LUẬN XÁ LỢI PHẤT A TỲ ĐÀM
Hán dịch: Đời Diêu Tần, Đại sư Đàm Ma Da Xá, Đàm Ma Quật Đa
Việt dịch: Phật tử Nguyên Huệ

 

QUYỂN 9

Phẩm thứ 4: PHẦN KHÔNG HỎI VỀ TRÍ, phần 1

Chánh kiến. Chánh trí. Tuệ căn. Tuệ lực. Trạch pháp. Chánh giác. Trí giải thoát. Trí chánh giác. Trí tà. Trí thánh, không phải trí thánh. Trí hữu lậu, trí vô lậu. Trí có ái, trí không có ái. Trí có cầu, trí không có cầu. Trí nên nhận lấy, trí không nên nhận lấy.

Trí có nhận giữ, trí không nhận giữ. Trí có vượt hơn, trí không vượt hơn. Trí thọ, trí không phải là thọ. Trí nội, trí ngoại. Trí có báo, trí không có báo.

Trí chung của phàm phu, trí không chung của phàm phu. Trí không phải là chung của phàm phu, trí không phải là không chung của phàm phu.

Trí chung của Thanh văn, trí không chung của Thanh văn. Trí không phải là chung của Thanh văn, trí không phải là không chung của Thanh văn.

Trí như ánh chớp, trí như kim cương. Trí đắc bất định, trí đắc nhất định. Trí hành tấn hộ trì, trí không phải là hành tấn hộ trì. Trí tu một phần, trí tu hai phần. Trí tận, trí vô sinh. Trí pháp trụ, trí Niết-bàn.

Phương tiện giới, phương tiện tư duy. Phương tiện phi pháp, phương tiện trừ phi pháp. Phương tiện nhập định, phương tiện xuất định. Trí có giác, trí không giác. Trí có quán, trí không quán. Trí có hỷ, trí không có hỷ. Trí có vị, trí xả. Trí có dụng, trí không có dụng. Trí có ánh sáng, trí không có ánh sáng.

Trí thiện, trí bất thiện, trí vô ký. Trí học, trí vô học, trí phi học phi vô học. Trí báo, trí pháp báo, trí không phải là báo, không phải là pháp báo. Trí do kiến đoạn, trí do tư duy đoạn, trí không phải do kiến đoạn, không phải do tư duy đoạn. Trí nhân của kiến đoạn, trí nhân của tư duy đoạn, trí không phải là nhân của kiến đoạn, trí không phải là nhân của tư duy đoạn. Trí thấp kém, trí trung bình, trí thù thắng. Trí thô, trí tế, trí vi.

Ba minh. Ba tuệ. Ba nhãn.

Trí của thân nội quán thân nội, trí của thân ngoại quán thân ngoại, trí của thân nội ngoại quán thân nội ngoại. Trí của thọ nội quán thọ nội, trí của thọ ngoại quán thọ ngoại, trí của thọ nội ngoại quán thọ nội ngoại. Trí của tâm nội quán tâm nội, trí của tâm ngoại quán tâm ngoại, trí của tâm nội ngoại quán tâm nội ngoại. Trí của pháp nội quán pháp nội, trí của pháp ngoại quán pháp ngoại, trí của pháp nội ngoại quán pháp nội ngoại.

Trí của cảnh giới nội, trí của cảnh giới ngoại, trí của cảnh giới nội ngoại. Trí của cảnh giới chúng sinh, trí của cảnh giới sắc, trí của cảnh giới vô sắc.

Trí của cảnh giới chúng sinh, trí của cảnh giới hữu vi, trí của cảnh giới vô vi. Trí của cảnh giới chúng sinh, trí của cảnh giới pháp, trí không có cảnh giới.

Trí ít, trí trung bình, trí vô lượng. Trí của cảnh giới ít, trí của cảnh giới trung bình, trí của cảnh giới vô lượng. Trí ít nơi cảnh giới ít, trí ít nơi cảnh giới trung bình, trí ít nơi cảnh giới vô lượng.

Trí trung bình nơi cảnh giới ít, trí trung bình nơi cảnh giới trung bình, trí trung bình nơi cảnh giới vô lượng. Trí vô lượng nơi cảnh giới ít, trí vô lượng nơi cảnh giới trung bình, trí vô lượng nơi cảnh giới vô lượng.

Trí trụ ít, trí trụ trung bình, trí trụ vô lượng. Trí ít trụ ít, trí ít trụ trung bình, trí ít trụ vô lượng. Trí trung bình trụ ít, trí trung bình trụ trung bình, trí trung bình trụ vô lượng. Trí vô lượng trụ ít, trí vô lượng trụ trung bình, trí vô lượng trụ vô lượng.

Phương tiện của đạo thiện, phương tiện của đạo ác. Phương tiện thiện, phương tiện ác. Phương tiện siêng năng, phương tiện tịch tĩnh. Phương tiện giữ lấy, phương tiện xả bỏ.

Trí quá khứ, trí vị lai, trí hiện tại. Trí của cảnh giới quá khứ, trí của cảnh giới vị lai, trí của cảnh giới hiện tại, trí của cảnh giới không phải quá khứ, không phải vị lai, không phải hiện tại. Trí hệ thuộc cõi dục, trí hệ thuộc cõi sắc, trí hệ thuộc cõi vô sắc, trí không hệ thuộc.

Khổ trí, tập trí, diệt trí, đạo trí. Pháp trí, tỷ trí, thế trí, tha tâm trí. Pháp biện, nghĩa biện, từ biện, ứng biện.

Trí tác không phải là trí lìa, trí lìa không phải là trí tác, trí tác trí lìa, không phải là trí tác không phải là trí lìa. Trí có nhiễm, trí không nhiễm. Trí có ách, trí không ách.

Trí của quả trí không phải là trí của quả đoạn, trí của quả đoạn không phải là trí của quả trí, trí của quả trí, trí của quả đoạn, không phải là trí của quả trí, không phải là trí của quả đoạn.

Quả trí không phải là quả đắc, quả đắc không phải là quả trí, quả trí là quả đắc, không phải là quả trí không phải là quả đắc.

Trí tận không phải là trí giác, trí giác không phải là trí tận, trí tận là trí giác, không phải là trí tận không phải là trí giác.

Trí giải không phải là trí thoát, trí thoát không phải là trí giải, trí giải là trí thoát, không phải là trí giải không phải là trí thoát. Trí của phần thoái chuyển, trí của phần trụ, trí của phần tăng trưởng, trí của phần giải.

Trí của phần thoái chuyển không phải là trí của phần trụ, trí của phần trụ không phải là trí của phần thoái chuyển, trí của phần thoái chuyển, trí của phần trụ, không phải là trí của phần thoái chuyển, không phải là trí của phần trụ.

Trí của phần thoái chuyển không phải là trí của phần tăng trưởng, trí của phần tăng trưởng không phải là trí của phần thoái chuyển, trí của phần thoái chuyển, trí của phần tăng trưởng, không phải là trí của phần thoái chuyển không phải là trí của phần tăng trưởng. Trí của phần thoái chuyển không phải là trí của phần giải. Trí của phần trụ không phải là trí của phần tăng trưởng.

Trí của phần trụ không phải là trí của phần giải, trí của phần giải không phải là trí của phần trụ, trí của phần trụ, trí của phần giải, không phải là trí của phần trụ không phải là trí của phần giải.

Trí của phần tăng trưởng không phải là trí của phần giải, trí của phần giải không phải là trí của phần tăng trưởng, trí của phần tăng trưởng và trí của phần giải, không phải là trí của phần tăng trưởng không phải là trí của phần giải.

Năm trí. Sáu thông. Bảy phương tiện.

Khổ pháp trí, khổ tỷ trí, tập pháp trí, tập tỷ trí, diệt pháp trí, diệt tỷ trí, đạo pháp trí, đạo tỷ trí.

Chín phương tiện. Mười lực của Như Lai. Mười hai trí tánh. Bốn mươi bốn trí tánh. Bảy mươi bảy trí tánh.

Hỏi: Thế nào là chánh kiến?

Đáp: Kiến giải nếu là thiện, thuận hợp không trái, đó gọi là chánh kiến.

Hỏi: Thế nào là chánh kiến?

Đáp: Trí nếu là thiện, thuận hợp không trái, đó gọi là chánh kiến.

Hỏi: Thế nào là chánh kiến?

Đáp: Nhẫn nếu là thiện, thuận hợp không trái, đó gọi là chánh kiến.

Hỏi: Thế nào là chánh trí?

Đáp: Trí nếu là thiện, thuận hợp không trái, đó gọi là chánh trí.

Hỏi: Thế nào là chánh kiến?

Đáp: Trừ tận trí, vô sinh trí, nếu kiến giải còn lại là thiện, thuận hợp không trái, đó gọi là chánh kiến.

Hỏi: Thế nào là chánh trí?

Đáp: Tận trí, vô sinh trí, đó gọi là chánh trí.

Hỏi: Thế nào là tuệ căn?

Đáp: Người học lìa kiết sử, tâm Thánh nhập đạo Thánh. Nếu là kiên tín, kiên pháp cùng người của nẻo khác thấy lỗi lầm của hành, quán Niết-bàn tĩnh lặng, quán như thật về khổ tập diệt đạo, chưa được muốn được, chưa hiểu muốn hiểu, chưa chứng muốn chứng, tu đạo, lìa phiền não. Người kiến học như Tu-đà-hoàn, Tư-đà-hàm, A-na-hàm, trí quán đầy đủ, hoặc là trí địa, hoặc quán tâm giải thoát, tức chứng mỗi mỗi quả Sa-môn, hoặc quả Tu-đà-hoàn, quả Tư-đàhàm, quả A-na-hàm. Người vô học muốn đắc A-la-hán, chưa được pháp Thánh, muốn được tu đạo, trí quán đầy đủ, hoặc là trí địa, hoặc quán tâm giải thoát, tức đắc quả A-la-hán. Nếu là người thật , hoặc là nẻo, nếu đối với pháp quyết trạch, quyết trạch lần nữa, quyết trạch cứu cánh trạch pháp, tư duy, nhận biết, thấu đạt tự tướng, tha tướng, cộng tướng, tư duy, nhớ nghĩ, biện quán, sinh trí tuệ tự tại, trí kiến, thuật phương tiện, giải xét, ánh sáng rực rỡ tỏa chiếu, tuệ nhãn, tuệ căn, tuệ lực, trạch pháp chánh giác, không si, chánh kiến. Đó gọi là tuệ căn.

Hỏi: Thế nào là tuệ lực?

Đáp: Tuệ căn, đó gọi là tuệ lực.

Hỏi: Thế nào là trạch pháp chánh giác?

Đáp: Tuệ lực, đó gọi là trạch pháp chánh giác.

Hỏi: Thế nào là trí giải thoát?

Đáp: Nếu ở trong giải thoát, trí kiến về phương tiện giải thoát, tâm đối với các thứ tham dục, giận dữ đã giải thoát, tâm ta giải thoát đối với tham dục, giận dữ, tức trí kiến về phương tiện giải thoát kia. Đó gọi là trí giải thoát.

Hỏi: Thế nào là giác?

Đáp: Như Lai nếu là trí sinh, ở trong tất cả pháp trí kiến đều vô ngại, đắc tự tại tự lực, tôn kính, tri kiến tự tại, cao quý thù thắng, thành tựu chánh giác vô thượng, mười lực của Như Lai, bốn vô sở úy, đại từ, chuyển pháp luân tự tại. Đó gọi là giác.

Hỏi: Thế nào là chánh trí?

Đáp: Trí nếu là thiện, thuận hợp không trái, đó gọi là chánh trí.

Hỏi: Thế nào là tà trí?

Đáp: Trí nếu là bất thiện, không thuận hợp mà là trái nghịch, đó gọi là tà trí.

Hỏi: Thế nào là trí Thánh?

Đáp: Trí nếu là vô lậu, đó gọi là trí Thánh.

Hỏi: Thế nào là không phải trí Thánh?

Đáp: Trí nếu là hữu lậu, đó gọi là không phải trí Thánh.

Hỏi: Thế nào là trí hữu lậu?

Đáp: Trí nếu có ái, đó gọi là trí hữu lậu.

Hỏi: Thế nào là trí vô lậu?

Đáp: Trí nếu không có ái, đó gọi là trí vô lậu.

Hỏi: Thế nào là trí có ái?

Đáp: Trí nếu có cầu, đó gọi là trí có ái.

Hỏi: Thế nào là trí không có ái?

Đáp: Trí nếu không có cầu, đó gọi là trí không có ái.

Hỏi: Thế nào là trí có cầu?

Đáp: Trí nếu nên nhận lấy, đó gọi là trí có cầu.

Hỏi: Thế nào là trí không có cầu?

Đáp: Trí nếu không nên nhận lấy, đó gọi là trí không có cầu.

Hỏi: Thế nào là trí nên nhận lấy?

Đáp: Trí nếu có nhận giữ, đó gọi là trí nên nhận lấy.

Hỏi: Thế nào là trí không nên nhận lấy?

Đáp: Trí nếu không nhận giữ, đó gọi là trí không nên nhận lấy.

Hỏi: Thế nào là trí có nhận giữ?

Đáp: Trí nếu có vượt hơn, đó gọi là trí có nhận giữ.

Hỏi: Thế nào là trí không nhận giữ?

Đáp: Trí nếu không có vượt hơn, đó gọi là trí không nhận giữ.

Hỏi: Thế nào là trí có vượt hơn?

Đáp: Trí nếu có nhận giữ, đó gọi là trí có vượt hơn.

Hỏi: Thế nào là trí không vượt hơn?

Đáp: Trí nếu không nhận giữ, đó gọi là trí không vượt hơn.

Hỏi: Thế nào là trí có vượt hơn?

Đáp: Nếu đối với trí này, có trí khác thắng diệu, vượt quá trí trên, đó gọi là trí có vượt hơn.

Hỏi: Thế nào là trí không vượt hơn?

Đáp: Nơi trí này, đối với trí khác là thắng diệu, vượt quá trí trên, đó gọi là trí không vượt hơn.

Hỏi: Thế nào là trí vượt hơn?

Đáp: Nếu Như Lai là sinh trí, là trí kiến vô ngại ở trong tất cả pháp, là trí kiến chứng đắc tự tại, đạt diệu lạc tự tại, tài đức tôn quý thù thắng tự tại. Thành tựu mười lực của Như Lai, chánh giác tối thắng vô thượng, thành tựu bốn vô sở úy, đại từ tự tại, chuyển pháp luân, trừ trí kia, còn lại trí khác. Đó gọi là trí có vượt hơn.

Hỏi: Thế nào là trí không vượt hơn?

Đáp: Như trí đã trừ ở trước, đó gọi là trí không vượt hơn.

Hỏi: Thế nào là trí thọ?

Đáp: Trí nếu là trí nội, đó gọi là trí thọ.

Hỏi: Thế nào là trí không phải là thọ?

Đáp: Trí nếu là trí ngoại, đó gọi là trí không phải là thọ.

Hỏi: Thế nào là trí nội?

Đáp: Nếu trí là trí thọ, đó gọi là trí nội.

Hỏi: Thế nào là trí ngoại?

Đáp: Nếu trí không phải là thọ, đó gọi là trí ngoại.

Hỏi: Thế nào là trí có báo?

Đáp: Nếu trí là pháp báo, đó gọi là trí có báo.

Hỏi: Thế nào là trí không có báo?

Đáp: Nếu trí không phải là báo, không phải là pháp báo, đó gọi là trí không có báo.

Hỏi: Thế nào là trí chung của phàm phu?

Đáp: Nếu trí không phải là sinh đắc của phàm phu, phàm phu cũng sinh đắc, đó gọi là trí chung của phàm phu.

Hỏi: Thế nào là trí không chung của phàm phu?

Đáp: Nếu trí không phải là sinh đắc của phàm phu, phàm phu không sinh không đắc, đó gọi là trí không chung của phàm phu.

Hỏi: Thế nào là trí không phải là chung của phàm phu?

Đáp: Nếu trí là sinh đắc của phàm phu, không phải là phàm phu cũng sinh đắc, đó gọi là trí không phải là chung của phàm phu.

Hỏi: Thế nào là trí không phải là không chung của phàm phu?

Đáp: Nếu trí là sinh đắc của phàm phu, không phải là phàm phu không sinh không đắc, đó gọi là trí không phải là không chung của phàm phu.

Hỏi: Thế nào là trí chung của Thanh văn?

Đáp: Nếu trí không phải là sinh đắc của Thanh văn, Thanh văn cũng sinh đắc, đó gọi là trí chung của Thanh văn.

Hỏi: Thế nào là trí không chung của Thanh văn?

Đáp: Nếu trí không phải là sinh đắc của Thanh văn, Thanh văn không sinh không đắc, đó gọi là trí không chung của Thanh văn.

Hỏi: Thế nào là trí không phải là chung của Thanh văn?

Đáp: Nếu trí là sinh đắc của Thanh văn, không phải là Thanh văn cũng sinh đắc, đó gọi là trí không phải là chung của Thanh văn.

Hỏi: Thế nào là trí không phải là không chung của Thanh văn?

Đáp: Nếu trí là sinh đắc của Thanh văn, không phải là Thanh văn không sinh không đắc, đó gọi là trí không phải là không chung của Thanh văn.

Hỏi: Thế nào là trí như ánh chớp?

Đáp: Nếu trí là ít, ít trụ, ít gian trụ. Như ánh chớp ít, ít trụ, ít gian trụ. Trí cũng như thế, ít, ít trụ, ít gian trụ. Đó gọi là trí như ánh chớp.

Hỏi: Thế nào là trí như kim cương?

Đáp: Nếu trí là vô lượng, vô lượng trụ, vô lượng gian trụ. Cũng như kim cương vô lượng, vô lượng trụ, vô lượng gian trụ. Trí cũng như thế, vô lượng, vô lượng trụ, vô lượng gian trụ. Đó gọi là trí như kim cương.

Lại nữa, trí như ánh chớp: Nếu trí sinh, đoạn dứt phần ít phiền não, như ánh chớp vụt hiện ra từ trong mây chiếu sáng phần ít rồi nhanh chóng tắt mất. Trí cũng như thế, đoạn dứt phần ít phiền não. Đó gọi là trí như ánh chớp.

Lại nữa, trí như kim cương: Nếu trí sinh đoạn tất cả phiền não, dứt hết sạch các thứ vi tế, đều đoạn hết một cách nhanh chóng, như kim cương đập vào ngọc đá tức đều khiến tan nát. Trí cũng như thế, nếu sinh xong đoạn trừ tất cả phiền não, không có các thứ thô tế nào không đoạn, không hết. Đó gọi là trí như kim cương.

Lại nữa, trí như ánh chớp: Nghĩa là trí sinh đắc quả Tu-đà-hoàn, quả Tư-đà-hàm, quả A-na-hàm. Đó gọi là trí như ánh chớp.

Lại nữa, trí như kim cương: Nếu trí sinh đắc quả A-la-hán. Đó gọi là trí như kim cương.

Lại nữa, trí như ánh chớp: Nghĩa là trí sinh đắc quả Tu-đà-hoàn, quả Tư-đà-hàm, quả A-na-hàm, đắc quả A-la-hán, Phật-bích-chi. Đó gọi là trí như ánh chớp.

Lại nữa, trí như kim cương: Nghĩa là Như Lai gọi là trí sinh ở trong tất cả pháp, trí kiến đều vô ngại. Là trí kiến chứng đắc tự tại, đạt diệu lực tự tại, tôn quý thù thắng tự tại, thành tựu mười lực của Như Lai chánh giác vô thượng, thành tựu bốn vô sở úy, đại từ, chuyển pháp luân tự tại. Trí như thế, đó gọi là trí như kim cương.

Hỏi: Thế nào là trí đắc bất định?

Đáp: Nếu trí đắc không nhất định, được pháp khó được. Đó gọi là trí đắc bất định.

Hỏi: Thế nào là trí đắc nhất định?

Đáp: Nếu trí đắc nhất định, được pháp không khó được. Đó gọi là trí đắc nhất định.

Hỏi: Thế nào là trí hành tấn hộ trì?

Đáp: Nếu trí đắc không phải là nhất định, được pháp khó được, không phải do sức của tự mình, không phải tôn quý, không phải tự tại, không phải là nơi chốn mong muốn, không như điều đã mong muốn, không đạt hết điều đã mong muốn, hành tấn sinh khó được, cũng như thuyền đi ngược dòng là khó. Nếu đắc trí như đấy, không phải là nhất định, được pháp khó được, không phải do sức của tự mình, không phải tôn quý, không phải tự tại, không phải là nơi chốn mong muốn, không như điều đã mong muốn, không đạt hết điều đã mong muốn, hành tấn sinh khó được. Đó gọi là trí hành tấn hộ trì.

Hỏi: Thế nào là trí không phải là hành tấn hộ trì?

Đáp: Nếu trí đắc là nhất định, được pháp không phải là khó được, do sức của tự mình, tôn quý tự tại, là nơi chốn mong muốn, như điều đã mong muốn, đạt hết những gì đã mong muốn, dễ hành, không khó sinh đắc, cũng như thuyền xuôi dòng là không khó. Nếu đắc trí như đấy, trí đắc là nhất định, cho đến hành không phải khó sinh đắc. Đó gọi là trí không phải là hành tấn hộ trì.

Hỏi: Thế nào là trí tu một phần?

Đáp: Nếu trí sinh tưởng có ánh sáng, không thấy sắc, hoặc thấy sắc, không tưởng có ánh sáng. Đó gọi là trí tu một phần.

Hỏi: Thế nào là trí tu hai phần?

Đáp: Nếu trí sinh tưởng có ánh sáng, cũng thấy sắc. Đó gọi là trí tu hai phần.

Lại nữa, trí tu một phần: Nếu trí không đoạn trừ phiền não, hoặc đoạn trừ phiền não không phải là sinh trí. Đó gọi là trí tu một phần.

Lại nữa, trí tu hai phần: Nếu trí sinh cũng đoạn trừ phiền não. Đó gọi là trí tu hai phần.

Lại nữa, trí tu một phần: Nếu trí là tận trí sinh, không phải vô sinh trí. Đó gọi là trí tu một phần.

Lại nữa, trí tu hai phần: Nếu trí sinh là tận trí, vô sinh trí. Đó gọi là trí tu hai phần.

Hỏi: Thế nào là tận trí?

Đáp: Tham dục, giận dữ, ngu si đều dứt hết xong, các thứ tham dục, giận dữ, ngu si của ta đã diệt hết, tức ở nơi trí kiến kia là phương tiện giải thoát. Đó gọi là tận trí.

Hỏi: Thế nào là vô sinh trí?

Đáp: Tham dục, giận dữ, ngu si đã diệt rồi, không sinh trở lại, các thứ tham dục, giận dữ, ngu si của ta đã dứt hết, không còn sinh nữa, tức ở nơi trí kiến kia là phương tiện giải thoát. Đó gọi là vô sinh trí.

Hỏi: Thế nào là trí pháp trụ?

Đáp: Nếu trí Thánh là cảnh giới hữu vi, đó gọi là trí pháp trụ.

Hỏi: Thế nào là trí Niết-bàn?

Đáp: Nếu trí Thánh là cảnh giới Niết-bàn, đó gọi là trí Niết-bàn.

Lại nữa, trí pháp trụ: Là trừ duyên như thế, hoặc pháp khác như thế, không phải không như thế, không phải khác, không phải vật khác, pháp thường, pháp thật, pháp trụ, pháp định không phải là duyên. Đó gọi là trí pháp trụ.

Lại nữa, trí Niết-bàn: Niết-bàn kia là tĩnh lặng, là nhà, là che chở, là đèn sáng, là nương dựa, là không ấn mất, là vượt qua, là không nóng bức, là không đốt cháy, là không có ưu não, là không có khổ thọ và hành khác quán Niết-bàn nếu trí sinh. Đó gọi là trí Niết-bàn.

Hỏi: Thế nào là phương tiện giới?

Đáp: Chúng giới, tỷ giới, xúc giới, tư duy giới, đây là sắc giới, đây là vô sắc giới, đây là giới có thể thấy, đây là giới không thể thấy, đây là giới có đối, đây là giới không có đối, đây là giới Thánh, đây là giới không phải là Thánh. Giới này tức phương tiện giải thoát của giới kia. Đó gọi là phương tiện giới.

Hỏi: Thế nào là phương tiện tư duy?

Đáp: Nếu tư duy về chúng, tư duy về tỷ (so sánh), tư duy về xúc, nhớ nghĩ tư duy, đây là tư duy thiện, đây là tư duy bất thiện, nhớ nghĩ chánh, nhớ nghĩ tà. Nhớ nghĩ ấy tức ở nơi tri kiến kia là phương tiện giải thoát. Đó gọi là phương tiện tư duy.

Hỏi: Thế nào là phương tiện phi pháp?

Đáp: Chúng phi pháp, so sánh phi pháp, xúc phi pháp, tư duy phi pháp. Đây là tội nhẹ, đây là tội nặng, đây là tội hữu dư, đây là tội vô dư, đây là tạo ác, đây là không tạo ác. Chúng tội này tức ở nơi tri kiến là phương tiện giải thoát. Đó gọi là phương tiện phi pháp.

Hỏi: Thế nào là phương tiện trừ phi pháp?

Đáp: Chúng của phương tiện trừ phi pháp, so sánh của phương tiện trừ phi pháp, xúc của phương tiện trừ phi pháp, tư duy của phương tiện trừ phi pháp. Như thế được trừ phi pháp là tội nhẹ, như thế trừ tội nặng, như thế trừ tội hữu dư, như thế trừ tội vô dư, như thế là trừ tạo ác, như thế là trừ không tạo ác, như thế là trừ các tội, như thế là trừ các tội xong, như thế là thắng pháp trừ tội, tức ở nơi tri kiến kia là phương tiện giải thoát. Đó gọi là phương tiện trừ phi pháp.

Hỏi: Thế nào là phương tiện nhập định?

Đáp: Chúng nhập định, so sánh nhập định, xúc nhập định, tư duy nhập định. Đây là nhập định tưởng, đây là nhập định vô tưởng, đây là nhập định tùy tưởng, đây là nhập định không tùy tưởng, đây là nhập định lìa sắc, đây là nhập định không lìa sắc, đây là nhập định thắng nhập, đây là nhập định nhất thiết nhập, như thế là nhập các định, như thế là nhập các định xong, như thế là thắng pháp nhập định, tức ở nơi tri kiến kia là phương tiện giải thoát. Đó gọi là phương tiện nhập định.

Hỏi: Thế nào là phương tiện xuất định?

Đáp: Chúng xuất định, so sánh xuất định, xúc xuất định, tư duy xuất định. Như thế là xuất định tưởng, như thế là xuất định vô tưởng, như thế là xuất định tùy tưởng, như thế là xuất định không tùy tưởng, như thế là xuất định lìa sắc, như thế là xuất định không lìa sắc, như thế là xuất định thắng nhập, như thế là xuất định nhất thiết nhập, như thế là xuất các định, như thế là xuất các định xong, như thế là thắng pháp xuất định, tức ở nơi tri kiến kia là phương tiện giải thoát. Đó gọi là phương tiện xuất định.

Hỏi: Thế nào là trí có giác (Tầm)?

Đáp: Nếu trí tương ưng với giác, cùng sinh, cùng trụ, cùng diệt. Đó gọi là trí có giác.

Hỏi: Thế nào là trí không giác?

Đáp: Nếu trí không tương ưng với giác, không cùng với giác sinh, không cùng trụ, không cùng diệt. Đó gọi là trí không giác.

Hỏi: Thế nào là trí có quán (Tứ)?

Đáp: Nếu trí tương ưng với quán, cùng sinh, cùng trụ, cùng diệt. Đó gọi là trí có quán.

Hỏi: Thế nào là trí không quán?

Đáp: Nếu trí không tương ưng với quán, không cùng sinh, không cùng trụ, không cùng diệt. Đó gọi là trí không quán.

Hỏi: Thế nào là trí có hỷ?

Đáp: Nếu trí tương ưng với hỷ, cùng sinh, cùng trụ, cùng diệt. Đó gọi là trí có hỷ.

Hỏi: Thế nào là trí không có hỷ?

Đáp: Nếu trí không tương ưng với hỷ, không cùng sinh, không cùng trụ, không cùng diệt. Đó gọi là trí không có hỷ.

Hỏi: Thế nào là trí có vị?

Đáp: Nếu trí tương ưng với lạc thọ, đó gọi là trí có vị.

Hỏi: Thế nào là trí xả?

Đáp: Nếu trí tương ưng với thọ không khổ không lạc, đó gọi là trí xả.

Hỏi: Thế nào là trí có dụng?

Đáp: Nếu trí sinh nơi cảnh giới có, đó gọi là trí có dụng.

Hỏi: Thế nào là trí không dụng?

Đáp: Nếu trí sinh nơi cảnh giới không, đó gọi là trí không dụng. Lại nữa, nếu trí sinh đoạn trừ vô minh, đó gọi là trí không dụng.

Thế nào là trí có ánh sáng? (sao không thấy) Thế nào là trí không có ánh sáng? (sao không thấy) Hỏi: Thế nào là trí thiện?

Đáp: Nếu trí là tu, đó gọi là trí thiện.

Hỏi: Thế nào là trí bất thiện?

Đáp: Nếu trí là đoạn, đó gọi là trí bất thiện.

Hỏi: Thế nào là trí vô ký?

Đáp: Nếu trí là trí thọ, hoặc trí không phải là báo, không phải là pháp báo, đó gọi là trí vô ký.

Hỏi: Thế nào là trí học?

Đáp: Nếu trí không phải là Thánh vô học, đó gọi là trí học.

Hỏi: Thế nào là trí vô học?

Đáp: Nếu trí là Thánh không phải là học, đó gọi là trí vô học.

Hỏi: Thế nào là trí phi học phi vô học?

Đáp: Nếu trí không phải là Thánh, đó gọi là trí phi học phi vô học.

Hỏi: Thế nào là trí báo?

Đáp: Nếu trí là thọ, hoặc trí là báo thiện, đó gọi là trí báo.

Hỏi: Thế nào là trí pháp báo?

Đáp: Nếu trí là có báo, đó gọi là trí pháp báo.

Hỏi: Thế nào là trí không phải là báo, không phải là pháp báo?

Đáp: Nếu trí là vô ký, không thuộc về phần của ngã thâu tóm, đó gọi là trí không phải là báo, không phải là pháp báo.

Hỏi: Thế nào là trí do kiến đoạn?

Đáp: Nếu trí là bất thiện, không phải do tư duy đoạn, đó gọi là trí do kiến đoạn.

Hỏi: Thế nào là trí do tư duy đoạn?

Đáp: Nếu trí là bất thiện, không phải do kiến đoạn, đó gọi là trí do tư duy đoạn.

Hỏi: Thế nào là trí không phải do kiến đoạn, không phải do tư duy đoạn?

Đáp: Nếu trí là vô ký, đó gọi là trí không phải do kiến đoạn, không phải do tư duy đoạn.

Hỏi: Thế nào là trí nhân của kiến đoạn?

Đáp: Nếu trí do kiến đoạn, hoặc trí là pháp báo của kiến đoạn, đó gọi là trí nhân của kiến đoạn.

Hỏi: Thế nào là trí nhân của tư duy đoạn?

Đáp: Nếu trí do tư duy đoạn, hoặc trí là pháp báo của tư duy đoạn, đó gọi là trí nhân của tư duy đoạn.

Hỏi: Thế nào là trí không phải là nhân của kiến đoạn, không phải là nhân của tư duy đoạn?

Đáp: Nếu trí là thiện, hoặc trí là pháp báo thiện, hoặc trí không phải là báo, không phải là pháp báo, đó gọi là trí không phải là nhân của kiến đoạn, không phải là nhân của tư duy đoạn.

Hỏi: Thế nào là trí thấp kém?

Đáp: Nếu trí là bất thiện, đó gọi là trí thấp kém.

Hỏi: Thế nào là trí trung bình?

Đáp: Nếu trí là vô ký, đó gọi là trí trung bình.

Hỏi: Thế nào là trí thù thắng?

Đáp: Nếu trí là thiện, đó gọi là trí thù thắng.

Lại nữa, trí thấp kém: Nếu trí là bất thiện, hoặc vô ký, đó gọi là trí thấp kém.

Lại nữa, trí trung bình: Nếu trí không phải là Thánh thiện, đó gọi là trí trung bình.

Lại nữa, trí thù thắng: Nếu trí là Thánh vô lậu, đó gọi là trí thù thắng.

Hỏi: Thế nào là trí thô?

Đáp: Nếu trí hệ thuộc cõi dục, đó gọi là trí thô.

Hỏi: Thế nào là trí tế?

Đáp: Nếu trí hệ thuộc cõi sắc, hoặc không hệ thuộc, đó gọi là trí tế.

Hỏi: Thế nào là trí vi?

Đáp: Nếu trí hệ thuộc cõi vô sắc, đó gọi là trí vi.

Lại nữa, trí thô: Nếu trí hệ thuộc cõi dục, hoặc hệ thuộc cõi sắc, đó gọi là trí thô.

Lại nữa, trí tế: Nếu trí hệ thuộc xứ không, xứ thức, xứ bất dụng, hoặc không hệ thuộc, đó gọi là trí tế.

Lại nữa, trí vi: Nếu trí hệ thuộc xứ phi tưởng phi phi tưởng, đó gọi là trí vi.

Lại nữa, trí thô: Nếu trí hệ thuộc cõi dục, hoặc hệ thuộc cõi sắc, hoặc hệ thuộc xứ không, xứ thức, xứ bất dụng, đó gọi là trí thô.

Lại nữa, trí tế: Nếu trí hệ thuộc xứ phi tưởng phi phi tưởng, đó gọi là trí tế.

Lại nữa, trí vi: Nếu trí không hệ thuộc, đó gọi là trí vi.

Hỏi: Thế nào là ba minh?

Đáp: Chứng trí minh nhớ nghĩ về thọ mạng đời trước, chứng trí minh chúng sinh sinh tử và chứng trí minh lậu tận.

Thế nào là chứng trí minh nhớ nghĩ về thọ mạng đời trước? Nếu trí sinh, nhớ nghĩ về vô lượng thọ mạng đời trước: Nhớ nghĩ về một đời, hai, ba, bốn, năm, mười, hai mươi, ba mươi, bốn mươi, năm mươi, trăm đời, ngàn đời, vạn đời, mười vạn đời, vô lượng trăm đời, vô lượng ngàn đời, vô lượng vạn đời, hoặc vô lượng kiếp hoại, hoặc vô lượng kiếp thành. Ta vốn ở chốn kia, như tên ấy, như họ ấy, như đời sống ấy, như thức ăn uống ấy, như thọ mạng ấy, như mạng ấy ngắn ngủi, mạng ấy sống lâu, như nơi chốn ấy khổ vui, từ chốn kia mạng chung lại sinh nơi chốn khác. Nhớ nghĩ đầy đủ như thế trong từng ấy thọ mạng đời trước. Đó gọi là chứng trí minh nhớ nghĩ về thọ mạng đời trước.

Thế nào là chứng trí minh chúng sinh sinh tử? Nếu trí sinh, thiên nhãn thanh tịnh, vượt quá mắt người thường, nhận thấy sự sinh tử của chúng sinh: Sắc đẹp, sắc xấu, đường ác, đường thiện, thấp kém, vượt hơn. Nhận biết chúng sinh như nghiệp đã gây tạo, chúng sinh này thân hành ác đã thành, miệng hành ác đã thành, ý hành ác đã thành, hủy báng Thánh nhân, hành theo tà kiến, tạo nghiệp tà kiến. Thân hoại mạng chung, sinh vào nẻo ác như địa ngục, súc sinh, ngạ quỷ. Chúng sinh này thân hành thiện thành tựu, miệng hành thiện thành tựu, ý hành thiện thành tựu, không hủy báng Thánh nhân, hành theo chánh kiến, tạo nghiệp nhân của chánh kiến. Thân hoại mạng chung, sinh vào đường thiện như trong nẻo người, trên cõi trời. Thiên nhãn thanh tịnh như thế, vượt quá mắt người thường, thấy rõ các sự việc như vậy. Đó gọi là chứng trí minh chúng sinh sinh tử.

Thế nào là chứng trí minh lậu tận? Nếu trí sinh đoạn dứt hết lậu, khởi giải thoát vô lậu, tâm giải thoát, tuệ giải thoát, hiện thân tự chứng biết, thành tựu hành: Nẻo sinh tử của ta đã hết, phạm hạnh đã lập, tiếng tốt vang xa, việc làm đã xong, không còn trở lại hữu sau. Đó gọi là chứng trí minh lậu tận.

Như thế gọi là ba minh.

Hỏi: Thế nào là ba tuệ?

Đáp: Là tư tuệ, văn tuệ, tu tuệ.

Thế nào là tư tuệ? Không do theo người khác nghe, không nhận sự giáo hóa của người khác, không thỉnh người khác giảng nói, không nghe pháp của người khác, tự tư duy, tự giác (Tầm), tự quán (Tứ), nếu trí sinh, không phải do tu hành. Đó gọi là tư tuệ.

Thế nào là văn tuệ? Từ người khác nghe, thọ nhận sự giáo hóa của người khác, thỉnh người khác giảng nói, nghe pháp của người khác, không phải tự tư duy, không phải tự giác, không phải tự quán, nếu trí sinh. Đó gọi là văn tuệ.

Thế nào là tu tuệ? Nếu tu căn, lực, giác, thiền, giải thoát định, nhập định. Hoặc tu rồi tu, nếu trí sinh. Đó gọi là tu tuệ.

Như thế gọi là ba tuệ.

Hỏi: Thế nào là ba nhãn (Mắt)?

Đáp: Là nhục nhãn, thiên nhãn, tuệ nhãn.

Thế nào là nhục nhãn? Nếu mắt tịnh do bốn đại tạo, thuộc về phần của ta, đó gọi là nhục nhãn.

Thế nào là thiên nhãn? Nếu thiên nhãn thuộc về phần của ta, đó gọi là thiên nhãn.

Thế nào là tuệ nhãn? Ba tuệ: Tư tuệ, văn tuệ, tu tuệ, đó gọi là tuệ nhãn.

Lại nữa, nhục nhãn: Là trừ thiên nhãn thuộc về phần của ta, còn lại là nhãn khác tịnh do bốn đại tạo, đó gọi là nhục nhãn.

Lại nữa, thiên nhãn: Nếu thiên nhãn thuộc về phần của ta và tu tập thiên nhãn, đó gọi là thiên nhãn.

Lại nữa, tuệ nhãn: Là trừ tu thiên nhãn, còn lại là ba tuệ: Tư tuệ, văn tuệ, tu tuệ, đó gọi là tuệ nhãn.

Như thế gọi là ba nhãn.

Thế nào là trí của thân trong quán thân trong?

Tất cả pháp thuộc về sắc thân của bốn đại bên trong, một

xứ pháp thuộc về sắc thân của bốn đại bên trong, quán vô thường, khổ, không, vô ngã, nếu trí sinh. Đó gọi là trí của thân trong quán thân trong.

Hỏi: Thế nào là trí của thân ngoài quán thân ngoài?

Đáp: Tất cả pháp thuộc về sắc thân của bốn đại bên ngoài, một xứ pháp thuộc về sắc thân của bốn đại bên ngoài, quán vô thường, khổ, không, vô ngã, nếu trí sinh. Đó gọi là trí của thân ngoài quán thân ngoài.

Hỏi: Thế nào là trí của thân trong ngoài quán thân trong ngoài?

Đáp: Tất cả pháp thuộc về sắc thân của bốn đại trong ngoài, một xứ pháp thuộc về sắc thân của bốn đại trong ngoài, quán vô thường, khổ, không vô ngã, nếu trí sinh. Đó gọi là trí của thân trong ngoài quán thân trong ngoài.

Hỏi: Thế nào là trí của thọ trong quán thọ trong?

Đáp: Tất cả thọ trong, một xứ thọ trong, quán vô thường, khổ, không, vô ngã, nếu trí sinh. Đó gọi là trí của thọ trong quán thọ trong.

Hỏi: Thế nào là trí của thọ ngoài quán thọ ngoài?

Đáp: Tất cả thọ ngoài, một xứ thọ ngoài, quán vô thường, khổ, không, vô ngã, nếu trí sinh. Đó gọi là trí của thọ ngoài quán thọ ngoài.

Hỏi: Thế nào là trí của thọ trong ngoài quán thọ trong ngoài?

Đáp: Tất cả thọ trong ngoài, một xứ thọ trong ngoài, quán vô thường, khổ, không, vô ngã, nếu trí sinh. Đó gọi là trí của thọ trong ngoài quán thọ trong ngoài.

Hỏi: Thế nào là trí của nội tâm quán nội tâm?

Đáp: Tất cả nội tâm, một xứ nội tâm, quán vô thường, khổ, không, vô ngã, nếu trí sinh. Đó gọi là trí của nội tâm quán nội tâm.

Hỏi: Thế nào là trí của ngoại tâm quán ngoại tâm?

Đáp: Tất cả ngoại tâm, một xứ ngoại tâm, quán vô thường, khổ, không, vô ngã, nếu trí sinh. Đó gọi là trí của ngoại tâm quán ngoại tâm.

Hỏi: Thế nào là trí của tâm nội ngoại quán tâm nội ngoại?

Đáp: Tất cả tâm nội ngoại, một xứ tâm nội ngoại, quán vô thường, khổ, không, vô ngã, nếu trí sinh. Đó gọi là trí của tâm nội ngoại quán tâm nội ngoại.

Hỏi: Thế nào là trí của pháp nội quán pháp nội?

Đáp: Trừ tâm thọ pháp thuộc về sắc thân của bốn đại, còn lại là tất cả pháp nội, một xứ pháp nội, quán vô thường, khổ, không, vô ngã, nếu trí sinh. Đó gọi là trí của pháp nội quán pháp nội.

Hỏi: Thế nào là trí của pháp ngoại quán pháp ngoại?

Đáp: Trừ tâm thọ pháp thuộc sắc thân của bốn đại, còn lại là tất cả pháp ngoại, một xứ pháp ngoại, người kia như sự quán vô thường, khổ, không, vô ngã, nếu trí sinh. Đó gọi là trí của pháp ngoại quán pháp ngoại.

Hỏi: Thế nào là trí của pháp nội ngoại quán pháp nội ngoại?

Đáp: Trừ tâm thọ pháp thuộc về sắc thân của bốn đại, còn lại là tất cả pháp nội ngoại khác, một xứ pháp nội ngoại, như sự quán vô thường, khổ, không vô ngã, nếu trí sinh. Đó gọi là trí của pháp nội ngoại quán pháp nội ngoại.

Hỏi: Thế nào là trí của cảnh giới nội?

Đáp: Tư duy pháp nội, nếu trí sinh, đó gọi là trí của cảnh giới nội.

Thế nào là trí của cảnh giới ngoại?

Tư duy pháp ngoại, nếu trí sinh, đó gọi là trí của cảnh giới ngoại.

Hỏi: Thế nào là trí của cảnh giới nội ngoại?

Đáp: Tư duy pháp nội ngoại, nếu trí sinh, đó gọi là trí của cảnh giới nội ngoại.

Hỏi: Thế nào là trí của cảnh giới chúng sinh?

Đáp: Không có trí của cảnh giới chúng sinh. Lại nữa, chúng sinh hành từ, hành bi, hành hỷ, hành xả, do tư duy trí sinh, đó gọi là trí của cảnh giới chúng sinh.

Hỏi: Thế nào là trí của cảnh giới sắc?

Đáp: Tư duy về pháp sắc, trí sinh, đó gọi là trí của cảnh giới sắc.

Hỏi: Thế nào là trí của cảnh giới vô sắc?

Đáp: Tư duy về pháp vô sắc, trí sinh, đó gọi là trí của cảnh giới vô sắc.

Hỏi: Thế nào là trí của cảnh giới chúng sinh?

Đáp: Không có trí của cảnh giới chúng sinh. Lại nữa, chúng sinh hành từ, hành bi, hỷ, xả, nếu trí sinh, đó gọi là trí của cảnh giới chúng sinh.

Hỏi: Thế nào là trí của cảnh giới hữu vi?

Đáp: Tư duy về pháp hữu vi, trí sinh, đó gọi là trí của cảnh giới hữu vi.

Hỏi: Thế nào là trí của cảnh giới vô vi?

Đáp: Tư duy về pháp vô vi, trí sinh, đó gọi là trí của cảnh giới vô vi.

Hỏi: Thế nào là trí của cảnh giới chúng sinh?

Đáp: Không có trí của cảnh giới chúng sinh. Lại nữa, chúng sinh hành từ, hành bi, hỷ, xả, do tư duy trí sinh, đó gọi là trí của cảnh giới chúng sinh.

Hỏi: Thế nào là trí của cảnh giới pháp?

Đáp: Tư duy về pháp, trí sinh, đó gọi là trí của cảnh giới pháp.

Hỏi: Thế nào là trí không có cảnh giới?

Đáp: Không có trí không có cảnh giới. Lại nữa, tư duy về pháp quá khứ, vị lai, trí sinh, đó gọi là trí không có cảnh giới.

Hỏi: Thế nào là trí của cảnh giới chúng sinh?

Đáp: Không có trí của cảnh giới chúng sinh. Lại nữa, chúng sinh hành từ, hành bi, hỷ, xả, đó gọi là trí của cảnh giới chúng sinh.

Hỏi: Thế nào là trí ít?

Đáp: Nếu trí là ít, trụ ít, trụ trong thời gian ít, đó gọi là trí ít.

Hỏi: Thế nào là trí trung bình?

Đáp: Nếu trí là vừa, trụ vừa, trụ trong thời gian vừa, đó gọi là trí trung bình.

Hỏi: Thế nào là trí vô lượng?

Đáp: Nếu trí là vô lượng, trụ vô lượng, trụ trong thời gian vô lượng, đó gọi là trí vô lượng.

Lại nữa, trí ít: Nếu trí là trụ ít, hòa hợp ít, cảnh giới ít, đó gọi là trí ít.

Lại nữa, trí trung bình: Nếu trí là trụ vừa, hòa hợp vừa, cảnh giới vừa, đó gọi là trí trung bình.

Lại nữa, trí vô lượng: Nếu trí là trụ vô lượng, tạo lợi ích vô lượng, cảnh giới vô lượng, đó gọi là trí vô lượng.

Thế nào là trí của cảnh giới ít?

Nếu trí là một chúng sinh, hoặc là một pháp, hoặc là một

hành mới sinh, trừ Niết-bàn của Như Lai. Đó gọi là trí của cảnh giới ít.

Hỏi: Thế nào là trí của cảnh giới trung bình?

Đáp: Nếu trí là vài ba chúng sinh, hoặc là pháp mới sinh, trừ Niết-bàn của Như Lai. Đó gọi là trí của cảnh giới trung bình.

Hỏi: Thế nào là trí của cảnh giới vô lượng?

Đáp: Nếu trí là vô lượng chúng sinh, hoặc là pháp mới sinh, hoặc là Niết-bàn của Như Lai. Đó gọi là trí của cảnh giới vô lượng.

Hỏi: Thế nào là trí ít nơi cảnh giới ít?

Đáp: Nếu trí là trụ ít, hòa hợp ít, hoặc là một chúng sinh, hoặc là một pháp, hoặc là một hành mới sinh, trừ Niết-bàn của Như Lai. Đó gọi là trí ít nơi cảnh giới ít.

Hỏi: Thế nào là trí ít nơi cảnh giới trung bình?

Đáp: Nếu trí là trụ ít, hòa hợp ít, hoặc là vài ba chúng sinh, hoặc là pháp mới sinh, trừ Niết-bàn của Như Lai. Đó gọi là trí ít nơi cảnh giới trung bình.

Hỏi: Thế nào là trí ít nơi cảnh giới vô lượng?

Đáp: Nếu trí là trụ ít, hòa hợp ít, nhưng nếu là pháp của vô lượng chúng sinh mới sinh, hoặc là Niết-bàn của Như Lai. Đó gọi là trí ít nơi cảnh giới vô lượng.

Hỏi: Thế nào là trí trung bình nơi cảnh giới ít?

Đáp: Nếu trí là trụ trung bình, hòa hợp trung bình, hoặc là một chúng sinh, hoặc là một pháp, hoặc là một hành mới sinh, không phải là Niết-bàn của Như Lai. Đó gọi là trí trung bình nơi cảnh giới ít.

Hỏi: Thế nào là trí trung bình nơi cảnh giới trung bình?

Đáp: Nếu trí là trụ trung bình, hòa hợp trung bình, hoặc là vài ba chúng sinh, hoặc là pháp mới sinh, không phải là Niết-bàn của Như Lai. Đó gọi là trí trung bình nơi cảnh giới trung bình.

Hỏi: Thế nào là trí trung bình nơi cảnh giới vô lượng?

Đáp: Nếu trí là trụ vừa, hòa hợp vừa, nhưng nếu là pháp của vô lượng chúng sinh mới sinh, hoặc là Niết-bàn của Như Lai. Đó gọi là trí trung bình nơi cảnh giới vô lượng.

Hỏi: Thế nào là trí vô lượng nơi cảnh giới ít?

Đáp: Nếu trí là trụ vô lượng, tạo lợi ích vô lượng, nhưng nếu chỉ là một chúng sinh, một pháp, một hành mới sinh, trừ Niết-bàn của Như Lai. Đó gọi là trí vô lượng nơi cảnh giới ít.

Hỏi: Thế nào là trí vô lượng nơi cảnh giới trung bình?

Đáp: Nếu trí là trụ vô lượng, tạo lợi ích vô lượng, nhưng nếu chỉ vài ba chúng sinh, hoặc là pháp mới sinh, trừ Niết-bàn của Như Lai. Đó gọi là trí vô lượng nơi cảnh giới trung bình.

Hỏi: Thế nào là trí vô lượng nơi cảnh giới vô lượng?

Đáp: Nếu trí là trụ vô lượng, tạo lợi ích vô lượng, hoặc là pháp của vô lượng chúng sinh mới sinh, hoặc là Niết-bàn của Như Lai. Đó gọi là trí vô lượng nơi cảnh giới vô lượng.

Hỏi: Thế nào là trí trụ ít?

Đáp: Nếu trí trụ trong thời gian ít, trong một khoảnh khắc búng ngón tay, hoặc nhiều hơn, không phải trong khoảng thời gian vắt sữa bò, hoặc nhiều hơn. Đó gọi là trí trụ ít.

Hỏi: Thế nào là trí trụ trung bình?

Đáp: Nếu trí trụ trong thời gian trung bình, như trong thời gian vắt sữa bò, hoặc nhiều hơn, không phải là bảy ngày, hoặc nhiều hơn.

Đó gọi là trí trụ trung bình.

Thế nào là trí trụ vô lượng?

Nếu trí trụ trong thời gian vô lượng, bảy ngày hoặc nhiều

hơn. Đó gọi là trí trụ vô lượng.

Hỏi: Thế nào là trí ít trụ ít?

Đáp: Nếu trí là ít, hòa hợp ít, cảnh giới ít, hoặc trụ trong thời gian ít, như trong một khoảnh khắc búng ngón tay, hoặc nhiều hơn, không phải trong khoảng thời gian vắt sữa bò, hoặc nhiều hơn. Đó gọi là trí ít trụ ít.

Hỏi: Thế nào là trí ít trụ trung bình?

Đáp: Nếu trí là cảnh giới ít, hòa hợp ít, nhưng nếu trụ trong thời gian trung bình, như trong thời gian vắt sữa bò, hoặc nhiều hơn. Đó gọi là trí ít trụ trung bình.

Hỏi: Thế nào là trí ít trụ vô lượng?

Đáp: Nếu trí là cảnh giới ít, hòa hợp ít, nhưng nếu trụ trong thời gian vô lượng, bảy ngày hoặc nhiều hơn. Đó gọi là trí ít trụ vô lượng.

Hỏi: Thế nào là trí trung bình trụ ít?

Đáp: Nếu trí là cảnh giới trung bình, hòa hợp trung bình, hoặc trụ trong thời gian ít, như khoảnh khắc búng ngón tay, không phải như trong khoảng thời gian vắt sữa bò, hoặc nhiều hơn. Đó gọi là trí trung bình trụ ít.

Hỏi: Thế nào là trí trung bình trụ trung bình?

Đáp: Nếu trí là cảnh giới trung bình, hòa hợp trung bình, hoặc trụ trong thời gian trung bình, như thời gian vắt sữa bò, hoặc nhiều hơn, không phải là bảy ngày, hoặc nhiều hơn. Đó gọi là trí trung bình trụ trung bình.

Hỏi: Thế nào là trí trung bình trụ vô lượng?

Đáp: Nếu trí là cảnh giới trung bình, hòa hợp trung bình, nhưng nếu trụ trong thời gian vô lượng, bảy ngày hoặc nhiều hơn. Đó gọi là trí trung bình trụ vô lượng.

Hỏi: Thế nào là trí vô lượng trụ ít?

Đáp: Nếu trí là cảnh giới vô lượng, tạo lợi ích vô lượng, nhưng nếu trụ trong thời gian ít, như khoảnh khắc búng ngón tay, hoặc nhiều hơn, không phải trong thời gian vắt sữa bò, hoặc nhiều hơn. Đó gọi là trí vô lượng trụ ít.

Hỏi: Thế nào là trí vô lượng trụ trung bình?

Đáp: Nếu trí là cảnh giới vô lượng, tạo lợi ích vô lượng, nếu trụ trong thời gian trung bình như khoảng thời gian vắt sữa bò, hoặc nhiều hơn, không phải là bảy ngày, hoặc nhiều hơn. Đó gọi là trí vô lượng trụ trung bình.

Hỏi: Thế nào là trí vô lượng trụ vô lượng?

Đáp: Nếu trí là cảnh giới vô lượng, tạo lợi ích vô lượng, nếu trụ trong thời gian vô lượng, bảy ngày hoặc nhiều hơn. Đó gọi là trí vô lượng trụ vô lượng.

Hỏi: Thế nào là phương tiện của đạo thiện?

Đáp: Đạo thiện nghĩa là pháp thiện và hàng người, trời. Nếu là phương tiện giải thoát của trí kiến ở đấy. Đó gọi là phương tiện của đạo thiện.

Hỏi: Thế nào là phương tiện của đạo ác?

Đáp: Đạo ác nghĩa là pháp bất thiện và các nẻo địa ngục, súc sinh, ngạ quỷ. Nếu là phương tiện giải thoát của trí kiến ở đấy. Đó gọi là phương tiện của đạo ác.

Thế nào là phương tiện thiện?

Nhân này, duyên này duyên nơi sắc, nhân này, duyên này

duyên nơi thọ tưởng hành thức. Nhân này, duyên này nhập nơi thiền định thứ nhất, nhập nơi thiền định thứ hai, thứ ba, thứ tư, đoạn trừ pháp ác bất thiện, thành tựu pháp thiện. Nếu là phương tiện giải thoát của trí kiến ở đấy. Đó gọi là phương tiện thiện.

Hỏi: Thế nào là phương tiện tịch tĩnh?

Đáp: Tịch tĩnh nghĩa là định, nếu là phương tiện giải thoát của trí kiến ở đấy. Đó gọi là phương tiện tịch tĩnh.

Hỏi: Thế nào là phương tiện giữ lấy?

Đáp: Giữ lấy nghĩa là tấn, nếu là phương tiện giải thoát của trí kiến ở đấy. Đó gọi là phương tiện giữ lấy.

Hỏi: Thế nào là phương tiện xả bỏ?

Đáp: Hai xả là xả căn, xả tâm, nếu là phương tiện giải thoát của trí kiến ở đấy. Đó gọi là phương tiện xả bỏ.

Lại nữa, phương tiện tịch tĩnh: Là tâm vượt qua trạo cử, tịch tĩnh như thế, như cùng vắng lặng. Nếu là phương tiện giải thoát của trí kiến ở đấy. Đó gọi là phương tiện tịch tĩnh.

Lại nữa, phương tiện giữ lấy: Nếu hòa hợp tinh tấn nên siêng năng như thế để giữ lấy. Nếu là phương tiện giải thoát của trí kiến ở đấy. Đó gọi là phương tiện giữ lấy.

Lại nữa, phương tiện xả bỏ: Là tâm định, xả bỏ hết tham dục, giận dữ, ngu si như thế. Nếu là phương tiện giải thoát của trí kiến ở đấy. Đó gọi là phương tiện xả bỏ.

Hỏi: Thế nào là trí quá khứ?

Đáp: Nếu trí đã sinh rồi diệt, đó gọi là trí quá khứ.

Hỏi: Thế nào là trí vị lai?

Đáp: Nếu trí chưa sinh, chưa xuất, đó gọi là trí vị lai.

Hỏi: Thế nào là trí hiện tại?

Đáp: Nếu trí đã sinh chưa diệt, đó gọi là trí hiện tại.

Hỏi: Thế nào là trí của cảnh giới quá khứ?

Đáp: Tư duy về pháp quá khứ, trí sinh, đó gọi là trí của cảnh giới quá khứ.

Hỏi: Thế nào là trí của cảnh giới vị lai?

Đáp: Tư duy về pháp vị lai, trí sinh, đó gọi là trí của cảnh giới vị lai.

Hỏi: Thế nào là trí của cảnh giới hiện tại?

Đáp: Tư duy về pháp hiện tại, trí sinh, đó gọi là trí của cảnh giới hiện tại.

Hỏi: Thế nào là trí của cảnh giới không phải quá khứ, không phải vị lai, không phải hiện tại?

Đáp: Tư duy về pháp không phải quá khứ, không phải vị lai, không phải hiện tại, trí sinh, đó gọi là trí của cảnh giới không phải quá khứ, không phải vị lai, không phải hiện tại.

Hỏi: Thế nào là trí hệ thuộc cõi dục?

Đáp: Nếu trí là dục lậu, hữu lậu, đó gọi là trí hệ thuộc cõi dục.

Hỏi: Thế nào là trí hệ thuộc của cõi sắc?

Đáp: Nếu trí là sắc lậu, hữu lậu, đó gọi là trí hệ thuộc cõi sắc.

Hỏi: Thế nào là trí hệ thuộc cõi vô sắc?

Đáp: Nếu trí là vô sắc lậu, hữu lậu, đó gọi là trí hệ thuộc cõi vô sắc.

Thế nào là trí không hệ thuộc?

Nếu trí là Thánh vô lậu, đó gọi là trí không hệ thuộc.

Hỏi: Thế nào là khổ trí?

Đáp: Khổ Thánh đế này nếu là phương tiện giải thoát của trí kiến, đó gọi là khổ trí.

Hỏi: Thế nào là tập trí?

Đáp: Tập Thánh đế này nếu là phương tiện giải thoát của trí kiến, đó gọi là tập trí.

Hỏi: Thế nào là diệt trí?

Đáp: Diệt Thánh đế này nếu là phương tiện giải thoát của trí kiến, đó gọi là diệt trí.

Hỏi: Thế nào là đạo trí?

Đáp: Đạo Thánh đế này nếu là phương tiện giải thoát của trí kiến, đó gọi là đạo trí.

Lại nữa, khổ trí: Sinh là khổ, lão là khổ, bệnh là khổ, tử là khổ, không yêu thương mà hội ngộ là khổ, yêu thương mà phải ly biệt là khổ, mong cầu không được là khổ. Trừ ái, nói chung năm thọ ấm là khổ. Nếu chúng là phương tiện giải thoát của trí kiến. Đó gọi là khổ trí.

Lại nữa, tập trí: Ái này lại có xứ của dục nhiễm nối tiếp nhau, là xứ của mong cầu. Nếu chúng là phương tiện giải thoát của trí kiến. Đó gọi là tập trí.

Lại nữa, diệt trí: Nếu ái dục đã lìa diệt hết, xả bỏ, xuất ly, giải thoát, không có nương dựa, vĩnh viễn đoạn dứt hết sạch. Nếu chúng là phương tiện giải thoát của trí kiến. Đó gọi là diệt trí.

Lại nữa, đạo trí: Là tám Thánh đạo: chánh kiến, chánh giác, chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng, chánh tinh tấn, chánh niệm, chánh định. Nếu chúng là phương tiện giải thoát của trí kiến. Đó gọi là đạo trí.

Lại nữa, khổ trí: Hết thảy pháp hữu lậu, hữu vi thuộc về khổ đế. Hoặc một xứ pháp hữu lậu, hữu vi thuộc về khổ đế, đều kiến khổ, kiến vô ngã, tư duy về khổ. Nếu chúng là phương tiện giải thoát của trí kiến. Đó gọi là khổ trí.

Lại nữa, tập trí: Hết thảy là nhân khổ, là tập khổ. Hoặc một xứ là nhân khổ, là đầu mối khổ, là tập khổ, đều kiến tập, kiến vô ngã, tư duy về tập. Nhân này, duyên này đã tạo thành tất cả khổ. Nếu chúng là phương tiện giải thoát của trí kiến. Đó gọi là tập trí.

Lại nữa, diệt trí: Dứt hết tất cả khổ, hết phiền não, hết pháp lậu. Hoặc một xứ đã dứt hết khổ, hết phiền não, hết pháp lậu, đều kiến diệt, kiến vô ngã, tư duy về diệt. Nếu chúng là phương tiện giải thoát của trí kiến. Đó gọi là diệt trí.

Lại nữa, đạo trí: Tất cả Thánh đạo, xuất yếu, chính thức diệt khổ. Hoặc một xứ Thánh đạo xuất yếu, chính thức diệt khổ, đều kiến đạo, kiến vô ngã, tư duy về đạo. Nhân này, duyên này đã dứt hết tất cả khổ. Nếu chúng là phương tiện giải thoát của trí kiến. Đó gọi là đạo trí.

Hỏi: Thế nào là pháp trí?

Đáp: Nếu trí là Thánh vô lậu, không phải là tất cả tướng của trí tỷ, loại. Đó gọi là pháp trí.

Hỏi: Thế nào là tỷ trí?

Đáp: Nếu trí là Thánh vô lậu, hoàn toàn là tất cả tướng của trí tỷ loại. Đó gọi là tỷ trí.

Hỏi: Thế nào là thế trí?

Đáp: Nếu nhận biết về các chúng sinh, nhận biết về ngôn ngữ, danh tự của pháp, nhận biết về ngôn ngữ quá khứ, ngôn ngữ vị lai, ngôn ngữ hiện tại, tiếng nói của nam nữ, không phải nam nữ, một

ngôn ngữ, hai ngôn ngữ, ba ngôn ngữ, nhiều ngôn ngữ, vô lượng ngôn ngữ, hết thảy ngôn ngữ. Nếu chúng là phương tiện giải thoát của trí kiến. Đó gọi là thế trí.

Hỏi: Thế nào là tha tâm trí?

Đáp: Nếu dùng trí nhận biết tâm của người khác. Nếu đấy là phương tiện giải thoát của trí kiến. Đó gọi là tha tâm trí.

Lại nữa, pháp trí: Nếu pháp hữu lậu, hữu vi thuộc về khổ đế, đều kiến khổ, kiến vô ngã, tư duy về khổ. Nếu là nhân khổ, đầu mối khổ, tập khổ, đều kiến tập, kiến vô ngã, tư duy về tập. Hoặc diệt hết khổ, hết phiền não, hết hữu lậu, đều kiến lậu, kiến vô ngã, tư duy về diệt. Hoặc Thánh đạo kiến vô ngã, tư duy về đạo và tư duy về pháp khác. Hoặc đối với trí vô lậu Thánh kia, không phải là tất cả tướng của trí tỷ loại. Đó gọi là pháp trí.

Lại nữa, tỷ trí: Nếu người đã hành trì trong pháp sinh pháp trí, người kia ở trong pháp khác tương tợ như sự sinh kia, như tướng kia, như tỷ loại kia, đây như kia, kia như đây. Nếu trí của Thánh vô lậu là tất cả tướng của trí tỷ loại. Đó gọi là tỷ trí.

Lại nữa, thế trí: Nếu nhận biết các chúng sinh, nhận biết pháp số, hoặc nhận biết sự việc thiết lập chung danh tự, ngôn ngữ, hoặc sắc thọ tưởng hành thức, hoặc khổ tập diệt đạo, hoặc các nẻo địa ngục, súc sinh, ngạ quỷ, người, trời. Nếu chúng là phương tiện giải thoát của trí kiến. Đó gọi là thế trí.

Lại nữa, tha tâm trí: Nếu dùng trí nhận biết được tâm và tâm số của người khác, của chúng sinh khác. Như có tâm ái nhận biết như thật là có tâm ái. Không có tâm ái nhận biết như thật là không có tâm ái. Có tâm giận nhận biết như thật là có tâm giận. Không có tâm giận nhận biết như thật là không có tâm giận. Có tâm si nhận biết như thật là có tâm si. Không có tâm si nhận biết như thật là không có tâm si. Có tâm ganh ghét nhận biết như thật là có tâm ganh ghét. Có tâm loạn nhận biết như thật là có tâm loạn. Có tâm ít nhận biết như thật là có tâm ít. Có tâm thật nhận biết như thật là có tâm thật. Tâm bất định nhận biết như thật là tâm bất định. Tâm định nhận biết như thật là tâm định. Tâm không giải thoát nhận biết như thật là tâm không giải thoát. Tâm giải thoát nhận biết như thật là tâm giải thoát. Tâm có vượt hơn nhận biết như thật là tâm có vượt hơn. Tâm không có vượt hơn nhận biết như thật là tâm không có vượt hơn. Nếu tất cả chúng là phương tiện giải thoát của trí kiến. Đó gọi là tha tâm trí.

Hỏi: Thế nào là pháp biện?

Đáp: Pháp chúng, pháp tỷ, pháp xúc, nếu là Thánh trí trọn vẹn, đó gọi là pháp biện.

Hỏi: Thế nào là nghĩa biện?

Đáp: Nghĩa chúng, nghĩa tỷ, nghĩa xúc, nếu là Thánh trí trọn vẹn, đó gọi là nghĩa biện.

Hỏi: Thế nào là từ biện?

Đáp: Từ chúng, từ tỷ, từ xúc, nếu là Thánh trí hoàn toàn, đó gọi là từ biện.

Hỏi: Thế nào là ứng biện?

Đáp: Ứng chúng, ứng tỷ, ứng xúc, nếu là Thánh trí hoàn toàn, đó gọi là ứng biện.

Lại nữa, pháp biện: Trừ từ biện, ứng biện, còn lại là trí vô lậu Thánh, nếu không phải là trí tỷ loại nhận biết về tướng trọn vẹn, đó gọi là pháp biện.

Lại nữa, nghĩa biện: Trừ từ biện, ứng biện, còn lại là trí vô lậu Thánh, nếu là trí tỷ loại nhận biết về tướng trọn vẹn, đó gọi là nghĩa biện.

Lại nữa, từ biện: Nếu là sắc, thọ, tưởng, hành, thức, hoặc khổ, tập, diệt, đạo, hoặc các nẻo địa ngục, súc sinh, ngạ quỷ, người, trời, nếu nên nói như thế, từ như thế, phân biệt như thế. Nếu chúng là phương tiện giải thoát của trí kiến. Đó gọi là từ biện.

Lại nữa, ứng biện: Ứng nghĩa là trí, do trí như thế nhận biết. Nếu đấy là phương tiện giải thoát của trí kiến. Đó gọi là ứng biện.

Lại nữa, pháp biện: Nếu là sắc, thọ, tưởng, hành, thức, hoặc khổ, tập, diệt, đạo, không phải là nghĩa xúc, không phải là nhân xúc, không phải là đầu mối xúc, không phải là duyên xúc. Nếu đối với trí vô lậu Thánh, không phải là trí tỷ loại nhận biết về tướng trọn vẹn. Đó gọi là pháp biện.

Lại nữa, nghĩa biện: Nghĩa xúc, nhân xúc, đầu mối xúc, duyên xúc, do nghĩa này, nếu là sắc, thọ, tưởng, hành thức, hoặc khổ, tập, diệt, đạo, nếu đối với vô lậu trí là trí tỷ loại nhận biết về tướng trọn vẹn. Đó gọi là nghĩa biện.

Lại nữa, từ biện: Do đạt được ba biện: Pháp biện, nghĩa biện, từ biện, nếu dùng ngôn ngữ mở bày, giảng giải, không có ngăn ngại, không có ràng buộc, không có ngưng trệ, hoặc khế hợp sáng rõ. Nếu tất cả là phương tiện giải thoát của trí kiến. Đó gọi là từ biện.

Lại nữa, ứng biện: Do đạt được ba biện: Pháp biện, nghĩa biện, từ biện, nếu tùy thuận, mở bày, giảng giải, không có trở ngại, không có ràng buộc, là vô biên, vô lượng, vô tận, không thể nghĩ bàn, không thể tính kể. Nếu chúng là phương tiện giải thoát của trí kiến. Đó gọi là ứng biện.

Lại nữa, pháp biện: Pháp trí, đó gọi là pháp biện.

Lại nữa, nghĩa biện: Tỷ trí, đó gọi là nghĩa biện.

Lại nữa, pháp biện: Nếu phân biệt pháp là không thể nghĩ bàn, đó gọi là pháp biện.

Lại nữa, nghĩa biện: Nếu tư duy phân biệt, tư duy về nghĩa, đó gọi là nghĩa biện.

Hỏi: Thế nào gọi là biện?

Đáp: Biện nghĩa là duyên. Trí nghĩa là trí lực. Trí nghĩa là trí hơn hẳn, nghĩa là trí kim cương, nghĩa là trí vô dư.

Bốn biện như vậy đã thành tựu phương tiện của pháp, phương tiện của nghĩa, phương tiện của kinh, phương tiện của từ, phương tiện của ứng, phương tiện của quá khứ, phương tiện của vị lai, phương tiện của quá khứ, vị lai. Nếu người kia thành tựu bốn biện này, hoặc có người muốn hiểu biết nghĩa kinh, thì không có điều ấy. Đó gọi là bốn biện.

Hỏi: Thế nào là trí tác không phải là trí lìa?

Đáp: Nếu không phải là Thánh, có báo. Đó gọi là trí tác không phải là trí lìa.

Hỏi: Thế nào là trí lìa không phải là trí tác?

Đáp: Nếu là Thánh, có báo, có thể đoạn trừ phiền não. Đó gọi là trí lìa không phải là trí tác.

Hỏi: Thế nào là trí tác, trí lìa?

Đáp: Không có một trí hoặc là tác, hoặc là lìa. Người kia hoặc là trí tác không phải là trí lìa, hoặc là trí lìa không phải là trí tác. Đó gọi là trí tác, trí lìa.

Hỏi: Thế nào là không phải trí tác, không phải trí lìa?

Đáp: Trừ trí tác, trí lìa, còn lại là trí. Đó gọi là không phải trí tác, không phải trí lìa.

Lại nữa, trí tác không phải là trí lìa: Nếu ở cõi dục có báo, đó gọi là trí tác không phải là trí lìa.

Lại nữa, trí lìa không phải là trí tác: Nếu trí là Thánh, có báo, có thể đoạn trừ phiền não, đó gọi là trí lìa không phải là trí tác.

Lại nữa, trí tác, trí lìa: Nếu trí sinh đoạn trừ phiền não của cõi dục, thọ hữu của cõi sắc và cõi vô sắc, đó gọi là trí tác, trí lìa.

Lại nữa, không phải là trí tác, không phải là trí lìa: Nếu trí là không có báo, hoặc trí là Thánh, có báo, không phải đoạn trừ phiền não, đó gọi là không phải là trí tác không phải là trí lìa.

Có nhiễm, không nhiễm. Có ách, không ách cũng như thế.

Hỏi: Thế nào là trí của quả trí không phải là trí của quả đoạn?

Đáp: Nếu trí sinh rồi sinh trí, không phải là đoạn trừ phiền não. Đó gọi là trí của quả trí không phải là trí của quả đoạn.

Hỏi: Thế nào là trí của quả đoạn không phải là trí của quả trí?

Đáp: Nếu trí sinh đoạn trừ phiền não, không phải là sinh trí. Đó gọi là trí của quả đoạn không phải là trí của quả trí.

Hỏi: Thế nào là trí của quả đoạn, trí của quả trí?

Đáp: Nếu trí sinh xong là trí sinh đoạn trừ phiền não. Đó gọi là trí của quả đoạn, trí của quả trí.

Hỏi: Thế nào là không phải là trí của quả trí, không phải là trí của quả đoạn?

Đáp: Trừ trí của quả đoạn là quả của trí, còn lại là trí khác. Đó gọi là không phải là trí của quả trí, không phải là trí của quả đoạn.

Lại nữa, trí của quả trí không phải là trí của quả đoạn: Nếu trí sinh đắc năm thông không phải Thánh. Nếu năm thông không phải Thánh hoặc được một, hoặc hai thông. Đó gọi là trí của quả trí không phải là trí của quả đoạn.

Lại nữa, trí của quả đoạn không phải là trí của quả trí: Nếu trí sinh đắc quả Tư-đà-hàm. Đó gọi là trí của quả đoạn không phải là trí của quả trí.

Lại nữa, trí của quả trí, trí của quả đoạn: Nếu trí sinh đắc quả Tu-đà-hoàn, quả Tư-đà-hàm, quả A-na-hàm, quả A-la-hán. Đó gọi là trí của quả trí, trí của quả đoạn.

Lại nữa, không phải là trí của quả trí, không phải là trí của quả đoạn: Nếu trí không có báo, hoặc trí có báo, không phải trí sinh, không thể đoạn trừ phiền não. Đó gọi là không phải là trí của quả trí, không phải là trí của quả đoạn.

Quả trí, quả đắc cũng như thế.

Hỏi: Thế nào là trí tận không phải là trí giác?

Đáp: Nếu trí sinh đoạn trừ phiền não, không phải là trí giác. Trừ tận trí, còn lại là trí khác. Đó gọi là trí tận không phải là trí giác.

Hỏi: Thế nào là trí giác không phải là trí tận?

Đáp: Nếu trí sinh đắc năm thông không phải là Thánh, hoặc đắc một, hai thông. Đó gọi là trí giác không phải là trí tận.

Hỏi: Thế nào là trí giác trí tận?

Đáp: Nếu trí sinh đắc quả Tu-đà-hoàn cho đến quả A-la-hán. Đó gọi là trí giác trí tận.

Hỏi: Thế nào là không phải trí tận, không phải trí giác?

Đáp: Nếu trí không có báo, hoặc trí có báo, nhưng không thể đoạn trừ phiền não, không phải là sinh trí. Đó gọi là không phải trí tận, không phải trí giác.

Giải thoát cũng như vậy.

HẾT – QUYỂN 9