LUẬN XÁ LỢI PHẤT A TỲ ĐÀM
Hán dịch: Đời Diêu Tần, Đại sư Đàm Ma Da Xá, Đàm Ma Quật Đa
Việt dịch: Phật tử Nguyên Huệ

 

QUYỂN 12

Phẩm thứ 5: PHẦN KHÔNG HỎI VỀ DUYÊN

Phương tiện của duyên thiện. Duyên thiện. Hiểu rõ phương tiện có duyên. Phương tiện có duyên của nhẫn Thánh không phải là trí. Phương tiện có duyên của trí Thánh không phải là nhẫn.

Thọ nhận vấn đáp, nhân pháp câu sinh: Nếu nhân đây có đây. Nếu không nhân không có đây. Nếu ở đây sinh thì có ở đây sinh. Nếu ở đây diệt thì có ở đây diệt.

Nếu vô minh duyên hành, cho đến sinh duyên lão tử, ưu bi, khổ não là tụ khổ thành tựu. Như thế là thuần khổ gồm đủ. Vô minh diệt tức hành diệt, cho đến sinh diệt thì lão tử cùng tụ, ưu bi khổ não diệt. Như thế tụ khổ diệt là phương tiên duyên thành tựu.

Nếu người kia đối với duyên quá khứ sinh nghi hoặc: Ngã quá khứ là có? Ngã không phải quá khứ là có? Thế nào là tánh quá khứ là có? Thế nào là nhân quá khứ là có?

Nếu đối với duyên vị lai sinh nghi hoặc: Ngã vị lai là có? Ngã không phải vị lai là có? Thế nào là tánh vị lai là có? Thế nào là nhân vị lai là có?

Hoặc người kia đối với nhân duyên sinh nghi hoặc: Ngã vì sao là có? Ngã vì sao là không có? Thế nào là nhân có? Thế nào là xứ sinh? Chúng sinh này từ đâu đến? Chúng sinh này đến nơi nào?

Hoặc đối với Phật sinh nghi hoặc: Là Phật, Thế Tôn hay không phải là Phật, Thế Tôn? Đức Thế Tôn khéo thuyết pháp hay Đức Thế Tôn không khéo thuyết pháp?

Chúng Thanh văn của Đức Thế Tôn hướng đến thiện hay chúng Thanh văn của Đức Thế Tôn hướng đến bất thiện?

Hành là thường hay hành là vô thường? Hành là khổ hay hành không phải là khổ? Hành là pháp ngã hay không phải là pháp ngã?

Niết-bàn là vắng lặng hay Niết-bàn không phải là vắng lặng?

Có cho hay không có cho? Có thí hay không có thí? Có thờ cúng hay không có thờ cúng? Có quả báo của nghiệp thiện ác hay không có quả báo của nghiệp thiện ác?

Có đời nay hay không có đời nay? Có đời sau hay không có đời sau?

Có cha mẹ hay không có cha mẹ? Có trời hay không có trời?

Chúng sinh có hóa sinh hay chúng sinh không có hóa sinh?

Thế gian có Sa-môn, Bà-la-môn hướng về chánh, đến nơi chốn chánh. Hoặc đời nay, đời sau, tự chứng biết nêu bày.

Thế gian không có Sa-môn, Bà-la-môn hướng về chánh, đến nơi chốn chánh. Hoặc đời nay, đời sau, tự chứng biết nêu bày.

Nếu đối với pháp sinh nghi hoặc, tâm không quyết định, do dự, là hai, tức tâm nghi tâm không hiểu rõ. Vô lượng nghi không dứt hết, không phải là giải thoát. Lúc này là không có.

Nếu có Sa-môn, Bà-la-môn duyên khác với thật cho: Ngã thế gian là thường, đây là thật, ngoài ra là hư dối. Cho đến có Niếtbàn như khứ, không có Niết-bàn như khứ. Lúc này cũng là không có, huống chi phương tiện duyên của Thánh đã thành tựu, nên trọn không có phiền não cấu uế ấy.

Hỏi: Thế nào là duyên?

Đáp: Như Đức Phật nói với các Tỳ-kheo: Ta sẽ nói về duyên và pháp duyên sinh. Thế nào là duyên? Vô minh duyên hành. Nếu chư Phật xuất thế, hoặc không xuất thế, thì pháp vẫn trụ nơi pháp giới, trụ nơi pháp giới kia. Như Lai chánh giác, chánh giải xong, diễn thuyết, khai thị, phân biệt, hiển hiện, nói vô minh duyên hành, cho đến sinh duyên lão tử. Nếu như pháp này là như thế, không phải là không như thế, không khác, không là vật khác, là pháp thường, pháp thật, pháp trụ, pháp định, duyên như thế đó gọi là duyên.

Hỏi: Thế nào là pháp duyên sinh?

Đáp: Lão tử là vô thường, hữu vi, do duyên sinh, là pháp tận, pháp đổi khác, pháp lìa dục, pháp diệt. Cho đến vô minh là vô thường, hữu vi, do duyên sinh, là pháp tận, pháp đổi khác, pháp lìa dục, pháp diệt. Đó gọi là pháp duyên sinh.

Hỏi: Thế nào là phương tiện duyên?

Đáp: Như duyên kia, hoặc duyên này sinh pháp, nếu là phương tiện giải thoát của tri kiến, đó gọi là phương tiện duyên. Tỳ-kheo ngang bằng với mức nào gọi là phương tiện của duyên thiện? Duyên kia, duyên đây sinh pháp, biết như thật, thấy như thật, đều gọi là phương tiện của duyên thiện.

Hỏi: Thế nào là vô minh?

Đáp: Căn bất thiện si, đó gọi là vô minh.

Hỏi: Thế nào là vô minh duyên hành?

Đáp: Vô minh duyên hành phước, hành phi phước, hành bất động.

Hỏi: Thế nào là hành phi phước?

Đáp: Là thân hành bất thiện, miệng hành bất thiện, ý hành bất thiện.

Hỏi: Thế nào là thân hành bất thiện?

Đáp: Nếu người không có tuệ, vô minh không đoạn dứt, hành sát sinh, trộm cắp, dâm dục và các hành bất thiện khác của thân, đó gọi là thân hành bất thiện.

Hỏi: Thế nào là miệng hành bất thiện?

Đáp: Nếu người không có tuệ, vô minh chưa đoạn dứt, hành nói dối, nói lưỡi hai chiều, nói lời thô ác, nói lời thêu dệt và các hành bất thiện khác của miệng, đó gọi là miệng hành bất thiện.

Hỏi: Thế nào là ý hành bất thiện?

Đáp: Nếu người không có tuệ, vô minh chưa đoạn dứt, khởi tham dục, giận dữ, tà kiến, đó gọi là ý hành bất thiện.

Hành bất thiện của thân, miệng, ý này được gọi là hành phi phước, do vô minh duyên hành nơi đời hiện tại.

Hỏi: Thế nào là hành phước?

Đáp: Là thân hành thiện, miệng hành thiện, ý hành thiện.

Hỏi: Thế nào là thân hành thiện?

Đáp: Nếu người không có tuệ, vô minh chưa đoạn dứt, không sát sinh, không trộm cắp, không dâm dục và các hành thiện khác của thân, đó gọi là thân hành thiện.

Hỏi: Thế nào là miệng hành thiện?

Đáp: Nếu người không có tuệ, vô minh chưa đoạn dứt, không nói dối, không nói lưỡi hai chiều, không nói lời thô ác, không nói lời thêu dệt và các hành thiện khác của miệng, đó gọi là miệng hành thiện.

Hỏi: Thế nào là ý hành thiện?

Đáp: Nếu người không có tuệ, vô minh chưa đoạn dứt, không tham, không giận, hành chánh kiến, đó gọi là ý hành thiện.

Hành thiện của thân, miệng, ý này được gọi là hành phước, do vô minh duyên hành nơi đời hiện tại.

Lại nữa, nếu người không có tuệ, vô minh chưa đoạn dứt, đã lìa pháp dục ác bất thiện, có giác có quán, ly sinh hỷ lạc, thành tựu hành của thiền thứ nhất. Thân nghiệp của người ấy không biểu hiện, giới là đối tượng nhận biết của ý thức thuộc pháp nhập. Khẩu nghiệp không biểu hiện, giới là đối tượng nhận biết của ý thức thuộc pháp nhập. Ý nghiệp do ý sinh thọ, tưởng, tư, xúc, tư duy. Hành thiện của thân, khẩu, ý như thế đó gọi là hành phước, do vô minh duyên hành nơi đời hiện tại.

Lại nữa, nếu người không có tuệ, vô minh chưa đoạn dứt, diệt giác quán, nội tín tâm, không giác không quán, định sinh hỷ lạc, thành tựu hành của thiền thứ hai. Thân nghiệp của người ấy không biểu hiện, giới là đối tượng nhận biết của ý thức thuộc pháp nhập. Khẩu nghiệp không biểu hiện, giới là đối tượng nhận biết của ý thức thuộc pháp nhập. Ý nghiệp do ý sinh thọ, tưởng, tư, xúc, tư duy. Hành thiện của thân, khẩu, ý như thế đó gọi là hành phước, do vô minh duyên hành nơi đời hiện tại.

Lại nữa, nếu người không có tuệ, vô minh chưa đoạn dứt, lìa hỷ, xả hành niệm biết thân thọ nhận lạc, như các Thánh nhân hành giải xả niệm lạc, thành tựu hành của thiền thứ ba. Thân nghiệp của người ấy không biểu hiện, giới là đối tượng nhận biết của ý thức thuộc pháp nhập. Khẩu nghiệp không biểu hiện, giới là đối tượng nhận biết của ý thức thuộc pháp nhập. Ý nghiệp do ý sinh thọ, tưởng, tư, xúc, tư duy. Hành thiện của thân, khẩu, ý như thế đó gọi là hành phước, do vô minh duyên hành nơi đời hiện tại.

Lại nữa, nếu người không có tuệ, vô minh chưa đoạn dứt, đã đoạn khổ lạc, trước diệt ưu hỷ, không khổ không lạc, xả niệm tịnh, thành tựu hành của thiền thứ tư. Thân nghiệp của người ấy không biểu hiện, giới là đối tượng nhận biết của ý thức thuộc pháp nhập. Khẩu nghiệp không biểu hiện, giới là đối tượng nhận biết của ý thức thuộc pháp nhập. Ý nghiệp do ý sinh thọ, tưởng, tư, xúc, tư duy. Hành thiện của thân, khẩu, ý như thế đó gọi là hành phước, do vô minh duyên hành nơi đời hiện tại.

Đó gọi là hành phước.

Hỏi: Thế nào là hành bất động?

Đáp: Nếu người không có tuệ, vô minh chưa đoạn dứt, đã lìa tất cả tưởng sắc, diệt tưởng giận, không tư duy về từng ấy tưởng, thành tựu hành của xứ vô biên không. Thân nghiệp của người ấy không biểu hiện, giới là đối tượng nhận biết của ý thức thuộc pháp nhập. Khẩu nghiệp không biểu hiện, giới là đối tượng nhận biết của ý thức thuộc pháp nhập. Ý nghiệp do ý sinh thọ, tưởng, tư, xúc, tư duy. Hành thiện của thân, khẩu, ý như thế đó gọi là hành bất động, do vô minh duyên hành nơi đời hiện tại.

Lại nữa, nếu người không có tuệ, vô minh chưa đoạn dứt, đã lìa tất cả xứ không, thành tựu hành của xứ vô biên thức. Thân nghiệp của người ấy không biểu hiện, giới là đối tượng nhận biết của ý thức thuộc pháp nhập. Khẩu nghiệp không biểu hiện, giới là đối tượng nhận biết của ý thức thuộc pháp nhập. Ý nghiệp do ý sinh thọ, tưởng, tư, xúc, tư duy. Hành thiện của thân, khẩu, ý như thế đó gọi là hành bất động, do vô minh duyên hành nơi đời hiện tại.

Lại nữa, nếu người không có tuệ, vô minh chưa đoạn dứt, đã lìa tất cả xứ thức, thành tựu hành của xứ vô sở hữu. Thân nghiệp của người ấy không biểu hiện, giới là đối tượng nhận biết của ý thức thuộc pháp nhập. Khẩu nghiệp không biểu hiện, giới là đối tượng nhận biết của ý thức thuộc pháp nhập. Ý nghiệp do ý sinh thọ, tưởng, tư, xúc, tư duy. Hành thiện của thân, khẩu, ý như thế đó gọi là hành bất động, do vô minh duyên hành nơi đời hiện tại.

Lại nữa, nếu người không có tuệ, vô minh chưa đoạn dứt, đã lìa tất cả xứ vô sở hữu, thành tựu hành của xứ phi hữu tưởng phi vô tưởng. Thân nghiệp của người ấy không biểu hiện, giới là đối tượng nhận biết của ý thức thuộc pháp nhập. Khẩu nghiệp không biểu hiện, giới là đối tượng nhận biết của ý thức thuộc pháp nhập. Ý nghiệp do ý sinh thọ, tưởng, tư, xúc, tư duy. Hành thiện của thân, khẩu, ý như thế đó gọi là hành bất động, do vô minh duyên hành nơi đời hiện tại.

Đó gọi là hành bất động.

Lại nữa, nếu người không có tuệ, vô minh chưa đoạn dứt, tạo hành của thân, khẩu, ý bất thiện. Vì tạo hành bất thiện, nên thân hoại mạng chung, bị đọa vào địa ngục, súc sinh, ngạ quỷ. Do nhân là đầu mối nơi duyên, nên bị đọa vào địa ngục, súc sinh, ngạ quỷ, thọ nhận thân năm ấm. Như thế, duyên nơi hành của đời hiện tại, thọ nhận hành vị lai. Đó gọi là vô minh duyên hành vị lai.

Lại nữa, nếu người không có tuệ, vô minh chưa đoạn dứt, thân tạo hành thiện hữu lậu, sẽ thọ sinh nơi cõi dục. Miệng, ý tạo hành thiện hữu lậu, sẽ thọ sinh nơi cõi dục. Tạo hành thiện xong, thân hoại mạng chung, hoặc sinh trong nẻo người, hoặc trên nẻo trời thuộc cõi dục. Do nhân là đầu mối nơi duyên, nên sinh trong nẻo người, trên nẻo trời thuộc cõi dục, thọ thân năm ấm. Như thế, duyên nơi hành của đời hiện tại, thọ nhận hành vị lai. Đó gọi là vô minh duyên hành vị lai.

Lại nữa, nếu người không có tuệ, vô minh chưa đoạn dứt, thân tạo hành thiện hữu lậu, sẽ thọ sinh nơi cõi sắc. Miệng, ý tạo hành thiện hữu lậu, sẽ thọ sinh nơi cõi sắc. Tạo hành thiện xong, thân hoại mạng chung, sinh nơi trời thuộc cõi sắc. Do nhân là đầu mối nơi duyên, nên nơi trời thuộc cõi sắc, thọ thân năm ấm. Như thế, duyên nơi hành của đời hiện tại, thọ nhận hành vị lai. Đó gọi là vô minh duyên hành vị lai.

Lại nữa, nếu người không có tuệ, vô minh chưa đoạn dứt, thân miệng ý tạo hành thiện hữu lậu, sẽ thọ sinh nơi cõi vô sắc. Tạo hành thiện xong, thân hoại mạng chung, sinh nơi trời thuộc cõi vô sắc. Do nhân là đầu mối nơi duyên, nên nơi trời thuộc cõi vô sắc, thọ thân bốn ấm. Như thế, duyên nơi hành của đời hiện tại, thọ nhận hành vị lai. Đó gọi là vô minh duyên hành vị lai.

Như Đức Phật nói: Này A-nan! Hành có duyên. Như thế, Tôn giả A-nan hỏi xong, có đáp: Hành do gì duyên? Vô minh duyên hành. Đây là đáp. A-nan! Nếu không có vô minh thì có hành không? Bạch Thế Tôn, không có. Này A-nan! Do nhân là đầu mối nơi duyên, nên hành, như vô minh duyên hành, như trước vừa nói, do đấy nên nói.

Hỏi: Thế nào là hành duyên thức?

Đáp: Có duyên tư của dục chung, sinh thức của dục chung. Như thế, duyên nơi hành hiện tại, sinh thức hiện tại, gọi là hành duyên thức hiện tại. Có giận chung, có si chung, không dục chung, không giận chung, không si chung. Thiện, bất thiện có duyên tư vô ký, có sinh thức vô ký. Như thế, duyên nơi hành hiện tại, sinh thức hiện tại, đó gọi là hành duyên thức hiện tại. Nhãn duyên sắc sinh thức. Hành của nhãn, hành của sắc kia, như duyên với thức. Như thế, duyên nơi hành hiện tại sinh thức hiện tại, là hành hiện tại duyên thức hiện tại. Nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý, ý duyên pháp sinh thức. Hành của ý kia là pháp hành như duyên nơi thức. Như thế là duyên nơi hành hiện tại sinh thức hiện tại. Đó gọi là hành hiện tại duyên thức hiện tại.

Lại nữa, nếu người không có tuệ, vô minh chưa đoạn dứt, khởi thân hành bất thiện, miệng hành bất thiện, ý hành bất thiện. Tạo hành bất thiện rồi, thân hoại mạng chung, bị đọa vào địa ngục, súc sinh, ngạ quỷ. Do nhân là đầu mối nơi duyên, nên sinh vào địa ngục, súc sinh, ngạ quỷ, đã thọ nhận nghiệp của thức đầu tiên. Nhân là đầu mối nơi tập duyên sinh nhãn thức, cho đến ý thức và sau là nhận rõ thức.

Như thế, duyên nơi hành hiện tại sinh thức vị lai. Đó gọi là hành duyên thức vị lai.

Lại nữa, nếu người không có tuệ, vô minh chưa đoạn dứt, thân tạo hành thiện hữu lậu, sẽ thọ sinh nơi cõi dục. Miệng, ý tạo hành thiện hữu lậu, sẽ thọ sinh nơi cõi dục. Tạo hành thiện rồi, thân hoại mạng chung, hoặc sinh trong nẻo người, hoặc sinh trên nẻo trời thuộc cõi dục. Do nhân là đầu mối nơi duyên, nên hoặc sinh trong nẻo người, hoặc sinh nơi sáu trời thuộc cõi dục, đã thọ nhận nghiệp của thức đầu tiên. Nhân là đầu mối nơi tập duyên sinh nhãn thức, cho đến ý thức và sau là nhận rõ thức. Như thế, duyên nơi hành hiện tại sinh thức vị lai. Đó gọi là hành duyên thức.

Lại nữa, nếu người không có tuệ, vô minh chưa đoạn dứt, thân tạo hành thiện hữu lậu, sẽ thọ sinh nơi cõi sắc. Miệng, ý tạo hành thiện hữu lậu, sẽ thọ sinh nơi cõi sắc. Tạo hành thiện rồi, thân hoại mạng chung, sinh nơi các trời thuộc cõi sắc. Do nhân là đầu mối nơi duyên, nên nơi các trời thuộc cõi sắc, đã thọ nhận nghiệp của thức đầu tiên. Nhân là đầu mối nơi tập duyên sinh nhãn thức, cho đến ý thức và sau là nhận rõ thức. Như thế, duyên nơi hành hiện tại sinh thức vị lai. Đó gọi là hành duyên thức vị lai.

Lại nữa, nếu người không có tuệ, vô minh chưa đoạn dứt, thân tạo hành thiện hữu lậu, sẽ thọ sinh nơi cõi vô sắc. Miệng, ý tạo hành thiện hữu lậu, sẽ thọ sinh nơi cõi vô sắc. Tạo hành thiện rồi, thân hoại mạng chung, sinh nơi các trời thuộc cõi vô sắc. Do nhân là đầu mối nơi duyên, nên nơi các trời thuộc cõi vô sắc, đã thọ nhận nghiệp của thức đầu tiên. Nhân là đầu mối nơi tập duyên sinh ý giới, ý thức giới và sau là nhận rõ thức. Như thế, duyên nơi hành hiện tại sinh thức vị lai. Đó gọi là hành duyên thức vị lai.

Lại nữa, nếu người không có tuệ, vô minh chưa đoạn dứt, thân miệng ý tạo hành ác. Tạo hành ác như thế xong, thân hoại mạng chung, bị đọa vào địa ngục, súc sinh, ngạ quỷ. Do nhân là đầu mối nơi duyên, nên bị đọa vào địa ngục, súc sinh, ngạ quỷ, người kia có tư bất thiện cùng với thức tư. Như thế, duyên nơi hành vị lai thọ nhận thức vị lai. Đó gọi là hành duyên thức vị lai.

Lại nữa, nếu người không có tuệ, vô minh chưa đoạn dứt, thân tạo hành thiện hữu lậu, sẽ thọ sinh nơi cõi dục. Miệng, ý tạo hành thiện hữu lậu, sẽ thọ sinh nơi cõi dục. Tạo hành thiện xong, thân hoại mạng chung, hoặc sinh trong nẻo người, hoặc sinh trên trời thuộc cõi dục. Do nhân là đầu mối nơi duyên, nên hoặc trong nẻo người, hoặc trên trời thuộc cõi dục, người kia có tư thiện cùng với thức tư. Như thế, duyên nơi hành vị lai thọ nhận thức vị lai. Đó gọi là hành duyên thức vị lai.

Lại nữa, nếu người không có tuệ, vô minh chưa đoạn dứt, thân tạo hành thiện hữu lậu, sẽ thọ sinh nơi cõi sắc. Miệng, ý tạo hành thiện hữu lậu, sẽ thọ sinh nơi cõi sắc. Tạo hành thiện xong, thân hoại mạng chung, sinh trên trời thuộc cõi sắc. Do nhân là đầu mối nơi duyên, nên sinh trên trời thuộc cõi sắc, có tư cùng với thức tư. Như thế, duyên nơi hành vị lai sinh thức vị lai. Đó gọi là hành duyên thức vị lai.

Lại nữa, nếu người không có tuệ, vô minh chưa đoạn dứt, thân tạo hành thiện hữu lậu, sẽ thọ sinh nơi cõi vô sắc. Miệng, ý tạo hành thiện hữu lậu, sẽ thọ sinh nơi cõi vô sắc. Tạo hành thiện xong, thân hoại mạng chung, sinh trên trời thuộc cõi vô sắc. Do nhân là đầu mối nơi duyên, nên sinh trên trời thuộc cõi vô sắc, có tư bất động cùng với thức tư. Như thế, duyên nơi hành vị lai sinh thức vị lai. Đó gọi là hành duyên thức vị lai.

Lại nữa, nếu hành sau cùng, chưa nhận biết mà diệt, hoặc hành vô gián đã diệt rồi, thức nối tiếp sinh nơi nẻo khác, thì hành ấy là duyên vô gián của duyên kia. Nếu nhân nơi thức nối tiếp sinh nơi nẻo khác, thì duyên của hành kia là duyên nhân của thức ấy. Nếu tư duy về hành, thức kia nối tiếp sinh nơi nẻo khác, thì duyên của hành ấy là duyên cảnh giới của thức kia. Nếu hành, thức kia nối tiếp sinh nơi nẻo khác, thì duyên của hành ấy là duyên y của thức ấy. Nếu báo nơi hành, thức nối tiếp sinh nơi nẻo khác, thì duyên của hành kia là duyên báo của thức ấy. Nếu khởi hành, thức nối tiếp sinh nơi nẻo khác, thì duyên của hành kia là duyên khởi của thức ấy. Nếu hành tương ưng với thức, nối tiếp sinh nơi nẻo khác, thì duyên của hành ấy là duyên khác của thức kia. Nếu hành, thức tăng thượng nối tiếp sinh nơi nẻo khác, thì duyên của hành ấy là duyên tăng thượng của thức kia. Thức sau cùng này diệt, thức đầu tiên nối tiếp sinh nơi nẻo khác. Thức sau cùng diệt rồi, thức đầu tiên tức sinh, không có trung gian. Dụ như bóng di chuyển theo mặt trời nối tiếp, mặt trời di chuyển thì bóng nối tiếp, bóng cùng với mặt trời không có trung gian. Như thế, thức sau cùng diệt, thức đầu tiên nối tiếp sinh nơi nẻo khác. Thức sau diệt rồi, tức thọ nhận thức đầu, không có trung gian.

Nếu thức đầu tiên, hoặc thức sau cùng là pháp tương ưng thì không đến thức sau. Dụ như nhãn thức diệt rồi, sinh nhĩ thức, nhĩ thức diệt rồi sinh nhãn thức. Pháp tương ưng của nhãn thức không đến với nhĩ thức. Pháp tương ưng của nhĩ thức không đến với nhãn thức. Như thế, thức sau cùng, pháp tương ưng của thức sau cùng không đến với thức ban đầu. Pháp tương ưng của thức ban đầu không đến với thức sau. Thức sau diệt rồi, tức sinh thức ban đầu. Nghĩa là thời gian này đi qua, tức đây diệt kia sinh, đây là sau cùng kia là bắt đầu. Không phải là mạng kia thân kia, không phải là mạng khác thân khác. Không phải thường, không phải đoạn, không phải đi, không phải đến, không phải thay đổi. Không phải không nhân, không phải không tạo tác, không phải ở đây tạo tác, ở đây thọ nhận, không phải tạo tác khác, thọ nhận khác. Nhận biết có đi đến. Nhận biết có sinh tử. Nhận biết có nghiệp cùng nối tiếp. Nhận biết có thuyết pháp. Nhận biết có duyên. Không có người từ đây đến kia. Không có người từ kia đến đây. Vì sao? Vì nghiệp duyên nối tiếp nhau sinh.

Như Đức Phật nói: Này A-nan! Thức có duyên. Như thế, Tôn giả A-nan hỏi xong, có lời đáp: Thức có gì duyên? Là hành duyên. Đây là đáp. A-nan! Nếu không có hành thì có thức không? Bạch Đức Thế Tôn, không có. A-nan đáp. Do vậy, này A-nan, đây là nhân, đầu mối nơi duyên thức. Nếu hành duyên thức thì như vừa nói, do đấy nên nói.

Hỏi: Thế nào là thức duyên danh sắc?

Đáp: Có duyên cùng dục, thức sinh. Thân nghiệp có dục sinh, khẩu nghiệp có dục sinh, ý nghiệp có dục sinh. Thân nghiệp, khẩu nghiệp cùng có dục, đó gọi là sắc. Ý nghiệp cùng có dục, do ý sinh thọ, tưởng, tư, xúc, tư duy, đó gọi là danh. Như thế, duyên nơi thức hiện tại sinh danh sắc hiện tại, đó gọi là thức duyên danh sắc hiện tại.

Cùng có giận dữ, cùng có ngu si, không cùng có dục, không cùng có giận dữ, không cùng có ngu si. Thiện, bất thiện có duyên thức vô ký. Thân nghiệp, khẩu nghiệp, ý nghiệp vô ký. Thân nghiệp, khẩu nghiệp vô ký, đó gọi là sắc. Ý nghiệp vô ký, do ý sinh thọ, tưởng, tư, xúc, tư duy, đó gọi là danh. Như thế, duyên nơi thức hiện tại sinh danh sắc hiện tại, đó gọi là thức hiện tại duyên danh sắc hiện tại.

Lại nữa, nếu người không có tuệ, vô minh chưa đoạn dứt, tạo thức bất thiện. Người kia đã tạo thức bất thiện xong, thân hoại mạng chung, bị đọa vào địa ngục, súc sinh, ngạ quỷ. Do nhân là đầu mối nơi duyên, nên sinh vào địa ngục, súc sinh, ngạ quỷ, là danh sắc. Bốn đại, sắc do bốn đại tạo, gọi là sắc. Do ý sinh thọ, tưởng, tư, xúc, tư duy, gọi là danh. Như thế gọi là duyên nơi thức hiện tại sinh danh sắc vị lai, đó gọi là thức duyên danh sắc vị lai.

Lại nữa, nếu người không có tuệ, vô minh chưa đoạn dứt, đã tạo thức thiện hữu lậu, sẽ thọ sinh nơi cõi dục. Tạo nên thức thiện rồi, thân hoại mạng chung, hoặc sinh trong nẻo người, hoặc sinh trên các trời thuộc cõi dục. Do nhân là đầu mối nơi duyên, nên thọ nhận danh sắc trong nẻo người, hoặc thọ nhận danh sắc trên các trời thuộc cõi dục. Bốn đại, sắc do bốn đại tạo, gọi là sắc. Do ý sinh thọ, tưởng, tư, xúc, tư duy, gọi là danh. Như thế là duyên nơi thức hiện tại sinh danh sắc vị lai, đó gọi là thức duyên danh sắc vị lai.

Lại nữa, nếu người không có tuệ, vô minh chưa đoạn dứt, đã lìa pháp dục ác bất thiện, có giác có quán, ly sinh hỷ lạc, thành tựu hành của thiền thứ nhất, đạt hỷ lạc kia. Nơi thiền thứ nhất tôn thượng có thể nhẫn trụ hỷ lạc. Nơi thiền thứ nhất tôn thượng có thể nhẫn trụ xong, thức dựa vào lạc để giữ lấy. Người ấy thân hoại mạng chung, sinh trên các trời thuộc cõi sắc. Do nhân là đầu mối nơi duyên, nên sinh danh sắc trên các trời thuộc cõi sắc. Bốn đại, sắc do bốn đại tạo, là sắc. Do ý sinh thọ, tưởng, tư, xúc, tư duy, là danh. Như thế là duyên nơi thức hiện tại sinh danh sắc vị lai, đó gọi là thức duyên danh sắc vị lai.

Lại nữa, nếu người không có tuệ, vô minh chưa đoạn dứt, đã lìa tất cả xứ vô sở hữu, thành tựu hành hỷ lạc của xứ phi hữu tưởng phi vô tưởng. Xứ phi hữu tưởng phi vô tưởng kia tôn thượng, có thể nhẫn trụ hỷ lạc. Xứ phi hữu tưởng phi vô tưởng tôn thượng có thể nhẫn trụ nhiều xong, thức dựa vào chỗ nhận giữ lạc, tu hành nhiều, khi thân hoại mạng chung, sinh trên trời xứ phi hữu tưởng phi vô tưởng. Do nhân là đầu mối nơi duyên, nên sinh danh trên trời xứ phi tưởng phi phi tưởng. Do ý sinh thọ, tưởng, tư, xúc, tư duy, gọi là danh. Như thế là duyên nơi thức hiện tại sinh danh vị lai, đó gọi là thức duyên danh sắc vị lai.

Lại nữa, nếu người không có tuệ, vô minh chưa đoạn dứt, đã tạo hành thân bất thiện, hành miệng bất thiện, hành ý bất thiện. Tạo hành bất thiện xong, thân hoại mạng chung, sinh vào ba nẻo ác là địa ngục, súc sinh, ngạ quỷ. Thức đầu tiên cùng với thức kia là danh sắc. Bốn đại, sắc do bốn đại tạo, là sắc. Do ý sinh thọ, tưởng, tư, xúc, tư duy, là danh. Như thế là duyên nơi thức vị lai sinh danh sắc vị lai, đó gọi là thức duyên danh sắc vị lai.

Lại nữa, nếu người không có tuệ, vô minh chưa đoạn dứt, thân, khẩu, ý tạo hành thiện hữu lậu, sẽ thọ sinh nơi cõi dục. Tạo hành thiện xong, thân hoại mạng chung, hoặc sinh trong nẻo người, hoặc sinh trên các trời thuộc cõi dục. Do nhân là đầu mối nơi duyên, nên sinh trong nẻo người, hoặc sinh trên các trời thuộc cõi dục, thức ban đầu cùng với thức kia là danh sắc. Bốn đại, sắc do bốn đại tạo, là sắc. Do ý sinh thọ, tưởng, tư, xúc, tư duy, là danh. Như thế là duyên nơi thức vị lai sinh danh sắc vị lai, đó gọi là thức duyên danh sắc vị lai.

Lại nữa, nếu người không có tuệ, vô minh chưa đoạn dứt, thân đã tạo hành thiện hữu lậu, sẽ sinh nơi cõi sắc. Miệng, ý tạo hành thiện hữu lậu, sẽ sinh nơi cõi sắc. Tạo hành thiện xong, thân hoại mạng chung, sinh trên các trời thuộc cõi sắc. Do nhân là đầu mối nơi duyên, nên sinh nơi cõi sắc. Thức đầu tiên cùng với thức kia là danh sắc. Bốn đại, sắc do bốn đại tạo, là sắc. Do ý sinh thọ, tưởng, tư, xúc, tư duy, là danh. Như thế, duyên nơi thức vị lai sinh danh sắc vị lai, đó gọi là thức duyên danh sắc vị lai.

Lại nữa, nếu người không có tuệ, vô minh chưa đoạn dứt, thân tạo hành thiện hữu lậu, sẽ sinh nơi cõi vô sắc. Miệng, ý tạo hành thiện hữu lậu, sẽ sinh nơi cõi vô sắc. Tạo hành thiện xong, thân hoại mạng chung, sinh trên các trời thuộc cõi vô sắc. Do nhân là đầu mối nơi duyên, nên sinh trên trời của cõi vô sắc. Thức ban đầu cùng với thức kia danh. Do ý sinh thọ, tưởng, tư, xúc, tư duy, là danh. Như thế là duyên nơi thức vị lai sinh danh vị lai, đó gọi là thức duyên danh vị lai.

Như Đức Phật nói: Này A-nan! Danh sắc có duyên. Như thế, Tôn giả A-nan hỏi xong, có lời đáp.

Danh sắc có gì duyên?

Thức duyên danh sắc, đây là đáp.

Này A-nan! Thức không vào thai, có danh sắc sinh không?

Bạch Đức Thế Tôn, không có.

Này A-nan! Thức nhập thai, không xuất, có danh sắc tập hợp không?

Bạch Đức Thế Tôn, không có.

Này A-nan! Nếu thức của trẻ con đoạn hoại, không có, thức ấy có danh sắc tăng trưởng rộng lớn không?

Bạch Đức Thế Tôn, không có.

Này A-nan! Không có tất cả thức thì có danh sắc không?

Bạch Đức Thế Tôn, không có.

Do vậy, này A-nan! Do nhân là đầu mối nơi duyên danh sắc. A-nan! Nếu thức duyên danh sắc thì như đã nói, do đấy nên nói.

Hỏi: Thế nào là danh sắc duyên sáu nhập, duyên đoạn thực?

Đáp: Nhãn căn hiện tại tươi đủ, tăng trưởng. Căn của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý đều tươi đủ, tăng trưởng. Đoạn thực nghĩa là sắc. Do ý sinh thọ, tưởng, tư, xúc, tư duy là danh. Như thế là duyên nơi danh sắc hiện tại sinh sáu nhập hiện tại, đó gọi là danh sắc duyên sáu nhập hiện tại, duyên y phục, tắm gội, là điều hợp thân. Nhãn căn hiện tại tươi đủ, tăng trưởng. Căn của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý đều tươi đủ, tăng tưởng, y phục, tắm gội, là điều hợp thân. Đoạn thực gọi là sắc. Do ý sinh thọ, tưởng, tư, xúc, tư duy gọi là danh. Như thế là duyên nơi danh sắc hiện tại sinh sáu nhập hiện tại, đó gọi là danh sắc duyên sáu nhập hiện tại, duyên sắc của xứ hỷ. Nhãn căn hiện tại tươi đủ, tăng trưởng. Căn của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý đều tươi đủ, tăng trưởng. Sắc của xứ hỷ gọi là sắc. Do ý sinh thọ, tưởng, tư, xúc, tư duy gọi là danh.

Như thế là danh sắc duyên sáu nhập hiện tại.

Lại nữa, nếu có Tỳ-kheo A-la-hán, các lậu đã dứt hết, việc làm đã xong, bỏ hẳn gánh nặng, đầy đủ lợi mình, phiền não đều hết, chánh giải thoát xong, thọ nghiệp thù thắng thành tựu. Nhãn căn hiện tại kia tươi đủ tăng trưởng. Căn của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý đều tươi đủ, tăng trưởng. Nếu là thân nghiệp, khẩu nghiệp của người thật gọi là sắc. Nếu ý nghiệp do ý sinh thọ, tưởng, tư, xúc, tư duy gọi là danh. Như thế là duyên nơi danh sắc hiện tại sinh sáu nhập hiện tại, đó gọi là danh sắc duyên sáu nhập hiện tại.

Lại nữa, nếu có Tỳ-kheo đạt đại thần túc, đại oai lực, ở nơi tự thân khởi tâm hóa làm sắc thân khác, tất cả chi phần, các căn đều thành tựu, hiện tại tươi đủ tăng trưởng, nhãn căn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý căn đều tươi đủ tăng trưởng. Nếu thân nghiệp, khẩu nghiệp của người thật đó là sắc. Nếu ý nghiệp của người thật do ý sinh thọ, tưởng, tư, xúc, tư duy, đó là danh. Như thế là duyên nơi danh sắc hiện tại sinh sáu nhập hiện tại, đó gọi là danh sắc duyên sáu nhập hiện tại.

Lại nữa, nếu có Tỳ-kheo đắc thần túc, tâm được tự tại, mạng hành trụ hoặc một kiếp, hoặc giảm một kiếp. nhãn căn hiện tại kia tươi đủ tăng trưởng, các căn nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý đều tươi đủ tăng trưởng. Nếu thân nghiệp, khẩu nghiệp của người thật đó là sắc. Nếu ý nghiệp của người thật do ý sinh thọ, tưởng, tư, xúc, tư duy, đó là danh. Như thế là duyên nơi danh sắc hiện tại sinh sáu nhập hiện tại, đó gọi là danh sắc duyên sáu nhập hiện tại.

Lại nữa, nếu người không có tuệ, vô minh chưa đoạn dứt, tạo hành thân, khẩu, ý bất thiện. Hành của thân, khẩu bất thiện gọi là sắc. Hành của ý bất thiện do ý sinh thọ, tưởng, tư, xúc, tư duy, gọi là danh. Tạo danh sắc bất thiện xong, thân hoại mạng chung, sinh vào địa ngục, súc sinh, ngạ quỷ. Do nhân là đầu mối nơi duyên, nên sinh ra sáu căn nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý của ba nẻo ác ấy. Như thế là duyên nơi danh sắc hiện tại sinh sáu nhập vị lai, đó gọi là danh sắc duyên sáu nhập vị lai.

Lại nữa, nếu người không có tuệ, vô minh chưa đoạn dứt, thân tạo hành thiện hữu lậu, sẽ thọ sinh nơi cõi dục. Miệng, ý tạo hành thiện hữu lậu, sẽ thọ sinh nơi cõi dục. Hành thiện của thân, miệng gọi là sắc. Hành thiện của ý do ý sinh thọ, tưởng, tư, xúc, tư duy, gọi là danh. Tạo danh sắc thiện xong, thân hoại mạng chung, sinh trong nẻo người, hoặc sinh trên các trời thuộc cõi dục. Do nhân là đầu mối nơi duyên, nên sinh sáu căn nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý trong nẻo người, hoặc trên các trời thuộc cõi dục. Như thế là duyên nơi danh sắc hiện tại sinh sáu nhập vị lai, đó gọi là danh sắc duyên sáu nhập vị lai.

Lại nữa, nếu người không có tuệ, vô minh chưa đoạn dứt, đã lìa pháp dục ác bất thiện, có giác có quán, ly sinh hỷ lạc, thành tựu hành của thiền thứ nhất. Nếu thân nghiệp, khẩu nghiệp của người hành đó là sắc. Nếu ý nghiệp của người hành, do ý sinh thọ, tưởng, tư, xúc, tư duy đó là danh. Người kia đã tạo danh sắc thiện xong, thân hoại mạng chung, sinh trên các trời thuộc cõi sắc. Do nhân là đầu mối nơi duyên, nên sinh các căn nhãn, nhĩ, thân, ý trên trời thuộc cõi sắc. Như thế là duyên nơi danh sắc hiện tại sinh sáu nhập vị lai, đó gọi là danh sắc duyên sáu nhập vị lai.

Lại nữa, nếu người không có tuệ, vô minh chưa đoạn dứt, đã diệt giác quán, nội tịnh tâm tín, không giác không quán, định sinh hỷ lạc, thành tựu hành của thiền thứ hai. Nếu thân nghiệp, khẩu nghiệp của người hành, đó là sắc. Nếu ý nghiệp của người hành, do ý sinh thọ, tưởng, tư, xúc, tư duy, đó là danh. Người kia tạo danh sắc thiện xong, thân hoại mạng chung, sinh trên trời thuộc cõi sắc. Do nhân là đầu mối nơi duyên, nên sinh các căn nhãn, nhĩ, thân, ý trên trời thuộc cõi sắc. Như thế là duyên nơi danh sắc hiện tại sinh nhập vị lai, đó gọi là danh sắc duyên nhập vị lai.

Lại nữa, nếu người không có tuệ, vô minh chưa đoạn dứt, lìa hỷ, xả niệm, thân trí thọ nhận lạc, như các Thánh nhân có thể hành xả niệm lạc, thành tựu hành của thiền thứ ba. Nếu thân nghiệp, khẩu nghiệp là của người hành, đó là sắc. Nếu ý nghiệp là của người hành, do ý sinh thọ, tưởng, tư, xúc, tư duy, đó là danh. Người kia đã tạo danh sắc thiện xong, do nhân là đầu mối nơi duyên, nên sinh các căn nhãn, nhĩ, thân, ý trên trời thuộc cõi sắc. Như thế là duyên nơi danh sắc hiện tại sinh nhập vị lai, đó gọi là danh sắc duyên nhập vị lai.

Lại nữa, nếu người không có tuệ, vô minh chưa đoạn dứt, đã trừ bỏ khổ, lạc, trước diệt ưu, hỷ, xả niệm tịnh, không khổ không lạc, thành tựu hành của thiền thứ tư. Nếu thân nghiệp, khẩu nghiệp là của người hành, đó là sắc. Nếu ý nghiệp là của người hành, do ý sinh thọ, tưởng, tư, xúc, tư duy, đó là danh. Tạo danh sắc thiện rồi, thân hoại mạng chung, sinh trên trời thuộc cõi sắc. Do nhân là đầu mối nơi duyên, nên sinh các căn nhãn, nhĩ, thân, ý trên trời thuộc cõi sắc. Như thế là duyên nơi danh sắc hiện tại sinh nhập vị lai, đó gọi là danh sắc duyên nhập vị lai.

Lại nữa, nếu người không có tuệ, vô minh chưa đoạn dứt, tư duy như thế, tưởng là tai hại, là mụt nhọt, là mũi tên độc của ta. Vô tưởng là tịch tĩnh, là thượng diệu, có thể thành tựu hành của định vô tưởng. Nếu thân nghiệp, khẩu nghiệp là của người hành, đó là sắc. Định vô tưởng gọi là danh. Người kia đã tạo danh sắc thiện rồi, thân hoại mạng chung, sinh trên trời Vô tưởng. Do nhân là đầu mối nơi duyên, nên sinh các căn nhãn, nhĩ, thân, ý trên trời vô tưởng. Như thế là duyên nơi danh sắc hiện tại sinh nhập vị lai, đó gọi là danh sắc duyên nhập vị lai.

Lại nữa, nếu người dựa nơi cùng giác của Thánh, lìa pháp dục ác bất thiện, có giác có quán, ly sinh hỷ lạc, thành tựu hành của thiền thứ nhất. Nếu thân nghiệp, khẩu nghiệp của người thật, đó là sắc. Nếu ý nghiệp của người thật, do ý sinh thọ, tưởng, tư, xúc, tư duy, đó là danh. Người kia đã tạo danh sắc thiện xong, thân hoại mạng chung, sinh trên trời Tịnh cư. Do nhân là đầu mối nơi duyên, nên sinh các căn nhãn, nhĩ, thân, ý trên trời Tịnh cư. Như thế là duyên nơi danh sắc hiện tại sinh nhập vị lai, đó gọi là danh sắc duyên nhập vị lai.

Lại nữa, nếu người dựa nơi cùng giác của Thánh, diệt giác quán, nội tịnh tâm tín, không giác không quán, dựa vào định sinh hỷ lạc, thành tựu hành của thiền thứ hai. Nếu thân nghiệp, khẩu nghiệp là của người thật, đó là sắc. Nếu ý nghiệp là của người thật, do ý sinh thọ, tưởng, tư, xúc tư duy, đó là danh. Người ấy đã tạo danh sắc thiện xong, thân hoại mạng chung, sinh trên trời Tịnh cư. Do nhân là đầu mối nơi duyên, nên được các căn nhãn, nhĩ, thân, ý trên trời Tịnh cư. Như thế là duyên nơi danh sắc hiện tại sinh nhập vị lai, đó gọi là danh sắc duyên nhập vị lai.

Lại nữa, nếu người dựa nơi cùng giác của Thánh, lìa hỷ, hành xả niệm biết thân thọ nhận lạc, như các Thánh nhân có thể hành xả niệm lạc, thành tựu hành của thiền thứ ba. Nếu thân nghiệp, khẩu nghiệp là của người thật, đó là sắc. Nếu ý nghiệp là của người thật, do ý sinh thọ, tưởng, tư, xúc, tư duy, đó là danh. Người ấy đã tạo danh sắc thiện xong, thân hoại mạng chung, sinh trên trời Tịnh cư. Do nhân là đầu mối nơi duyên, nên được các căn nhãn, nhĩ, thân, ý trên trời Tịnh cư. Như thế là duyên nơi danh sắc hiện tại sinh nhập vị lai, đó gọi là danh sắc duyên nhập vị lai.

Lại nữa, nếu người dựa nơi cùng giác của Thánh, đoạn khổ lạc, trước diệt ưu hỷ, xả niệm tịnh không khổ không vui, thành tựu hành của thiền thứ tư. Nếu thân nghiệp, khẩu nghiệp là của người thật, đó là sắc. Nếu ý nghiệp là của người thật, do ý sinh thọ, tưởng, tư, xúc, tư duy, đó là danh. Người kia đã tạo danh sắc thiện xong, thân hoại mạng chung, sinh trên trời Tịnh cư. Do nhân là đầu mối nơi duyên, nên được các căn nhãn, nhĩ, thân, ý trên trời Tịnh cư. Như thế là duyên nơi danh sắc hiện tại sinh nhập vị lai, đó gọi là danh sắc duyên nhập vị lai.

Lại nữa, nếu người không có tuệ, vô minh chưa đoạn dứt, đã lìa tất cả tưởng sắc, diệt tưởng giận, không tư duy về từng ấy tưởng, thành tựu hành của xứ vô biên không. Nếu thân nghiệp, khẩu nghiệp là của người hành, đó là sắc. Nếu ý nghiệp là của người hành, do ý sinh thọ, tưởng, tư, xúc, tư duy, đó là danh. Người kia đã tạo danh sắc thiện xong, thân hoại mạng chung, sinh nơi trời Không xứ. Do nhân là đầu mối nơi duyên, nên được ý căn nơi trời Không xứ. Như thế là duyên nơi danh sắc hiện tại sinh nhập vị lai, đó gọi là danh sắc duyên nhập vị lai.

Lại nữa, nếu người không có tuệ, vô minh chưa đoạn dứt, lìa tất cả xứ không, thành tựu hành của xứ vô biên thức. Nếu thân nghiệp, khẩu nghiệp là của người hành, đó là sắc. Nếu ý nghiệp là của người hành, do ý sinh thọ, tưởng, tư, xúc, tư duy, đó là danh. Người kia đã tạo danh sắc thiện xong, thân hoại mạng chung, sinh trên trời Thức xứ. Do nhân là đầu mối nơi duyên, nên được ý căn trên trời Thức xứ. Như thế là duyên nơi danh sắc hiện tại sinh nhập vị lai, đó gọi là danh sắc duyên nhập vị lai.

Lại nữa, nếu người không có tuệ, vô minh chưa đoạn dứt, đã lìa tất cả xứ thức, thành tựu hành của xứ vô sở hữu. Nếu thân nghiệp, khẩu nghiệp là của người hành, đó là sắc. Nếu ý nghiệp là của người hành, do ý sinh thọ, tưởng, tư, xúc, tư duy, đó là danh. Người kia đã tạo danh sắc thiện xong, thân hoại mạng chung, sinh lên trời Vô sở hữu xứ. Do nhân là đầu mối nơi duyên, nên được ý căn trên trời Vô sở hữu xứ. Như thế là duyên nơi danh sắc hiện tại sinh nhập vị lai, đó gọi là danh sắc duyên nhập vị lai.

Lại nữa, nếu người không có tuệ, vô minh chưa đoạn dứt, đã lìa tất cả xứ vô sở hữu, thành tựu hành của xứ phi hữu tưởng phi vô tưởng. Nếu thân nghiệp, khẩu nghiệp là của người hành, đó là sắc. Nếu ý nghiệp là của người hành, do ý sinh thọ, tưởng, tư, xúc, tư duy, đó là danh. Người kia đã tạo danh sắc thiện xong, thân hoại mạng chung, sinh lên trời Phi hữu tưởng phi vô tưởng xứ. Do nhân là đầu mối nơi duyên, nên được ý căn trên trời Phi hữu tưởng phi vô tưởng xứ. Như thế là duyên nơi danh sắc hiện tại sinh nhập vị lai, đó gọi là danh sắc duyên nhập vị lai.

Lại nữa, nếu người không có tuệ, vô minh chưa đoạn dứt, đã tạo hành của thân, khẩu, ý bất thiện. Tạo hành bất thiện xong, thân hoại mạng chung, bị đọa vào địa ngục, súc sinh, ngạ quỷ. Do nhân là đầu mối nơi duyên, nên thọ nhận danh sắc của địa ngục, súc sinh, ngạ quỷ. Bốn đại, sắc do bốn đại tạo, là sắc. Do ý sinh thọ, tưởng, tư, xúc, tư duy, là danh. Danh sắc tăng trưởng, nên thọ nhận sáu căn nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý của địa ngục, súc sinh, ngạ quỷ. Như thế là duyên nơi danh sắc vị lai sinh sáu nhập vị lai, đó gọi là danh sắc duyên sáu nhập vị lai.

Lại nữa, nếu người không có tuệ, vô minh chưa đoạn dứt, thân tạo hành thiện hữu lậu, sẽ thọ sinh nơi cõi dục. Miệng, ý tạo hành thiện hữu lậu, sẽ thọ sinh nơi cõi dục. Tạo hành thiện xong, thân hoại mạng chung, hoặc sinh trong nẻo người, hoặc trên trời thuộc cõi dục. Do nhân là đầu mối nơi duyên, nên được danh sắc trong nẻo người và trên trời thuộc cõi dục. Bốn đại, sắc do bốn đại tạo, là sắc. Do ý sinh thọ, tưởng, tư, xúc, tư duy, là danh. Danh sắc tăng trưởng, được sáu căn nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý trong nẻo người, hoặc trên trời thuộc cõi dục. Như thế là duyên nơi danh sắc vị lai sinh sáu nhập vị lai, đó gọi là danh sắc duyên sáu nhập vị lai.

Lại nữa, nếu người không có tuệ, vô minh chưa đoạn dứt, thân đã tạo hành thiện hữu lậu, sẽ thọ sinh nơi cõi sắc. Miệng, ý đã tạo hành thiện hữu lậu, sẽ thọ sinh nơi cõi sắc. Tạo hành thiện xong, thân hoại mạng chung, sinh lên trời thuộc cõi sắc. Do nhân là đầu mối nơi duyên, nên được danh sắc trên trời thuộc cõi sắc. Bốn đại, sắc do bốn đại tạo, là sắc. Do ý sinh thọ, tưởng, tư, xúc, tư duy, là danh. Danh sắc tăng trưởng, nên được các căn nhãn, nhĩ, thân, ý trên trời thuộc cõi sắc. Như thế là duyên nơi danh sắc vị lai sinh nhập vị lai, đó gọi là danh sắc duyên nhập vị lai.

Lại nữa, nếu người không có tuệ, vô minh chưa đoạn dứt, thân đã tạo hành thiện hữu lậu, sẽ thọ sinh nơi cõi vô sắc. Miệng, ý đã tạo hành thiện hữu lậu, sẽ thọ sinh nơi cõi vô sắc. Tạo hành thiện xong, thân hoại mạng chung, sinh lên trời thuộc cõi vô sắc. Do nhân là đầu mối nơi duyên, nên được danh trên trời thuộc cõi vô sắc. Do ý sinh thọ, tưởng, tư, xúc, tư duy, đó là danh. Danh tăng trưởng nên được ý căn trên trời thuộc cõi vô sắc. Như thế là duyên nơi danh sắc vị lai sinh nhập vị lai, đó gọi là danh sắc duyên nhập vị lai.

Như Đức Phật đã nói: Này A-nan! Sáu nhập có duyên. Như thế Tôn giả A-nan hỏi xong, có đáp.

Sáu nhập do gì duyên?

Danh sắc duyên sáu nhập. Đây là đáp.

Này A-nan! Không có tất cả danh sắc thì có sáu nhập không?

Bạch Đức Thế Tôn, không có.

Như thế, này A-nan! Do nhân là đầu mối nơi duyên sáu nhập. Này A-nan! Danh sắc duyên sáu nhập, như đã nói, vì thế nên nói.

Hỏi: Thế nào là sáu nhập duyên xúc?

Đáp: Sáu nhập duyên hai xúc: Thân xúc, tâm xúc, đó gọi là sáu nhập duyên xúc.

Lại nữa, sáu nhập duyên ba xúc: Xúc lạc, xúc khổ, xúc bất khổ bất lạc, đó gọi là sáu nhập duyên xúc.

Lại nữa, sáu nhập duyên ba xúc: Xúc hệ thuộc cõi dục, xúc hệ thuộc cõi sắc, xúc hệ thuộc cõi vô sắc, đó gọi là sáu nhập duyên xúc.

Lại nữa, sáu nhập duyên năm xúc: Là xúc tương ưng với năm thọ căn, đó gọi là sáu nhập duyên xúc.

Lại nữa, sáu nhập duyên sáu xúc: Nhãn xúc, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc, đó gọi là sáu nhập duyên sáu xúc.

Lại nữa, sáu nhập duyên bảy xúc: Xúc tương ưng với nhãn thức giới, xúc tương ưng với nhĩ thức giới, tỷ thức giới, thiệt thức giới, thân thức giới, ý giới, ý thức giới, đó gọi là sáu nhập duyên xúc.

Lại nữa, sáu nhập duyên mười tám xúc: Xúc lạc, xúc khổ, xúc không lạc không khổ của nhãn. Xúc lạc, xúc khổ, xúc không lạc không khổ của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý. Đó gọi là sáu nhập duyên xúc.

Như Đức Phật đã nói: Này A-nan! Xúc có duyên. Như thế Tôn giả A-nan hỏi xong, có đáp.

Xúc có gì duyên?

Sáu nhập duyên xúc. Đây là đáp.

Này A-nan! Nếu không có sáu nhập thì có xúc không?

Bạch Đức Thế Tôn, không có.

Này A-nan! Do nhân là đầu mối nơi duyên xúc. A-nan! Sáu nhập duyên xúc, như vừa nói, vì thế nên nói.

Hỏi: Thế nào là xúc duyên thọ?

Đáp: Xúc duyên hai thọ: Thân thọ, tâm thọ, đó gọi là xúc duyên thọ.

Lại nữa, xúc duyên ba thọ: Lạc thọ, khổ thọ, bất khổ bất lạc thọ, đó gọi là xúc duyên thọ. Cho đến xúc duyên mười tám thọ, như trên đã nói. Như thế gọi là xúc duyên thọ.

Như Đức Phật đã nói: Này A-nan! Thọ có duyên. Như thế Tôn giả A-nan hỏi xong, có đáp.

Thọ có gì duyên?

Xúc duyên thọ. Đây là đáp.

Này A-nan! Nếu không có tất cả xúc thì có thọ không?

Bạch Đức Thế Tôn, không có.

Này A-nan! Do nhân là đầu mối nơi duyên thọ. A-nan! Xúc duyên thọ, như trước vừa nói. Vì thế nên nói.

Hỏi: Thế nào là thọ duyên ái?

Đáp: Lạc thọ duyên nơi nhãn xúc, sinh lạc thọ của nhãn xúc. Xúc kia đã là lạc thọ của nhãn xúc xong, lạc thọ của nhãn xúc kia do hỷ lạc ái chấp trước nên có thể nhẫn trụ. Đó gọi là thọ duyên ái.

Lại nữa, lạc thọ duyên nơi nhãn xúc, sinh lạc thọ của nhãn xúc. Xúc kia đã là lạc thọ của nhãn xúc xong, đối với lạc thọ của nhãn xúc khác có hy vọng, hoặc tương tợ, hoặc thắng diệu. Đó gọi là thọ duyên ái.

Lại nữa, lạc thọ duyên nơi nhãn xúc, sinh lạc thọ của nhãn xúc. Xúc kia đã là lạc thọ của nhãn xúc xong, đối với bất khổ bất lạc thọ của nhãn xúc có hy vọng. Đó gọi là thọ duyên ái.

Lại nữa, khổ thọ duyên nơi nhãn xúc, sinh khổ thọ của nhãn xúc. Xúc kia đã là khổ thọ của nhãn xúc xong, đối với lạc thọ của nhãn xúc có hy vọng. Đó gọi là thọ duyên ái.

Lại nữa, khổ thọ duyên nơi nhãn xúc, sinh khổ thọ của nhãn xúc. Nếu xúc đã là khổ thọ của nhãn xúc xong, hy vọng khiến ta đoạn hoại không có. Đó gọi là thọ duyên ái.

Lại nữa, khổ thọ duyên nơi nhãn xúc, sinh khổ thọ của nhãn xúc. Nếu xúc đã là khổ thọ của nhãn xúc xong, đối với bất khổ bất lạc thọ của nhãn xúc thì hy vọng. Đó gọi là thọ duyên ái.

Lại nữa, bất khổ bất lạc thọ duyên nơi nhãn xúc, sinh bất khổ bất lạc thọ của nhãn xúc. Xúc kia đã là bất khổ bất lạc thọ của nhãn xúc xong, đối với lạc thọ của nhãn xúc có hỷ, lạc, ái chấp trước có thể nhẫn trụ. Đó gọi là thọ duyên ái.

Lại nữa, bất khổ bất lạc thọ duyên nơi nhãn xúc, sinh bất khổ bất lạc thọ của nhãn xúc. Nếu xúc đã là bất khổ bất lạc thọ của nhãn xúc xong, đối với bất khổ bất lạc thọ của nhãn xúc khác thì hy vọng, hoặc tương tợ, hoặc thắng diệu. Đó gọi là thọ duyên ái.

Lại nữa, bất khổ bất lạc thọ duyên nơi nhãn xúc, sinh bất khổ bất lạc thọ của nhãn xúc. Nếu xúc đã là bất khổ bất lạc thọ của nhãn xúc xong, đối với lạc thọ của nhãn xúc thì hy vọng. Đó gọi là thọ duyên ái.

Lại nữa, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc, lạc thọ duyên nơi ý xúc, sinh lạc thọ của ý xúc xong, lạc thọ của ý xúc kia có hỷ lạc ái chấp trước, có thể nhẫn trụ. Đó gọi là thọ duyên ái.

Lại nữa, lạc thọ duyên nơi ý xúc, có hỷ lạc ái chấp trước, có thể nhẫn trụ. Đó gọi là thọ duyên ái.

Lại nữa, lạc thọ duyên nơi ý xúc, sinh lạc thọ của ý xúc. Nếu xúc đã là lạc thọ của ý xúc xong, đối với lạc thọ của ý xúc khác, hy vọng hoặc tương tợ, hoặc thắng diệu. Đó gọi là thọ duyên ái.

Lại nữa, lạc thọ duyên nơi ý xúc, sinh lạc thọ của ý xúc. Xúc kia là lạc thọ của ý xúc xong, đối với bất khổ bất lạc thọ thì hy vọng. Đó gọi là thọ duyên ái.

Lại nữa, khổ thọ duyên nơi ý xúc, sinh khổ thọ của ý xúc. Xúc kia đã là khổ thọ của ý xúc xong, đối với lạc thọ của ý xúc thì hy vọng. Đó gọi là thọ duyên ái.

Lại nữa, khổ thọ duyên nơi ý xúc, sinh khổ thọ của ý xúc. Xúc kia đã là khổ thọ của ý xúc xong, thì hy vọng khiến ta đoạn hoại không có. Đó gọi là thọ duyên ái.

Lại nữa, khổ thọ duyên nơi ý xúc sinh khổ thọ của ý xúc. Xúc kia đã là khổ thọ của ý xúc xong, đối với bất khổ bất lạc thọ của ý xúc thì hy vọng. Đó gọi là thọ duyên ái.

Lại nữa, bất khổ bất lạc thọ duyên nơi ý xúc, sinh bất khổ bất lạc thọ của ý xúc. Nếu xúc kia đã là bất khổ bất lạc thọ của ý xúc xong, thì hy vọng có thể nhẫn trụ. Đó gọi là thọ duyên ái.

Lại nữa, bất khổ bất lạc thọ duyên nơi ý xúc, sinh bất khổ bất lạc thọ của ý xúc. Nếu xúc kia đã là bất khổ bất lạc thọ của ý xúc xong, thì đối với bất khổ bất lạc thọ của ý xúc khởi hy vọng, hoặc tương tợ, hoặc thắng diệu. Đó gọi là thọ duyên ái.

Lại nữa, bất khổ bất lạc thọ duyên nơi ý xúc, sinh bất khổ bất lạc của ý xúc. Nếu xúc kia đã là bất khổ bất lạc thọ của ý xúc xong, thì đối với lạc thọ của ý xúc khởi hy vọng. Đó gọi là thọ duyên ái.

Như Đức Phật đã nói: Này A-nan! Ái có duyên. Như thế Tôn giả A-nan hỏi xong, có đáp.

Ái do gì duyên?

Thọ duyên ái. Đây là đáp.

Này A-nan! Nếu không có tất cả thọ thì có ái không?

Bạch Đức Thế Tôn, không có.

Này A-nan! Do nhân là đầu mối nơi duyên ái. A-nan! Thọ duyên ái, như trước vừa nói. Vì thế nên nói.

Hỏi: Thế nào là ái duyên thủ?

Đáp: Ái chưa đoạn. Ái dục thủ, kiến thủ, giới thủ, ngã thủ. Đó gọi là ái duyên thủ.

Thế nào là dục thủ? Trừ xúc ban đầu của ái nơi cõi dục, nếu còn lại là ái của cõi dục được mở rộng, đó gọi là dục thủ.

Thế nào là kiến thủ? Trừ giới thủ, nếu là kiến thủ còn lại.

Thế nào là giới thủ? Giới trộm (giới cấm thủ), đó gọi là giới thủ.

Thế nào là ngã thủ? Trừ xúc đầu của ái nơi cõi sắc, vô sắc, nếu còn lại là ái của cõi sắc, vô sắc được mở rộng, đó gọi là ngã thủ.

Thế nào là dục thủ? Trừ xúc đầu của ái nơi cõi dục, cùng kiến thủ, giới thủ, nếu còn lại là phiền não của cõi dục, đó gọi là dục thủ.

Thế nào là kiến thủ? Sáu mươi hai kiến và tà kiến, đó gọi là kiến thủ.

Thế nào là giới thủ? Giới tịnh, đạo tịnh, cả hai cùng tịnh. Giải thoát không dựa vào chỗ diệt hết biên vực khổ, nếu đối với giới đạo kia có thể nhẫn dục ái. Giới, nghĩa là giới của thân, khẩu. Đạo, nghĩa là đạo tà cầu điều tốt, nuôi giữ tóc lội xuống nước, thờ lửa, thờ mặt trời, mặt trăng. Đi như bò, đi như nai, đi như chó, đi lặng lẽ, tìm sức đi, cầu đại nhân đi, vô số thứ khổ hạnh và cầu tìm điều tốt tà vạy khác. Đó gọi là đạo. Nếu giới kia, đạo này, cầu tìm, cầu tìm lần nữa, cầu tìm cuối cùng, đều cho là tịnh, là giải thoát, cho là giới tịnh, cho là ta giải thoát, cho là Thánh, là A-la-hán, là bát Niết-bàn. Nếu đối với giới đạo kia đã mong muốn, lại mong muốn, mong muốn cứu cánh, có thể nhẫn thọ. Đó gọi là giới thủ.

Thế nào là ngã thủ? Trừ xúc ái đầu tiên của cõi sắc, vô sắc, cùng giới thủ, kiến thủ, nếu còn lại là phiền não của cõi sắc, vô sắc, đó gọi là ngã thủ.

Như Đức Phật đã nói: Này A-nan! Thủ có duyên. Như thế Tôn giả A-nan hỏi xong, có đáp.

Thủ do gì duyên?

Ái duyên thủ. Đây là đáp.

Này A-nan! Nếu không có tất cả ái thì có thủ không?

Bạch Đức Thế Tôn, không có.

Này A-nan! Do nhân là đầu mối nơi duyên thủ. A-nan! Ái duyên thủ, như vừa nói ở trước, vì thế nên nói.

Hỏi: Thế nào là thủ duyên hữu?

Đáp: Duyên của dục thủ, kiến thủ, giới thủ, ngã thủ chưa đoạn, nếu tạo dục hành, sắc hành, vô sắc hành, nghiệp của thân, khẩu, ý có báo, đó gọi là thủ duyên hữu.

Lại nữa, thủ duyên ba hữu: Dục hữu, sắc hữu, vô sắc hữu.

Thế nào là dục hữu? Có hai thứ dục hữu: Hoặc dục hữu tức nghiệp hữu, hoặc dục hữu tức sinh hữu.

Thế nào là dục hữu tức nghiệp hữu? Hành dục chưa hết, chưa nhận biết, chưa đoạn trừ. Nếu tạo hành dục là nghiệp thân, khẩu, ý có báo. Đó gọi là dục hữu tức nghiệp hữu.

Thế nào là dục hữu tức sinh hữu? Nếu tạo nghiệp đã thành rồi, ở nơi các trời thuộc cõi dục, nếu thọ thân là năm thứ phần của ngã tức sắc, thọ, tưởng, hành, thức, đó gọi là dục hữu tức sinh hữu.

Hữu này nghĩa là thọ hữu. Hữu này là báo hữu. Hữu này là hậu hữu. Như thế là dục hành nghiệp hữu. Như thế là dục hành sinh hữu. Đó gọi là dục hữu.

Thế nào là sắc hữu? Có hai thứ sắc hữu: Hoặc sắc hữu tức nghiệp hữu, hoặc sắc hữu tức sinh hữu.

Thế nào là sắc hữu tức nghiệp hữu? Hành sắc chưa hết, chưa nhận biết, chưa đoạn trừ. Nếu tạo hành sắc là nghiệp thân, khẩu, ý có báo. Đó gọi là sắc hữu tức nghiệp hữu.

Thế nào là sắc hữu tức sinh hữu? Nếu tạo nghiệp đã thành rồi, ở nơi các trời thuộc cõi sắc, nếu thọ thân là năm thứ phần của ngã tức sắc, thọ, tưởng, hành, thức, đó gọi là sắc hữu tức sinh hữu.

Hữu này gọi là thọ hữu. Hữu này là báo hữu. Hữu này là hậu hữu. Như thế là sắc hành nghiệp hữu. Như thế là sắc hành sinh hữu.

Đó gọi là sắc hữu.

Thế nào là vô sắc hữu? Có hai thứ vô sắc hữu: Hoặc vô sắc hữu tức nghiệp hữu, hoặc vô sắc hữu tức sinh hữu.

Thế nào là vô sắc hữu tức nghiệp hữu? Hành vô sắc chưa hết, chưa nhận biết, chưa đoạn trừ. Nếu tạo hành vô sắc là nghiệp thân, khẩu, ý có báo. Đó gọi là vô sắc hữu tức nghiệp hữu.

Thế nào là vô sắc hữu tức sinh hữu? Nếu tạo nghiệp đã thành rồi, ở nơi cõi vô sắc thọ nhận thân là bốn thứ phần của ngã tức thọ, tưởng, hành, thức, đó gọi là vô sắc hữu tức sinh hữu.

Hữu này gọi là thọ hữu. Hữu này là báo hữu. Hữu này là hậu hữu. Như thế là vô sắc hành nghiệp hữu. Như thế là vô sắc hành sinh hữu. Đó gọi là vô sắc hữu.

Như Đức Phật đã nói: Này A-nan! Hữu có duyên. Như thế Tôn giả A-nan hỏi xong, có đáp.

Hữu do gì duyên?

Thủ duyên hữu. Đây là đáp.

Này A-nan! Nếu không có tất cả thủ thì có hữu không?

Bạch Đức Thế Tôn, không có.

Này A-nan! Do nhân là đầu mối nơi duyên, tức thủ duyên hữu, như vừa nói ở trước, vì thế nên nói.

Hỏi: Thế nào là hữu duyên sinh?

Đáp: Nếu các chúng sinh, trong chúng (chúng đồng phận) đã sinh, lại sinh nữa, trụ nơi thai, xuất thai được sinh, ấm đủ các nhập là chúng hòa hợp, đó gọi là sinh.

Như Đức Phật đã nói: Này A-nan! Sinh có duyên. Như thế Tôn giả A-nan hỏi xong, có đáp.

Sinh do gì duyên?

Hữu duyên sinh. Đây là đáp.

Này A-nan! Nếu không có tất cả hữu thì có sinh không?

Bạch Đức Thế Tôn, không có.

Này A-nan! Do nhân là đầu mối nơi duyên, tức hữu duyên sinh, như vừa nói ở trước, vì thế nên nói.

Hỏi: Thế nào là sinh duyên lão tử, có ưu bi, khổ não, tụ khổ lớn?

Hỏi: Thế nào là lão?

Đáp: Chúng sinh già suy, thân hình gầy gò run rẩy, các căn chín muồi, hành của mạng giảm, đó gọi là lão.

Hỏi: Thế nào là tử?

Đáp: Nếu các chúng sinh, sau cùng là chết mất diệt hết. Thời gian trôi qua, ấm hoại bỏ thân. Ấm này đổi khác, biệt ly với chúng. Đó gọi là tử.

Hỏi: Thế nào là ưu?

Đáp: Chúng sinh tiếp xúc với từng ấy pháp khổ, nếu lo, lại lo nữa, lo cuối cùng, nội tâm lo khiến nóng bức. Đó gọi là ưu.

Hỏi: Thế nào là bi?

Đáp: Lo ràng buộc, bức bách, như tên găm nơi thân, gồm đủ ưu não, tâm rối loạn, khóc than cùng cực, nhớ nghĩ đều khổ, hoặc tự thốt ra lời nói tạp loạn. Đó gọi là bi.

Hỏi: Thế nào là khổ?

Đáp: Nếu thân nhận biết khổ, nhãn xúc là khổ thọ, cho đến thân xúc là khổ thọ. Đó gọi là khổ.

Hỏi: Thế nào là não?

Đáp: Nếu tâm nhận biết khổ, ý xúc là khổ thọ. Đó gọi là não.

Hỏi: Thế nào là tụ khổ lớn?

Đáp: Nếu có các thứ khổ, như khổ vì bị nhục mạ, hoặc tâm bất định. Đó gọi là tụ khổ lớn.

Như Đức Phật đã nói: Này A-nan! Lão tử, ưu bi, khổ não, tụ khổ lớn có duyên. Như thế Tôn giả A-nan hỏi xong, có đáp.

Lão tử, ưu bi, khổ não, tụ khổ lớn có gì duyên?

Sinh duyên lão tử, ưu bi, khổ não, tụ khổ lớn. Đây là đáp.

Này A-nan! Nếu không có sinh, thì có lão tử, ưu bi, khổ não, tụ khổ lớn không?

Bạch Đức Thế Tôn, không có.

Này A-nan! Do nhân là đầu mối nơi duyên, nên có lão tử, ưu bi, khổ não, tụ khổ lớn. Nếu sinh duyên lão tử, ưu bi, khổ não, tụ khổ lớn, như trên đã nói.

Hỏi: Thế nào là tụ tập thuần khổ như thế?

Đáp: Nghĩa là bảy pháp khổ: Lão tử, ưu bi, khổ não, tụ khổ lớn. Đó gọi là ấm thuần khổ.

Lại nữa, mười một pháp khổ: Vô minh, hành, thức, danh sắc, sáu nhập, xúc, thọ, ái, thủ, hữu và sinh. Đó gọi là ấm thuần khổ.

Lại nữa, cũng có mười tám pháp khổ: Vô minh, hành, thức, danh sắc, sáu nhập, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sinh, lão tử, ưu, bi, khổ, não, tụ khổ lớn. Đó gọi là ấm thuần khổ.

Như thế, ấm thuần khổ có tụ tập, hòa hợp sinh, cùng sinh, sinh xong, cùng sinh xong, xuất, cùng xuất, xuất xong, cùng xuất xong, được thành. Đó gọi là tập của ấm thuần khổ.

Hỏi: Thế nào là vô minh diệt thì hành diệt?

Đáp: Nếu vô minh sinh thì hành sinh. Nếu vô minh diệt thì hành diệt. Đó gọi là vô minh diệt thì hành diệt. Cho đến nếu có sinh thì có lão tử, nếu sinh diệt thì lão tử diệt. Đó gọi là sinh diệt thì lão tử diệt.

Hỏi: Thế nào là ấm thuần khổ diệt?

Đáp: Ấm thuần khổ: Nghĩa là bảy pháp khổ: Lão tử, ưu bi, khổ não, tụ khổ lớn. Đó gọi là ấm thuần khổ.

Lại nữa, mười một khổ, đó gọi là ấm thuần khổ.

Lại nữa, mười tám pháp khổ: Vô minh cho đến tụ khổ lớn, đó gọi là ấm thuần khổ.

Như thế, ấm thuần khổ hết, đổi khác, vắng lặng, diệt mất, đó gọi là ấm thuần khổ diệt.

HẾT – QUYỂN 12