LUẬN XÁ LỢI PHẤT A TỲ ĐÀM
Hán dịch: Đời Diêu Tần, Đại sư Đàm Ma Da Xá, Đàm Ma Quật Đa
Việt dịch: Phật tử Nguyên Huệ

 

QUYỂN 8

Phẩm thứ 3: PHẦN KHÔNG HỎI VỀ NGƯỜI

Người phàm phu. Người không phải là phàm phu. Người của tánh. Người Thanh văn. Người Bồ-tát. Người Duyên giác. Người chánh giác. Người hướng đến chứng quả Tu-đà-hoàn. Người Tu-đàhoàn. Người hướng đến chứng quả Tư-đà-hàm. Người Tư-đà-hàm. Người hướng đến chứng quả A-na-hàm. Người A-na-hàm. Người hướng đến chứng quả A-la-hán. Người A-la-hán.

Người tự đủ. Người khiến cho người khác đủ. Người học. Người vô học. Người phi học phi vô học. Người chánh định. Người tà định. Người bất định. Người mù. Người một mắt. Người hai mắt.

Người hành từ. Người hành bi. Người hành hỷ. Người hành xả. Người hành không. Người hành vô tướng. Người hành vô nguyện. Người hành vô não. Người hành thắng nhập. Người hành nhất thiết nhập.

Người tu tám giải thoát. Người đắc sáu thông. Người của năm loại xong sự việc ở đây. Người của năm loại xong sự việc ở kia. Người đạt một phần giải thoát. Người đạt hai phần giải thoát.

Người tuệ giải thoát. Người thân chứng. Người kiến đắc. Người tín giải thoát. Người kiên tín. Người kiên pháp. Người đoạn dứt năm chi. Người thành tựu sáu chi.

Người một hộ. Người bốn y. Người diệt trừ duyên khác với thật. Người cầu tối thắng. Người tưởng không đục. Người trừ hành thân.

Người tâm khéo giải thoát. Người tuệ khéo giải thoát. Người cùng giải thoát. Người không cùng giải thoát. Người có thoái chuyển. Người không thoái chuyển.

Người có tư duy. Người thủ hộ vi tế.

Người nếu tư duy thì không thoái chuyển, không tư duy thì liền thoái chuyển.

Người nếu thủ hộ vi tế thì không thoái chuyển, không thủ hộ vi tế thì liền thoái chuyển.

Người có duyên xét tìm. Người của pháp không phát khởi. Người trụ kiếp. Người hàng đầu bằng nhau. Người vượt qua hầm hào. Người phá hủy hầm hào. Người nhân nơi tinh tấn. Người không nhiễm ô. Người làm cho mạn suy hoại.

Hỏi: Thế nào là người phàm phu?

Đáp: Nếu người đối với trên chưa có chánh quyết định, đó gọi là người phàm phu.

Hỏi: Thế nào là người không phải là phàm phu?

Đáp: Nếu người đối với trên có được chánh quyết định, đó gọi là người không phải là phàm phu.

Lại nữa, người phàm phu, nếu người chưa được chánh quyết định, đó gọi là người phàm phu.

Lại nữa, người không phải là phàm phu, nếu người có được chánh quyết định, đó gọi là người không phải là phàm phu.

Lại nữa, người phàm phu, nếu người chưa được Thánh, năm căn chưa từng được, đó gọi là người phàm phu.

Lại nữa, người không phải là phàm phu, nếu người đã được Thánh, năm căn từng được, đó gọi là người không phải là phàm phu.

Hỏi: Thế nào là người của tánh?

Đáp: Nếu người theo thứ lớp trụ nơi pháp thù thắng của phàm phu, nếu pháp tức diệt đối với trên được chánh quyết định, đó gọi là người của tánh.

Hỏi: Thế nào là người của tánh?

Đáp: Nếu người thành tựu pháp tánh. Những gì là pháp tánh? Nếu vô thường, khổ, không, vô ngã, tư duy về Niết-bàn tĩnh lặng, tâm không nhất định, đối với trên chưa được chánh quyết định, như người thật. Hoặc là thọ, tưởng, tư, xúc, tư duy, giác quán, kiến tuệ giải thoát, không si, thuận tín, tâm vui mừng, tấn, tín, dục, không phóng dật, niệm, ý thức giới, ý giới, hoặc giới thân, giới khẩu như thật. Đó gọi là pháp tánh. Nếu người thành tựu pháp này, đó gọi là người của tánh.

Hỏi: Thế nào là người Thanh văn?

Đáp: Nếu người từ người khác nghe, lãnh hội, thọ nhận sự giáo hóa của người khác, thỉnh người khác thuyết giảng, nghe pháp của người khác, không phải tự tư duy, không phải tự giác (tầm), không phải tự quán (tứ), đối với trên được chánh quyết định, đắc quả Tu-đàhoàn, quả Tư-đà-hàm, quả A-na-hàm, quả A-la-hán. Đó gọi là người Thanh văn.

Hỏi: Thế nào là người Bồ-tát?

Đáp: Nếu người đã thành tựu ba mươi hai tướng, không từ người khác nghe, lãnh hội, không thọ nhận sự giáo hóa của người khác, không thỉnh người khác thuyết giảng, không nghe pháp của người khác, tự mình tư duy, tự giác, tự quán, đối với tất cả pháp thấy biết không trở ngại, sẽ được tự lực tự tại, tài đức tôn quý tự tại hơn hết, sẽ chứng đắc tri kiến chánh giác vô thượng, sẽ thành tựu mười lực, bốn vô sở úy của Như Lai, thành tựu đại từ, chuyển pháp luân. Đó gọi là người Bồ-tát.

Hỏi: Thế nào là người Duyên giác?

Đáp: Nếu người không thành tựu đủ ba mươi hai tướng, không từ người khác nghe, lãnh hội, không thọ nhận sự giáo hóa của người khác, không thỉnh người khác thuyết giảng, không nghe pháp của người khác, tự mình tư duy, tự giác, tự quán, đối với trên đã được chánh quyết định, đắc quả Tu-đà-hoàn, quả Tư-đà-hàm, quả A-nahàm, quả A-la-hán, đối với tất cả pháp không được tri kiến vô ngại, không đắc tự tại, không đắc do lực tự tại, không phải là tài đức tôn quý tự tại hơn hết, không phải là tri kiến chánh giác tối thắng vô thượng, không thành tựu mười lực, bốn vô sở úy, đại từ của Như Lai để chuyển pháp luân. Đó gọi là người Duyên giác.

Hỏi: Thế nào là người Duyên giác?

Đáp: Nếu người không thành tựu đủ ba mươi hai tướng, cũng không từ người khác nghe, lãnh hội, không thọ nhận sự giáo hóa của người khác, không thỉnh người khác thuyết giảng, không nghe pháp của người khác, tự mình tư duy, tự giác, tự quán, đối với trên đã được chánh quyết định, đắc quả Tu-đà-hoàn, quả Tư-đà-hàm, quả A-na-hàm, quả A-la-hán, đối với tất cả pháp tâm tri kiến vô ngại, tâm đắc tự tại, tâm đắc do lực tự tại, tâm thuộc hàng tài đức tôn quý tự tại, không phải là tri kiến chánh giác tối thắng vô thượng, không phải thành tựu mười lực, bốn vô sở úy, đại từ của Như Lai để chuyển pháp luân. Đó gọi là người Duyên giác.

Hỏi: Thế nào là người chánh giác?

Đáp: Nếu người thành tựu ba mươi hai tướng, không từ người khác nghe, lãnh hội, không thọ nhận sự giáo hóa của người khác, không thỉnh người khác thuyết giảng, không nghe pháp của người khác, tự mình tư duy, tự giác, tự quán, đối với tất cả pháp đều tri kiến vô ngại, đắc do lực tự tại, tài đức tôn quý tự tại hơn hết, thành tựu tri kiến chánh giác tối thắng vô thượng, thành tựu mười lực, bốn sở úy của Như Lai, thành tựu đại từ, tự tại chuyển pháp luân. Đó gọi là người chánh giác.

Hỏi: Thế nào là người hướng đến chứng quả Tu-đà-hoàn?

Đáp: Nếu người có thể chứng đạo quả Tu-đà-hoàn, chưa đắc quả Tu-đà-hoàn, chưa xúc chưa chứng. Đó gọi là người hướng đến chứng quả Tu-đà-hoàn.

Hỏi: Thế nào là người Tu-đà-hoàn?

Đáp: Nếu người được xúc chứng quả Tu-đà-hoàn xong, trụ nơi quả ấy, chưa được đạo trên tức hướng đến quả Tư-đà-hàm. Đó gọi là người Tu-đà-hoàn.

Hỏi: Thế nào là người hướng đến chứng quả Tư-đà-hàm?

Đáp: Nếu người có thể chứng đạo quả Tư-đà-hàm, chưa được xúc chứng quả Tư-đà-hàm. Đó gọi là người hướng đến chứng quả Tư-đà-hàm.

Hỏi: Thế nào là người Tư-đà-hàm?

Đáp: Nếu người được xúc chứng quả Tư-đà-hàm xong, trụ nơi quả ấy, chưa được đạo trên tức hướng đến quả A-na-hàm. Đó gọi là người Tư-đà-hàm.

Hỏi: Thế nào là người hướng đến chứng quả A-na-hàm?

Đáp: Nếu người có thể chứng đạo quả A-na-hàm, chưa được quả A-na-hàm, chưa xúc chưa chứng. Đó gọi là người hướng đến chứng quả A-na-hàm.

Hỏi: Thế nào là người A-na-hàm?

Đáp: Nếu người được xúc chứng quả A-na-hàm xong, trụ nơi quả ấy, chưa được đạo trên tức hướng đến quả A-la-hán. Đó gọi là người A-na-hàm.

Hỏi: Thế nào là người hướng đến chứng quả A-la-hán?

Đáp: Nếu người có thể chứng đạo quả A-la-hán, chưa được quả A-la-hán, chưa xúc chứng. Đó gọi là người hướng đến chứng quả A-la-hán.

Hỏi: Thế nào là người A-la-hán?

Đáp: Nếu người được xúc chứng quả A-la-hán xong. Đó gọi là người A-la-hán.

Lại nữa, người hướng đến chứng quả Tu-đà-hoàn: Là kiên tín, kiên pháp, đó gọi là người hướng đến chứng quả Tu-đà-hoàn.

Lại nữa, người Tu-đà-hoàn: Nếu người do kiến đoạn ba phiền não là thân kiến, nghi và giới thủ (giới cấm thủ), do Thánh đạo trong một lúc cùng đoạn phiền não kia xong, trụ nơi sự đoạn trừ ấy, chưa được đạo trên, do tư duy đoạn, đoạn từng phần các phiền não dục ái, giận dữ. Đó gọi là người Tu-đà-hoàn.

Lại nữa, người hướng đến chứng quả Tư-đà-hàm: Nếu người do kiến đoạn ba phiền não là thân kiến, nghi, giới thủ, do Thánh đạo trong một lúc cùng đoạn phiền não kia xong, đạt được đạo trên, do tư duy đoạn, đoạn từng phần các phiền não dục ái, giận dữ, nhưng chưa đoạn. Đó gọi là người hướng đến chứng quả Tư-đà-hàm.

Lại nữa, người Tư-đà-hàm: Nếu người do kiến đoạn ba phiền não là thân kiến, nghi, giới thủ, do Thánh đạo trong một lúc cùng đoạn xong, do tư duy đoạn, đoạn từng phần các phiền não dục ái, giận dữ, do Thánh đạo trong một lúc cùng đoạn, trụ nơi sự đoạn trừ ấy, chưa được đạo trên, do tư duy khác đoạn trừ hết sạch các thứ dục ái, giận dữ, nhưng chưa đoạn. Đó gọi là người Tư-đà-hàm.

Lại nữa, người hướng đến chứng quả A-na-hàm: Nếu người do kiến đoạn ba phiền não là thân kiến, nghi, giới thủ, do Thánh đạo trong một lúc đã cùng đoạn, do tư duy đoạn các phiền não dục ái, giận dữ, vì Thánh đạo trong một lúc cùng đoạn, đạt được đạo trên, do tư duy khác đoạn trừ hết sạch các thứ dục ái, giận dữ, nhưng chưa đoạn. Đó gọi là người hướng đến quả A-na-hàm.

Lại nữa, người A-na-hàm: Nếu người đoạn trừ năm phiền não phần dưới là thân kiến, nghi, giới thủ, dục ái, giận dữ, do Thánh đạo trong một lúc cùng đoạn, trụ nơi sự đoạn trừ kia, chưa được đạo trên, do tư duy đoạn trừ hết sạch các phiền não của hành sắc, hành vô sắc, nhưng chưa đoạn. Đó gọi là người A-na-hàm.

Lại nữa, người hướng đến chứng quả A-la-hán: Nếu người đã đoạn trừ năm phiền não phần dưới là thân kiến, nghi, giới thủ, dục ái, giận dữ, do Thánh đạo trong một lúc cùng đoạn, đạt được đạo trên, do tư duy đoạn trừ phiền não của hành sắc, hành vô sắc, đoạn trừ hoàn toàn, nhưng chưa đoạn. Đó gọi là người hướng đến chứng quả A-la-hán.

Lại nữa, người A-la-hán: Nếu người do tư duy đoạn trừ phiền não của hành sắc, phiền não của hành vô sắc, đoạn trừ hết sạch. Đó gọi là người A-la-hán.

Lại nữa, người A-la-hán: Nếu người đoạn trừ hết tất cả phiền não, đó gọi là người A-la-hán. Tất cả phiền não hết là quả A-la-hán. Nếu người được xúc chứng, đó gọi là người A-la-hán.

Hỏi: Thế nào là người tự đủ?

Đáp: Như Đức Thế Tôn nói: Thế gian có hai người khó được: Tự mình đủ. Người khác đủ.

Thế nào là người khiến cho người khác đủ? Nếu người thí cho các vị Sa-môn, Bà-la-môn, người cần được ăn uống v.v…, người nghèo cùng, kẻ hành khất các thức ăn uống, xe cộ, y phục, hương hoa, hương xoa, vật dụng nằm như giường nệm, nhà cửa, chốn nương dựa, đèn sáng. Đó gọi là người khiến cho người khác đủ.

Thế nào là người tự đủ? Nếu Tỳ-kheo đã dứt hết hữu lậu, cho đến việc làm đã xong, không còn thọ thân sau. Đó gọi là người tự đủ.

Hai người như thế, ai đã nói. Tánh nhân Như Lai nói:

Gọi tự đủ, khác đủ

Thế gian rất hy hữu

Người thí như ao trong

Thân thường trụ tịnh giới.

Lại hay thí uống, ăn

Là người rất khó được

Lìa dục, đoạn giận dữ

Diệt si đạt vô lậu.

Pháp Thánh do tự đủ

Là người rất khó được.

Hỏi: Thế nào là người học?

Đáp: Người hướng đến chứng quả Tu-đà-hoàn, người Tu-đàhoàn, người hướng đến chứng quả Tư-đà-hàm, người Tư-đà-hàm, người hướng đến chứng quả A-na-hàm, người A-na-hàm, người hướng đến chứng quả A-la-hán. Đó gọi là người học.

Hỏi: Thế nào là người vô học?

Đáp: A-la-hán, đó gọi là người vô học.

Hỏi: Thế nào là người phi học phi vô học?

Đáp: Người phàm phu, đó gọi là người phi học phi vô học.

Hỏi: Thế nào là người chánh định?

Đáp: Nếu người đối với trên có được chánh quyết định, đó gọi là người chánh định.

Hỏi: Thế nào là người tà định?

Đáp: Nếu người nhập nơi định tà, đó gọi là người tà định.

Hỏi: Thế nào là người bất định?

Đáp: Nếu người đối với trên không được chánh quyết định, không nhập nơi định tà, đó gọi là người bất định.

Hỏi: Thế nào là người chánh định?

Đáp: Nếu người có được chánh quyết định, đó gọi là người chánh định.

Hỏi: Thế nào là người tà định?

Đáp: Nếu người có được tà định, đó gọi là người tà định.

Hỏi: Thế nào là người bất định?

Đáp: Nếu người không được chánh quyết định, không được tà định, đó gọi là người bất định.

Hỏi: Thế nào là người chánh định?

Đáp: Nếu người được năm căn của Thánh đã từng được, đó gọi là người chánh định.

Hỏi: Thế nào là người tà định?

Đáp: Nếu người tạo năm nghiệp vô gián, tạo thành xong, chưa thọ nhận báo, đối với năm nghiệp vô gián đã tạo thành, hoặc một, hoặc hai chưa thọ nhận báo. Đó gọi là người tà định.

Hỏi: Thế nào là người bất định?

Đáp: Nếu người chưa được năm căn của Thánh chưa từng được, không tạo năm nghiệp vô gián, không gây tạo, không thọ nhận báo, đối với năm nghiệp vô gián không tạo thành, hoặc một, hoặc hai không thọ nhận báo. Đó gọi là người bất định.

Hỏi: Thế nào là người mù?

Đáp: Nếu người thành tựu mắt, chưa được của báu, có thể được, được rồi thì mở mang rộng, tức không có mắt như thế. Nếu người thành tựu mắt, chưa sinh pháp thiện, có thể sinh, sinh rồi thì mở mang rộng, tức không có mắt như thế. Đó gọi là người mù.

Hỏi: Thế nào là người một mắt?

Đáp: Nếu người thành tựu mắt, chưa được của báu, có thể được, được rồi thì mở mang rộng, tức có mắt như thế. Như người thành tựu mắt, chưa sinh pháp thiện, có thể sinh, sinh rồi thì mở mang rộng, tức không có mắt như thế. Đó gọi là người một mắt.

Hỏi: Thế nào là người hai mắt?

Đáp: Nếu người thành tựu mắt, chưa được của báu, có thể được, được rồi thì mở mang rộng, tức có mắt như thế. Như người thành tựu mắt, chưa sinh pháp thiện, có thể sinh, sinh rồi thì mở mang rộng, tức có mắt như thế. Đó gọi là người hai mắt.

Hỏi: Thế nào là người hành từ?

Đáp: Nếu người được tâm từ giải, hành nhiều theo hành ấy, đó gọi là người hành từ.

Hỏi: Thế nào là người hành bi?

Đáp: Nếu người được tâm bi giải, hành nhiều theo hành ấy, đó gọi là người hành bi.

Hỏi: Thế nào là người hành hỷ?

Đáp: Nếu người được tâm hỷ giải, hành nhiều theo hành ấy, đó gọi là người hành hỷ.

Hỏi: Thế nào là người hành xả?

Đáp: Nếu người được tâm xả giải, hành nhiều theo hành ấy, đó gọi là người hành xả.

Lại nữa, người hành từ: Nếu người được tâm từ giải điều phục xong, tu hành nhu hòa xong, theo thứ lớp đối với trên được chánh quyết định, đắc quả Tu-đà-hoàn, quả Tư-đà-hàm, quả A-na-hàm, quả A-la-hán. Đó gọi là người hành từ.

Lại nữa, người hành bi: Nếu người được tâm bi giải điều phục xong, tu hành nhu hòa xong, theo thứ lớp đối với trên được chánh quyết định, đắc quả Tu-đà-hoàn, quả Tư-đà-hàm, quả A-na-hàm, quả A-la-hán. Đó gọi là người hành bi.

Lại nữa, người hành hỷ: Nếu người được tâm hỷ giải điều phục xong, tu hành nhu hòa xong, theo thứ lớp đối với trên được chánh quyết định, đắc quả Tu-đà-hoàn, quả Tư-đà-hàm, quả A-na-hàm, quả A-la-hán. Đó gọi là người hành hỷ.

Lại nữa, người hành xả: Nếu người được tâm xả giải điều phục xong, tu hành nhu hòa xong, theo thứ lớp đối với trên được chánh quyết định, đắc quả Tu-đà-hoàn, quả Tư-đà-hàm, quả A-na-hàm, quả A-la-hán. Đó gọi là người hành xả.

Hỏi: Thế nào là người hành không?

Đáp: Nếu người được định không, hành nhiều theo định ấy, đó gọi là người hành không.

Hỏi: Thế nào là người hành vô tướng?

Đáp: Nếu người được định vô tướng, hành nhiều theo định ấy, đó gọi là người hành vô tướng.

Hỏi: Thế nào là người hành vô nguyện?

Đáp: Nếu người được định vô nguyện, hành nhiều theo định ấy, đó gọi là người hành vô nguyện.

Lại nữa, người hành không: Nếu người được định không, đối với trên được chánh quyết định, đắc quả Tu-đà-hoàn, quả Tư-đàhàm, quả A-na-hàm, quả A-la-hán. Đó gọi là người hành không.

Lại nữa, người hành vô tướng: Nếu người được định vô tướng, đối với trên được chánh quyết định, đắc quả Tu-đà-hoàn, quả Tư-đàhàm, quả A-na-hàm, quả A-la-hán. Đó gọi là người hành vô tướng.

Lại nữa, người hành vô nguyện: Nếu người được định vô nguyện, đối với trên được chánh quyết định, đắc quả Tu-đà-hoàn, quả Tư-đà-hàm, quả A-na-hàm, quả A-la-hán. Đó gọi là người hành vô nguyện.

Hỏi: Thế nào là người hành vô não?

Đáp: Nếu người được pháp vô não. Những gì là pháp vô não? Nghĩa là nếu người nhận biết khuyên khen, nhận biết không khuyên khen. Nhận biết khuyên khen, không khuyên khen xong, không phải khuyên khen, không phải không khuyên khen, giảng nói pháp sáng rõ, nhận biết pháp sáng rõ. Nhận biết pháp xong, bên trong ưa tinh tấn, sau lưng không nói xấu, trước mặt không khen tốt, nói pháp xứng mãn, đều là pháp xứng mãn, không cần câu nệ, phương ngữ, hoặc lễ nghi phải trái của người thế tục, tùy phương giảng nói pháp.

Lại nữa, tu căn, lực, giác, thiền, giải thoát, định, tu xong, được xả vô lậu của Thánh. Nếu xả tức hợp với pháp luật, không hành dục lạc, theo hành thấp kém của phàm phu, không hành khổ hạnh vô nghĩa không phải Thánh, thường lìa bỏ hai biên, nhập hợp với hành trung đạo. Nhận biết khuyên khen, nhận biết không khuyên khen, cho đến tùy phương giảng nói pháp, không có não hại, xa lìa não hại, đối với giải thoát, nhập pháp vô não.

Lại nữa, đây là vì người kia nên tạo ra một số pháp chung gọi là vô não. Đó gọi là người hành vô não.

Hỏi: Thế nào là người hành thắng nhập (Thắng xứ)?

Đáp: Nếu người được tám thắng nhập, hành nhiều theo pháp ấy, đó gọi là người hành thắng nhập.

Hỏi: Thế nào là người hành nhất thiết nhập (Biến xứ)?

Đáp: Nếu người được mười nhất thiết nhập, hành nhiều theo pháp ấy, đó gọi là người hành nhất thiết nhập. Hỏi: Thế nào là người tu tám giải thoát?

Đáp: Nếu người được tám giải thoát, hành nhiều theo pháp ấy, đó gọi là người tu tám giải thoát.

Hỏi: Thế nào là người đắc sáu thông?

Đáp: Nếu người thành tựu sáu thông, hành nhiều theo pháp ấy, đó gọi là người đắc sáu thông.

Hỏi: Thế nào là người của loại xong sự việc ở đây?

Đáp: Người bảy lần sinh, người gia gia, người Tư-đà-hàm, người nhất chủng, người hiện thân đắc A-la-hán.

Thế nào là người bảy lần sinh? Tu-đà-hoàn, đó gọi là người bảy lần sinh.

Lại nữa, người bảy lần sinh: Nếu người do kiến đoạn ba thứ phiền não là thân kiến, nghi, giới thủ, do Thánh đạo trong một lúc cùng đoạn, trụ nơi sự đoạn trừ ấy, chưa được đạo trên, do tư duy đoạn, đoạn từng phần các thứ phiền não dục ái, giận dữ. Theo nghiệp tạo tác tất nên sinh thọ thân bảy lần ở nhân gian, bảy lần trên cõi trời. Thân thọ hành bảy lần như thế xong là dứt hết biên vực khổ. Đó gọi là người bảy lần sinh.

Thế nào là người gia gia? Nếu người do kiến đoạn ba thứ phiền não là thân kiến, nghi, giới thủ, vì Thánh đạo trong một lúc cùng đoạn, đạt được đạo trên, do tư duy đoạn, đoạn từng phần các thứ phiền não dục ái, giận dữ, chưa dứt hành tạo nghiệp, tất sẽ sinh, hoặc thọ nhận hai, ba lần thân người, người kia hoặc thọ hành hai, ba lần thân người xong, hết biên vực khổ. Đó gọi là người gia gia.

Lại nữa, người gia gia: Nếu người do kiến đoạn ba thứ phiền não là thân kiến, nghi, giới thủ, vì Thánh đạo trong một lúc cùng đoạn, do tư duy đoạn, đoạn từng phần các thứ phiền não dục ái, giận dữ, nhưng chưa như người Tư-đà-hàm đã tạo nghiệp, tất sẽ sinh, hoặc thọ nhận hai, ba lần thân người. Thọ hành hai, ba lần thân người xong, hết biên vực khổ. Đó gọi là người gia gia.

Thế nào là người Tư-đà-hàm? Nếu người do kiến đoạn ba thứ phiền não là thân kiến, nghi, giới thủ, vì Thánh đạo trong một lúc cùng đoạn, lại do tư duy đoạn, đoạn từng phần các thứ phiền não dục ái, giận dữ. Vì Thánh đạo trong một lúc cùng đoạn, trụ nơi sự đoạn dứt kia, chưa được đạo trên, do tư duy khác đoạn trừ hết sạch dục ái, giận dữ, dứt bỏ nghiệp đã tạo, tất sẽ sinh, thọ nhận thân một lần, nơi cõi trời, một lần nơi nẻo người. Thọ hành thân một lần nơi cõi trời, một lần nơi nẻo người xong, hết biên vực khổ. Đó gọi là người Tư-đà-hàm.

Lại nữa, người Tư-đà-hàm: Nếu người do kiến đoạn ba thứ phiền não là thân kiến, nghi, giới thủ, vì Thánh đạo trong một lúc cùng đoạn, lại do tư duy đoạn, đoạn từng phần các thứ phiền não dục ái, giận dữ, vượt qua người gia gia, nhưng không như người nhất chủng đã tạo nghiệp, tất sẽ sinh, thọ nhận thân một lần nơi cõi trời, một lần nơi nẻo người. Thọ hành thân một lần nơi cõi trời, một lần nơi nẻo người xong, hết biên vực khổ. Đó gọi là người Tư-đà-hàm.

Thế nào là người nhất chủng (Nhất gián)? Nếu người do kiến đoạn ba thứ phiền não là thân kiến, nghi, giới thủ, vì Thánh đạo trong một lúc cùng đoạn, lại do tư duy đoạn, đoạn từng phần các thứ phiền não dục ái, giận dữ, cũng dùng Thánh đạo trong một lúc cùng đoạn, đạt được đạo trên, tức do tư duy còn lại đoạn trừ hết sạch các phiền não dục ái, giận dữ, nhưng chưa đoạn hành tạo nghiệp, tất sẽ sinh thọ nhận một lần thân người, thọ hành một lần thân người xong, hết biên vực khổ. Đó gọi là người nhất chủng.

Lại nữa, người nhất chủng: Nếu người do kiến đoạn ba thứ phiền não là thân kiến, nghi, giới thủ, vì Thánh đạo trong một lúc cùng đoạn, lại do tư duy đoạn dục ái, giận dữ, đoạn nhiều, vượt qua Tư-đà-hàm, nhưng không như người A-na-hàm đã tạo nghiệp, tất sẽ sinh, thọ thân người một lần, thọ hành một lần thân người xong, hết biên vực khổ. Đó gọi là người nhất chủng.

Thế nào là người hiện thân đắc A-la-hán? Nếu người do phần thân của mình, hoặc đã lớn, hoặc còn nhỏ, đối với trên được chánh quyết định, thì người này, phần thân của mình nơi đời này, hoặc còn trẻ, hoặc đã lớn, được quả Tu-đà-hoàn, quả Tư-đà-hàm, quả A-nahàm, được quả A-la-hán. Đó gọi là người hiện thân đắc quả A-la-hán.

Đấy gọi là người của năm loại xong sự việc ở đây.

Hỏi: Thế nào là người của năm loại xong sự việc ở kia?

Đáp: Người trung bát Niết-bàn, người nhanh chóng bát Niếtbàn, người vô hành bát Niết-bàn, người hữu hành bát Niết-bàn, người thượng lưu bát Niết-bàn.

Thế nào là người trung bát Niết-bàn? Nếu người đã đoạn năm phiền não phần dưới là thân kiến, nghi, giới thủ, dục ái, giận dữ, dùng đạo Thánh trong một lúc cùng đoạn, vì dụng sắc bén của năm căn Thánh kia là tối thắng, tức tín căn, tấn căn, niệm căn, định căn, tuệ căn. Nếu đạo này là lạc tốc giải, nên tu đạo ấy xong là đắc quả A-la-hán. Người kia hiện thân có trở ngại, không được quả A-la-hán, hoặc có nhiều các duyên hành thương xót thân thuộc nơi nghiệp đời trước, tất sẽ sinh thọ thân một lần nơi cõi trời, đối với thân trời ấy có các thứ không vừa ý: sinh không vừa ý, trụ không vừa ý, hành không vừa ý, nên nơi thân trời kia trung bát Niết-bàn.

Vì sao gọi là trung bát Niết-bàn? Mạng chung tại cõi dục, nếu sinh nơi trời cõi sắc, ở trong thọ mạng của trời ấy, ở trong pháp đoạn của vị trời ấy bát Niết-bàn. Đó gọi là trung bát Niết-bàn.

Lại nữa, đây là vì người kia nên tạo ra một số pháp chung gọi là trung bát Niết-bàn. Đó gọi là người trung bát Niết-bàn.

Thế nào là người nhanh chóng bát Niết-bàn? Nếu người đã đoạn năm phiền não phần dưới là thân kiến, nghi, giới thủ, dục ái, giận dữ, do Thánh đạo trong một lúc cùng đoạn. Năm căn của Thánh ở đây sắc bén không như trung bát Niết-bàn. Năm căn là tín căn, tấn căn, niệm căn, định căn, tuệ căn. Như đạo này, hoặc là tốc giải, nếu tu đạo ấy tức được quả A-la-hán. Người kia nơi hiện thân có trở ngại nên không đắc quả A-la-hán. Do có nhiều các duyên hành xót thương thân thuộc nơi nghiệp đời trước, tất thọ nhận một lần nơi cõi trời. Ở thân trời ấy có các thứ không vừa ý: sinh không vừa ý, trụ không vừa ý, hành không vừa ý, nên đối với thân trời kia đã nhanh chóng bát Niết-bàn.

Vì sao gọi là nhanh chóng bát Niết-bàn? Mạng chung tại cõi dục, sinh nơi trời cõi sắc, thọ mạng của trời ấy vui ít, ly tán nhiều, nên nhanh bát Niết-bàn. Đó gọi là nhanh chóng bát Niết-bàn.

Lại nữa, đây là vì người kia nên tạo ra một số pháp chung gọi là nhanh chóng bát Niết-bàn. Đó gọi là người nhanh chóng bát Niết-bàn.

Thế nào là người vô hành bát Niết-bàn? Nếu người đã đoạn năm phiền não phần dưới là thân kiến, nghi, giới thủ, dục ái, giận dữ, do Thánh đạo trong một lúc cùng đoạn. Năm căn của Thánh này là phẩm hạ. Năm căn là tín căn, tấn căn, niệm căn, định căn, tuệ căn. Như đạo này là lạc nan giải, nếu tu đạo ấy tức được quả A-la-hán. Người kia hiện thân có trở ngại, nên không đắc quả A-la-hán, hoặc do có nhiều các duyên hành xót thương thân thuộc nơi nghiệp đời trước, tất sẽ sinh, thọ thân một lần nơi cõi trời, thân trời ấy có sự vừa ý: sinh vừa ý, nhưng trụ không vừa ý, hành không vừa ý, nên ở nơi thân trời kia đã vô hành bát Niết-bàn.

Vì sao gọi là vô hành bát Niết-bàn? Mạng chung tại cõi dục, nếu sinh lên trời cõi sắc, ở cõi ấy do vô hành đạt được đạo vô gián, được rồi tức ở trong đạo ấy bát Niết-bàn. Đó gọi là vô hành bát Niết-bàn.

Lại nữa, đây là vì người kia nên tạo ra một số pháp chung gọi là vô hành bát Niết-bàn. Đó gọi là người vô hành bát Niết-bàn.

Thế nào là người hữu hành bát Niết-bàn? Nếu người đã đoạn năm phiền não phần dưới là thân kiến, nghi, giới thủ, dục ái, giận dữ, do Thánh đạo trong một lúc cùng đoạn. Năm căn của Thánh này là phẩm hạ. Năm căn tức là tín căn, tấn căn, niệm căn, định căn, tuệ căn. Như đạo này là khổ nan giải, nếu tu đạo Thánh ấy xong, tức được quả A-la-hán. Người kia hiện thân có trở ngại, nên không đắc quả A-la-hán, hoặc do có nhiều các duyên hành xót thương thân thuộc nơi nghiệp đời trước, tất sẽ sinh, thọ thân một lần nơi cõi trời, vị trời ấy có sự vừa ý: sinh vừa ý, trụ vừa ý, nhưng hành không vừa ý, nên ở nơi thân trời kia hữu hành bát Niết-bàn.

Vì sao gọi là hữu hành bát Niết-bàn? Mạng chung tại cõi dục, nếu sinh nơi trời cõi sắc, người ấy theo hữu hành tuy khó nhưng đạt được đạo vô gián, được rồi tức thì ở nơi đạo ấy bát Niết-bàn. Đó gọi là hữu hành bát Niết-bàn.

Lại nữa, đây là vì người kia nên tạo ra một số pháp chung gọi là hữu hành bát Niết-bàn. Đó gọi là người hữu hành bát Niết-bàn.

Hỏi: Thế nào là người thượng lưu đến A-ca-nị-trá?

Đáp: Nếu người đã đoạn năm phiền não phần dưới là thân kiến, nghi, giới thủ, dục ái, giận dữ, do Thánh đạo trong một lúc cùng đoạn. Năm căn của Thánh này rất yếu kém. Năm căn tức là tín căn, tấn căn, niệm căn, định căn, tuệ căn. Như đạo này, hoặc là lạc nan giải, hoặc là khổ nan giải, tu đạo ấy xong, tức được quả A-la-hán. Người kia hiện thân có trở ngại, nên không đắc quả A-la-hán, hoặc do có nhiều các duyên hành xót thương thân thuộc nơi nghiệp đời trước, tất sẽ sinh, thọ thân nơi năm cõi trời. Nơi các cõi trời ấy đều có sự vừa ý: sinh vừa ý, trụ vừa ý, hành vừa ý. Ở đây, nếu mạng chung gọi là thượng lưu đến A-ca-nị-trá.

Vì sao gọi là thượng lưu đến A-ca-nị-trá? Mạng chung tại cõi dục, sinh trong trời Vô thắng của cõi sắc, theo như thọ mạng của trời ấy, an trụ trong đấy xong, mạng chung nơi cõi trời này, chuyển sinh trong trời Vô nhiệt, sinh trong trời Vô nhiệt xong, mạng chung ở đấy, chuyển sinh trong trời Thiện kiến, sinh nơi trời Thiện kiến xong, mạng chung ở đấy, chuyển sinh trong trời Như diệu thiện kiến, sinh nơi trời Như diệu thiện kiến xong, mạng chung ở đấy, chuyển sinh trong trời A-ca-nị-trá, theo như thọ mạng của trời ấy an trụ. An trụ xong, đạt được đạo vô gián, đắc quả A-la-hán. Đắc quả A-la-hán rồi, tức ở nơi quả ấy bát Niết-bàn. Đó gọi là thượng lưu đến A-ca-nị-trá.

Lại nữa, đây là vì người kia nên tạo ra một số pháp chung gọi là thượng lưu đến người A-ca-nị-trá. Đó gọi là người thượng lưu đến A-ca-nị-trá.

Tức gọi là người của năm loại xong sự việc ở kia.

Hỏi: Thế nào là người đạt một phần giải thoát?

Đáp: Nếu người vào thời gian học ở trước đạt được tám giải thoát, định diệt tận, không phải là vào thời gian vô học ở sau đạt được tám giải thoát, định diệt tận. Hoặc vào thời gian vô học ở sau đạt được tám giải thoát, định diệt tạn, không phải là vào thời gian học ở trước đạt được tám giải thoát, định diệt tận. Đó gọi là người đạt một phần giải thoát.

Hỏi: Thế nào là người đạt hai phần giải thoát?

Đáp: Nếu người vào thời gian học ở trước đạt được tám giải thoát, định diệt tận, vào thời gian vô học ở sau cũng đạt được tám giải thoát, định diệt tận. Đó gọi là người đạt hai phần giải thoát.

Lại nữa, người đạt một phần giải thoát: Nếu là người do tận trí sinh, không phải do vô sinh trí. Đó gọi là người đạt một phần giải thoát.

Lại nữa, người đạt hai phần giải thoát: Nếu là người do tận trí sinh, vô sinh trí sinh. Đó gọi là người đạt hai phần giải thoát.

Thế nào là người tuệ giải thoát?

Nếu người đạt giải thoát tịch tĩnh, vượt quá sắc, vô sắc,

người ấy không hành thân xúc, dùng tuệ kiến để đoạn hữu lậu. Đó gọi là người tuệ giải thoát.

Hỏi: Thế nào là người thân chứng?

Đáp: Nếu người đạt giải thoát tịch tĩnh, vượt quá sắc, vô sắc, người ấy hành thân xúc, không dùng tuệ kiến để đoạn hữu lậu. Đó gọi là người thân chứng.

Hỏi: Thế nào là người kiến đắc (Kiến đáo)?

Đáp: Nếu người đạt giải thoát tịch tĩnh, vượt quá sắc, vô sắc, người ấy không hành thân xúc, không dùng tuệ kiến để đoạn hữu lậu. Như pháp của Đức Thế Tôn đã lưu hành khắp, người ấy phần nhiều dùng tuệ để quyết trạch hành. Đó gọi là người kiến đắc.

Hỏi: Thế nào là người tín giải thoát?

Đáp: Nếu người đạt giải thoát tịch tĩnh, vượt quá sắc, vô sắc, người ấy không hành thân xúc, không dùng tuệ kiến để đoạn hữu lậu. Như pháp của Đức Thế Tôn đã lưu hành khắp, người ấy phần nhiều dùng tuệ để quyết trạch hành không bằng kiến đắc. Đó gọi là người tín giải thoát.

Hỏi: Thế nào là người kiến đắc?

Đáp: Nếu người đạt kiên pháp, đối với trên đã được chánh quyết định, đắc quả Tu-đà-hoàn, quả Tư-đà-hàm, quả A-na-hàm, nhưng chưa được tám giải thoát, định diệt tận. Đó gọi là người kiến đắc.

Hỏi: Thế nào là người tín giải thoát?

Đáp: Nếu người đạt kiên tín, đối với trên đã được chánh quyết định, đắc quả Tu-đà-hoàn, quả Tư-đà-hàm, quả A-na-hàm, nhưng chưa được tám giải thoát, định diệt tận. Đó gọi là người tín giải thoát.

Hỏi: Thế nào là người kiên tín?

Đáp: Nếu người đạt giải thoát tịch tĩnh, vượt quá sắc, vô sắc, người ấy không hành thân xúc, không dùng tuệ kiến để đoạn hữu lậu, nhưng là tín thọ nơi Đức Thế Tôn. Đó gọi là người kiên tín.

Hỏi: Thế nào là người kiên pháp?

Đáp: Nếu người đạt giải thoát tịch tĩnh, vượt quá sắc, vô sắc, người ấy không hành thân xúc, không dùng tuệ kiến để đoạn hữu lậu. Như pháp của Đức Thế Tôn đã lưu hành khắp, người ấy dùng tuệ quán để có thể thọ nhận. Đó gọi là người kiên pháp.

Hỏi: Thế nào là người kiên tín?

Đáp: Nếu người tánh ưa tin, tin nhiều, đối với trên được chánh quyết định, chưa được bốn quả Sa-môn, mỗi mỗi đều xúc chứng, hoặc là quả Tu-đà-hoàn, quả Tư-đà-hàm, quả A-na-hàm, hoặc là quả A-lahán. Người ấy đối với năm căn này thì tín căn có nhiều, bốn căn còn lại thì ít, chưa được tám giải thoát, định diệt tận. Đó gọi là người kiên tín.

Hỏi: Thế nào là người kiên pháp?

Đáp: Nếu người tánh ưa trạch pháp, hành nhiều trạch pháp, đối với trên được chánh quyết định, chưa được bốn quả Sa-môn, mỗi mỗi đều xúc chứng, hoặc là quả Tu-đà-hoàn, quả Tư-đà-hàm, quả A-na-hàm, hoặc là quả A-la-hán. Người ấy đối với năm căn này có nhiều tuệ căn, bốn căn còn lại thì ít, chưa được tám giải thoát, định diệt tận. Đó gọi là người kiên pháp.

Hỏi: Thế nào là người đoạn dứt năm chi?

Đáp: Nếu người đoạn trừ năm cái: Cái dục ái, cái sân hận, cái thùy miên trạo cử, cái hối, cái nghi. Đó gọi là người đoạn dứt năm chi.

Lại nữa, người đoạn dứt năm chi: Nếu người đã đoạn năm phiền não phần dưới là thân kiến, nghi, giới thủ, dục ái, giận dữ. Đó gọi là người đoạn dứt năm chi.

Thế nào là người thành tựu sáu chi?

Nếu người thành tựu sáu xả: Mắt thấy sắc không lo, không

mừng, hành xả niệm biết. Tai nghe tiếng, mũi ngửi mùi, lưỡi nếm vị, thân tiếp xúc, ý biết pháp, không lo, không mừng, hành xả, niệm biết. Đó gọi là người thành tựu sáu chi.

Hỏi: Thế nào là người một hộ?

Đáp: Nếu người dùng niệm để giữ gìn tâm thành tựu. Đó gọi là người một hộ.

Hỏi: Thế nào là người bốn y?

Đáp: Nếu người biết gắng nhẫn, biết gần gũi, biết xa lìa, biết xả bỏ. Đó gọi là người bốn y.

Hỏi: Thế nào là người diệt trừ duyên khác với thật?

Đáp: Nếu người đối với bên ngoài này, hoặc có Sa-môn, Bà-lamôn duyên nơi kiến chấp dị biệt cho: Ngã, thế gian là thường, điều này là thật, ngoài ra đều là hư giả. Ngã, thế gian là vô thường, điều này là thật, ngoài ra đều là hư giả. Ngã, thế gian là thường, là vô thường, điều này là thật, ngoài ra đều là hư giả. Ngã, thế gian không phải là thường, không phải là vô thường, điều này là thật, ngoài ra đều là hư giả.

Ngã, thế gian là hữu biên, điều này là thật, ngoài ra đều hư giả. Ngã, thế gian là vô biên, điều này là thật, ngoài ra đều là hư giả. Ngã, thế gian là hữu biên, là vô biên, điều này là thật, ngoài ra đều là hư giả. Ngã, thế gian không phải là hữu biên, không phải là vô biên, điều này là thật, ngoài ra đều là hư giả.

Thân là mạng, điều này là thật, ngoài ra đều là hư giả. Mạng là thân, điều này là thật, ngoài ra đều là hư giả. Thân khác, mạng khác, điều này là thật, ngoài ra đều là hư giả. Không có mạng, không có thân, điều này là thật, ngoài ra đều là hư giả.

Có Niết-bàn như khứ, điều này là thật, ngoài ra đều là hư giả. Có Niết-bàn không như khứ, điều này là thật, ngoài ra đều là hư giả.

Có Niết-bàn như khứ, không như khứ, điều này là thật, ngoài ra đều là hư giả. Có Niết-bàn không như khứ, không phải không như khứ, điều này là thật, ngoài ra đều là hư giả.

Đối với các kiến chấp ấy, tất cả đều diệt trừ, xả bỏ, loại trừ hẳn, xuất ly hết. Đó gọi là người diệt trừ duyên khác với thật.

Hỏi: Thế nào là người cầu tối thắng?

Đáp: Nếu người đoạn cầu dục, đoạn cầu hữu, chỉ cầu phạm hạnh, công việc làm đã xong.

Thế nào là cầu dục? Cõi dục chưa giác, chưa nhận biết, pháp của cõi dục chưa đoạn, hoặc là ấm giới nhập của cõi dục, hoặc sắc thanh hương vị xúc của cõi dục, hoặc là chúng sinh, hoặc là pháp, nếu cầu trông mong các pháp ấy tụ tập đều cầu, ái cầu xong, trông mong xong, tụ tập đều cầu xong. Đó gọi là cầu dục.

Thế nào là cầu hữu? Cõi sắc, cõi vô sắc chưa giác, chưa nhận biết, pháp của cõi sắc, cõi vô sắc chưa đoạn, hoặc là ấm giới nhập của cõi sắc, cõi vô sắc, hoặc là thiền, giải thoát, định, hoặc là Tam-mabạt-đề, nếu cầu hy vọng các pháp ấy tụ tập đều cầu, ái cầu xong, hy vọng xong, tụ tập đều cầu xong. Đó gọi là cầu hữu.

Thế nào là cầu phạm hạnh? Là tám Thánh, nếu cầu, hy vọng tám Thánh kia tụ tập đều cầu, yêu thích cầu xong, hy vọng xong, tụ tập đều cầu xong. Đó gọi là cầu phạm hạnh.

Nếu người đoạn cầu dục, đoạn cầu hữu, chỉ cầu phạm hạnh, công việc làm đã xong. Đó gọi là người cầu tối thắng.

Hỏi: Thế nào là người tưởng không đục?

Đáp: Tưởng đục nghĩa là tưởng dục, tưởng giận, tưởng hại. Tưởng không đục nghĩa là tưởng xuất ly, tưởng không giận, tưởng không hại. Nếu người dứt bỏ tưởng dục, nhớ nghĩ đến tưởng xuất ly, dứt bỏ tưởng giận, nhớ nghĩ đến tưởng không giận, xả bỏ tưởng hại, nhớ nghĩ đến tưởng không hại. Đó gọi là người tưởng không đục.

Thế nào là người trừ hành thân?

Thân nghĩa là hơi thở ra vào. Nếu người kia nhập nơi tĩnh lặng, diệt trừ, đó gọi là người trừ hành thân.

Lại nữa, người trừ hành thân: Nếu Tỳ-kheo này đoạn trừ khổ, đoạn trừ lạc, trước là diệt tưởng ưu, hỷ, xả, bất khổ bất lạc, niệm thanh tịnh, thành tựu hành của bốn thiền. Đó gọi là người trừ hành thân.

Hỏi: Thế nào là người tâm khéo giải thoát?

Đáp: Nếu người đối với dục tâm giải thoát, đối với giận, si tâm đều giải thoát, đó gọi là người tâm khéo giải thoát.

Hỏi: Thế nào là người tuệ khéo giải thoát?

Đáp: Nếu người tự nhận biết pháp: Ngã dục đã đoạn, tất không sinh, giận, si đều đã đoạn, tất không sinh, đó gọi là người tuệ khéo giải thoát.

Hỏi: Thế nào là người tâm khéo giải thoát?

Đáp: Nếu người tâm giải thoát đối với dục không còn có dục, được xúc chứng xong, đó gọi là người tâm khéo giải thoát.

Hỏi: Thế nào là người tuệ khéo giải thoát?

Đáp: Nếu người lìa vô minh, tuệ giải thoát được xúc chứng xong, đó gọi là người tuệ khéo giải thoát.

Hỏi: Thế nào là người tâm khéo giải thoát?

Đáp: Nếu người do tận trí sinh, không phải vô sinh trí, đó gọi là người tâm khéo giải thoát.

Hỏi: Thế nào là người tuệ khéo giải thoát?

Đáp: Nếu người do tận trí và vô sinh trí sinh, đó gọi là người tuệ khéo giải thoát.

Hỏi: Thế nào là người cùng giải thoát?

Đáp: Nếu người đối với sự cùng giải thoát, tâm trụ phát khởi, đó gọi là người cùng giải thoát.

Hỏi: Thế nào là người không cùng giải thoát?

Đáp: Nếu người không cùng giải thoát, tâm trụ không phát khởi, đó gọi là người không cùng giải thoát.

Hỏi: Thế nào là người có thoái chuyển?

Đáp: Nếu người ở nơi cùng giải thoát, tâm trụ phát khởi, người kia đối với cùng giải thoát có tâm thoái chuyển biến đổi, đó gọi là người có thoái chuyển.

Hỏi: Thế nào là người không có thoái chuyển?

Đáp: Nếu người ở nơi không cùng giải thoát, tâm trụ không phát khởi, người kia không có cùng giải thoát, tâm không thoái chuyển biến đổi, đó gọi là người không có thoái chuyển.

Hỏi: Thế nào là người có tư duy?

Đáp: Nếu người ở nơi cùng giải thoát, tâm trụ phát khởi, người ấy có tư duy, có ở nơi cùng giải thoát, tâm khiến ta không là sau cùng, không thoái chuyển, không thay đổi. Đó gọi là người có tư duy.

Hỏi: Thế nào là người thủ hộ vi tế?

Đáp: Nếu người ở nơi cùng giải thoát, tâm trụ phát khởi, người kia nếu gìn giữ khiến ta ở nơi cùng giải thoát, tâm không thoái chuyển, không biến đổi, người kia ở nơi cùng giải thoát tâm không thoái chuyển, không biến đổi. Đó gọi là người thủ hộ vi tế.

Hỏi: Thế nào là hoặc có người nếu tư duy thì không thoái chuyển, không tư duy thì liền thoái chuyển?

Đáp: Nếu người ở nơi cùng giải thoát, tâm trụ phát khởi. Người kia nếu tư duy hại ta, khiến ta ở nơi cùng giải thoát tâm không thoái chuyển, không biến đổi. Người kia ở nơi cùng giải thoát, tâm không

thoái chuyển, không biến đổi, không tư duy hại ta, khiến ta ở nơi cùng giải thoát, tâm không thoái chuyển, không biến đổi. Nhưng người kia ở nơi cùng giải thoát đã thoái chuyển biến đổi. Đó gọi là hoặc có người nếu tư duy thì không thoái chuyển, không tư duy thì liền thoái chuyển.

Hỏi: Thế nào là hoặc có người nếu thủ hộ vi tế thì không thoái chuyển, không thủ hộ vi tế thì liền thoái chuyển?

Đáp: Nếu người ở nơi cùng giải thoát, tâm trụ phát khởi. Người kia nếu gìn giữ khiến ta ở nơi cùng giải thoát, tâm không thoái chuyển, không đổi thay, nếu ở nơi cùng giải thoát, tâm không thoái chuyển, không thay đổi. Nếu không gìn giữ khiến ta ở nơi cùng giải thoát, tâm không thoái chuyển, không đổi thay, người kia ở nơi cùng giải thoát, tâm không thoái chuyển, không thay đổi. Nhưng người kia ở nơi cùng giải thoát, tâm đã thoái chuyển thay đổi. Đó gọi là hoặc có người nếu thủ hộ vi tế thì không thoái chuyển, không thủ hộ vi tế thì liền thoái chuyển.

Hỏi: Thế nào là người có duyên xét tìm?

Đáp: Nếu người do tận trí sinh, không phải vô sinh trí, tất sẽ sinh vô sinh trí, nên duyên xét tìm, đối với giải thoát tâm duyên nơi không phát khởi. Đó gọi là người có duyên xét tìm.

Hỏi: Thế nào là người của pháp không phát khởi?

Đáp: Nếu người tâm giải thoát đối với dục, giận, si, đó gọi là người của pháp không phát khởi.

Hỏi: Thế nào là người của pháp không phát khởi?

Đáp: Dục không phát khởi, giận, si không phát khởi, đó gọi là người của pháp không phát khởi.

Hỏi: Thế nào là người trụ kiếp?

Đáp: Như người kiên tín, kiên pháp, nếu lại có hành thiện, hoặc người nơi đời hiện tại chứng đắc A-la-hán. Đó gọi là người trụ kiếp.

Hỏi: Thế nào là người trụ kiếp?

Đáp: Cho đến phiền não nơi tất cả thế giới đều không làm hư hoại, tất khiến người kia đắc bốn quả Sa-môn, đều được ba xúc chứng, hoặc quả Tu-đà-hoàn, quả Tư-đà-hàm, quả A-na-hàm, quả A-la-hán. Đó gọi là người trụ kiếp.

Hỏi: Thế nào là người hàng đầu bằng nhau?

Đáp: Nếu người chưa hành đạo, hoặc là hữu lậu, hoặc là thọ mạng trong một lúc đều cùng đoạn. Lại nữa, đoạn trừ lậu vô gián, mạng liền đoạn dứt. Đó gọi là người hàng đầu bằng nhau.

Hỏi: Thế nào là người vượt qua hầm hào?

Đáp: Nếu người đoạn dứt vô minh, đó gọi là người vượt qua hầm hào.

Hỏi: Thế nào là người phá hủy hầm hào?

Đáp: Nếu người đoạn diệt sinh tử, đó gọi là người phá hủy hầm hào.

Hỏi: Thế nào là người nhân nơi tinh tấn?

Đáp: Nếu người đoạn trừ hữu ái, đó gọi là người nhân nơi tinh tấn.

Hỏi: Thế nào là người không nhiễm ô?

Đáp: Nếu người đã đoạn dứt năm phiền não phần dưới, đó gọi là người không nhiễm ô.

Hỏi: Thế nào là người làm cho mạn suy hoại?

Đáp: Nếu người đoạn trừ ngã mạn, đó gọi là người làm cho mạn suy hoại.

HẾT – QUYỂN 8