thâu-lan-giá. Thư đến người kia, người kia do thế mà chết, Tỳ-kheo phạm Ba-la-di.

– Ra dấu: Tỳ-kheo nói với người mình sai bảo: Ông xem ta ngồi, đứng, đưa tay lên, hạ tay xuống, miệng nói khi lạnh khi nóng thì giết người kia. Người ấy thấy tướng ra dấu bèn giết. Người kia chết, phạm Ba-la-di.

– Nói bằng tay: Bằng ngôn ngữ tác động tay dạy người giết, người kia tùy theo đó mà giết. Người ấy chết, phạm Ba-la-di.

– Nói tương tợ: Tỳ-kheo tác động với lời nói tương tợ dạy người giết. Người kia theo đó mà sát hại. Người ấy chết, Tỳ-kheo phạm Bala-di.

– Một mình tưởng là một mình, phạm Đột-kiết-la.

– Không một mình, tưởng là một mình, một mình, tưởng là không một mình, phạm Thâu-lan-giá.

– Nói giỡn: Tỳ-kheo nói vui chơi: Công đức của ông đã thành, có thể nên tự sát. Người kia hỏi: Tại sao nói lời ấy? Tỳ-kheo trả lời: Tuy trước đây tôi nói giỡn, nay trong ý cũng thật như vậy, ông có thể tự sát. Do vậy người kia chết, phạm Ba-la-di.

– Sắc: Tỳ-kheo làm chú thuật triệu quỷ thần sắc xấu ác khiến người sợ sệt, nhân đó mà chết, phạm Ba-la-di.

– Thanh: Nếu Tỳ-kheo nói lên điều này: Cha mẹ, con cái của ngươi đã chết, tài sản bị phá tan, nói như vậy, nhằm muốn cho người kia lo rầu rồi tự sát, nhân đó mà họ chết, Tỳ-kheo phạm Ba-la-di.

– Hương: Dùng chất độc trộn chung với các loại hương, khiến cho người kia ngửi để chết, do đó mà chết, phạm Ba-la-di.

– Vị: Dùng chất độc trộn chung với thức ăn, khiến ăn, nhân đó mà họ chết, Tỳ-kheo phạm Ba-la-di.

– Xúc: Giết bằng độc dược ca-tỳ, xoa nơi thân khiến cho họ chết, Tỳ-kheo phạm Ba-la-di.

– Ưu ba đầu: Đào hầm gài bẩy để sát hại tất cả chúng sinh. Nếu người rớt xuống chết thì phạm Ba-la-di, phi nhân rớt xuống chết thì phạm Thâu-lan-giá, súc sinh rớt xuống chết phạm Ba-dật-đề.

– Ưu ba xà: Làm giường yếu phủ lên trên một lớp mỏng, trên dưới đều có đặt dụng cụ giết người, khiến người ngồi lên phải chết. Do thế mà họ chết, Tỳ-kheo phạm Ba-la-di.

– Ưu ba hại: Dùng nọc độc của trùng để giết người, người do thế mà chết, Tỳ-kheo phạm Ba-la-di.

Nếu Tỳ-kheo với ý niệm: Ta sẽ giết người kia, khi khởi tâm, phạm Đột-kiết-la, khi tạo phương tiện phạm Thâu-lan-giá, người kia chết phạm Ba-la-di. Nếu giết phi nhân phạm Thâu-lan-giá, giết súc sinh phạm Ba-dật-đề. Tỳ-kheo-ni phạm cũng như vậy. Thức-xoa-ma-na, Sa-di, Sa-di-ni, phạm Đột-kiết-la.

Trường hợp không phạm: Với tâm từ bi, không có tâm sát.

Xong giới thứ ba.

Đức Phật ở tại Tỳ-xá-ly, gặp lúc mất mùa, khất thực khó đạt, các Tỳ-kheo vào thành khất thực, không nhận được thức ăn gì. Trước thời buổi như vậy, Đức Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo: Các thầy tùy theo chỗ quen biết nên đến đó an cư, đừng ở nơi đây để chịu sự đói khát.

Các Tỳ-kheo vâng lời. Một số vị đến nơi nước Ma-kiệt, một số khác về các làng ven sông Bà-cầu-mạt. Đến bên sông, các Tỳ-kheo họp lại cùng nhau bàn bạc: Nay gặp lúc khất thực khó được, trong xóm làng này có những người thành tín, chúng ta nên khen gợi nhau, như nói: Vị kia đắc sơ thiền, tôi cũng đắc sơ thiền, vị kia đắc nhị thiền, tam thiền, tứ thiền, bốn xứ vô lượng, bốn định vô sắc, tôi cũng đắc như vậy. Vị kia được bốn niệm xứ, cho đến tám chánh đạo phần, ba môn giải thoát, tôi cũng được như vậy. Vị kia được tám giải thoát, chín định thứ đệ, mười nhất thế nhập, mười trực đạo, tôi cũng được như vậy. Vị kia đắc Kiên tín, Kiên pháp, bốn quả Sa-môn, ba minh, sáu thần thông, tôi cũng đắc như vậy. Các cư sĩ nghe ắt sinh lòng cảm phục nhiều hơn, họ sẽ bảo nhau: Chúng ta được nhiều thiện lợi nên mới có những vị đắc Thánh đạo như vậy an cư nơi ấp của chúng ta. Họ tất sẽ mua các thứ ngon bổ cúng dường Sa-môn chúng ta không thiếu thốn, chúng ta sẽ sống trong sự an lạc. Nghị bàn xong các Tỳ-kheo liền vào trong thành, đến các nhà giàu cùng nhau ca tụng như trên. Trước đó, các thầy nói: Quý vị được điều lợi lớn lắm, ruộng phước của Thánh chúng đã đến với xóm làng của quý vị rồi đó. Các cư sĩ nghe, nức lòng vui, hân hoan với sự việc chưa từng được gặp. Họ đều giảm phần chi dụng của mình, bỏ qua việc tế tự, không bố thí người khác, chỉ dồn vào việc cúng dường. Thường pháp của chư Phật trong hai kỳ đại hội, cuối tháng mùa Xuân, mùa hạ, Tỳ-kheo các nơi đều về để thăm hỏi nhau. Các Tỳ-kheo nước Ma-kiệt an cư xong, ốm gầy tiều tụy, đến chỗ Đức Phật đảnh lễ sát chân, rồi đứng lui qua một bên. Thường pháp của Đức Phật, mỗi khi Tỳ-kheo đến đều có lời an ủi hỏi: Các thầy an cư có hòa hiệp, khất thực có dễ được, trên đường đi có vất vả lắm không? Các Tỳ-kheo thưa: Chúng con an cư hòa hợp, trên đường đi không mấy nhọc mệt, chỉ có khất thực khó được. Sau đó Đức Phật vì họ, nói từng vấn đề về các pháp diệu, chỉ bày sự lợi ích trong niềm vui và bảo họ tùy nghi cư trú. Các Tỳ-kheo ở bên sông Bà Cầu-mạt thân thể mập khỏe, sung túc, đến chỗ Đức Phật, đầu mặt đảnh lễ sát chân, rồi đứng lui qua một bên. Đức Phật cũng như thường lệ, an ủi hỏi. Các Tỳ-kheo bạch: Chúng con an cư hòa hiệp, khất thực dễ dàng, trên đường đi không nhọc mệt. Đức Phật liền hỏi: Hiện nay nơi nào cũng mất mùa, khất cầu khó được, tại sao riêng các thầy lại nói là dễ. Các Tỳ-kheo bạch Phật: Chúng con ở tại đó, do khất thực khó được nên cùng nhau khen ngợi… (như trên đã nói đầy đủ). Đức Phật liền hỏi: Những điều các thầy ca tụng với nhau là sự thật hay là hư dối? Các Tỳ-kheo bạch Phật: Có sự thật và cũng có hư dối. Đức Phật bằng mọi cách quở trách sự hư dối: Các thầy làm điều phi pháp, không hợp đạo lý, người xuất gia không nên làm như vậy, thà nuốt viên đá nóng đỏ hay uống nước đồng sôi, chứ không nên dùng lời hư dối mà ăn của tín thí. Các thầy há không nghe Ta chê trách tội vọng ngữ, và bằng mọi cách khen ngợi đức không nói lời dối trá hay sao? Tại sao nay các thầy lại vì lợi dưỡng mà hư dối tự nói đắc pháp vượt khỏi người. Đức Phật lại quở trách các Tỳ-kheo:

Ở đời có năm hạng giặc lớn:

– Một là hạng người làm chủ một trăm người cho đến một ngàn người để phá hoại thành ấp, xóm làng, hại người lấy của.

– Hai là các Tỳ-kheo dẫn các Tỳ-kheo du hành trong nhân gian nói pháp tà mạng.

– Ba-là các Tỳ-kheo xấu ác đối với các pháp do Phật nói tự xưng là ta tạo ra.

– Bốn là có Tỳ-kheo xấu ác không tu phạm hạnh, tự nói là ta tu phạm hạnh.

– Năm là có Tỳ-kheo xấu ác vì lợi dưỡng, không có pháp vượt hơn người lại tự xưng là có.

Hạng giặc thứ năm này gọi là hạng giặc lớn nhất, tột cùng nhất của cả Thiên, nhân, Ma phạm, Sa-môn, Bà-la-môn nơi thế gian. Tại sao các thầy chỉ vì một chút lợi dưỡng mà lại làm kẻ giặc lớn nhất này? Quở trách như vậy rồi Đức Phật bảo các Tỳ-kheo: Do mười điều lợi nên Ta vì các Tỳ-kheo kiết giới. Từ nay giới này được nói như sau: “Nếu Tỳ-kheo không biết, không thấy pháp vượt hơn người theo Thánh lợi một cách đầy đủ mà lại xưng là tôi biết như vậy, tôi thấy như vậy. Thời gian sau hoặc có người hỏi hoặc không có người hỏi, vì muốn hết tội để được thanh tịnh nên tự mình nói: Tôi không biết mà nói biết, không thấy mà nói thấy, hư cuống vọng ngữ. Tỳ-kheo này phạm tội Ba-la-di, không được sống chung”.

Đức Phật ở tại thành Xá-vệ, có số đông Tỳ-kheo ít nghe không học, không hỏi, không có pháp vượt hơn người, tự cho là tôi biết, tôi thấy, tôi chứng. Một thời gian sau, vị kia nghe các Tỳ-kheo giảng luận về trạng thái đắc đạo, chưa đắc đạo mới tỏ rõ cái sai về đắc đạo của mình, lòng đầy xấu hổ khơi dậy suy nghĩ: Trước đây, chúng ta chưa đắc đạo mà nói là đắc đạo, há không phạm tội Ba-la-di!

Lại có Tỳ-kheo ít nghe, không học, không hỏi, không có pháp hơn người, tự nói là ta biết, ta thấy, ta chứng. Về sau, vị này học rộng các kinh, lòng đầy hổ thẹn hối tiếc, khơi dậy suy nghĩ: Như chỗ hiểu biết của ta đối với Phật pháp hiện nay thì trước kia ta chưa đắc đạo mà lại nói là đắc đạo, là tăng thượng mạn, há không phạm tội Ba-la-di!

Lại có Tỳ-kheo ít nghe, không học, không hỏi, không có pháp hơn người, tự nói là tôi biết, tôi thấy, tôi chứng. Về sau vị kia rộng tu phạm hạnh, đắc được đạo quả. Từ sự xấu hổ ấy khơi dậy ý niệm: Trước đây ta chưa đắc đạo mà nói là đắc đạo, là tăng thượng mạn, há không phạm tội Ba-la-di!

Các Tỳ-kheo suy nghĩ như vậy rồi, liền đến chỗ Tôn giả A-nan để hỏi vấn đề đó. Tôn giả cùng đưa các Tỳ-kheo đến chỗ Đức Phật, trình bày đầy đủ sự việc lên Ngài. Nhân sự việc này Đức Phật tập hợp các Tỳ-kheo Tăng, tùy theo trường hợp một, hỏi các Tỳ-kheo: Thật sự thầy có như vậy không? Tỳ-kheo thưa: Bạch Thế Tôn, sự thật đúng như vậy. Đức Phật bảo các Tỳ-kheo: Có năm hạng hiện bày pháp hơn người pháp: Một là ngu si, hai là tâm loạn, ba là chạy theo xấu ác, bốn là tăng thượng mạn, năm là thật có. Nếu ngu si, tâm loạn, tăng thượng mạn thật có pháp hơn người tự nói là ta chứng đắc, phạm Ba-la-di, điều này không có.

Từ nay giới này được nói như sau: “Tỳ-kheo nào không biết, không thấy pháp vượt hơn người theo Thánh lợi một cách đầy đủ mà lại tự xưng là ta biết như vậy, thấy như vậy. Thời gian sau, Tỳ-kheo này hoặc có người hỏi hoặc không có người hỏi, vì muốn khỏi tội để được thanh tịnh nên nói: Tôi không biết mà nói biết, không thấy mà nói thấy, hư cuống vọng ngữ, trừ tăng thượng mạn, Tỳ-kheo này mắc tội Ba-la-di, không được sống chung”.

Không biết không thấy: Tức là không biết không thấy pháp vượt hơn người. Tất cả pháp quan trọng ra khỏi thế gian, như các thiền định, Tam-muội giải thoát, chánh thọ, các đạo quả Thánh, gọi là pháp vượt hơn người. Đối với lời Phật dạy: Khổ, tập, diệt, đạo đã làm xong một cách đầy đủ, không có chỗ mong cầu, như vậy gọi là Thánh lợi trọn vẹn. Tự nói tôi thấy biết pháp như vậy, pháp cũng thấy biết về tôi như vậy gọi là tự xưng tôi biết như vậy, tôi thấy như vậy. Hoặc một tháng cho đến một năm sau, có người hỏi: Thầy đắc đạo thế nào, đắc ở đâu, đắc từ ai, do pháp gì đắc? Hoặc không ai hỏi mà tự phát lồ tội đã phạm để cầu giới tịnh, tâm tịnh, kiến tịnh, nghi tịnh nên nói: Tôi không biết không thấy khổ, tập, diệt, đạo mà nói có biết có thấy, là hư cuống vọng ngữ. Tuy phát lồ như vậy mà vẫn phạm tội Ba-la-di.

Trường hợp phạm: Có hai hạng phạm Ba-la-di: Một là trước có nảy sinh ý niệm: Tôi đang dối nói là đắc pháp vượt hơn người. Hai là khi đang nói có ý niệm: Tôi nay dối nói đắc pháp vượt hơn người. Lại có ba hạng phạm Ba-la-di: Hai hạng như trên, hạng thứ ba là với ý niệm: Tôi đã dối nói đắc pháp vượt hơn người. Lại có bốn hạng phạm Ba-ladi: Ba hạng như trên, hạng thứ tư là dị kiến nói pháp vượt hơn người. Lại có năm hạng phạm Ba-la-di: Bốn hạng như trên, hạng thứ năm là di tưởng nói pháp vượt hơn người. Lại có sáu hạng phạm Ba-la-di: Năm hạng như trên, hạng thứ sáu là dị nhẫn nói pháp vượt hơn người. Lại có bảy hạng phạm Ba-la-di: Sáu hạng như trên, hạng thứ bảy là di lạc nói pháp vượt hơn người. Lại có tám hạng phạm Ba-la-di: Bảy hạng như trên, hạng thứ tám là không trả lời theo câu hỏi đã nói về pháp vượt hơn người.

Có bốn loại không phải Thánh ngữ, và bốn loại Thánh ngữ. Không phải Thánh ngữ: không thấy nói thấy, không nghe nói nghe, không hiểu nói hiểu, không biết nói biết. Thánh ngữ: thấy nói thấy, nghe nói nghe, hiểu nói hiểu, biết nói biết.

Lại có tám loại không phải Thánh ngữ và tám loại Thánh ngữ. Không phải Thánh ngữ: không thấy nói thấy, thấy nói không thấy, không nghe nói nghe, nghe nói không nghe, không hiểu nói hiểu, hiểu nói không hiểu, không biết nói biết, biết nói không biết. Ngược với nghĩa trên, gọi là tám Thánh ngữ.

Lại có mười sáu loại không phải Thánh ngữ và mười sáu loại Thánh ngữ. Không phải Thánh ngữ: không thấy nói thấy, không nghe nói nghe, không hiểu nói hiểu, không biết nói biết, thấy nói không thấy, nghe nói không nghe, hiểu nói không hiểu, biết nói không biết, thấy nghi nói không nghi, nghe nghi nói không nghi, hiểu nghi nói không nghi, biết nghi nói không nghi, thấy không nghi nói nghi, nghe không nghi nói nghi, hiểu không nghi nói nghi, biết không nghi nói nghi. Ngược với nghĩa trên gọi là mười sáu Thánh ngữ.

Tỳ-kheo hướng đến người tự xưng đắc pháp vượt hơn người, đối tượng hiểu được, phạm Ba-la-di, không hiểu được phạm Thâu-lan-giá. Hướng đến phi nhân nói phạm Thâu-lan-giá, hướng đến súc sinh nói phạm Đột-kiết-la. Tỳ-kheo-ni phạm cũng như vậy. Thức-xoa-ma-na.

Sa-di, Sa-di-ni, phạm Đột-kiết-la.

Trường hợp không phạm là nói đúng sự thật.

Đoạn 2: NÓI VỀ 13 PHÁP TĂNG TÀN

Đức Phật ở tại thành Xá-vệ. Bấy giờ, Trưởng lão Ưu-đà-di bị lửa dục đốt, thân thể tiều tụy, khí lực tiêu hao, dùng tay xuất bất tịnh mới có được niềm vui an ổn. Có Tỳ-kheo khác cũng bị gầy ốm, Ưu-đà-di thấy thế hỏi: Tại sao thầy mất sức nhiều vậy? Tỳ-kheo kia trả lời: Thưa trưởng lão, tôi bị lửa dục thiêu đốt cho nên như thế. Ưu-đà-di nói: Trước đây tôi cũng vậy, dùng tay xuất bất tịnh mới được trụ an lạc. Nếu thầy áp dụng phương pháp của tôi thì cũng sẽ như vậy. Tỳ-kheo kia nói: Thầy làm điều phi pháp, không phải hạnh thanh tịnh, phá pháp của Sa-môn, không hợp chánh đạo. Đức Thế Tôn bằng mọi cách quở trách về dục, tưởng về dục, cảm giác dục, lửa dục và khen người đoạn tưởng dục, trừ cảm giác về dục, diệt lửa dục. Ngài nói lửa dục như xương đỏ, như thuốc độc. Tại sao nay thầy dùng tay để xuất bất tịnh, nhận lấy của tín thí, thậm chí dạy người việc đó? Quở trách rồi, họ cùng dẫn đến trước Phật, trình bày sự việc. Nhân việc này, Đức Phật tập hợp Tỳ-kheo Tăng, hỏi Ưu-đà-di:

– Thật sự thầy có như vậy không?

Ưu-đà-di thưa:

– Bạch Thế Tôn! Có thật như vậy.

Đức Phật cũng dùng mọi cách quở trách như trên rồi bảo các Tỳ kheo:

– Do mười điều lợi, vì các Tỳ-kheo kiết giới. Từ nay giới này được nói như sau: “Nếu Tỳ-kheo cố ý xuất bất tịnh, phạm Tăng-già-bà-thisa”.

Bấy giờ, Tỳ-kheo với tâm không an khi ngủ, mộng tưởng xuất bất tịnh, thức dậy, vấn đề được đặt ra: Ta ở trong mộng cũng có tâm, cũng có động thân, xuất bất tịnh, há không phạm Tăng-già-bà-thi-sa? Do đó có vị phát lồ, có vị hành Ma-na-đỏa, có vị xin xuất tội, có vị bạch thẳng sự việc với Đức Phật. Nhân việc này, Đức Phật tập hợp các Tỳ-kheo Tăng, hỏi các Tỳ-kheo:

– Sự thật các thầy có như vậy không?

Các Tỳ-kheo thưa:

– Kính bạch Thế Tôn, có thật như vậy!

Đức Phật bằng mọi cách quở trách:

– Các thầy không nên ngủ với tâm tán loạn. Nếu ngủ với tâm tán loạn phạm Đột-kiết-la.

Ngủ với tâm tán loạn có năm điều lỗi lầm:

  1. Bị mộng ác.
  2. Thiện thần không hộ vệ.
  3. Không có được tưởng ánh sáng.
  4. Không có tâm giác pháp.
  5. Xuất bất tịnh.

Ngủ với tâm không tán loạn có năm công đức:

  1. Không có mộng ác.
  2. Thiện thần hộ vệ.
  3. Có tưởng ánh sáng.
  4. Có tâm giác pháp.
  5. Không xuất bất tịnh.

Khi ngủ có năm nhân duyên căn nổi dậy:

  1. Đại tiện thôi thúc.
  2. Tiểu tiện thôi thúc.
  3. Ứ hơi.
  4. Trùng cắn.
  5. Tâm dục thôi thúc.

Đức Phật lại bảo các Tỳ-kheo:

– Nếu chưa lìa dục, ngủ với tâm sân si tán loạn thì chắc chắn bị xuất bất tịnh, tuy chưa có thể lìa dục nhưng ngủ với tâm hệ niệm, vẫn không có những lỗi lầm ấy.

Từ nay giới này được nói như vầy: “Nếu Tỳ-kheo cố ý xuất bất tịnh, trừ trong chiêm bao, phạm Tăng-già-bà-thi-sa”.

Cố ý xuất bất tịnh: Khởi tâm, động thân làm cho bất tịnh xuất.

Tăng-già-bà-thi-sa: Tôi này còn một chút cơ hội có thể cứu chữa được. Cơ hội đó là, giữa Tăng cần cầu để trừ diệt mới được.

Bất tịnh có mười loại:

  1. Sắc xanh.
  2. Sắc vàng.
  3. Sắc hồng.
  4. Sắc đen.
  5. Sắc đỏ.
  6. Sắc trắng.
  7. Màu sữa.
  8. Màu tô.
  9. Màu đầu.
  10. Màu mật.

Nếu khởi tâm động thân muốn xuất màu xanh, mà xuất màu vàng cho đến màu mật đều phạm Tăng-già-bà-thi-sa. Nếu khởi tâm động thân muốn xuất màu vàng cho đến màu mật mà xuất các màu khác cũng như vậy.

Có mười loại khởi tâm động thân xuất bất tịnh đều phạm Tănggià-bà-thi-sa: Một là làm thử, hai là trừ bệnh, ba là vì nhan sắc, bốn là vì sức lực, năm là vì vui, sáu là bố thí, bảy là vì sinh thiên, tám là vì hội tế trời của ngoại đạo, chín là vì chủng tử, mười là vì thờ lửa.

Có năm loại khởi tâm động thân xuất bất tịnh đều phạm Tănggià-bà-thi-sa:

  1. Nội sắc.
  2. Ngoại sắc.
  3. Hư không.
  4. Gió.
  5. Nước.

Nội sắc: Là tự nơi thân mình.

Ngoại sắc: Là thân người khác.

Hư không: Động thân giữa hư không.

Gió: Hướng ngược gió để làm.

Nước: Hướng ngược nước để làm.

Lại có năm loại khởi tâm động thân xuất bất tịnh phạm Tăng-giàbà-thi-sa:

  1. Đầy đại tiện.
  2. Đầy tiểu tiện.
  3. Ứ hơi.
  4. Trùng cắn.
  5. Đầy dục.

Nếu khởi tâm, thân không động, không xuất bất tịnh, khởi tâm thân không động, xuất bất tịnh đều phạm Đột-kiết-la. Khởi tâm, thân động, không xuất bất tịnh, phạm Thâu-lan-giá. Không khởi tâm, thân động, không xuất bất tịnh, không khởi tâm, thân không động, xuất bất tịnh đều không phạm. Khi ngủ xuất bất tịnh, khi thức dậy khởi tâm, thân động phạm Thâu-lan-giá. Khi ngủ thân động, khi thức dậy khởi tâm, xuất bất tịnh phạm Đột-kiết-la. Khi ngủ khởi tâm, khi ngủ dậy thân không động, xuất bất tịnh không phạm. Sa-di phạm Đột-kiết-la.

Xong giới thứ nhất.

Đức Phật ở tại thành Xá-vệ. Khi ấy, Trưởng lão Ưu-đà-di bị lửa dục thiêu đốt, nảy ra ý nghĩ: Cố ý xuất bất tịnh, Đức Thế Tôn đã cấm, nay ta tạo điều kiện cùng người nữ xúc chạm để lấy thú vui nơi sự mềm mại. Ưu-đà-di bèn lau quét trong phòng, trang hoàng giường ghế đẹp, rồi lấy một cái ghế nhỏ ngồi nơi chỗ đất trống. Lúc ấy có các người nữ đến vãng cảnh, nói với Ưu-đà-di: Chúng tôi đến đây muốn xem các phòng xá. Ưu-đà-di đáp: Các chị em cứ xem xét theo ý muốn của mình. Ưu-đà-di liền hướng dẫn họ vào phòng rồi đóng cửa ra vào, mở cửa sổ, bằng nhiều kiểu xúc chạm họ, hoặc nắm, hoặc ôm, hoặc bóp, hoặc xoa, hoặc đưa lên, hoặc để xuống, hoặc cỡi, hoặc cõng. Trong số họ, người thích thì nói: Sao không làm cái việc chánh, làm chi những việc phụ như vậy? Ưu-đà-di nói: Đức Phật không cho phép tôi làm cái việc chánh ấy.

Những người không ưa thì giận dữ nói: Xưa nay gọi chỗ này là nơi an ổn, giờ ngược lại thành chỗ đáng ghê sợ, lửa bốc cháy trong nước chưa đủ để so sánh điều quái gỡ này, kẻ cư sĩ ở tại nhà còn xấu hổ khi làm việc này, tại sao Tỳ-kheo lại làm điều ác như thế.

Họ liền trở về nhà, từng người một nêu bày chê bai. Những người thiếu lòng tin không ưa Phật pháp tha hồ trách cứ, mạ lị: Chúng ta là cư sĩ xúc chạm với đàn bà, Sa-môn Thích tử cũng làm như vậy, thế thì uổng phí cái đầu được cạo đi, thế họ với ta khác gì nào? Họ không có hạnh của bậc Sa-môn, họ phá pháp Sa-môn, tiếng xấu như vậy đồn khắp thiên hạ. Lại có một Bà-la-môn dẫn vợ đi vãng cảnh, lần lượt họ đến phòng của Ưu-đà-di, nói: Vợ chồng chúng tôi muốn vào xem phòng xá. Ưu-đà-di nói: Không được cùng một lúc hai người vào, có thể người trước kẻ sau. Bà-la-môn nói: Nếu không được vào một lượt thì để vợ tôi vào trước. Người vợ vào phòng, Ưu-đà-di cũng lại làm bao nhiêu trò xúc chạm như trước. Kéo dài lâu lắm người phụ nữ mới ra khỏi phòng. Người chồng hỏi vợ: Chứ làm chuyện gì mà lâu thế, không muốn đi xem các phòng khác hay sao? Bà vợ nói: Thôi! Thôi! Đừng nói điều đó nữa, chỉ vào một phòng mà gần muốn chết mới ra được đây, xem các phòng khác lại phải chịu nỗi như thế sao?! Người chồng hỏi lý do, người vợ trình bày đúng sự thật. Ngay khi ấy, người Bà-la-môn liền trách mắng: Cái nghiệp ác ấy, tại sao Sa-môn Thích tử lại làm như thế? Ông ta vào thành Xá-vệ, nơi ngả tư đường, chỗ chợ búa xóm làng, tận hang cùng ngõ hẻm, cao giọng lớn tiếng rêu rao: “Sa-môn Thích tử đã xúc chạm bậy bạ với vợ tôi”. Những người không có lòng tin đối với Phật pháp tha hồ mắng nhiếc Sa-môn Thích tử làm hạnh ác như thế, tại sao tự xưng là tịnh tu phạm hạnh? Các Tỳ-kheo Trưởng lão nghe bèn quở trách đủ thứ, rồi trình bày đầy đủ mọi sự việc lên Đức Phật. Nhân việc này, Đức Phật tập hợp Tỳ-kheo Tăng, hỏi Ưu-đà-di:

– Thật sự ông có làm như vậy không?

Ưu-đà-di thưa:

– Bạch Thế Tôn, có sự thật như vậy.

Đức Phật bằng sự nghiêm khắc quở trách, rồi bảo các Tỳ-kheo: Do mười điều lợi nên vì các Tỳ-kheo kiết giới. Từ nay giới này được nói như sau: “Nếu Tỳ-kheo do lòng dục thôi thúc làm biến dạng tâm, xúc chạm thân người nữ, hoặc nắm tay, hoặc vuốt tóc, hoặc nắm bất cứ ở đâu trên phần thân họ, xoa rờ, tham đắm sự mềm mại, phạm Tănggià-bà-thi-sa”.

Lòng dục thôi thúc làm biến dạng tâm: Tức là hướng về tâm dục, khởi tâm mạnh, sự việc mới được hình thành, biến pháp thiện, pháp vô ký, rơi vào chỗ bất thiện.

Người nữ: Là người đàn bà kể cả trẻ mới sinh.

Xúc chạm: Bất cứ chỗ nào trên thân, bằng mọi cách xoa rờ, cho đến chỉ một sợi tóc. Có năm trường hợp, Tỳ-kheo xúc chạm thân người nữ phạm Tăng-già-bà-thi-sa: người nữ, tưởng người nữ, người sống theo kiểu nữ, người tâm nhiễm nữ, do tình gần gũi xoa rờ xúc chạm có cảm giác và thọ nhận cho đến xúc chạm nơi tóc cũng như vậy. Năm việc xúc chạm người nữ phạm Thâu-lan-giá: người nữ, tưởng là người nữ, người sống theo kiểu nữ, không do tình gần gũi xoa rờ xúc chạm có cảm giác và thọ nhận, cho đến xúc chạm nơi tóc cũng như vậy. Người nữ xúc chạm Tỳ-kheo cũng như thế. Năm việc xúc chạm người nữ không phạm: người nữ, tưởng là người nữ, người sống theo kiểu nữ, người tâm nhiễm nữ, không do tình thân cận, các người nữ này nắm Tỳ-kheo, Tỳkheo tạo phương tiện để thoát, tuy có cảm giác, có xúc chạm mà không thọ nhận, cho đến xúc chạm nơi tóc cũng như vậy. Lại, người nữ, tưởng là người nữ, nghi người nữ, người nữ không căn, người nữ tưởng, tưởng nhị căn, xúc chạm phạm Tăng-già-bà-thi-sa. Người nữ tưởng là nam, nữ tưởng là huỳnh môn, xúc chạm phạm Thâu-lan-giá. Nam, tưởng là nam, nghi là nam, nam tưởng là huỳnh môn, xúc chạm, phạm Đột-kiếtla. Nam, tưởng là nữ, tưởng nam vô căn, tưởng nam hai căn, xúc chạm, phạm Thâu-lan-giá. Huỳnh môn cũng như vậy. Vô căn, tưởng là vô căn, nghi vô căn. Vô căn, tưởng nhị căn, vô căn, tưởng là nữ, xúc chạm, phạm Tăng-già-bà-thi-sa. Vô căn tưởng là nam, vô căn tưởng là huỳnh môn, xúc chạm, phạm Thâu-lan-giá. Hai căn cũng như vậy. Tỳ-kheo cùng với nữ không có y phục xúc chạm nhau, phạm Tăng già ba thi xa, cùng người nữ có y phục xúc chạm nhau, phạm Thâu-lan-giá. Người nữ

nắm Tỳ-kheo không có y, phạm Tăng-già-bà-thi-sa, nắm Tỳ-kheo có y, phạm Thâu-lan-giá. Tỳ-kheo cùng người nữ, cả hai đều có y nắm nhau, phạm Đột-kiết-la. Tỳ-kheo nắm y của người nữ, người nữ bỏ y cho Tỳkheo, phạm Thâu-lan-giá. Người nữ nắm y Tỳ-kheo, Tỳ-kheo không bỏ y cho người nữ, phạm Đột-kiết-la. Tỳ-kheo xúc chạm người chết là nữ, không phải người nữ, phạm Thâu-lan-giá, nắm súc sinh cái phạm Độtkiết-la, Sa-di phạm Đột-kiết-la.

Xong giới thứ hai.

Đức Phật ở tại thành Xá-vệ. Bấy giờ, Trưởng lão Ưu-đà-di bị lửa dục thiêu đốt nảy sinh ý nghĩ, cố ý xuất bất tịnh, xúc chạm thân người nữ, Đức Thế Tôn đã ngăn cấm, nay ta nên tạo điều kiện khác, hướng đến người nữ nói lời thô tục để tìm sự vui trong dục lạc. Với ý nghĩ ấy, Ưu-đà-di liền lau quét phòng rồi ngồi nơi chỗ đất trống. Người nữ đến viếng cảnh, dẫn vào phòng đóng cửa, như trước đã nói. Ưu-đà-di bèn ở trong phòng, cùng người nữ nói những lời thô tục, bằng cách hỏi sỗ sàng: Tay chân, bắp chân, cổ tay, eo lưng, bụng, cổ, vú, đầu, mặt, móng tay, tóc, đường đại tiểu tiện của cô giống như cái gì? Lại nói: Này cô em, tay chân, cho đến đường đại tiểu tiện của cô em chỗ nào cũng xấu xí! Lại nói: Này cô em, tay chân, cho đến đường đại tiểu tiện của cô em chỗ nào cũng tốt đẹp! Lại hỏi: Khi chồng cô gần gũi cô, lại vỗ về cô ra sao? Nếu theo ý của tôi, tôi sẽ cho cô châu báu. Nếu cô cần gì, cho tôi được biết. Tất cả thiên thần đều chứng giám cho lòng tôi. Các người nữ nghe qua, người vui thích, kẻ không thích có phản ứng như trước đã nói. Tỳ-kheo Trưởng lão nghe được, bằng mọi cách quở trách, và đem vấn đề này bạch Phật. Đức Phật nhân việc này tập hợp Tỳ-kheo Tăng, hỏi Ưu-đà-di:

– Thật sự thầy có như vậy không?

Ưu-đà-di thưa:

– Bạch Thế Tôn, có như vậy.

Đức Phật quở trách rồi, bảo các Tỳ-kheo:

– Do mười điều lợi nên Ta vì các Tỳ-kheo kiết giới. Từ nay giới này được nói như sau: “Nếu Tỳ-kheo lòng dục thôi thúc làm biến dạng tâm, hướng đến người nữ nói những lời thô tục, tùy theo vấn đề dâm dục, phạm Tăng-già-bà-thi-sa”.

Trường hợp phạm: Chê khen, cầu xin, hỏi, hỏi lại, chỉ dẫn. Tỳkheo có năm sự việc cùng người nữ nói lời thô tục, người nữ, tưởng người nữ, người sống theo cách nữ, người tâm nhiễm nữ, do tình thân cận, từ chê khen cho đến chỉ dẫn, người kia hiểu rõ, phạm Tăng-già-bàthi-sa, không hiểu rõ phạm Thâu-lan-giá.

Chê: Chê bai ba chỗ của người nữ, hoặc nhỏ, hoặc lớn, hình sắc xấu xí. Khen: Ngợi khen ba chỗ của người nữ, không nhỏ, không lớn, hình sắc tốt đẹp. Xin: Đến người nữ xin ba chỗ, nếu có thể cho tôi, tôi có thể làm theo ý của cô. Nguyện: Muốn được ba chỗ của cô, được ba chỗ của cô là người phước lạc. Hỏi: Như hỏi chồng cô trong ba chỗ, hành dục chỗ nào? Làm gì khi nào? Hỏi lại: Như hỏi chồng cô đối với ba chỗ, không làm như vậy hay sao? Chỉ dẫn: Như dạy: Cô đem ba chỗ đáp ứng theo ý người nam thì được người nam luyến ái. Người nữ, tưởng là người nữ, cho đến hai căn, tưởng là hai căn, đều như trên đã đề cập. Lại có năm thứ: Sai sử, viết thư, ra dấu, cử động tay, nói lời tương tợ. Người kia hiểu rõ, phạm Thâu-lan-giá, hiểu không rõ, phạm Đột-kiết-la. Tỳ-kheo đối diện cùng người nữ nói lời thô tục, người nữ hiểu, phạm Tăng-giàbà-thi-sa, không hiểu phạm Thâu-lan-giá. Hướng đến phi nhân nữ nói lời thô tục, phạm Thâu-lan-giá, hướng đến súc sinh cái nói lời thô tục phạm Đột-kiết-la. Sa-di phạm Đột-kiết-la.

Xong giới thứ ba.

Đức Phật ở tại thành Xá-vệ. Khi ấy, Trưởng lão Ưu-đà-di bị lửa dục thiêu đốt, nảy sinh ý nghĩ: Cố ý làm xuất bất tịnh, xúc chạm thân người nữ, hướng đến người nữ nói lời thô tục, Đức Phật đều đã chế cấm, nay ta nên hướng đến người nữ tự khen ngợi việc hiến dâng thân xác, nhằm tìm lấy thú vui thỏa thích. Ưu-đà-di lại lau quét phòng, làm mọi việc như trên. Rồi ở trong phòng nói với người nữ: Này cô em! Cô em cúng dường Sa-môn, Bà-la-môn, cho đến các vị nhập thiền định, được bốn đạo quả, không bằng đem sự dâm dục cúng dường người trì giới. Các người nữ nghe qua, có người vui thích, có người không thích… cho đến câu: Đức Phật bằng mọi cách quở trách, như trên đã nói. Quở trách rồi, Đức Phật bảo các Tỳ-kheo:

– Do mười điều lợi nên Ta vì các Tỳ-kheo kiết giới. Từ nay giới này được nói như sau: “Nếu Tỳ-kheo lòng dục thôi thúc làm biến dạng tâm, hướng đến người nữ tự khen việc đem thân cúng dường, nói: Cô em đem việc dâm dục cúng dường là sự cúng dường hạng nhất, phạm Tăng-già-bà-thi-sa”.

Nếu bằng nhiều cách nói để khen việc đem thân cúng dường dâm

dục thì mỗi lời nói đều phạm Đột-kiết-la. Nếu nói: Không bằng đem dâm dục để cúng dường thì mỗi lời nói đều phạm Thâu-lan-giá. Nếu nói: Cúng dường bằng dâm dục là sự cúng dường bậc nhất thì phạm Tăng-già-bà-thi-sa. Dùng năm việc tự khen cúng dường thân, người nữ, tưởng là người nữ, người nữ sống theo kiểu nữ, người tâm nhiễm nữ, dùng tình gần gũi, nói: Cúng dường dâm dục là sự cúng dường bậc nhất, người kia hiểu rõ, phạm Tăng-già-bà-thi-sa, không hiểu rõ phạm Thâulan-giá. Người nữ, tưởng người nữ, cho đến hai căn, tưởng là hai căn, sai người cho đến nói tương tợ, đối diện cùng người nữ nói, hướng đến phi nhân nữ, súc sinh cái đều như trước đã nói. Sa-di phạm Đột-kiết-la.

Xong giới thứ tư.

– Đức Phật ở tại thành Xá-vệ. Khi ấy có Trưởng giả tên là Ca-lưu, thông minh lợi căn, khéo đoạn nghi hoặc cho người. Trong thành Xávệ, hễ có sự việc gì, đến cả việc hôn nhân không ai là không đến hỏi ý kiến. Ca-lưu nói được, họ mới làm, nói không được thì họ không làm. Kết quả tốt thì họ nói: “Nhờ Ca-lưu nên họ mới được thế này, nên làm thế nào để Ca-lưu cũng được vui như ta”. Nếu kết quả xấu thì họ cũng nói: “Do Ca-lưu nên ta mới ra nông nỗi thế này, làm sao cho Ca-lưu cũng chịu nỗi khổ như ta”. Như vậy tiếng khen, tiếng chê đối với Ca-lưu khắp đầy cả nước. Thời gian sau, do lòng tin, Ca-lưu xuất gia học đạo, những người cần hỏi ý kiến, theo ngày tháng càng đông hơn, thậm chí Vua Ba-tư-nặc cũng đích thân đến hỏi việc nước. Điều hoan hỷ, sự phẫn nộ vang lừng gấp bội so với trước.

Khi ấy có một quả phụ, đứa con gái của bà ta sắc đẹp nhất xứ, nhiều người đến cầu hôn, bà đều không nhận lời. Bà ta nói: Nếu người nào muốn cưới con gái của bà thì phải ở rể luôn thì bà mới gả cho.

Bấy giờ, một người Bà-la-môn giàu có, tiền của không sao kể xiết được, nói với bà quả phụ: Cho con trai tôi cưới con gái của bà thì sẽ có sự sống an lạc.

Bà quả phụ vẫn trả lời như lúc trước.

Bị từ chối, người Bà-la-môn bèn dò la trong quần chúng để biết ai là người thường tới lui nhà bà quả phụ ấy.

Có người cho biết: Sa-môn Ca-lưu là người thường đến nhà ấy.

Người Bà-la-môn liền mời Ca-lưu tới nhà mình để cúng dường thường xuyên. Đã trở thành chỗ thân giao, người Bà-la-môn đem sự việc thưa: Tôi muốn cưới con gái của bà… làm vợ cho con tôi, nhờ Đại đức vì tôi nói giúp lời.

Ca-lưu liền mặc y bưng bát đến nhà quả phụ. Bà quả phụ liền ra lễ bái hỏi chào. Ca-lưu nói: Cô có thể gả con gái của cô cho con ông___? Gia đình ông ấy giàu có, chắc chắn con cô được an lạc. Bà quả phụ vẫn trả lời như trước.

Ca-lưu lại nói: Nếu không gả đứa con gái này, khi lớn lên bị lỡ thì nó không nghe lời bà nữa đâu. Tại sao lại để mất đứa con gái, lại mất một người rể tốt!

Bà quả phụ nghe nói như vậy liền đồng ý. Ca-lưu trở lại nhà trai với lời báo tốt đẹp. Cuộc hôn nhân thành tựu. Sau khi về nhà chồng, chịu nhiều điều cực khổ, cô ta liền viết thư nhờ mẹ nói với nhà chồng cầu xin chút thong thả.

Bà mẹ bảo cô ta: Việc này phải cần Ca-lưu đến nói.

Hôm sau Ca-lưu tới nhà bà quả phụ, bà nói hết những điều khổ cực của con mình, và thưa: Do Đại đức mà có cuộc hôn nhân này, Đại đức vì tôi đến nói giúp.

Ca-lưu trả lời: Con của bà vô phúc mới gặp cảnh khổ này, nếu có phúc thì cơ sự đâu đến nỗi như vậy. Pháp của Sa-môn, không cho tôi biết đến sự việc ấy của người thế tục.

Bà quả phụ liền mắng: Trước kia biết việc của người, nay lại nói không biết, người ác như thế thì cuối cùng sẽ không ra chi. Bà ta tru tréo đủ cách, ngôn từ hết sức cay nghiệt mắng nhiếc Ca-lưu.

Người hàng xóm nghe đều đến can, nói: Con của bà bạc phước nên mới chịu lắm cái khổ như vậy, chứ can chi đến Sa-môn này mà mắng nhiếc ông ta thậm tệ như thế?

Bà quả phụ nói: Các người đâu có biết gì, do Sa-môn này xuôi tôi gả con nên con bé nhà tôi mới chịu khổ cực như vậy.

Lúc này, những người thiếu lòng tin đối với Phật pháp đều buông lời mỉa mai: Bà tin Sa-môn nên con bà chịu khổ là đáng đời! Nếu ai còn tin lời họ thì cứ coi đó mà tin!

Mọi người lại mắng nhiếc: Chúng ta là Cư sĩ, sự thường làm mai mối, Sa-môn Thích tử cũng làm như vậy. Việc làm thường tình này khiến họ và ta có khác gì đâu, khác chăng là cái đầu trọc và chiếc áo hoại sắc!

Tiếng xấu ấy đồn vang khắp cả gần xa, các Tỳ-kheo Trưởng lão nghe được liền bằng mọi cách quở trách, rồi cùng nhau đến chỗ Đức Phật, trình bày lên Ngài việc đã xảy ra. Nhân việc này, Đức Phật tập hợp Tỳ-kheo Tăng, hỏi Ca-lưu:

– Thật sự ông có như vậy không?

Ca-lưu thưa:

– Bạch Đức Thế Tôn! Sự thật có như vậy.

Đức Phật bằng mọi cách quở trách rồi, bảo các Tỳ-kheo:

– Do mười điều lợi nên Ta vì các Tỳ-kheo kiết giới. Từ nay giới này được nói như sau: “Nếu Tỳ-kheo nào làm mai mối, phạm Tăng-giàbà-thi-sa”.

Bấy giờ, các nhà hào phú nơi thành Xá-vệ muốn làm việc tư thông với các đồng nữ đã lớn tuổi trong thành, nhưng họ tự xấu hổ không dám nói lên ý muốn của mình, lại không nhờ được ai, bèn nói với nhóm Lục quần Tỳ-kheo: Thầy có thể vì tôi nói điều đó, cần chi tôi sẽ lo liệu. Một ngày một đêm cho đến một lần gặp nhau là bao nhiêu? Lục quần Tỳkheo liền đến chỗ các người nữ, nói rõ ràng vấn đề trên. Những người thấy biết việc làm ấy đều cùng nhau đồn đại: Sa-môn Thích tử tịnh tu phạm hạnh, tại sao nay lại làm nghiệp ác này. Chỗ nhục nhã là câu kết, hợp tác với đám tà dâm, không phải là Cư sĩ. Các Sa-môn này chẳng còn chút hổ thẹn nào cả!

Các Tỳ-kheo Trưởng lão nghe, bằng mọi cách quở trách, rồi cùng đưa đến chỗ Phật, trình bày lên Ngài sự việc. Đức Phật nhân việc này tập hợp các Tỳ-kheo Tăng, hỏi Tỳ-kheo Lục quần:

– Sự thật các ông có như vậy không?

Lục quần Tỳ-kheo thưa:

– Bạch Đức Thế Tôn! Sự thật có như vậy.

Đức Phật bằng mọi cách quở trách rồi bảo các Tỳ-kheo:

– Từ nay giới này được nói như sau: “Nếu Tỳ-kheo làm việc mai mối, hay làm việc tư thông, đem ý người nam đến nói với người nữ, đem ý người nữ đến nói với người nam, cho đến một lần gặp gỡ, phạm Tănggià-bà-thi-sa”.

Có mười hạng nam, mười hạng nữ. Mười hạng nữ: Cha mẹ bảo hộ, anh chị bảo hộ, bà con bảo hộ, tự bảo hộ, pháp bảo hộ, tự ý mình nhận y vật, cùng thề, có chủ và tác tín. Cha mẹ bảo hộ: Là người nữ có cha mẹ, cha mẹ có quyền cưới gả, có quyền định đoạt. Anh chị, bà con cũng như vậy. Tự bảo hộ: Tự mình được tự tại, tự mình ưng hay không ưng ai, tự mình quyết định. Pháp bảo hộ: Là chánh pháp, xuất gia tu hành phạm hạnh. Tự ý mình: Tự theo sở thích của mình. Y vật: Là nhận y vật của người khác. Cùng thề: Cùng người hứa hẹn. Có chủ: Người nữ có chồng. Tác tín: Nhận bưu thiếp của người, đưa đến sự hứa hẹn một ngày một tháng, cho đến một lần gặp gỡ. Mười hạng nam cũng như vậy. Nếu Tỳkheo nhận lời của người nam có cha mẹ bảo hộ, phạm Đột-kiết-la. Nói với người nữ có cha mẹ bảo hộ, cho đến người nữ tác tín, phạm Thâulan-giá. Họ không chấp thuận, trở lại báo, phạm Thâu-lan-giá. Họ hứa gả trở lại báo, phạm Tăng-già-bà-thi-sa. Nếu Tỳ-kheo nhận lời nói của người nam có cha mẹ bảo hộ, nói với người nữ có cha mẹ bảo hộ, người nữ nói: Có thể nói với cha mẹ tôi. Tỳ-kheo đem lời nói này trở lại trả lời, phạm Thâu-lan-giá. Người nam có cha mẹ bảo hộ lại khiến Tỳkheo nói với cha mẹ người nữ kia, nhận lời nói này, phạm Đột-kiết-la. Nói với cha mẹ người nữ kia, cho đến không chấp thuận, trở lại trả lời, phạm Thâu-lan-giá, hứa thuận trở lại trả lời, phạm Tăng-già-bà-thi-sa. Nhận lời nói của người nam có cha mẹ bảo hộ, nói với người nữ có anh chị, bà con bảo hộ cũng như vậy. Cho đến nhận lời nói của người nam tác tín, nói với người nữ có cha mẹ bảo hộ, cho đến nói với người nữ tác tín, cũng như vậy. Nếu Tỳ-kheo nhận lời nói của người nữ có cha mẹ bảo hộ, cho đến người nữ tác tín, nói với người nam có cha mẹ bảo hộ, cho đến nói với người nam tác tín, cũng lại như vậy.

Có sáu cách nói: Tự mình nói, sai người nói, viết thư nói, sai người này sai người khác nói, nói lời tương tự, ra dấu. Nếu Tỳ-kheo tự mình nhận lời, tự mình nói với người kia, tự mình trở lại trả lời, phạm Tănggià-bà-thi-sa. Nếu Tỳ-kheo tự mình nhận lời, sai người đến nói người kia, sai người trở lại trả lời, đều phạm Tăng-già-bà-thi-sa. Tự mình nhận lời, cho đến ra dấu nói với người kia, ra dấu trở lại trả lời, cũng như vậy. Nếu Tỳ-kheo nhận lời nói bằng cách ra dấu, cũng như vậy. Nếu Tỳ-kheo vì người bên nam hay người bên nữ, làm việc mai mối, phạm Tăng-già-bà-thi-sa. Vì người nam tiến hành việc mai mối với bên phi nhân nữ, phạm Thâu-lan-giá. Vì người nam, làm việc mai mối, với bên súc sinh cái, phạm Đột-kiết-la. Vì người nữ cũng như vậy. Vì phi nhân nam làm mai mối với bên người nữ phạm Thâu-lan-giá. Vì súc sinh đực làm mai mối với bên người nữ, phạm Đột-kiết-la. Vì người nữ làm mai mối với bên huỳnh môn, phạm Đột-kiết-la. Nếu Tỳ-kheo vì người nam mượn người nữ, vì người nữ mượn người nam, để sai khiến lâu dài, phạm Thâu-lan-giá. Tỳ-kheo-ni phạm cũng như vậy. Thức-xoama-na, Sa-di, Sa-di-ni phạm Đột-kiết-la. Không phạm: Vì hòa hợp.

Xong giới thứ năm.

Đức Phật ở tại thành Xá-vệ. Khi ấy, các Tỳ-kheo ở ấp A-đồ-bệ, tự xin vật liệu để làm phòng xá, đến các Cư sĩ xin xe cộ, trị giá bằng xe cộ, xin nhân công, trị giá bằng nhân công, gỗ cây tre trúc thứ gì cũng xin. Cư sĩ chán ngấy, thấy Tỳ-kheo là tránh xa. Các Tỳ-kheo xin không được thứ gì nữa cả, bèn tự mình chặt cây phát cỏ, đào đất làm vật liệu. Có một Đại đức Tỳ-kheo tự mình chặt cây của vị thần, trong khi đứa con nhỏ của vị thần đang vui chơi nơi cây, bị chặt đứt một ngón tay. Thần cây đau khổ vô cùng, ý ác nổi dậy muốn đến đánh Tỳ-kheo, song liền nghĩ lại: Vị này có oai đức lớn, nếu ta đánh lỡ tay bị chết, chắc chắn phải nhận lấy tăm tối triền miên của bao điều khổ não. Vị thần lại nghĩ: Hiện nay Đức Thế Tôn ở tại thành này, ta nên đến trình bày việc này, Đức Phật dạy sao thì ta phụng hành thế ấy. Vị thần liền đến Kỳ-hoàn trình bày đầy đủ vấn đề lên Đức Phật. Ngay lúc ấy, Đức Phật tán thán vị thọ thần:

– Hay thay! Hay thay! Ông có được niệm thiện như thế! Hiện nay Tỳ-kheo này thật có oai đức, nếu đánh, ắt phải thọ khổ báo.

Đức Phật lại bảo vị Thọ thần:

– Nơi vùng ấy có một cây rất lớn chưa thuộc về của ai, ông có thể đến đó nương tựa.

Nhận lời chỉ giáo vị Thọ thần ra đi. Với sự việc như vậy, trên đường du hành, Đức Phật chậm rải về ấp A-đồ-bệ.

Trưởng lão Đại Ca-diếp, sáng sớm đắp y bưng bát vào thành khất thực. Vì chuyện trên, các Cư sĩ trông thấy đều lánh mặt. Trưởng lão lấy làm lạ, hỏi người đi đường, họ nói: Các Tỳ-kheo ở đây xin vật liệu để làm phòng xá không biết thế nào là chán, người trong ấp lo nghĩ khổ tâm lắm nên thấy Tôn giả họ tránh là vậy. Tôn giả Đại Ca-diếp sau khi thọ thực trở về lại chỗ Đức Phật, trình bày sự việc lên Ngài. Nhân việc này, Đức Phật tập hợp Tỳ-kheo Tăng, hỏi các Tỳ-kheo:

– Sự thật các thầy có như vậy không?

Các Tỳ-kheo thưa:

– Bạch Thế Tôn! Sự thật có như vậy.

Đức Phật bằng mọi cách quở trách và nói:

– Các thầy nên tu hạnh ít ham muốn, biết vừa đủ, không nên có nhiều sự cầu xin không biết nhàm chán như vậy.

Đức Phật lại bảo các Tỳ-kheo:

– Vào đời quá khứ có một Tiên nhân ở trong hang đá bên bờ sông Hằng. Bấy giờ, Long vương hằng ngày từ nước xuất hiện, nhiễu quanh vị Tiên nhân bảy vòng, đưa đầu lên xuống để nêu bày sự cung kính. Sau đó, vị Tiên nhân du hành trong nhân gian, người đệ tử trông coi cái hang, con rồng cũng như trước kia, hằng ngày đến tỏ vẻ cung kính, nhưng người đệ tử quá hoảng sợ đâm ra suy nhược gầy đi trầm trọng. Thời ấy, Ta đang hành đạo Bồ-tát, du hóa bên bờ sông Hằng chứng kiến sự việc này, liền hỏi lý do, được người học trò của Tiên nhân thổ lộ sự thật. Ta lại hỏi: Nay ông không muốn thấy con rồng ấy nữa phải không? Người đệ tử trả lời: Đúng như vậy. Ta hỏi: Ông thấy dưới cổ con rồng có những vật gì hay không? Người đệ tử nói: Có hạt ngọc Ma-ni. Ta bảo: Khi con rồng tới, ông chấp tay hướng đến nó, nói lên ý muốn này: Nay ta cần hạt ngọc Ma-ni ở dưới cổ của ngươi, xin ngươi cho ta. Người đệ tử của Tiên nhân ghi nhận lời chỉ vẽ của Ta nên ngay khi con rồng từ dưới nước xuất hiện, liền ngỏ lời xin hạt minh châu. Con rồng nghe xin hạt minh châu liền đứng sững cả người, lặng thinh. Người đệ tử Tiên nhân lại vì Long vương nói kệ:

Long vương nay cần ngươi
Cho hạt châu dưới cổ
Lòng ta rất ưa thích!
Cớ sao lặng cả người?
Rồng liền dùng kệ đáp:
Tất cả gì ta cần
Đều được từ ngọc châu
Nay ông theo cầu xin
Vĩnh viễn ta không đến.
Như tiếng lửa vỡ bùng
Khiến lòng người khiếp sợ
Nay ta nghe ông nói
Hoảng hốt sợ nhiều hơn.

Bấy giờ, Đức Thế Tôn dẫn tích xưa, nói kệ:

Người xin không ai ưa
Xin mãi bị oán ghét
Long vương nghe tiếng xin
Một đi không trở lại.

Đức Phật bảo các Tỳ-kheo:

– Long vương thọ nghiệp báo tự nhiên, hãy còn không hoan hỷ nghe tiếng cầu xin. Nay các Cư sĩ làm ăn vất vả khổ nhọc mới có được của tiền, tại sao các ông không biết điều đó, lại cứ luôn luôn cầu xin.

Đức Phật bảo các Tỳ-kheo:

– Xưa kia, một thời Ta ở tại thành Xá-vệ, có Tỳ-kheo an cư xong, đến chỗ Ta, nhân đó Ta hỏi: Thầy an cư ở đâu? An cư có được an ổn không? Khất thực có dễ được không? Đi đường có nhọc mệt không?Tỳ-kheo kia trả lời: Con an cư tại khu rừng nơi sườn núi Tuyết, an cư được an ổn, khất thực dễ được, trên đường đi không nhọc mệt, duy chỉ có một điều đáng lo là các con chim ban đêm ồn ào, nên không chuyên niệm được trong khi tọa thiền tư duy. Ta hỏi Tỳ-kheo ấy: Nay thầy còn muốn vui với khu rừng đó nữa không? Tỳ-kheo ấy thưa: Bạch Thế Tôn! Con rất thích. Ta nói: Thầy về lại nơi đó lúc xẩm tối, muôn chim bay về, thầy chấp tay hướng đến nó nói: Nay ta cần những cánh lông của các ngươi, các ngươi có thể cho ta. Giữa đêm, sau đêm cũng nói như vậy. Tỳ-kheo kia làm y theo lời Ta bảo. Các con chim suốt đêm bàn nói: Nay Tỳ-kheo này xin ta điều đó, chúng ta có nên cho hay không? Chúng nó đều nói: Không thể cho được, rồi bay đi luôn, không trở lại.Đức Phật bảo các Tỳ-kheo:

– Loài chim còn không ưa nghe tiếng cầu xin, huống chi là người.

Đức Phật bảo các Tỳ-kheo:

– Thuở đời quá khứ có quốc vương tên là Ca-di, ưa làm việc bố thí, cung cấp cho người nghèo khổ. Khi ấy, có vị Phạm chí, được nhà Vua rất ái trọng, nhưng chưa bao giờ đến nhà Vua cầu xin thứ gì. Bấy giờ, nhà Vua nói kệ:

Phương xa, người đều đến
Khắp nơi tới ta xin
Nay sao ông tại chỗ
Không xin, có ý gì?
Phạm chí lại dùng kệ trả lời:
Người xin không ai thích
Không cho gây oán hờn
Thế nên im, không xin
Sợ lìa mất tình thân

Nhà Vua lại nói kệ:

Người trí đâu ghét xin
Lắng nghe rõ tiếng cầu
Huống ông, tình thân ái
Bao dung sẽ sẵn lòng.
Cam nghèo thẹn cầu xin
Chỗ đáng nhận không nhận
Mất người rộng lòng phước
Lại tự khổ lấy mình.
An bần cầu không thẹn
Nhận nơi chỗ đáng nhận
Vun xới thiện cho người
Cho tự thân an lạc.
Điều xin tròn đức hạnh
Cũng không lỗi miệng, thân
San sẻ giữa có không
Cớ sao lại chối từ!
Phạm chí lại dùng kệ trả lời:
Người hiền không nói xin
Nói xin chẳng phải hiền
Im lặng không cầu xin
Đại nhân ấy người hiền.

Nhà Vua nghe kệ nói về Hiền nhân, tâm rất hoan hỷ, liền đem một con bò chúa và một ngàn con bò khác để biếu tặng Hiền nhân Phạm chí.

Đức Phật bảo các Tỳ-kheo:

– Mối quan hệ giữa nhà Vua với Phạm chí tuy rất thân tình, song còn khó xảy ra sự cầu nhiều như thế, huống chi là các cư sĩ, đối với các thầy không có sự ái kính mà cầu xin nhiều sao?

Đức Phật lại bảo các Tỳ-kheo:

– Xưa kia có một người con thuộc nhà danh giá, tên là La-tra-bala, cha mẹ rất yêu quý, nhưng từ khi xuất gia không hề xin cha mẹ thứ gì. Ngạc nhiên, cha mẹ bằng lời kệ hỏi con:

Xa xôi người tìm tới
Khắp nơi đến ta xin
Con là con yêu quý
Không xin có ý gì?

La-tra-ba-la cũng dùng kệ trả lời:

Người xin không ai ưa
Đã không cho lại ghét
Con đã xuất ra rồi
Không nên cầu xin nữa.

– Này các Tỳ-kheo! La-tra-ba-la được cha mẹ yêu quý, còn lấy cớ xuất gia không trở về cầu xin, huống chi là các Cư sĩ, đối với các thầy đâu có thân hậu gì mà lại xin nhiều như thế?

Đức Phật bằng mọi hình thức, quở trách như vậy rồi, bảo các Tỳ-kheo:

– Do mười điều lợi, nên Ta vì các Tỳ-kheo kiết giới. Từ nay giới này được nói như sau: “Tỳ-kheo nào tự mình xin vật liệu làm nhà, không có thí chủ, phải làm đúng lượng, bề dài mười hai gang tay Phật, bề rộng bảy gang tay Phật, nên mời các Tỳ-kheo đến chỉ chỗ. Các Tỳkheo phải chỉ chỗ không có trở ngại, chỗ có đường đi. Nếu không mời các Tỳ-kheo đến chỉ chỗ, hoặc làm quá lượng, phạm Tăng-già-bà-thisa”.

Tự mình xin: Tỳ-kheo vì mình đến người khác xin.

Phòng: Là nơi có thể đi, đứng, ngồi, nằm, sinh hoạt theo bốn oai nghi.

Không có thí chủ: Không có người dâng cúng.

Vì mình: Vì chính mình chứ không vì người khác, cũng không vì Tăng.

Mời các Tỳ-kheo đến chỉ chỗ: Tức là mời các Tỳ-kheo biết pháp, trì luật đến chỉ chỗ cho mình.

Các Tỳ-kheo nên chỉ chỗ không có trở ngại, chỗ có đường đi: Chỗ trở ngại là chỗ ngả tư đường, nhiều người tụ họp, vui đùa, chỗ dâm nữ, chỗ chợ búa, chỗ thả trâu, chỗ sư tử, hổ lang, thú dữ, bên bờ sông nước xói, chỗ có đại thọ được thờ cúng, chỗ có ruộng vườn tốt, chỗ có phần mộ, chỗ quá gần hay quá xa thôn xóm, chỗ có đường đi hiểm trở. Như vậy gọi là chỗ trở ngại. Không có các nạn trên đây thì gọi là chỗ không có trở ngại.

Chỗ có đường đi: Là chỗ xung quanh có đường xe đi được. Như vậy gọi là chỗ có đường đi. Nếu chỗ có các trở ngại như trên đó là chỗ không có đường đi. Các Tỳ-kheo chỉ chỗ phải nói với các Tỳ-kheo kia: Thầy đừng nên xây cất ở chỗ này. Nếu chỗ không có các trở ngại như trên, chỗ có đường đi quanh thì các Tỳ-kheo nên nói với Tỳ-kheo kia: Thầy nên chọn xây cất nơi chỗ này. Tỳ-kheo đương sự phải đến chỗ Tăng cầu xin chỉ chỗ xây cất. Tỳ-kheo để trống vai bên phải, cởi bỏ giày dép, quỳ gối, chấp tay tác bạch trước Tăng như sau:

“Đại đức Tăng xin lắng nghe! Tôi Tỳ-kheo tên là ___ tự xin vật liệu làm phòng cho mình, không có thí chủ, nay đến xin Tăng chỉ chỗ, cúi xin Tăng hiện tiền chỉ chỗ cho tôi”. Xin Ba lần như vậy. Tăng nên sai một vị tác bạch:

Đại đức Tăng, xin lắng nghe, Tỳ-kheo này tên là ___ tự xin vật liệu làm phòng cho mình, không có thí chủ, nay đến xin Tăng chỉ chỗ. Nay Tăng vì Tỳ-kheo tên là ___ chỉ chỗ không có trở ngại, chỗ có đường đi. Nếu thời gian thích hợp đối với Tăng, Tăng chấp thuận. Đây là tác bạch.

Đại đức Tăng, xin lắng nghe, Tỳ-kheo này tên là ___ tự xin vật liệu làm phòng cho mình, không có thí chủ, nay đến xin Tăng chỉ chỗ. Nay Tăng vì Tỳ-kheo tên là ___ chỉ chỗ không có trở ngại, chỗ có đường đi. Các trưởng lão nào đồng ý thì im lặng, ai không đồng ý xin nói.

Tăng đã vì Tỳ-kheo tên là ___ chỉ chỗ không trở ngại, chỗ có đường đi rồi, Tăng đồng ý nên im lặng. Việc như vậy phải thi hành đúng như vậy.

Nếu Tăng chỉ chỗ có trở ngại, chỗ không có đường đi, thì Tăng phạm Đột-kiết-la. Nếu cất ở chỗ trở ngại này thì cũng như vậy. Không mời các Tỳ-kheo đến chỉ chỗ, thì từ khi nghĩ ra việc xây cất rồi hình thành chỗ đất đến xem đất sơ qua đều phạm Đột-kiết-la. Làm đất kỹ lưỡng phần nền, phạm Thâu-lan-giá. Cất xong, phạm Tăng-già-bà-thisa. Làm bằng tạp kim, ngân, châu báu và làm thành bằng ngói gạch, cho đến làm trong đất của Tăng, đều phạm Thâu-lan-giá, Sa-di phạm Đột-kiết-la.

Xong giới thứ sáu