LUẬN XÁ LỢI PHẤT A TỲ ĐÀM
Hán dịch: Đời Diêu Tần, Đại sư Đàm Ma Da Xá, Đàm Ma Quật Đa
Việt dịch: Phật tử Nguyên Huệ

 

QUYỂN 28

Phẩm thứ 10: ĐỊNH CỦA PHẦN ĐẦU MỐI, phần 1

Năm chi định. Năm trí định. Định của hơi thở vào, hơi thở ra nơi niệm chung. Định của tưởng bất tịnh chung. Định nhập hỏa. Định của thần túc chứng biết chung. Định của thiên nhĩ chứng biết chung. Định của tha tâm chứng biết chung. Định của túc mạng chứng biết chung. Định của tưởng ánh sáng chung. Định vô gián. Định căn. Định lực. Định chánh giác.

Định chánh. Định tà. Định Thánh. Định không phải Thánh. Định hữu lậu. Định vô lậu. Định có nhiễm. Định không nhiễm. Định có mong cầu. Định không mong cầu. Định nên nhận lấy. Định không phải nên nhận lấy. Định có chấp giữ. Định không chấp giữ. Định có vượt hơn. Định không vượt hơn. Định có thọ nhận. Định không thọ nhận. Định trong. Định ngoài. Định có báo. Định không báo.

Định của phàm phu chung. Định của phàm phu không chung. Định của không phải phàm phu chung. Định của không phải phàm phu không chung. Định của Thanh văn chung. Định của Thanh văn không chung. Định của không phải Thanh văn chung. Định của không phải Thanh văn không chung.

Định như ánh chớp. Định như kim cương. Định không nhất định được. Định nhất định được. Định có hành khó giữ. Định không hành dễ giữ. Định tu một phần. Định tu hai phần.

Định có tưởng. Định không tưởng. Định như sự. Định tưởng nhớ. Định lìa tưởng sắc. Định không lìa tưởng sắc. Định nhập vượt hơn. Định nhập khắp. Định có giác. Định không giác. Định có quán. Định không quán. Định có hỷ. Định không hỷ. Định của vị chung. Định của xả chung.

Định tương ưng với nhẫn. Định không phải tương ưng với nhẫn. Định tương ưng với trí. Định không phải tương ưng với trí. Định của nhẫn là bắt đầu. Định của trí là bắt đầu. Định của dục là sau cùng. Định bắt đầu sinh.

Định thiện. Định bất thiện. Định vô ký. Định học. Định vô học. Định phi học phi vô học. Định báo. Định của pháp báo. Định không phải báo không phải pháp báo. Định do kiến đoạn. Định do tư duy đoạn. Định không phải do kiến đoạn, không phải do tư duy đoạn. Định là nhân của kiến đoạn. Định là nhân của tư duy đoạn. Định là nhân của không phải do kiến đoạn, không phải do tư duy đoạn.

Định hạ. Định trung. Định thượng. Định thô. Định tế. Định vi. Định có giác có quán. Định không giác có quán. Định không giác không quán. Định không. Định vô tướng. Định vô nguyện. Định ba nguyện được. Định không phải ba nguyện được.

Định thân nội quán thân nội. Định thân ngoại quán thân ngoại. Định thân nội ngoại quán thân nội ngoại. Định thọ nội quán thọ nội. Định thọ ngoại quán thọ ngoại. Định thọ nội ngoại quán thọ nội ngoại. Định tâm nội quán tâm nội. Định tâm ngoại quán tâm ngoại. Định tâm nội ngoại quán tâm nội ngoại. Định pháp nội quán pháp nội. Định pháp ngoại quán pháp ngoại. Định pháp nội ngoại quán pháp nội ngoại.

Định của cảnh giới nội. Định của cảnh giới ngoại. Định của cảnh giới nội ngoại. Định của cảnh giới chúng sinh. Định của cảnh giới sắc. Định của cảnh giới vô sắc. Định của cảnh giới chúng sinh.

Định của cảnh giới hữu vi. Định của cảnh giới vô vi. Định của cảnh giới chúng sinh. Định của cảnh giới pháp. Định của cảnh giới không có. Định của cảnh giới chúng sinh.

Định ít. Định trung bình. Định vô lượng. Định của cảnh giới ít. Định của cảnh giới trung bình. Định của cảnh giới vô lượng. Định ít cảnh giới ít. Định ít cảnh giới trung bình. Định ít cảnh giới vô lượng. Định trung bình cảnh giới ít. Định trung bình cảnh giới trung bình. Định trung bình cảnh giới vô lượng. Định vô lượng cảnh giới ít. Định vô lượng cảnh giới trung bình. Định vô lượng cảnh giới vô lượng.

Định trụ ít. Định trụ trung bình. Định trụ vô lượng. Định ít trụ ít. Định ít trụ trung bình. Định ít trụ vô lượng. Định trung bình trụ ít. Định trung bình trụ trung bình. Định trung bình trụ vô lượng. Định vô lượng trụ ít. Định vô lượng trụ trung bình. Định vô lượng trụ vô lượng. Định quá khứ. Định vị lai. Định hiện tại. Định của cảnh giới quá khứ. Định của cảnh giới vị lai. Định của cảnh giới hiện tại. Định của cảnh giới không phải quá khứ, không phải vị lai, không phải hiện tại.

Định hệ thuộc cõi dục. Định hệ thuộc cõi sắc. Định hệ thuộc cõi vô sắc. Định không hệ thuộc. Định tạo tác không phải lìa. Định lìa không phải tạo tác. Định tạo tác cũng là lìa. Định không phải tạo tác cũng không phải lìa. Định nhận lấy không phải phát ra. Định phát ra không phải nhận lấy. Định nhận lấy cũng là phát ra. Định không phải nhận lấy cũng không phải phát ra.

Định có nhiễm không phải lìa nhiễm. Định lìa nhiễm không phải có nhiễm. Định có nhiễm cũng lìa nhiễm. Định không phải có nhiễm cũng không phải lìa nhiễm. Định có ách không phải lìa ách. Định lìa ách không phải có ách. Định có ách cũng lìa ách. Định không phải có ách cũng không phải lìa ách.

Định của quả trí không phải quả đoạn. Định của quả đoạn không phải quả trí. Định của quả trí cũng là quả đoạn. Định không phải quả trí cũng không phải quả đoạn. Định của quả trí không phải quả đắc. Định của quả đắc không phải quả trí. Định của quả trí cũng là quả đắc. Định không phải quả trí cũng không phải quả đắc.

Định tận không phải giác. Định giác không phải tận. Định tận cũng là giác. Định không phải tận cũng không phải giác. Định xét không phải giải. Định giải không phải xét. Định xét cũng là giải. Định không phải xét cũng không phải giải.

Định của phần thoái chuyển. Định của phần trụ. Định của phần tăng trưởng. Định của phần xét. Định của phần thoái chuyển không phải phần trụ. Định của phần trụ không phải phần thoái chuyển. Định của phần thoái chuyển cũng là phần trụ. Định không phải thoái chuyển cũng không phải phần trụ.

Định của phần thoái chuyển không phải phần tăng trưởng. Định của phần tăng trưởng không phải phần thoái chuyển. Định của phần thoái chuyển cũng là phần tăng trưởng. Định không phải phần thoái chuyển cũng không phải phần tăng trưởng.

Định của phần thoái chuyển không phải phần xét. Định của phần xét không phải phần thoái chuyển. Định của phần thoái chuyển cũng là phần xét. Định không phải phần thoái chuyển cũng không phải phần xét.

Định của phần trụ không phải phần tăng trưởng. Định của phần tăng trưởng không phải phần trụ. Định của phần trụ cũng là phần tăng trưởng. Định không phải phần trụ cũng không phải phần tăng trưởng.

Định của phần trụ không phải phần xét. Định của phần xét không phải phần trụ. Định của phần trụ cũng là phần xét. Định không phải phần trụ cũng không phải phần xét.

Định của phần tăng trưởng không phải phần xét. Định của phần xét không phải phần tăng trưởng. Định của phần tăng trưởng cũng là phần xét. Định không phải phần tăng trưởng cũng không phải phần xét.

Bốn niệm xứ. Bốn chánh đoạn. Bốn thần túc. Bốn thiền. Bốn vô lượng. Bốn định vô sắc. Bốn hướng đạo. Bốn quả. Bốn tu định. Bốn đoạn.

Năm căn. Năm lực. Năm giải thoát nhập. Năm cõi xuất. Năm quán định. Năm pháp sinh giải thoát.

Sáu niệm. Sáu định. Sáu cõi xuất. Sáu pháp phần minh. Sáu pháp của căn vui thích. Sáu chánh giác không có hỷ.

Bảy giác. Bảy tưởng. Bảy pháp cần của định.

Tám Thánh đạo. Tám giải thoát. Tám thắng nhập.

Chín diệt. Chín định thứ đệ diệt. Chín tưởng.

Mười chánh pháp. Mười biến nhập. Mười một giải thoát nhập.

Hỏi: Thế nào là năm chi định?

Đáp: Như Đức Phật bảo các Tỳ-kheo: Hãy lắng nghe, nghe cho kỹ, khéo suy nghĩ! Ta sẽ vì các ông nói về năm chi định của Thánh.

Các Tỳ-kheo thưa: Vâng, chúng con xin vâng lời Phật dạy.

Thế nào là được tu năm chi chánh định của Thánh?

Như Tỳ-kheo lìa dục ác bất thiện, có giác có quán, ly sinh hỷ lạc, thành tựu hành của thiền thứ nhất. Thân này đạt ly sinh hỷ lạc, thấm nhuần đầy khắp. Thân này đều ly sinh hỷ lạc, thấm nhuần đầy khắp không có giảm thiểu, như thầy khéo tắm gội, hoặc đệ tử của thầy khéo tắm gội, dùng táo đậu mịn hòa trong chậu đầy nước, rồi dùng nước rưới vừa phải nơi thân, kỳ cọ, động tác này giúp cho sự thấm nhuần đầy khắp, không khô, không ướt, điều hòa cả trong lẫn ngoài. Như thế, thân Tỳ-kheo được ly sinh hỷ lạc, thấm nhuần đầy khắp, không có giảm thiểu, đó gọi là tu chi định thứ nhất của năm chi Thánh.

Lại nữa, Tỳ-kheo diệt giác quán, nội chánh tín, nhất tâm, không giác không quán, định sinh hỷ lạc, thành tựu hành của thiền thứ hai. Thân này đạt định sinh hỷ lạc, thấm nhuần đầy khắp. Thân này đều là định sinh hỷ lạc, thấm nhuần đầy khắp, không có giảm thiểu, như nước nơi hồ rộng từ đáy hồ vọt ra, không từ phương đông, phương nam, tây, bắc đến. Nước này là từ nơi đáy hồ tuôn ra, có thể khiến cho ao thấm nhuần tràn đầy khắp, không có giảm thiểu. Như thế Tỳkheo, thân này được định sinh hỷ lạc, thấm nhuần đầy khắp. Thân này được định sinh hỷ lạc, thấm nhuần đầy khắp không có giảm thiểu, đó gọi là tu chi định thứ hai của năm chi định Thánh.

Lại nữa, Tỳ-kheo! Lìa hỷ xả, hành niệm chánh trí, thân thọ nhận vui, như hành giải xả niệm lạc của các Thánh nhân, thành tựu hành của thiền thứ ba. Thân này không có hỷ lạc, thấm nhuần đầy khắp. Thân này không có hỷ lạc, thấm nhuần đầy khắp, không có giảm thiểu. Như ao hoa Ưu-bát-la, ao hoa Cưu-đầu-ma, ao hoa Bátđầu-ma, ao hoa Phân-đà-lợi, các hoa kia từ trong bùn xuất sinh, chưa có thể ra khỏi nước. Các hoa này từ rễ đến đầu, từ đầu đến rễ, đều thầm nhuần đầy khắp, không có giảm thiểu. Như thế Tỳ-kheo, thân này có vô lượng hỷ lạc, thấm nhuần đầy khắp. Thân này thấm nhuần đầy khắp, không có giảm thiểu, đó gọi là tu chi định thứ ba của năm chi định Thánh.

Lại nữa, Tỳ-kheo đoạn trừ khổ vui, trước là diệt ưu hỷ, không khổ không vui, xả niệm tịnh, thành tựu hành của thiền thứ tư. Thân này do tâm thanh tịnh, giải hành khắp. Thân này do tâm thanh tịnh, giải hành khắp, không có giảm thiểu. Như người nam, người nữ mặc quần áo trắng sạch phủ kín từ đầu đến chân, từ chân đến đầu. Như thế Tỳ-kheo do tâm thanh tịnh giải hành khắp. Thân này do tâm thanh tịnh giải hành khắp không có giảm thiểu, đó gọi là tu chi định thứ tư của năm chi định Thánh.

Lại nữa, Tỳ-kheo nhận lấy tướng quán khéo tư duy hành giải. Như người đứng ngắm xem người ngồi, như người ngồi xem người nằm. Như thế, Tỳ-kheo khéo nhận lấy tướng quán, khéo tư duy hành giải, đó gọi là tu chi định thứ năm của năm chi định Thánh.

Như thế, Tỳ-kheo tu năm chi định của Thánh, gần gũi tu học nhiều xong, muốn chứng pháp thông, hy vọng muốn chứng, tùy tâm đã muốn tức có thể được chứng, tự biết không có trở ngại. Như ở chỗ ngả tư đường, có người khéo điều phục ngựa, khéo đóng ngựa vào xe. Có người khéo điều khiển xe. Cỡi lên xe xong thì tùy ý tự tại.

Như thế, Tỳ-kheo thân cận năm chi định của Thánh, tu học nhiều xong, muốn chứng pháp thông, hy vọng muốn chứng, tùy tâm đã muốn tức có thể được chứng, tự tại vô ngại. Như chiếc bình đựng đầy nước chắc chắn, nước không rò rỉ, dùng đựng đầy nước sạch, vì muốn tùy theo người dùng riêng, như ý tự tại.

Như thế, Tỳ-kheo thân cận năm chi định của Thánh, tu học nhiều xong, muốn chứng pháp thông, hy vọng muốn chứng, tùy tâm đã muốn đều tự tại vô ngại. Như nước tràn ngập khắp khe suối, được uống, như người quyết định dùng, như ý tự tại, tùy theo chỗ đã quyết định, tức xuất phát.

Như thế, Tỳ-kheo thân cận năm chi định của Thánh, tu học nhiều xong, muốn chứng pháp thông, hy vọng muốn chứng, tùy thuận tâm đã mong muốn, liền có thể được chứng, tự tại vô ngại. Như Tỳ-kheo muốn thọ nhận vô lượng từng ấy thứ thần túc chuyển động đại địa, có thể dùng một làm thành nhiều, dùng nhiều làm thành một, cho đến thân Phạm thiên cũng được tự tại, tùy đối tượng có thể nhập, như nơi Phẩm Trí đã nói.

Như Tỳ-kheo muốn thọ nhận thiên nhĩ thanh tịnh, vượt hơn người, có thể nghe được tiếng nói của nhân, phi nhân, tùy từng nơi chốn đều có thể nhập. Như Tỳ-kheo muốn thọ nhận sự biết tâm ý của các chúng sinh khác, tức có thể nhận biết người có tâm dục, nhận biết như thật là có tâm dục. Người không có tâm dục, tức nhận biết như thật là không có tâm dục. Cho đến tâm không vượt hơn đều nhận biết như thật là tâm không có vượt hơn, tùy theo nơi chốn đều có thể nhập, như Phẩm Trí đã nói.

Như Tỳ-kheo muốn thọ nhận sự nhớ nghĩ đến vô lượng thọ mạng của đời trước, có thể nhớ lại một đời, hai đời, ba đời, bốn đời, năm đời, cho đến thành tựu hành này, tùy theo đối tượng đều có thể nhập, như Phẩm Trí đã nói.

Như Tỳ-kheo hiền thiện muốn thọ nhận thiên nhãn thanh tịnh, vượt hơn người, có thể thấy rõ các chúng sinh theo sinh tử, cho đến như nghiệp báo, tùy nơi chốn có thể nhập, như Phẩm Trí đã nói.

Như Tỳ-kheo hiền thiện muốn nhận lãnh sự việc dứt hết hữu lậu, thành tựu vô lậu, được tâm giải thoát, tuệ giải thoát, hiện đời tự trí chứng, thành tựu hạnh: Nẻo sinh tử của ta đã dứt, phạm hạnh đã lập, việc làm đã làm xong, không còn thọ hữu nữa, tùy theo nơi chốn đều có thể nhập.

Như thế, tu năm chi định của Thánh, thân cận, tu học nhiều xong, tức được quả báo như thế.

Hỏi: Thế nào là Tỳ-kheo lìa dục pháp ác bất thiện, có giác có quán, được ly sinh hỷ lạc, thành tựu hành của thiền thứ nhất?

Đáp: Như Tỳ-kheo đối với tất cả pháp hữu vi, hoặc là pháp hữu vi của một xứ, tư duy về vô thường, nhận biết vô thường, hành giải vô thường, thọ nhận vô thường, quán không phóng dật như thế, lìa dục pháp ác bất thiện, có giác có quán, được ly sinh hỷ lạc, thành tựu hành của thiền thứ nhất. Như thế, Tỳ-kheo đã lìa dục pháp ác bất thiện, có giác có quán, được ly sinh hỷ lạc, thành tựu hành của thiền thứ nhất. Như thế, cho đến quán thấy tử thi ở trên đống lửa, như một chi định của phẩm Đạo đã nói rộng.

Lại nữa, Tỳ-kheo tư duy như thế này: Nội tâm của ta có dục nhiễm, nhận biết như thật là có dục nhiễm, nếu nội tâm không có dục nhiễm, nhận biết như thật là không có dục nhiễm. Như dục nhiễm chưa sinh nhận biết như thật là chưa sinh. Như dục nhiễm chưa sinh, đang sinh, nhận biết như thật là đang sinh. Như dục nhiễm sinh rồi đoạn, nhận biết như thật là đoạn. Như dục nhiễm đoạn rồi, nhận biết như thật là không còn sinh nữa. Nội tâm có giận dữ, thùy miên, trạo cử, hối, nghi cũng như thế.

Quán không phóng dật như thế, lìa dục pháp ác bất thiện, có giác có quán, được ly sinh hỷ lạc, thành tựu hành của thiền thứ nhất. Tỳ-kheo như thế là lìa dục pháp ác bất thiện, có giác có quán, được ly sinh hỷ lạc, thành tựu hành của thiền thứ nhất.

Lại nữa, Tỳ-kheo tư duy như thế này: Mắt nhận thức sắc, nội tâm của ta có dục nhiễm, giận dữ, nhận biết như thật là có dục nhiễm, giận dữ. Mắt nhận thức sắc, nội tâm không có dục nhiễm, giận dữ, như chưa sinh giận dữ, dục nhiễm khi mắt nhận thức sắc, thì nhận biết như thật là chưa sinh. Khi mắt nhận thức sắc, dục nhiễm, giận dữ chưa sinh giờ đã sinh, nhận biết như thật là đã sinh. Như dục nhiễm giận dữ đã sinh khi mắt nhận thức sắc đã đoạn xong, nhận biết như thật là đã đoạn. Như dục nhiễm giận dữ khi mắt nhận thức sắc đã đoạn rồi, thì nhận biết như thật là không còn sinh nữa. Tai nhận thức âm thanh, cho đến ý nhận biết pháp cũng như thế.

Quán không phóng dật như thế, lìa dục pháp ác bất thiện, có giác có quán, được ly sinh hỷ lạc, thành tựu hành của thiền thứ nhất.

Tỳ-kheo như thế là lìa dục pháp ác bất thiện, có giác có quán, được ly sinh hỷ lạc, thành tựu hành của thiền thứ nhất.

Lại nữa, Tỳ-kheo tư duy như thế này: Nội tâm của ta có niệm chánh giác, nhận biết như thật là có niệm chánh giác, nội tâm không có niệm chánh giác thì nhận biết như thật là không có niệm chánh giác. Như niệm chánh giác chưa sinh, nhận biết như thật là chưa sinh. Như niệm chánh giác chưa sinh, đang sinh, nhận biết như thật là đang sinh. Như niệm chánh giác sinh rồi, tu đầy đủ, nhận biết như thật là tu đầy đủ. Tu trạch pháp chánh giác, tinh tấn chánh giác, hỷ chánh giác, trừ (khinh an) chánh giác, định chánh giác, xả chánh giác cũng như vậy.

Quán không phóng dật như thế, lìa dục pháp ác bất thiện, có giác có quán, được ly sinh hỷ lạc, thành tựu hành của thiền thứ nhất. Tỳ-kheo như thế là lìa dục pháp ác bất thiện, có giác có quán, được ly sinh hỷ lạc, thành tựu hành của thiền thứ nhất.

Lại nữa, Tỳ-kheo nhận biết như thật về khổ, khổ tập, khổ diệt, khổ diệt đạo, nhận biết như thật về lậu, lậu tập, lậu diệt, lậu diệt đạo.

Quán không phóng dật như thế, lìa dục pháp ác bất thiện, có giác có quán, được ly sinh hỷ lạc, thành tựu hành của thiền thứ nhất. Tỳ-kheo như thế là lìa dục pháp ác bất thiện, có giác có quán, được ly sinh hỷ lạc, thành tựu hành của thiền thứ nhất.

Lại nữa, Tỳ-kheo vì tâm sợ hãi, nên ra khỏi tất cả hữu vi, nhập giới cam lộ. Sự tĩnh lặng thắng diệu này đã lìa bỏ tất cả hữu vi, là Niết-bàn dứt hết ái.

Quán không phóng dật như thế, lìa dục pháp ác bất thiện, có giác có quán, được ly sinh hỷ lạc, thành tựu hành của thiền thứ nhất. Tỳ-kheo như thế là lìa dục pháp ác bất thiện, có giác có quán, được ly sinh hỷ lạc, thành tựu hành của thiền thứ nhất. Thiền thứ hai, thiền thứ ba, thiền thứ tư cũng nói như thế.

Hỏi: Thế nào là Tỳ-kheo khéo nhận lấy tướng quán, khéo tư duy, khéo hành giải?

Đáp: Như Tỳ-kheo đối với tất cả pháp hữu vi, hoặc là pháp hữu vi của một xứ, tư duy về vô thường, nhận biết vô thường, hành giải vô thường, thọ nhận vô thường.

Quán không phóng dật như thế, lìa dục pháp ác bất thiện, có giác có quán, được ly sinh hỷ lạc, thành tựu hành của thiền thứ nhất. Như Tỳ-kheo, nếu hành hoặc theo pháp tướng, lìa dục pháp ác bất thiện, có giác có quán, được ly sinh hỷ lạc, thành tựu hành của thiền thứ nhất. Nếu nơi pháp tướng khéo nhận lấy tốt, khéo tư duy, khéo hành giải, khéo nhận thức, thuận với thức, duyên nơi thức, phân biệt, thuận với phân biệt, duyên nơi phân biệt.

Tỳ-kheo như thế là khéo nhận lấy tướng quán, khéo tư duy, khéo hành giải.

Lại nữa, Tỳ-kheo đối với tất cả pháp hữu vi, hoặc là pháp hữu vi của một xứ, tư duy về khổ bệnh, ung nhọt, mũi tên, là lỗi lầm của vị, là nương dựa, duyên nơi pháp hư hoại bất định, không đầy, có thể tan hoại, là khổ, không, vô ngã. Tư duy về duyên, nhận biết duyên, thọ nhận duyên, tức vô minh duyên hành, hành duyên thức, thức duyên danh sắc, danh sắc duyên sáu nhập, sáu nhập duyên xúc, xúc duyên thọ, thọ duyên ái, ái duyên thủ, thủ duyên hữu, hữu duyên sinh, sinh duyên lão tử ưu bi khổ não, chúng khổ tụ tập.

Quán không phóng dật như thế, lìa dục pháp ác bất thiện, có giác có quán, được ly sinh hỷ lạc, thành tựu hành của thiền thứ nhất. Như Tỳ-kheo, nếu ở nơi pháp tướng, lìa dục pháp ác bất thiện, có giác có quán, được ly sinh hỷ lạc, thành tựu hành của thiền thứ nhất. Nếu hành hoặc ở nơi pháp tướng, khéo nhận lấy tướng, khéo tư duy, khéo hành giải, khéo nhận thức, thuận với thức, duyên nơi thức, phân biệt, thuận với phân biệt, duyên nơi phân biệt.

Tỳ-kheo như thế là khéo nhận lấy tướng quán, khéo tư duy, khéo hành giải.

Lại nữa, Tỳ-kheo đối với tất cả pháp hữu vi, hoặc là pháp hữu vi của một xứ, tư duy về pháp diệt, nhận biết diệt, hành giải diệt, thọ nhận diệt: Vô minh diệt thì hành diệt, hành diệt thì thức diệt, thức diệt thì danh sắc diệt, danh sắc diệt thì sáu nhập diệt, sáu nhập diệt thì xúc diệt, xúc diệt thì thọ diệt, thọ diệt thì ái diệt, ái diệt thì thủ diệt, thủ diệt thì hữu diệt, hữu diệt thì sinh diệt, sinh diệt thì lão tử, ưu, bi, khổ não, chúng khổ tụ tập diệt.

Quán không phóng dật như thế, lìa dục pháp ác bất thiện, có giác có quán, được ly sinh hỷ lạc, thành tựu hành của thiền thứ nhất. Như Tỳ-kheo, nếu hành nơi pháp tướng, lìa dục pháp ác bất thiên, có giác có quán, được ly sinh hỷ lạc, thành tựu hành của thiền thứ nhất. Nếu hành hoặc ở nơi pháp tướng, khéo nhận lấy tướng, khéo tư duy, khéo hành giải, khéo nhận thức, thuận với thức, duyên nơi thức, phân biệt, thuận với phân biệt, duyên nơi phân biệt.

Tỳ-kheo như thế là khéo nhận lấy tướng quán, khéo tư duy, khéo hành giải.

Lại nữa, Tỳ-kheo đi, nhận biết đi vui, đứng nhận biết đứng vui, ngồi nhận biết ngồi vui, nằm nhận biết nằm. Như thế, thân trụ nơi vui, nhận biết như thật là trụ nơi vui.

Quán không phóng dật như thế, lìa dục pháp ác bất thiện, có giác có quán, được ly sinh hỷ lạc, thành tựu hành của thiền thứ nhất. Như Tỳ-kheo, nếu hành hoặc ở nơi pháp tướng, lìa dục pháp ác bất thiện, có giác có quán, được ly sinh hỷ lạc, thành tựu hành của thiền thứ nhất. Nếu hành hoặc ở nơi pháp tướng, khéo nhận lấy tướng, khéo tư duy, khéo hành giải, khéo nhận thức, thuận với thức, duyên nơi thức, phân biệt, thuận với phân biệt, duyên nơi phân biệt.

Tỳ-kheo như thế là khéo nhận lấy tướng quán, khéo tư duy, khéo hành giải.

Lại nữa, Tỳ-kheo từ đi, lại, co, duỗi, cho đến vì tâm sợ hãi, nên ra khỏi tất cả hữu vi, nhập cõi cam lộ cũng nói như thế. Thiền thứ hai, thiền thứ ba, thiền thứ tư cũng nói như vậy.

Hỏi: Thế nào là khéo nhận lấy tướng quán, khéo tư duy, khéo hành giải?

Đáp: Như Tỳ-kheo nơi tất cả pháp hữu vi, hoặc là pháp hữu vi của một xứ, tư duy về vô thường, nhận biết vô thường, hành giải vô thường, thọ nhận vô thường.

Quán không phóng dật như thế, lìa dục pháp ác bất thiện, có giác có quán, được ly sinh, hỷ lạc, thành tựu hành của thiền thứ nhất. Như Tỳ-kheo, nếu có sắc, thọ, tưởng, hành, thức, khéo nhận lấy pháp tướng, khéo tư duy, khéo hành giải, khéo nhận thức, thuận với thức, duyên nơi thức, phân biệt, thuận với phân biệt, duyên nơi phân biệt.

Tỳ-kheo như thế là khéo nhận lấy tướng quán, khéo tư duy, khéo hành giải.

Lại nữa, Tỳ-kheo nơi tất cả pháp hữu vi, hoặc là pháp hữu vi của một xứ, theo đấy tư duy là bệnh khổ, là ung nhọt, mũi tên, cho đến vì tâm sợ hãi, nên ra khỏi tất cả hữu vi, nhập cõi cam lộ. Sự tĩnh lặng này là thắng diệu, lìa tất cả hữu vi, dứt hết ái, đạt Niết-bàn.

Quán không phóng dật như thế, lìa dục pháp ác bất thiện, có giác có quán, được ly sinh hỷ lạc, thành tựu hành của thiền thứ nhất. Như Tỳ-kheo, nếu có sắc, thọ, tưởng, hành, thức, thì khéo nhận lấy pháp tướng, khéo tư duy, khéo hành giải, khéo nhận thức, thuận với thức, duyên nơi thức, phân biệt, thuận với phân biệt, duyên nơi phân biệt

Tỳ-kheo như thế là khéo nhận lấy tướng quán, khéo tư duy, khéo hành giải. Thiền thứ hai, thiền thứ ba, thiền thứ tư cũng như trên đã nói.

Năm chi như thế, đó gọi là năm chi định.

Hỏi: Thế nào là năm trí định?

Đáp: Như Đức Thế Tôn nói: Các Tỳ-kheo tu định vô lượng sáng rõ. Các Tỳ-kheo, nếu tu vô lượng định sáng rõ xong, duyên sinh năm thứ trí.

Năm thứ trí đó là: Nếu có định hiện lạc, hậu báo lạc, duyên nơi định này sinh trí. Nếu có định Thánh không có nhiễm, duyên nơi định này sinh trí. Nếu như người có định không khiếp nhược, có thể thân cận duyên nơi định này sinh trí. Nếu có định được tĩnh lặng, thắng diệu, tu một mình trừ đắc, duyên nơi định này sinh trí. Nếu có định do niệm nhập chánh niệm khởi duyên nơi định này sinh trí.

Thế nào là định hiện lạc, hậu báo lạc, duyên nơi định này phát sinh trí?

Hỏi: Thế nào là định hiện lạc?

Đáp: Như Tỳ-kheo lìa dục pháp ác bất thiện, có giác có quán, được ly sinh hỷ lạc, thành tựu hành của thiền thứ nhất. Nếu thân được ly sinh hỷ lạc, thấm nhuần đầy khắp, thì thân này đều được ly sinh hỷ lạc, thấm nhuần đầy khắp không có giảm thiểu. Như thợ chuyên khéo tắm gội, hoặc đệ tử của ông ta, dùng táo đậu mịn hòa trong chậu chứa đầy nước, dùng nước rưới vào thân, điều hòa, cùng đập vỗ. Do động tác này khiến thấm nhuần đầy khắp, không khô, không ướt, trong ngoài nhuận hòa. Như thế, thân Tỳ-kheo được ly sinh hỷ lạc, thấm nhuần đầy khắp, thân đều được ly sinh, hỷ lạc, thấm nhuần đầy khắp, không có giảm thiểu. Như Tỳ-kheo tăng ích thọ nhận ly sinh hỷ lạc, được vui xuất thế, vui tĩnh lặng, vui diệt, vui chánh giác, an vui của quả Sa-môn, an vui của Niết-bàn. Định này như thế gọi là hiện lạc.

Lại nữa, Tỳ-kheo diệt giác quán, nội tịnh tín, nhất tâm, không giác không quán, được định sinh hỷ lạc, thành tựu hành của thiền thứ hai. Như thân được định sinh hỷ lạc, thấm nhuần đầy khắp, tức thân này đều là định sinh hỷ lạc, thấm nhuần đầy khắp không có giảm thiểu. Như hồ nước lớn bao quanh là núi, nước từ đáy hồ vọt lên, không từ phương đông, tây, nam, bắc đến, mà từ hồ này nên nước thấm nhuần đầy khắp, tức hồ này đã thấm nhuần đầy khắp, không có giảm thiểu. Như thế Tỳ-kheo thân được định sinh hỷ lạc, thấm nhuần đầy khắp, tức thân này đã thấm nhuần đầy khắp không có giảm thiểu. Như Tỳ-kheo tăng ích thọ nhận không hỷ lạc để nhận vui xuất thế, vui tĩnh lặng, vui diệt, vui chánh giác, an vui của quả Sa-môn, an vui của Niết-bàn. Định này như thế gọi là hiện lạc.

Lại nữa, Tỳ-kheo lìa hành hỷ, xả, niệm chánh trí thân thọ nhận an vui, như hành giải xả, niệm vui của các Thánh nhân, thành tựu hành của thiền thứ ba. Nếu thân không có hỷ lạc, tức thấm nhuần tràn đầy khắp, thân không còn có hỷ lạc, thấm nhuần cùng đầy khắp không có giảm thiểu. Như ao hoa Ưu-bát-la, ao hoa Bát-đầu-ma, ao hoa Cưu-đầu-ma, ao hoa Phân-đà-lợi, các hoa kia từ trong bùn vừa nhô ra, chưa có thể vượt khỏi nước, các thứ hoa này, hoặc rễ, hoặc đầu, nước đều thấm nhuần đầy khắp, từ rễ đến đầu, từ đầu đến rễ, nước thấm nhuần luôn đầy khắp, không có giảm thiểu. Như thế Tỳkheo nếu thân không còn có hỷ lạc, thì thấm nhuần cùng đầy khắp, tức thân này đều thấm nhuần đầy khắp, không có giảm thiểu. Như Tỳ-kheo tăng ích thọ nhận vui, không có hỷ vui xuất thế, vui tĩnh lặng, vui diệt, vui chánh giác, an vui của quả Sa-môn, an vui của Niết-bàn. Định này như thế gọi là hiện lạc.

Lại nữa, Tỳ-kheo đoạn khổ, đoạn vui, trước diệt bỏ ưu hỷ, không khổ không vui, xả niệm tịnh, thành tựu hành của thiền thứ tư. Nếu thân do tâm thanh tịnh giải hành khắp, tức thân này thanh tịnh, không xứ nào là không khắp. Như thân người nam, người nữ mặc áo trắng sạch, trên dưới đầy đủ, từ đầu đến chân, từ chân đến đầu, đều được che phủ. Như thế, Tỳ-kheo nếu thân do tâm thanh tịnh giải hành khắp, tức thân này thanh tịnh, không có xứ nào là không khắp. Như Tỳ-kheo tăng ích thọ nhận vui, tĩnh lặng thượng diệu, vui xuất thế, vui diệt, vui chánh giác, an vui của quả Sa-môn, an vui của Niết-bàn. Định này như thế gọi là hiện lạc.

Hỏi: Thế nào là định hậu báo lạc?

Đáp: Như Tỳ-kheo tư duy về vô thường, khổ, không, vô ngã, tư duy về Niết-bàn tĩnh lặng, được định, tâm trụ chánh trụ. Như Tỳkheo được định xong, tức là được năm căn Thánh đầu tiên. Được năm căn Thánh đầu tiên rồi, theo chánh quyết định trên, lìa bỏ địa phàm phu. Nếu không được quả Tu-đà-hoàn, mà nửa chừng mạng chung thì không có điều ấy. Không được quả Tu-đà-hoàn, lại tạo điều ác, gây nghiệp ác xong, mạng chung, bị đọa vào ba đường dữ thì không có điều ấy.

Như Tỳ-kheo thân cận định này, tu học nhiều, tu học nhiều xong, do kiến đoạn ba phiền não, được xúc chứng quả Tu-đàhoàn, xúc chứng xong, đoạn trừ khổ của địa ngục, súc sinh, ngạ quỷ, thọ nhận báo bảy lần sinh trong nẻo người, trời, sinh trong nẻo người, trời đều đoạn dứt khổ còn lại. Định này như thế gọi là hậu báo lạc.

Như Tỳ-kheo thân cận định này để tu học nhiều, tu học nhiều xong, do tư duy đoạn phần phiền não dục nhiễm giận dữ. Đoạn phần phiền não dục nhiễm, giận dữ rồi, được xúc chứng của quả Tư-đàhàm. Xúc chứng rồi, đoạn trừ khổ của địa ngục, súc sinh, ngạ quỷ, thọ nhận sinh trong nẻo người, trời, đoạn dứt hết khổ còn lại khi sinh trong nẻo người, trời. Định này như thế gọi là hậu báo lạc.

Như Tỳ-kheo thân cận định này, tu học nhiều, tu học nhiều rồi, do tư duy đoạn dục nhiễm, giận dữ đều rốt ráo. Được rốt ráo xong, tức được xúc chứng quả A-na-hàm. Xúc chứng xong, đoạn trừ khổ trong địa ngục, súc sinh, ngạ quỷ và nẻo người. Nếu thọ một lần sinh trên trời, hoặc năm lần sinh, khổ còn lại trên cõi trời đều đoạn hết.

Định này như thế gọi là hậu báo lạc.

Như Tỳ-kheo thân cận định này, tu học nhiều, tu học nhiều rồi, do tư duy đoạn trừ hết phiền não của cõi sắc, cõi vô sắc, hoàn toàn không còn. Không còn xong, được xúc chứng quả A-la-hán, xúc chứng xong, đoạn trừ khổ của địa ngục, súc sinh, ngạ quỷ, cùng trong nẻo người, trời. Khổ của tất cả hữu, tất cả đường, tất cả loài, tất cả sự trói buộc, tất cả phiền não kiết sử, đều đoạn trừ rốt ráo. Định này như thế gọi là hậu báo lạc.

Hỏi: Thế nào là duyên nơi định này sinh trí?

Đáp: Nếu phân biệt trong, nếu phân biệt ngoài, tức thấy biết, giác chứng, đó gọi là duyên nơi định này sinh trí.

Hỏi: Thế nào là có định Thánh không nhiễm, duyên nơi đấy sinh trí? Thế nào là không phải định Thánh?

Đáp: Nếu là định hữu lậu thì định này không phải là định Thánh.

Lại nữa, không phải định của Thánh nếu là định phi học phi vô học, đó gọi là không phải định Thánh.

Lại nữa, không phải định Thánh, trừ định không, vô tướng, vô nguyện, nếu là định khác, đó gọi là không phải định Thánh.

Hỏi: Thế nào là định Thánh?

Đáp: Nếu là định vô lậu, đó gọi là định Thánh.

Lại nữa, định Thánh, nếu là định học, định vô học, các định ấy gọi là định Thánh.

Lại nữa, định Thánh là định không, vô tướng, vô nguyện, đó gọi là định Thánh.

Hỏi: Do nghĩa nào gọi là Thánh?

Đáp: Do đoạn lìa các phiền não kiết tham dục, giận dữ, ngu si, nên gọi là Thánh.

Hỏi: Thế nào là định có nhiễm?

Đáp: Nếu là định có mong cầu, đó gọi là định có nhiễm.

Lại nữa, định có nhiễm, nếu là định phi học phi vô học, đó gọi là định có nhiễm.

Lại nữa, định có nhiễm, trừ định không, vô tướng, vô nguyện, nếu là định khác, đó gọi là định có nhiễm.

Hỏi: Do nghĩa nào nói là có nhiễm?

Đáp: Nhiễm nghĩa là ái. Ái ở trong định này là đắc (thủ đắc) đang đắc, duyên nơi đắc. Định cũng ở trong ái là đắc, đang đắc, duyên nơi đắc. Đó gọi là định có nhiễm.

Hỏi: Thế nào là định không nhiễm?

Đáp: Nếu là định không mong cầu, đó gọi là định không nhiễm.

Lại nữa, định không nhiễm, nếu là định học, định vô học, đó gọi là định không nhiễm.

Lại nữa, định không nhiễm là định không, vô tướng, vô nguyện, đó gọi là định không nhiễm.

Hỏi: Do nghĩa nào nói là không nhiễm?

Đáp: Nhiễm nghĩa là ái. Ái ở trong định này không đắc, không đang đắc, không duyên nơi đắc. Định trong ái là không đắc, không đang đắc, không duyên nơi đắc. Đó gọi là định không nhiễm.

Hỏi: Thế nào là duyên nơi đây sinh trí?

Đáp: Nếu phân biệt trong, nếu phân biệt ngoài, tức thấy biết, giác chứng, đó gọi là duyên nơi đây sinh trí.

Hỏi: Thế nào là người có định không khiếp nhược, thân cận duyên nơi định này sinh trí? Thế nào là người khiếp nhược?

Đáp: Nếu người không có tâm tin, không có hổ thẹn, không học vấn, lười biếng, mất niệm, không có tuệ, đó gọi là người khiếp nhược.

Lại nữa, khiếp nhược là phàm phu. Do nghĩa nào gọi là khiếp nhược? Do chưa nhận biết về thân kiến, chưa đoạn trừ thân kiến. Do nghĩa này nên nói là người khiếp nhược.

Hỏi: Thế nào là người không khiếp nhược?

Đáp: Không khiếp nhược nghĩa là có tâm tin, biết hổ thẹn, có hiểu biết, siêng năng, tinh tấn, chuyên niệm, nhiều tuệ, đó gọi là người không khiếp nhược.

Lại nữa, không khiếp nhược, nếu là Phật và đệ tử Thanh văn của Phật.

Hỏi: Do nghĩa nào nói là không khiếp nhược?

Đáp: Do nhận biết thân kiến, do đoạn trừ thân kiến. Do nghĩa này nên nói là người không khiếp nhược.

Như thế, người không khiếp nhược, được định thân cận với đấy tu học nhiễu. Do nghĩa này nên nói là người không người khiếp nhược được thân cận.

Hỏi: Thế nào là duyên nơi đây sinh trí?

Đáp: Nếu phân biệt trong, nếu phân biệt ngoài, tức thấy biết, giác chứng, đó gọi là duyên nơi đây sinh trí.

Hỏi: Thế nào là có định tĩnh lặng, thắng diệu, riêng tu trừ đắc, duyên nơi đây sinh trí? Thế nào là tĩnh lặng?

Đáp: Nếu là quả báo chung của định, đó gọi là tĩnh lặng.

Hỏi: Thế nào là định thắng diệu?

Đáp: Nếu là định Thánh có báo, có thể đoạn trừ phiền não, đó gọi là định thắng diệu.

Lại nữa, định tĩnh lặng, nếu là định Thánh có báo, có thể đoạn trừ phiền não, đó gọi là định tĩnh lặng.

Lại nữa, định thắng diệu nếu là quả báo chung của định, đó gọi là định thắng diệu.

Lại nữa, tĩnh lặng tức là thắng diệu, thắng diệu tức là tĩnh lặng, đó gọi là tịch tĩnh thắng diệu.

Hỏi: Thế nào là riêng tu?

Đáp: Nếu tâm hoàn toàn định trụ, chánh chỉ, ở nơi một mình hành định, đó gọi là riêng tu.

Hỏi: Thế nào là định không trừ đắc?

Đáp: Nếu định không là đắc, không quyết định đắc, khó đắc, đó gọi là định không trừ đắc.

Hỏi: Thế nào là định trừ đắc?

Đáp: Nếu định là đắc, quyết định đắc, không khó đắc, đó gọi là định trừ đắc.

Hỏi: Thế nào là duyên nơi đây sinh trí?

Đáp: Nếu phân biệt trong, nếu phân biệt ngoài, tức thấy biết, giác chứng, đó gọi là duyên nơi đây sinh trí.

Hỏi: Thế nào là có định chánh niệm nhập chánh niệm khởi duyên nơi đây sinh trí?

Đáp: Nếu chánh trí nhập chánh trí khởi, chánh trí nhập chánh trí khởi xong, thế nên nói là chánh niệm nhập chánh niệm khởi. Chuyên thân niệm, nhập chuyên thân niệm khởi. Chuyên thân niệm nhập chuyên thân niệm khởi xong, đó gọi là chánh niệm nhập chánh niệm khởi.

Hỏi: Thế nào là duyên nơi đây sinh trí?

Đáp: Nếu phân biệt trong, nếu phân biệt ngoài, thấy biết, giác chứng, đó gọi là duyên nơi đây sinh trí.

Năm trí như thế là năm trí định.

Hỏi: Thế nào là định của hơi thở ra, hơi thở vào cùng với niệm?

Đáp: Như Đức Thế Tôn đã nói: Các Tỳ-kheo! Tu niệm hơi thở ra, hơi thở vào, thân cận, tu học nhiều, tu học nhiều xong tức được quả báo lớn, cho đến được cam lộ.

Hỏi: Thế nào là tu niệm hơi thở ra, hơi thở vào, thân cận, tu học nhiều, tu học nhiều xong tức được quả báo lớn, cho đến được cam lộ?

Đáp: Như Tỳ-kheo trụ ở nơi chốn tĩnh lặng, trong rừng, bên cội cây, hoặc ở chỗ trống trải, ở trong hang núi, trải cỏ ở nơi lộ thiên, hoặc ở trong gò mả, triền núi. Như Tỳ-kheo, sáng sớm đến thôn xóm khất thực, ăn xong, quá giờ ngọ, cất y bát, rửa chân, sau đấy Tỳ-kheo ngồi kiết già, thân ngay ngắn, buộc niệm tư duy đoạn trừ mong cầu, tâm không hành theo tham vướng mong cầu. Đối với mong cầu tham vướng được thanh tịnh. Đoạn trừ giận dữ, hành tâm từ, tâm lìa giận dữ, được thanh tịnh. Đoạn dứt thùy miên, không có thùy miên, chánh tri tưởng sáng, tâm lìa thùy miên, được thanh tịnh. Đoạn trừ trạo cử, hối, không hành trạo cử, hối, nội tâm tĩnh lặng, lìa trạo cử, hối, được thanh tịnh. Đoạn trừ nghi, không có hành nghi, một định pháp thiện, tâm lìa nghi được thanh tịnh.

Như Tỳ-kheo đoạn trừ năm cái, là thứ cấu uế tổn hại của tâm, được trí chánh niệm thở ra, chánh niệm thở vào. Như Tỳ-kheo thở ra dài nhận biết hơi thở ra dài, thở vào dài nhận biết hơi thở vào dài, thở ra ngắn nhận biết hơi thở ra ngắn, thở vào ngắn nhận biết hơi thở vào ngắn.

Học tất cả thân, nhận biết hơi thở vào. Học tất cả thân, nhận biết hơi thở ra. Học trừ hơi thở ra là hành của thân. Học trừ hơi thở vào là hành của thân. Học hỷ nhận biết hơi thở ra. Học hỷ nhận biết hơi thở vào. Học lạc nhận biết hơi thở ra. Học lạc nhận biết hơi thở vào.

Học hành tâm nhận biết hơi thở ra. Học hành tâm nhận biết hơi thở vào. Học trừ hành tâm nhận biết hơi thở ra. Học trừ hành tâm nhận biết hơi thở vào. Học tâm nhận biết hơi thở ra. Học tâm nhận biết hơi thở vào.

Học tâm hài lòng hơi thở ra. Học tâm hài lòng hơi thở vào. Học hơi thở ra của tâm định. Học hơi thở vào của tâm định. Học hơi thở ra của tâm giải thoát. Học hơi thở vào của tâm giải thoát. Học hơi thở ra của quán vô thường. Học hơi thở vào của quán vô thường. Học hơi thở ra của quán lìa dục.

Học hơi thở vào của quán lìa dục. Học hơi thở ra của quán diệt. Học hơi thở vào của quán diệt. Học hơi thở ra của quán xuất thế. Học hơi thở vào của quán xuất thế.

Hỏi: Thế nào là chánh niệm về hơi thở ra, chánh niệm về hơi thở vào?

Đáp: Nếu chánh tri hơi thở ra, chánh tri hơi thở vào, chánh tri hơi thở ra, chánh tri hơi thở vào xong, đó gọi là chánh niệm về hơi thở ra, chánh niệm về hơi thở vào. Chuyên niệm hơi thở ra của thân, chuyên niệm hơi thở vào của thân, chuyên niệm hơi thở ra của thân, chuyên niệm hơi thở vào của thân xong, đó gọi là chánh niệm về hơi thở ra, chánh niệm về hơi thở vào.

Hỏi: Thế nào là Tỳ-kheo, hơi thở ra dài nhận biết thở ra dài, hơi thở vào dài nhận biết hơi thở vào dài?

Đáp: Như Tỳ-kheo tư duy về pháp sinh trưởng hơi thở ra, hơi thở vào, khéo nhận lấy pháp tướng, khéo tư duy hành giải. Hoặc tư duy về pháp không sinh trưởng hơi thở ra, hơi thở vào, khéo nhận lấy pháp tướng, khéo tư duy hành giải. Nếu pháp là hơn, không phải là hơn, có thể sinh trưởng hơi thở ra, hơi thở vào, khéo nhận lấy pháp tướng, khéo tư duy hành giải. Tỳ-kheo tư duy về pháp sinh trưởng, nhận biết hơi thở ra, hơi thở vào, khéo nhận lấy pháp tướng, khéo tư duy hành giải. Hoặc tư duy về pháp không sinh trưởng nhận biết hơi thở ra, hơi thở vào, khéo nhận lấy pháp tướng, khéo tư duy hành giải. Nếu pháp là hơn, không phải là hơn, có thể sinh trưởng, nhận biết hơi thở ra, hơi thở vào thì khéo nhận lấy pháp tướng, khéo tư duy hành giải.

Như Tỳ-kheo tư duy về pháp sinh trưởng, tư duy về pháp hơi thở ra, hơi thở vào, nếu không sinh thì không tư duy pháp ấy, thân cận pháp hơn, không thân cận pháp không hơn. Tỳ-kheo tư duy về pháp sinh trưởng hơi thở ra, hơi thở vào, nhận biết pháp tư duy, nếu không sinh thì không tư duy pháp kia, thân cận pháp hơn, không thân cận pháp không hơn. Tỳ-kheo tư duy nên được pháp tu, thân cận pháp hơn, không thân cận pháp không hơn. Hơi thở ra, hơi thở vào dài và nhận biết hơi thở ra, hơi thở vào dài, được tâm vui mừng, đó gọi là Tỳ-kheo hơi thở ra dài nhận biết hơi thở ra dài, hơi thở vào dài nhận biết hơi thở vào dài.

Hỏi: Thế nào là hơi thở ra, hơi thở vào dài?

Đáp: Nếu có vô lượng hơi thở ra, vô lượng hơi thở vào, có vô lượng hơi thở ra, vô lượng hơi thở vào xong, thế nên nói là hơi thở ra dài, hơi thở vào dài. Do hơi thở ra không nhanh, hơi thở vào không nhanh, hơi thở ra không chóng, hơi thở vào không chóng xong, thế nên nói là hơi thở ra dài, hơi thở vào dài. Hơi thở ra, hơi thở vào không nhanh chóng liên tục, vì hơi thở ra, hơi thở vào không nhanh chóng liên tục xong, thế nên nói là hơi thở ra, hơi thở vào dài. Thân không dốc sức thở ra, thân không dốc sức thở vào, vì thân không dốc sức thở ra, thân không dốc sức thở vào xong, thế nên nói là hơi thở ra, hơi thở vào dài. Không nối tiếp hơi thở ra, hơi thở vào, vì không nối tiếp hơi thở ra, hơi thở vào xong, thế nên nói là hơi thở ra, hơi thở vào dài. Đó gọi là hơi thở ra, hơi thở vào dài.

Hỏi: Thế nào là hơi thở ra ngắn nhận biết hơi thở ra ngắn, hơi thở vào ngắn nhận biết hơi thở vào ngắn?

Đáp: Như Tỳ-kheo tư duy về pháp sinh hơi thở ra, hơi thở vào ngắn, khéo nhận lấy pháp tướng, khéo tư duy hành giải. Hoặc tư duy về pháp không sinh hơi thở ra, hơi thở vào ngắn, khéo nhận lấy pháp tướng, khéo tư duy hành giải. Nếu pháp là hơn, không phải là hơn, có thể sinh hơi thở ra, hơi thở vào ngắn tức khéo nhận lấy pháp tướng, khéo tư duy hành giải.

Tỳ-kheo tư duy về pháp sinh nhận biết hơi thở ra, hơi thở vào ngắn, khéo nhận lấy pháp tướng, khéo tư duy hành giải. Hoặc tư duy về pháp không sinh nhận biết hơi thở ra, hơi thở vào ngắn, khéo nhận lấy pháp tướng, khéo tư duy hành giải. Nếu pháp là hơn không phải là hơn, có thể sinh nhận biết hơi thở ra, hơi thở vào ngắn, tức khéo nhận lấy pháp tướng, khéo tư duy hành giải.

Tỳ-kheo tư duy về pháp, tư duy pháp sinh hơi thở ra, hơi thở vào ngắn. Nếu không sinh thì không tư duy pháp, thân cận pháp hơn, không thân cận pháp không hơn. Như Tỳ-kheo tư duy pháp, tư duy pháp sinh nhận biết hơi thở ra, hơi thở vào ngắn. Nếu không sinh thì không tư duy pháp, thân cận pháp hơn, không thân cận pháp không hơn. Tỳ-kheo không tư duy pháp không nên tu, nhưng tư duy pháp nên tu, thân cận pháp hơn, không thân cận pháp không hơn. Hơi thở ra, hơi thở vào ngắn, nhận biết hơi thở ra, hơi thở vào ngắn, được vui mừng, đó gọi là hơi thở ra ngắn nhận biết hơi thở ra ngắn, hơi thở vào ngắn nhận biết hơi thở vào ngắn.

Hỏi: Thế nào là hơi thở ra, hơi thở vào ngắn?

Đáp: Hơi thở ra có lượng, hơi thở vào có lượng, vì hơi thở ra có lượng, hơi thở vào có lượng xong, thế nên nói là hơi thở ra, hơi thở vào ngắn. Do hơi thở ra nhanh chóng, hơi thở vào nhanh chóng xong, thế nên nói là hơi thở ra, hơi thở vào ngắn. Do hơi thở ra nhanh chóng liên tiếp, hơi thở vào nhanh chóng liên tiếp xong, thế nên nói là hơi thở ra, hơi thở vào ngắn. Thân cố sức thở ra, thở vào, thân cố sức thở ra, thở vào xong, thế nên nói là hơi thở ra, hơi thở vào ngắn.

Hơi thở ra nối tiếp với hơi thở vào, vì hơi thở ra nối tiếp với hơi thở vào xong, thế nên nói là hơi thở ra, hơi thở vào ngắn. Không thân trừ hơi thở ra, hơi thở vào, vì không thân trừ hơi thở ra, hơi thở vào xong, thế nên nói là hơi thở ra, hơi thở vào ngắn. Đó gọi là hơi thở ra, hơi thở vào ngắn.

Hỏi: Thế nào là học nhận biết hơi thở ra của tất cả thân, học nhận biết hơi thở vào của tất cả thân?

Đáp: Như Tỳ-kheo lấy hơi thở làm đầy tất cả thân xong thì thở ra. Nếu bên trong của tất cả thân trống rỗng thì thở vào, như thợ khéo thổi bong bóng, học trò của thợ thổi bong bóng, thổi cho bong bóng căng đầy xong, đặt lên bàn, khiến hơi xì ra. Nếu bong bóng đã trống rỗng rồi, trở lại mở miệng bong bóng ra, thổi không khí vào cho đầy.

Tỳ-kheo như thế khiến cho hơi thở đầy trong tất cả thân xong, rồi thở ra. Nếu bên trong tất cả thân trống rỗng xong, thì thở vào. Nếu tư duy pháp, tất cả thân sinh hơi thở ra, hơi thở vào, khéo nhận lấy pháp tướng, khéo tư duy hành giải, hoặc tư duy pháp không sinh hơi thở ra, hơi thở vào trong tất cả thân, khéo nhận lấy pháp tướng, khéo tư duy hành giải. Nếu pháp là hơn, không phải là hơn, có thể sinh hơi thở ra, hơi thở vào trong tất cả thân, tức khéo nhận lấy pháp tướng, khéo tư duy hành giải.

Như Tỳ-kheo tư duy pháp, sinh nhận biết hơi thở ra, hơi thở vào trong tất cả thân, khéo nhận lấy pháp tướng, khéo tư duy hành giải. Hoặc tư duy pháp, không sinh nhận biết hơi thở ra, hơi thở vào trong tất cả thân, khéo nhận lấy pháp tướng, khéo tư duy hành giải. Nếu pháp là hơn, không phải là hơn, có thể sinh nhận biết hơi thở ra, hơi thở vào trong tất cả thân, tức khéo nhận lấy pháp tướng, khéo tư duy hành giải.

Như Tỳ-kheo tư duy pháp, tư duy pháp sinh hơi thở ra, hơi thở vào trong tất cả thân, nếu không sinh thì không tư duy pháp, tức thân cận pháp hơn, không thân cận pháp không hơn. Tỳ-kheo tư duy pháp, sinh pháp tư duy, nhận biết hơi thở ra, hơi thở vào trong tất cả thân. Nếu không sinh thì không tư duy pháp, tức thân cận pháp hơn, không thân cận pháp không hơn.

Tỳ-kheo tư duy pháp nên tu, không tư duy pháp không nên tu, thân cận pháp hơn, không thân cận pháp không hơn. Hơi thở ra, hơi thở vào trong tất cả thân cùng nhận biết hơi thở ra, hơi thở vào trong tất cả thân, được vui mừng, đó gọi là học nhận biết hơi thở ra của tất cả thân, học nhận biết hơi thở vào của tất cả thân.

Hỏi: Thế nào là học trừ hơi thở ra của hành thân, học trừ hơi thở vào của hành thân?

Đáp: Hành thân nghĩa là hơi thở ra, hơi thở vào có thô, có tế.

Hỏi: Thế nào là hành thân thô?

Đáp: Nếu trạo cử khởi động, đó gọi là hành thân thô.

Hỏi: Thế nào là hành thân tế?

Đáp: Nếu tĩnh lặng, đó gọi là hành thân tế.

Như Tỳ-kheo dùng hành thân tế để điều phục hành thân thô, giáng xuống, vượt hơn, trừ xuất, như thợ khéo, học trò của thợ khéo, dùng vật nhỏ lấy ra vật lớn.

Như thế, Tỳ-kheo dùng hành của thân tế để điều phục hành của thân thô, như người chạy nhanh, tự tư duy: “Vì lý do gì ta chạy? Ta nên đi thong thả”, bèn đi thong thả. Người này lại suy nghĩ: “Vì lẽ gì ta đi thong thả? Ta cần phải đứng lại”, bèn đứng lại. Người này lại tư duy: “Vì sao ta đứng? Ta nên ngồi”, bèn ngồi. Người này lại tư duy: “Vì sao ta lại ngồi? Ta nên nằm”, bèn nằm xuống. Người này như thế là trừ hành thân thô, thân cận với hành thân tế.

Tỳ-kheo như thế trừ bỏ hành thân thô, thân cận với hành thân tế. Tỳ-kheo tư duy pháp, sinh hành thân thô, khéo nhận lấy pháp tướng, khéo tư duy hành giải. Hoặc tư duy pháp không sinh hành thân thô, khéo nhận lấy pháp tướng, khéo tư duy hành giải. Nếu pháp hơn, không phải hơn, có thể sinh hành thân thô, tức khéo nhận lấy pháp tướng, khéo tư duy hành giải.

Tỳ-kheo tư duy pháp, sinh hành thân tế, khéo nhận lấy pháp tướng, khéo tư duy hành giải. Hoặc tư duy pháp không sinh hành thân tế, khéo nhận lấy pháp tướng, khéo tư duy hành giải. Nếu pháp hơn, không phải hơn, có thể sinh hành của thân tế, tức khéo nhận lấy pháp tướng, khéo tư duy hành giải.

Nếu Tỳ-kheo tư duy pháp, trừ bỏ hành thân thô, khéo nhận lấy pháp tướng, khéo tư duy hành giải. Hoặc tư duy pháp không trừ bỏ hành thân thô, khéo nhận lấy pháp tướng, khéo tư duy hành giải. Nếu pháp hơn, không phải hơn, có thể trừ bỏ hành thân thô, tức khéo nhận lấy pháp tướng, khéo tư duy hành giải.

Tỳ-kheo tư duy pháp, sinh hơi thở ra, hơi thở vào, trừ bỏ hành thân, khéo nhận lấy pháp tướng, khéo tư duy hành giải. Hoặc tư duy pháp không sinh hơi thở ra, hơi thở vào, trừ bỏ hành thân, khéo nhận lấy pháp tướng, khéo tư duy hành giải. Nếu pháp hơn, không phải hơn, có thể sinh hơi thở ra, hơi thở vào, trừ bỏ hành thân, tức khéo nhận lấy pháp tướng, khéo tư duy hành giải.

Tỳ-kheo tư duy pháp sinh nhận biết hơi thở ra, hơi thở vào, trừ bỏ hành thân, khéo nhận lấy pháp tướng, khéo tư duy hành giải. Hoặc tư duy pháp không sinh nhận biết hơi thở ra, hơi thở vào, trừ bỏ hành thân, khéo nhận lấy pháp tướng, khéo tư duy hành giải. Nếu pháp hơn, không phải hơn, có thể sinh nhận biết hơi thở ra, hơi thở vào, trừ bỏ hành thân, tức khéo nhận lấy pháp tướng, khéo tư duy hành giải.

Tỳ-kheo tư duy pháp, không tư duy pháp sinh hành thân thô, nếu pháp tư duy không sinh, thì thân cận pháp hơn, không thân cận pháp không hơn.

Tỳ-kheo tư duy pháp sinh, tư duy về pháp kia của hành thân tế, nếu không sinh thì không tư duy pháp kia, tức thân cận pháp hơn, không thân cận pháp không hơn.

Tỳ-kheo tư duy pháp, trừ pháp tư duy của hành thân thô, nếu không trừ, không tư duy pháp, thì thân cận pháp hơn, không thân cận pháp không hơn.

Tỳ-kheo tư duy pháp, sinh pháp tư duy hơi thở ra, hơi thở vào, trừ hành thân, nếu không sinh thì không tư duy pháp, tức thân cận pháp hơn, không thân cận pháp không hơn.

Tỳ-kheo tư duy pháp, sinh pháp tư duy nhận biết hơi thở ra, hơi thở vào trừ hành thân, nếu không sinh thì không tư duy pháp, tức thân cận pháp hơn, không thân cận pháp không hơn.

Tỳ-kheo không tư duy pháp không nên tu, tức tư duy pháp nên tu, nên thân cận pháp hơn, không thân cận pháp không hơn, trừ bỏ hơi thở ra hơi thở vào nơi hành thân, cùng nhận biết hơi thở ra hơi thở vào, trừ bỏ hành thân, được vui mừng. Đó gọi là học trừ bỏ hơi thở ra, hơi thở vào của hành thân.

Hỏi: Thế nào là học hỷ nhận biết hơi thở ra, học hỷ nhận biết hơi thở vào? Thế nào là hỷ?

Đáp: Nếu tâm hoan hỷ phấn khích, đó gọi là hỷ. Tỳ-kheo tư duy pháp sinh hỷ, khéo nhận lấy pháp tướng, khéo tư duy hành giải. Hoặc tư duy pháp không sinh hỷ, khéo nhận lấy pháp tướng, khéo tư duy hành giải. Nếu là pháp hơn, không phải hơn có thể sinh hỷ, tức khéo nhận lấy pháp tướng, khéo tư duy hành giải.

Tỳ-kheo tư duy pháp sinh hỷ, khéo nhận lấy pháp tướng của hơi thở ra, hơi thở vào, khéo tư duy hành giải. Hoặc tư duy pháp không sinh hỷ, khéo nhận lấy pháp tướng của hơi thở ra, hơi thở vào, khéo tư duy hành giải. Nếu là pháp hơn, không phải hơn, có thể sinh hỷ, tức khéo nhận lấy pháp tướng của hơi thở ra hơi thở vào, khéo tư duy hành giải.

Tỳ-kheo tư duy pháp sinh hỷ, nhận biết hơi thở ra, hơi thở vào, khéo nhận lấy pháp tướng, khéo tư duy hành giải. Hoặc tư duy pháp không sinh hỷ, nhận biết hơi thở ra hơi thở vào, khéo nhận lấy pháp tướng, khéo tư duy hành giải. Nếu là pháp hơn, không phải hơn, có thể sinh hỷ, nhận biết hơi thở ra hơi thở vào, tức khéo nhận lấy pháp tướng, khéo tư duy hành giải.

Tỳ-kheo tư duy pháp sinh hỷ, tư duy pháp nếu không sinh thì không tư duy pháp, tức thân cận pháp hơn, không thân cận pháp không hơn.

Tỳ-kheo tư duy pháp sinh hỷ, tư duy pháp của hơi thở ra, hơi thở vào, nếu không sinh thì không tư duy pháp, tức thân cận pháp hơn, không thân cận pháp không hơn.

Tỳ-kheo tư duy pháp sinh hỷ, tư duy pháp, nhận biết hơi thở ra hơi thở vào, nếu không sinh thì không tư duy pháp, tức thân cận pháp hơn, không thân cận pháp không hơn.

Tỳ-kheo tư duy pháp nên tu, không tư duy pháp không nên tu, thân cận pháp hơn, không thân cận pháp không hơn, mừng hơi thở ra, hơi thở vào, cùng mừng vì nhận biết hơi thở ra, hơi thở vào được vui mừng, vừa ý. Đó gọi là học hỷ nhận biết hơi thở ra, học hỷ nhận biết hơi thở vào.

Hỏi: Thế nào là học lạc nhận biết hơi thở ra, học lạc nhận biết hơi thở vào? Thế nào là lạc?

Đáp: Nếu tâm chịu nhận lấy vui, ý xúc lạc thọ, đó gọi là lạc. Như Tỳ-kheo tư duy pháp sinh lạc, khéo nhận lấy pháp tướng, khéo tư duy hành giải. Hoặc tư duy pháp không sinh lạc, khéo nhận lấy pháp tướng, khéo tư duy hành giải. Nếu là pháp hơn, không phải hơn, có thể sinh an lạc, thì khéo nhận lấy pháp tướng, khéo tư duy hành giải.

Tỳ-kheo tư duy pháp sinh lạc, khéo nhận lấy pháp tướng của hơi thở ra hơi thở vào, khéo tư duy hành giải. Hoặc tư duy pháp không sinh lạc, khéo nhận lấy pháp tướng của hơi thở ra, hơi thở vào, khéo tư duy hành giải. Nếu là pháp hơn, không phải hơn, có thể sinh lạc, thì khéo nhận lấy pháp tướng của hơi thở ra, hơi thở vào, khéo tư duy hành giải.

Tỳ-kheo tư duy pháp sinh lạc, nhận biết hơi thở ra hơi thở vào, khéo nhận lấy pháp tướng, khéo tư duy hành giải. Hoặc tư duy pháp không sinh lạc, nhận biết hơi thở ra hơi thở vào, khéo nhận lấy pháp tướng, khéo tư duy hành giải. Nếu là pháp hơn, không phải hơn, có thể sinh lạc, nhận biết hơi thở ra hơi thở vào thì khéo nhận lấy pháp tướng, khéo tư duy hành giải.

Tỳ-kheo tư duy pháp sinh lạc, tư duy pháp của hơi thở ra hơi thở vào. Nếu không sinh thì không tư duy pháp, tức thân cận pháp hơn, không thân cận pháp không hơn.

Tỳ-kheo tư duy pháp sinh an lạc, tư duy pháp của hơi thở ra hơi thở vào. Nếu không sinh thì không tư duy pháp, tức thân cận pháp hơn, không thân cận pháp không hơn.

Tỳ-kheo tư duy pháp sinh an lạc, nhận biết hơi thở ra hơi thở vào, tư duy pháp ấy, nếu không sinh thì không tư duy pháp, nên thân cận pháp hơn, không thân cận pháp không hơn.

Tỳ-kheo tư duy pháp nên tu, không tư duy pháp không nên tu, thân cận pháp hơn, không thân cận pháp không hơn, hơi thở ra hơi thở vào của lạc cùng nhận biết hơi thở ra hơi thở vào của lạc, được vui mừng, hợp ý, đó gọi là học lạc nhận biết hơi thở ra, học lạc nhận biết hơi thở vào.

Hỏi: Thế nào là học nhận biết hơi thở ra của hành tâm, học nhận biết hơi thở vào của hành tâm?

Đáp: Hành tâm nghĩa là tưởng tư có thô, tế.

Hỏi: Thế nào là hành tâm thô?

Đáp: Nếu hành tâm là trạo cử khởi động, đó gọi là hành tâm thô.

Hỏi: Thế nào là hành tâm tế?

Đáp: Nếu hành tâm tĩnh lặng, đó gọi là hành tâm tế.

Như Tỳ-kheo có hành tâm thô, hành tâm tế, dùng hành tâm tế để điều phục hành tâm thô, giáng xuống, vượt hơn, trừ ra, như thợ khéo, học trò của thợ khéo, dùng vật nhỏ để lấy lớn. Như thế là Tỳkheo dùng hành tâm tế để điều phục hành tâm thô.

Tỳ-kheo tư duy pháp sinh hành tâm thô, khéo nhận lấy pháp tướng, khéo tư duy hành giải. Hoặc tư duy pháp không sinh hành tâm thô, khéo nhận lấy pháp tướng, khéo tư duy hành giải. Nếu là pháp hơn, không phải hơn, có thể sinh hành tâm thô, thì khéo nhận lấy pháp tướng, khéo tư duy hành giải.

Tỳ-kheo tư duy pháp sinh hành tâm tế, khéo nhận lấy pháp tướng, khéo tư duy hành giải. Hoặc tư duy pháp không sinh hành tâm tế, khéo nhận lấy pháp tướng, khéo tư duy hành giải. Nếu là pháp hơn, không phải hơn, có thể sinh hành tâm tế, tức khéo nhận lấy pháp tướng, khéo tư duy hành giải.

Tỳ-kheo tư duy pháp sinh hành tâm, khéo nhận lấy pháp tướng của hơi thở ra hơi thở vào, khéo tư duy hành giải. Hoặc tư duy pháp không sinh hành tâm, khéo nhận lấy pháp tướng của hơi thở ra hơi thở vào, khéo tư duy hành giải. Nếu là pháp hơn, không phải hơn, có thể sinh hành tâm, nên khéo nhận lấy pháp tướng của hơi thở ra hơi thở vào, khéo tư duy hành giải.

Tỳ-kheo tư duy pháp sinh hành tâm, nhận biết hơi thở ra hơi thở vào, khéo nhận lấy pháp tướng của hành tâm kia, khéo tư duy hành giải. Hoặc tư duy pháp không sinh hành tâm, nhận biết hơi thở ra hơi thở vào, khéo nhận lấy pháp tướng, khéo tư duy hành giải. Nếu là pháp hơn, không phải hơn, có thể sinh hành tâm, nhận biết hơi thở ra hơi thở vào, tức khéo nhận lấy pháp tướng, khéo tư duy hành giải.

Tỳ-kheo tư duy pháp không tư duy pháp sinh hành tâm thô. Nếu không sinh tư duy thì thân cận pháp hơn, không thân cận pháp không hơn.

Tỳ-kheo tư duy pháp, pháp tư duy sinh hành tâm tế. Nếu không sinh, không tư duy pháp, thì thân cận pháp hơn, không thân cận pháp không hơn.

Tỳ-kheo tư duy pháp, sinh hành tâm, tư duy pháp nhận biết hơi thở ra hơi thở vào, nếu không sinh, không tư duy pháp, thì thân cận pháp hơn, không thân cận pháp không hơn.

Tỳ-kheo không tư duy pháp không nên tu, tức tư duy pháp nên tu, thân cận pháp hơn, không thân cận pháp không hơn. Hơi thở ra hơi thở vào của hành tâm cùng nhận biết rõ hơi thở ra hơi thở vào của hành tâm, được vui mừng, hợp ý. Đó gọi là học nhận biết hơi thở ra của hành tâm, học nhận biết hơi thở vào của hành tâm.

HẾT – QUYỂN 28