LUẬN XÁ LỢI PHẤT A TỲ ĐÀM
Hán dịch: Đời Dao Tần, Tam Tạng Đàm Ma Da Xá và Đàm Ma Quật Đa, người nước Kế-tân v.v…
Việt dịch: Linh Sơn Pháp Bảo Đại Tạng Kinh
Hội Văn Hóa Giáo Dục Linh Sơn Đài Bắc Xuất Bản

 

QUYỂN 7

Phẩm 1: PHẨM GIỚI THUỘC VỀ PHẦN PHI VẤN

Giới sắc, giới chẳng phải sắc; giới có thể thấy, giới không thể thấy; giới có đối, giới không có đối; giới Thánh, giới chẳng phải Thánh; giới hữu lậu, giới vô lậu; giới có ái, giới không có ái; giới có cầu, giới không có cầu; giới sẽ nhận lấy, giới không phải sẽ nhận lấy; giới có lấy, giới không có lấy; giới có hơn, giới không có hơn; giới có thọ, giới không có thọ; giới nội, giới ngoại; giới có báo, giới không có báo; giới tâm, giới chẳng phải tâm; giới của tâm tương ưng, giới chẳng phải tâm tương ưng; giới tâm sở, giới chẳng phải tâm sở; giới duyên, giới không phải duyên; giới tâm chung, giới chẳng phải tâm chung; giới tùy tâm chuyển, giới không tùy tâm chuyển; giới nghiệp, giới không phải nghiệp; giới của báo nghiệp, giới chẳng phải báo nghiệp; giới của nghiệp tương ưng, giới không phải nghiệp tương ưng; giới không phải nghiệp tương ưng, không phải nghiệp tương ưng; giới của nghiệp chung, giới của nghiệp không chung; giới tùy nghiệp chuyển, giới không phải tùy nghiệp chuyển; giới là nhân, giới không phải nhân; giới có nhân, giới không có nhân; giới có đầu mối, giới không có đầu mối; giới có duyên, giới không có duyên; giới hữu vi, giới vô vi; giới trí, giới không phải trí; giới thức, giới không phải thức; giới giải, giới không phải giải; giới liễu, giới phi liễu; giới dứt trí biết, giới chẳng phải dứt trí biết; giới dứt, giới không phải dứt; giới tu, giới không phải tu; giới chứng, giới không phải chứng; giới Niết-bàn hữu dư, giới Niết-bàn vô dư; giới thiện, giới bất thiện, giới vô ký; giới học, giới Vô học, giới phi học, phi Vô học; giới báo, giới pháp báo, giới không phải báo, giới chẳng phải pháp báo; giới kiến đoạn, giới tư duy đoạn, giới chẳng phải kiến đoạn, chẳng phải tư duy đoạn; giới của nhân kiến đoạn, giới của nhân tư duy đoạn, giới chẳng phải nhân của kiến đoạn, chẳng phải nhân của tư duy đoạn; giới thấp, giới trung bình, giới cao vượt hơn; giới thô, giới tế, giới vi, giới phát, giới sắc, giới vượt qua; giới huân tập, giới giữ gìn, giới xuất, giới dứt, giới lìa dục, giới diệt; giới dục, giới sắc, giới vô sắc; giới sắc, giới chẳng phải sắc, giới diệt, giới ba xuất, giới quá khứ, giới vị lai, giới hiện tại; giới chẳng phải quá khứ, chẳng phải vị lai, chẳng phải hiện tại; giới của cảnh giới quá khứ, giới của cảnh giới vị lai, giới của cảnh giới hiện tại, giới của cảnh giới không phải quá khứ, không phải vị lai, không phải hiện tại; giới lệ thuộc cõi Dục, giới lệ thuộc cõi Sắc, giới lệ thuộc cõi Vô sắc, giới không lệ thuộc. Giới sắc, giới thọ, giới tưởng, giới hành, giới thức; giới năm xuất, giới sáu xuất, giới địa, giới thủy, giới hỏa, giới phong, giới không, giới thức, giới vui, giới khổ, giới hỷ, giới ưu, giới xả, giới vô minh, giới dục, giới giận dữ, giới hại, giới xuất, giới không giận dữ, giới không hại, giới ánh sáng, giới tịnh, giới sắc, giới Không xứ, giới Thức xứ, giới bất dụng xứ, giới Phi tưởng Phi phi tưởng xứ, mười tám giới.

Hỏi: Thế nào là pháp của giới sắc?

Đáp: Nếu sắc thì đó gọi là giới sắc.

Chẳng phải pháp của giới sắc là gì?

Đáp: Chẳng phải sắc, gọi là giới chẳng phải sắc.

Hỏi: Thế nào là giới có thể thấy?

Đáp: Sắc nhập, gọi là giới có thể thấy.

Giới không thể thấy ra sao?

Đáp: Trừ sắc nhập, pháp khác gọi là giới không thể thấy.

Hỏi: Thế nào là giới có đối?

Đáp: Mười sắc nhập, gọi là giới có đối.

Giới không có đối là gì?

Đáp: Ý nhập, pháp nhập, gọi là giới không có đối.

Hỏi: Thế nào là giới Thánh?

Đáp: Nếu pháp vô lậu, gọi là giới Thánh.

Chẳng phải giới Thánh là gì?

Đáp: Nếu pháp hữu lậu, gọi là giới chẳng phải Thánh.

Hỏi: Thế nào là giới hữu lậu?

Đáp: Nếu pháp có ái, gọi là giới hữu lậu.

Giới vô lậu là gì?

Đáp: Nếu pháp không có ái gọi là giới vô lậu.

Hỏi: Thế nào là giới có ái?

Đáp: Nếu pháp có mong cầu gọi là giới có ái.

Hỏi: Thế nào là giới không có ái?

Đáp: Nếu pháp không có mong cầu gọi là giới không có ái.

Giới có mong cầu là thế nào?

Đáp: Nếu pháp sẽ nhận lấy, gọi là giới có cầu mong.

Giới không có mong cầu là gì?

Đáp: Nếu pháp không phải sẽ nhận lấy, gọi là giới không có mong cầu.

Hỏi: Thế nào là giới sẽ nhận lấy?

Đáp: Nếu pháp có nhận lấy gọi là giới sẽ nhận lấy.

Hỏi: Thế nào là giới không phải sẽ nhận lấy?

Đáp: Nếu pháp không có nhận lấy gọi là giới không phải sẽ nhận lấy.

Giới có nhận lấy là gì?

Đáp: Nếu pháp có vượt hơn gọi là giới có nhận lấy.

Hỏi: Thế nào là giới không có nhận lấy?

Đáp: Nếu pháp không có vượt hơn, gọi là giới không có nhận lấy.

Giới có vượt hơn là gì?

Đáp: Nếu pháp có nhận lấy gọi là giới có vượt hơn.

Hỏi: Thế nào là giới không có vượt hơn?

Đáp: Nếu pháp không có nhận lấy, gọi là giới không có vượt hơn.

Giới có vượt hơn là gì?

Đáp: Nếu giới pháp có giới khác nhiệm mầu vượt hơn ở trên, gọi là giới có vượt hơn.

Hỏi: Thế nào là giới không có vượt hơn?

Đáp: Nếu giới pháp không có giới khác, nhiệm màu vượt hơn, vượt qua trên, gọi là giới không có vượt hơn.

Hỏi: Thế nào là giới của thọ?

Đáp: Nếu là pháp trong, gọi là giới thọ.

Chẳng phải giới của thọ là gì?

Đáp: Nếu pháp ngoài gọi là giới chẳng phải thọ.

Hỏi: Thế nào là giới trong?

Đáp: Nếu pháp thọ gọi là giới trong.

Giới ngoài là gì?

Đáp: Nếu pháp chẳng phải thọ đó gọi là giới ngoài.

Hỏi: Thế nào là giới có báo?

Đáp: Nếu pháp của pháp báo, gọi là giới có báo.

Giới không có báo là gì?

Đáp: Nếu pháp báo, hoặc chẳng phải pháp báo gọi là giới không có báo.

Hỏi: Thế nào là giới tâm?

Đáp: Ý nhập, gọi là giới tâm.

Hỏi: Thế nào là giới chẳng phải tâm?

Đáp: Trừ ý nhập, pháp khác gọi là giới chẳng phải tâm.

Giới của tâm tương ưng là gì?

Đáp: Nếu pháp tâm sở gọi là giới của tâm tương ưng.

Hỏi: Thế nào là giới chẳng phải tâm tương ưng?

Đáp: Nếu pháp chẳng phải tâm sở, gọi là giới chẳng phải tâm tương ưng.

Giới của tâm sở là gì?

Đáp: Trừ tâm, pháp duyên khác gọi là giới tâm sở.

Giới chẳng phải tâm sở là thế nào?

Đáp: Nếu pháp không phải duyên và tâm, gọi là giới chẳng phải tâm sở.

Hỏi: Thế nào là giới duyên?

Đáp: Nếu pháp nhận lấy tướng và tâm, gọi là giới của duyên.

Giới không phải duyên là gì?

Đáp: Trừ tâm, chẳng phải pháp tâm sở khác, gọi là giới không phải duyên.

Hỏi: Thế nào là giới của tâm chung?

Đáp: Nếu pháp tùy tâm chuyển thì tâm chung sinh trụ chung, diệt chung, gọi là giới của tâm chung.

Giới chẳng phải tâm chung là gì?

Đáp: Nếu pháp không tùy tâm chuyển thì tâm không chung sinh, trụ không chung, diệt không chung, gọi là giới của tâm không chung.

Hỏi: Thế nào là giới của tùy tâm chuyển?

Đáp: Nếu pháp do tâm chung sinh, trụ chung, diệt chung, thì gọi là giới tùy tâm chuyển.

Giới không tùy tâm chuyển là gì?

Đáp: Nếu pháp là tâm không chung sinh, trụ không chung, diệt không chung, thì gọi là giới không tùy tâm chuyển.

Hỏi: Thế nào là giới nghiệp?

Đáp: Thân nghiệp, miệng nghiệp, ý nghiệp, gọi là giới nghiệp.

Giới chẳng phải nghiệp là thế nào?

Đáp: Trừ thân nghiệp, miệng nghiệp, ý nghiệp, pháp khác, gọi là giới chẳng phải nghiệp.

Hỏi: Thế nào là giới của báo nghiệp?

Đáp: Nếu pháp thiện, hoặc báo của pháp thiện, thì gọi là giới của báo nghiệp.

Giới chẳng phải báo nghiệp là gì?

Đáp: Nếu pháp báo, hoặc chẳng phải báo, chẳng phải pháp báo, gọi là giới chẳng phải nghiệp báo.

Hỏi: Thế nào là giới tương ưng với nghiệp?

Đáp: Nếu giới pháp tương ưng với “Tư” gọi là giới tương ưng nghiệp.

Hỏi: Thế nào là giới không phải tương ưng với nghiệp?

Đáp: Nếu pháp không phải tương ưng với “Tư” gọi là giới không phải tương ưng với nghiệp.

Hỏi: Thế nào là tương ưng của chẳng phải nghiệp chẳng phải là giới tương ưng với chẳng phải nghiệp?

Đáp: Tư gọi là tương ưng của chẳng phải nghiệp không phải giới tương ưng của chẳng phải nghiệp.

Hỏi: Thế nào là giới của nghiệp chung?

Đáp: Nếu pháp tùy nghiệp chuyển thì nghiệp chung sinh, trụ chung, diệt chung, gọi là giới của nghiệp chung.

Giới của nghiệp không chung là gì?

Đáp: Nếu pháp không tùy nghiệp chuyển thì nghiệp không chung sinh, trụ không chung, diệt không chung, gọi là giới của nghiệp không chung.

Hỏi: Thế nào là giới của tùy nghiệp chuyển?

Đáp: Nếu pháp do nghiệp chung sinh, trụ chung, diệt chung, gọi là giới tùy nghiệp chuyển.

Giới không tùy nghiệp chuyển là gì?

Đáp: Nếu pháp là nghiệp thì không chung sinh, trụ không chung, diệt không chung, gọi là giới không tùy nghiệp chuyển.

Hỏi: Thế nào là giới của nhân?

Đáp: Nếu pháp duyên, hoặc pháp không phải duyên có báo, hoặc pháp không phải duyên, trừ đắc quả, còn lại báo thiện và bốn đại, gọi là giới của nhân.

Chẳng phải giới của nhân là gì?

Đáp: Nếu pháp chẳng phải duyên, không có báo, thì nghiệp không chung, được quả, gọi là chẳng phải giới của nhân.

Hỏi: Thế nào là giới có nhân?

Đáp: Nếu pháp có đầu mối gọi là giới có nhân.

Giới không có nhân là gì?

Đáp: Nếu pháp không có đầu mối đó gọi là giới không có nhân.

Hỏi: Thế nào là giới có đầu mối?

Đáp: Nếu pháp có duyên, gọi là giới có đầu mối.

Giới không có đầu mối là gì?

Đáp: Nếu pháp không có duyên, gọi là giới không có đầu mối.

Giới có duyên là thế nào?

Đáp: Nếu pháp hữu vi, gọi là giới có duyên.

Giới không có duyên là gì?

Đáp: Nếu pháp vô vi, gọi là giới không có duyên.

Hỏi: Thế nào là giới hữu vi?

Đáp: Nếu pháp có duyên gọi là giới hữu vi.

Thế nào là giới vô vi?

Đáp: Nếu pháp không có duyên thì gọi là giới vô vi.

Hỏi: Thế nào là giới biết?

Đáp: Tất cả pháp biết, như sự thấy biết, gọi là giới biết.

Hỏi: Thế nào là giới chẳng biết?

Đáp: Đều là giới biết. Lại nữa, nói tất cả pháp chẳng biết, như sự thấy biết, gọi là giới chẳng biết.

Hỏi: Thế nào là giới thức?

Đáp: Tất cả pháp thức, ý thức như sự nhận thức, đó gọi là giới thức.

Chẳng phải giới thức là gì?

Đáp: Đều là giới thức. Lại nữa, nói tất cả pháp không phải thức, ý thức như sự nhận thức, gọi là chẳng phải giới thức.

Hỏi: Thế nào là giới giải?

Đáp: Tất cả pháp giải, như sự thấy biết, gọi là giới giải.

Giới không phải giải là gì?

Đáp: Đều là giới giải. Lại nữa, nói Tất cả pháp không phải giải, như sự thấy biết, gọi là giới không phải giải.

Hỏi: Thế nào là giới liễu?

Đáp: Tất cả pháp thấu tỏ, như sự thấy biết, gọi là giới liễu (thấu tỏ).

Giới không phải liễu là gì?

Đáp: Đều là giới liễu, lại nữa nói: Tất cả pháp không phải liễu, như sự thấy biết, gọi là giới không phải liễu.

Hỏi: Thế nào là giới dứt trí biết?

Đáp: Nếu pháp bất thiện, gọi là giới dứt trí biết.

Giới chẳng phải dứt trí biết là gì?

Đáp: Nếu pháp thiện, hoặc vô ký, gọi là giới chẳng phải dứt trí biết.

Hỏi: Thế nào là giới dứt?

Đáp: Nếu pháp bất thiện, gọi là giới dứt.

Giới chẳng phải dứt là gì?

Đáp: Nếu pháp thiện, hoặc vô ký, gọi là giới chẳng phải dứt.

Hỏi: Thế nào là giới tu?

Đáp: Nếu pháp thiện, gọi là giới tu.

Giới chẳng phải tu là gì?

Đáp: Nếu pháp bất thiện, vô ký, gọi là giới chẳng phải tu.

Hỏi: Thế nào là giới chứng?

Đáp: Tất cả pháp chứng, như sự thấy biết, gọi là giới chứng.

Giới không phải chứng là gì?

Đáp: Đều là giới chứng. Lại nữa, nói: Tất cả pháp không phải chứng, như sự thấy biết, gọi là giới không phải chứng.

Hỏi: Thế nào là giới Niết-bàn Hữu dư?

Đáp: Như Đức Thế tôn nói: Thế nào kia là giới của hai Niết-bàn?

Những gì là hai thứ giới Niết-bàn hữu dư, giới Niết-bàn vô dư?

Giới Niết-bàn hữu dư là gì?

Đáp: Là Tỳ-kheo A-la-hán này, các lậu đã hết, việc làm đã rồi, buông bỏ gánh nặng, đạt được lợi mình, là hết phiền não hữu, chánh trí được giải thoát các ấm giới, nhập, vì nghiệp duyên đời trước, mà trụ vì tâm chịu các nỗi khổ, vui, có vừa ý, không vừa ý, gọi là giới Niết-bàn hữu dư.

Hỏi: Thế nào là giới Niết-bàn vô dư?

Đáp: Là năm ấm của Tỳ-kheo đã diệt, năm ấm vị lai không còn nối nhau sinh nữa, gọi là giới Niết-bàn vô dư.

Giới thiện là gì?

Đáp: Nếu pháp tu gọi là giới thiện.

Hỏi: Thế nào là giới bất thiện?

Đáp: Nếu pháp dứt, gọi là giới bất thiện.

Hỏi: Thế nào là giới vô ký?

Đáp: Nếu pháp thọ, hoặc pháp chẳng phải báo, chẳng phải pháp báo, gọi là giới vô ký.

Giới học là gì?

Đáp: Nếu pháp của bậc Thánh phi Vô học, gọi là giới học. Hỏi: Thế nào là giới Vô học?

Đáp: Nếu pháp của bậc Thánh phi học, gọi là giới Vô học.

Giới phi học, phi Vô học là thế nào?

Đáp: Nếu pháp chẳng phải Thánh, gọi là giới phi học, phi Vô học.

Hỏi: Thế nào là giới báo?

Đáp: Nếu pháp thọ, hoặc pháp là báo thiện, gọi là giới báo.

Giới của pháp báo là gì?

Đáp: Nếu pháp có báo, gọi là giới của pháp báo.

Hỏi: Thế nào là giới chẳng phải báo, chẳng phải pháp báo?

Đáp: Nếu pháp vô ký, không thuộc về phần ngã gọi là giới chẳng phải báo, chẳng phải pháp báo.

Hỏi: Thế nào là giới của kiến đoạn?

Đáp: Nếu pháp bất thiện, không phải tư duy đoạn, gọi là giới kiến đoạn.

Hỏi: Thế nào là giới của tư duy đoạn?

Đáp: Nếu pháp bất thiện không phải kiến đoạn, gọi là giới của Tư duy đoạn.

Hỏi: Thế nào là giới không phải kiến đoạn, không phải tư duy đoạn?

Đáp: Nếu pháp thiện, vô ký, gọi là giới chẳng phải kiến đoạn, chẳng phải tư duy đoạn.

Hỏi: Thế nào là giới nhân của kiến đoạn?

Đáp: Nếu pháp là pháp báo của kiến đoạn, gọi là giới của nhân kiến đoạn.

Giới nhân của tư duy đoạn là gì?

Đáp: Nếu pháp là tư duy đoạn, hoặc pháp là pháp báo của tư duy đoạn thì gọi là giới nhân của tư duy đoạn.

Hỏi: Thế nào là giới nhân không phải kiến đoạn, không phải tư duy đoạn?

Đáp: Nếu pháp thiện, hoặc pháp là báo của pháp thiện, hoặc pháp báo chẳng phải báo, chẳng phải pháp báo, gọi là giới nhân không phải kiến đoạn, không phải tư duy đoạn.

Hỏi: Thế nào là giới thấp kém?

Đáp: Nếu pháp bất thiện, gọi là giới thấp kém.

Giới vừa chừng là gì?

Đáp: Nếu pháp vô ký, gọi là giới vừa chừng.

Hỏi: Thế nào là giới vượt hơn?

Đáp: Nếu pháp thiện gọi là giới vượt hơn.

Giới thấp kém là sao?

Đáp: Nếu pháp bất thiện, hoặc pháp vô ký, gọi là giới thấp kém.

Hỏi: Thế nào là giới vừa chừng?

Đáp: Nếu pháp chẳng phải Thánh thiện, gọi là giới vừa chừng.

Giới vượt hơn là gì?

Đáp: Nếu pháp của bậc Thánh vô lậu, gọi là giới vượt hơn.

Hỏi: Thế nào là giới thô?

Đáp: Nếu pháp lệ thuộc cõi Dục, lệ thuộc cõi Sắc, gọi là giới thô.

Giới tế là gì?

Đáp: Nếu pháp lệ thuộc Không xứ, lệ thuộc Thức xứ, lệ thuộc Bất dụng xứ, hoặc không lệ thuộc, đều gọi là giới tế.

Hỏi: Thế nào là giới vi?

Đáp: Nếu pháp lệ thuộc Phi tưởng Phi phi tưởng xứ, gọi là giới vi.

Lại nữa, giới thô, nếu pháp lệ thuộc cõi Dục, hoặc lệ thuộc cõi Sắc, hoặc lệ thuộc Không xứ, hoặc lệ thuộc Thức xứ, hoặc lệ thuộc Bất dụng xứ, gọi là giới thô. Lại nữa, giới tế, nếu pháp không lệ thuộc, gọi là giới tế.

Thế nào là giới vi?

Đáp: Nếu pháp lệ thuộc Phi tưởng Phi phi tưởng xứ, gọi là giới vi.

Hỏi: Thế nào là giới phát?

Đáp: Tiến, nếu phát chánh, phát sinh khởi xúc chứng, gọi là giới phát.

Giới xuất là gì?

Đáp: Tiến, nếu tiến rộng, chưa vượt qua, đó gọi là giới xuất.

Hỏi: Thế nào là giới vượt qua?

Đáp: Nếu tinh tiến vượt qua, vượt qua rộng, đã vượt qua, đó gọi là giới độ.

Hỏi: Thế nào là giới siêng năng?

Đáp: Giới của sức siêng năng, gọi là giới siêng năng.

Giới trì là gì?

Đáp: Giới trì của Tổng trì, gọi là giới trì.

Hỏi: Thế nào là giới xuất?

Đáp: Giới xuất của xuất, gọi là giới xuất.

Lại nữa, giới siêng năng, nghĩa là siêng năng, tinh tiến.

Thế nào là tinh tiến?

Đáp: Nếu thân, tâm xuất phát vượt qua, dụng tâm không lui sụt, với sức siêng năng, chánh tiến, gọi là giới siêng năng.

Lại nữa, giới trì, nghĩa là niệm.

Thế nào là niệm?

Đáp: Như pháp đã nghe, đã thực hành, gìn giữ pháp đó, giữ gìn chân chánh cho tồn tại, tưởng không quên, niệm niệm nối nhau, gọi là giới trì.

Lại nữa, giới xuất, nghĩa là buông bỏ hết tất cả lậu, dứt ái, nhập Niết-bàn, gọi là giới xuất.

Hỏi: Thế nào là giới dứt?

Đáp: Nếu Tỳ-kheo ở chỗ vắng trong rừng cây, như thế, quán hành ác báo ác của thân, báo đời nay, báo đời sau, bỏ hành ác của thân, tu việc thiện của thân. Như thế, quán hành ác báo ác của miệng, ý, báo đời nay, báo đời sau, bỏ hành ác của miệng, ý, tu hành điều thiện của miệng, ý, gọi là giới dứt.

Giới lìa dục là thế nào?

Đáp: Ái hết, lìa dục, Niết-bàn, gọi là giới lìa dục.

Hỏi: Thế nào là giới diệt?

Đáp: Ái hết, lìa diệt, đạt Niết-bàn, gọi là giới diệt.

Hỏi: Thế nào là cõi Dục?

Đáp: Nếu phần của sắc, thọ, tưởng, hành, thức từ đại địa ngục Atỳ lên đến trời Tha Hóa Tự Tại gọi là cõi Dục.

Hỏi: Thế nào là cõi sắc?

Đáp: Nếu phần của sắc, thọ, tưởng, hành, thức, từ Phạm thiên đến tầng trời A-ca-nị-trá gọi là cõi Sắc.

Hỏi: Thế nào là cõi Vô sắc?

Đáp: Nếu phần của thọ, tưởng, hành, thức, từ tầng trời Không xứ, đến tầng trời Phi tưởng Phi phi tưởng xứ gọi là cõi Vô sắc.

Cõi sắc là gì?

Đáp: Nếu pháp sắc gọi là cõi sắc.

Hỏi: Thế nào là cõi không phải sắc?

Đáp: Trừ hai diệt, còn lại là giới của pháp chẳng phải sắc, gọi là giới chẳng phải sắc.

Hỏi: Thế nào là giới diệt?

Đáp: Hai diệt: Trí duyên diệt, phi trí duyên diệt, gọi là giới diệt.

Hỏi: Thế nào là giới ba xuất?

Đáp: Như Đức Thế Tôn nói: Giới ba xuất.

Những gì là giới ba xuất? Là ra khỏi dục đến sắc, ra khỏi sắc đến vô sắc, nếu đã tạo ra, đã tập, diệt, gọi là ra khỏi.

Ra khỏi dục đến sắc là gì? Nếu duyên dục sinh hữu lậu, nhiệt cháy sém không có trong sắc kia, nói là ra khỏi dục đến sắc.

Sao nói là ra khỏi sắc đến vô sắc? Nếu duyên sắc sinh hữu lậu,

nhiệt cháy sém không có trong vô sắc kia, nói là ra khỏi sắc đến vô sắc.

Nói đã tạo ra, đã tập, diệt là gì? Nếu duyên hành sinh hữu lậu, nhiệt cháy sém không có trong Niết-bàn kia, thì nói là cái tạo ra đã tập, diệt, nói là xuất, gọi là giới ba xuất.

Hỏi: Thế nào là giới quá khứ?

Đáp: Nếu pháp sinh rồi diệt, gọi là giới quá khứ.

Hỏi: Thế nào là giới vị lai?

Đáp: Nếu pháp chưa sinh chưa phát ra, gọi là giới vị lai.

Hỏi: Thế nào là giới hiện tại?

Đáp: Nếu pháp chưa diệt, gọi là giới hiện tại.

Hỏi: Thế nào là giới chẳng phải quá khứ, chẳng phải vị lai, chẳng phải hiện tại?

Đáp: Nếu pháp vô vi gọi là giới không phải quá khứ, không phải vị lai, không phải hiện tại.

Giới của cảnh giới quá khứ là gì?

Đáp: Tư duy quá khứ, nếu pháp sinh, gọi là giới của cảnh giới quá khứ.

Hỏi: Thế nào là giới của cảnh giới vị lai?

Đáp: Tư duy vị lai, nếu pháp chưa sinh, gọi là giới của cảnh giới vị lai.

Giới của cảnh giới hiện tại là gì?

Đáp: Tư duy pháp hiện tại, nếu pháp sinh thì gọi là giới của cảnh giới hiện tại.

Hỏi: Thế nào là giới không phải cảnh giới quá khứ, không phải vị lai, không phải hiện tại?

Đáp: Tư duy không phải quá khứ, không phải vị lai, không phải hiện tại, nếu pháp sinh thì gọi là giới không phải cảnh giới quá khứ, không phải cảnh vị lai, không phải cảnh hiện tại.

Hỏi: Thế nào là giới lệ thuộc cõi Dục?

Đáp: Nếu pháp hữu lậu, dục lậu, gọi là giới lệ thuộc cõi Dục.

Hỏi: Thế nào là giới lệ thuộc cõi Sắc?

Đáp: Nếu pháp sắc lậu hữu lậu thì gọi là giới lệ thuộc cõi Sắc.

Giới lệ thuộc cõi Vô sắc là sao?

Đáp: Nếu pháp vô sắc lậu hữu lậu, thì gọi là giới lệ thuộc cõi Vô sắc.

Hỏi: Thế nào là giới không lệ thuộc?

Đáp: Nếu giới pháp của bậc của bậc Thánh vô lậu, gọi là giới không lệ thuộc.

Hỏi: Giới sắc là sao?

Đáp: Sắc ấm gọi là giới sắc.

Hỏi: Giới thọ là sao?

Đáp: Thọ ấm gọi là giới thọ.

Giới tưởng là gì?

Đáp: Tưởng ấm gọi là giới tưởng.

Hỏi: Thế nào là giới hành?

Đáp: Hành ấm gọi là giới hành.

Giới thức là gì?

Đáp: Thức ấm gọi là giới thức.

Hỏi: Thế nào là giới năm xuất?

Đáp: Như Đức Thế tôn nói: Giới năm xuất. Năm giới ấy là: Lúc Tỳ-kheo nghĩ đến dục, tâm không hướng dục, không thanh tịnh, không dừng lại, không hiểu, nghĩ đến xuất, tâm xuất. Tâm hướng đến thanh, trụ, giải, tâm thiện, chí thiện, điều phục thiện tu tâm. Nếu đối với dục, khởi lên hiểu, duyên dục sinh ra nhiệt cháy sém hữu lậu, hiểu rồi bỏ không thọ nhận đau khổ ấy, gọi là giới xuất dục.

Lại nữa, Tỳ-kheo lúc nghĩ đến sự giận dữ, tâm không hướng vì giận dữ không thanh tịnh, không dừng lại, không hiểu. Tâm niệm không giận dữ, tâm hướng đến thanh tịnh, dừng lại, hiểu biết, tâm thiện, chí thiện, điều hòa thiện, tu tâm. Nếu đối với cơn giận dữ, khởi lên hiểu duyên của cơn giận dữ sinh ra sức nóng cháy sém, hiểu rồi lìa, không thọ nhận đau khổ ấy, gọi là giới phát ra giận dữ.

Lại nữa, Tỳ-kheo nghĩ đến hại, khi nghĩ đến hại, tâm không hướng về hại không thanh tịnh, không dừng lại, không hiểu. Niệm không hại, tâm không hại, hướng đến thanh tịnh, dừng lại, hiểu biết, tâm thiện, chí thiện, điều hòa thiện, tu tâm. Nếu đối với hại, khởi lên hiểu, duyên theo hại, sinh ra sức nóng cháy sém hữu lậu, hiểu rồi bỏ không thọ nhận khổ ấy, gọi là giới xuất hại.

Lại nữa, Tỳ-kheo! Lúc nghĩ đến sắc, tâm không hướng sắc không thanh tịnh, không dừng lại, không hiểu. Niệm vô sắc, vô sắc tâm hướng đến thanh tịnh, dừng lại, giải thoát, tâm thiện, chí thiện, điều hòa thiện, tu tâm, đối với sắc, khởi lên hiểu, duyên theo sắc, sinh ra nhiệt cháy sém hữu lậu, hiểu rồi lìa bỏ, không nhận khổ ấy, gọi là giới xuất sắc.

Lại nữa, Tỳ-kheo! Lúc nghĩ đến thân mình, tâm không hướng thân mình không thanh tịnh, không dừng lại, không giải. Nghĩ đến thân mình diệt, diệt thân mình, tâm hướng đến thanh tịnh, dừng lại, giải thoát, tâm thiện, chí thiện điều hòa thiện, tu tâm. Nếu đối với thân mình, khởi lên hiểu, duyên thân mình sinh ra sức nóng cháy sém hữu lậu, hiểu rồi bỏ, không nhận khổ ấy, gọi là giới xuất tự thân, gọi là năm giới xuất.

Hỏi: Thế nào là sáu giới xuất?

Đáp: Như Đức Thế Tôn nói “Sáu giới xuất, như Tỳ-kheo hướng Tỳ-kheo kia nói rằng: Tỳ-kheo! Tâm từ, giải của tôi gần gũi, thường tu học, tạo ra thừa, tạo ra vật, nhận thức cẩn thận, tinh tiến tốt đẹp, tôi bị tâm giận dữ che lấp!

Vị Tỳ-kheo kia trách Tỳ-kheo này: Thầy đừng nói như thế! Chớ chê bai Đức Thế Tôn, chê bai Thế Tôn không tốt, Đức Thế Tôn là không nói như thế. Tỳ-kheo! Đây không phải là chỗ hy vọng. Nếu tâm từ, giải, gần gũi, thường tu học rồi, tạo ra thừa, tạo ra vật rồi, cẩn thận rồi, nhận thức rồi, tinh tiến tốt đẹp rồi. Nếu bị tâm giận dữ che lấp thì không có việc đó! Đức Thế Tôn nói: Tỳ-kheo! Ra khỏi tâm giận dữ, tâm khéo từ giải hoặc thường tu học, vô lượng.

Lại nữa, Tỳ-kheo này hướng Tỳ-kheo kia nói rằng: Tỳ-kheo! Tâm bi, giải của tôi, gần gũi, thường tu học, tạo ra thừa, tạo ra vật, nhận thức cẩn thận, tinh tiến tốt, vì tôi đã bị tâm hại che lấp! Vị Tỳ-kheo kia trách vị Tỳ-kheo này: Thầy đừng nói như thế! Đừng chê bai Đức Thế Tôn, chê bai Thế Tôn là không tốt. Đức Thế Tôn không nói như thế. Tỳ-kheo! Đây không phải là chỗ hy vọng. Nếu tâm bi, giải, gần gũi, thường tu học rồi, tạo ra thừa, tạo ra vật rồi, cẩn thận rồi, nhận thức rồi, tinh tiến tốt rồi mà bị hại che lấp tâm thì không có việc ấy. Đức Thế Tôn nói: Tỳ-kheo ra khỏi tâm hại, hoặc tâm bi, giải, nếu thường tu học, vô lượng.

Lại nữa, Tỳ-kheo hướng về Tỳ-kheo kia nói rằng: Tâm hỷ, giải của tôi, gần gũi, thường tu học, tạo ra thừa, tạo ra vật, nhận thức cẩn thận, tinh tiến tốt đẹp, vì tôi bị tâm không vui che lấp! Vị Tỳ-kheo kia trách Tỳ-kheo này rằng: Thầy! Chớ nói như thế, chớ chê bai Thế Tôn, chê bai Thế Tôn là không tốt! Đức Thế Tôn không nói như thế: Tỳkheo! Đây không phải là chỗ hy vọng. Nếu tâm hỷ, giải gần gũi rồi, thường tu học rồi, tạo ra thừa, tạo ra vật rồi, cẩn thận rồi, nhận thức rồi, khéo tiến tới rồi mà bị tâm không vui che lấp thì không có việc ấy. Đức Thế Tôn nói: Tỳ-kheo ra khỏi tâm không vui. Nếu tâm hỷ, giải, khéo thường tu học, vô lượng.

Lại nữa, Tỳ-kheo hướng về Tỳ-kheo kia nói rằng: Tôi đã xả, tâm giải, gần gũi thường tu học, tạo ra thừa, tạo ra vật, nhận thức cẩn thận, tinh tiến tốt đẹp, mà tôi vẫn bị tâm yêu, giận che lấp! Vị Tỳ-kheo kia trách Tỳ-kheo này: “Đừng nói như thế! Đừng chê bai Đức Thế Tôn, chê bai Đức Thế Tôn là không tốt! Đức Thế Tôn không nói như thế: Tỳ-kheo, đây không phải là chỗ hy vọng. Nếu buông bỏ, tâm giải, gần gũi, thường tu học, tạo ra thừa, tạo ra vật rồi, cẩn thận rồi, nhận thức rồi, khéo tinh tiến rồi, nếu có sự yêu, giận che lấp tâm thì không có việc đó! Đức Thế Tôn nói: Tỳ-kheo xuất ra khỏi tâm yêu, giận, nếu xả, tâm giải, khéo tu nhiều, học vô lượng!

Lại nữa, Tỳ-kheo hướng về Tỳ-kheo kia nói rằng: Tâm định Vô tưởng của tôi, gần gũi, thường tu học, tạo ra thừa, tạo ra vật, nhận thức cẩn thận, khéo tinh tiến, vì tôi có niệm, tưởng, nhận thức. Vị Tỳ-kheo kia trách Tỳ-kheo này: Thầy chớ nên nói như thế, chớ nên chê bai Đức Thế Tôn, chê bai Thế Tôn là không tốt! Đức Thế Tôn không nói như thế: Tỳ-kheo! Đây không phải là chỗ hy vọng. Nếu tâm định Vô tưởng gần gũi rồi, thường tu học rồi, tạo ra thừa, tạo ra vật rồi, cẩn thận rồi, nhận thức rồi, khéo tinh tiến rồi, nếu có niệm, tưởng nhận thức thì không có việc đó! Đức Thế Tôn nói: Tỳ-kheo ra khỏi tất cả tưởng, nếu tâm định Vô tưởng, tu nhiều điều thiện, học vô lượng!

Lại nữa, Tỳ-kheo, hướng về Tỳ-kheo kia nói rằng: Tôi đã diệt ngã và ngã sở mà vẫn còn có mũi tên nghi hoặc, che lấp tâm. Vị Tỳkheo kia trách Tỳ-kheo này: Thầy chớ nói như thế! Chớ chê bai Đức Thế Tôn, chê bai Đức Thế Tôn là không phải tốt, vì lẽ Đức Thế Tôn không nói như thế: Tỳ-kheo! Đây không phải là cho mong mỏi hy vọng. Nếu vì diệt ngã và ngã sở, nên như có mũi tên nghi ngờ che lấp tâm thì không có việc này, mà Đức Thế Tôn nói: Tỳ-kheo ra khỏi mũi tên nghi ngờ, nếu dứt ngã mạn gọi là giới sáu xuất.

Hỏi: Thế nào là giới địa?

Đáp: Có hai giới địa: giới địa trong, và giới địa ngoài.

Giới địa trong là gì? Nếu trong thân này, nhận phần cứng: xương, răng, tóc, lông, da mỏng, cơ bắp, thịt, gân, mạch, lá lách, thận, gan, phổi, tim, dạ dày, đại tràng, tiểu tràng, bụng lớn, bụng nhỏ. Phần cứng trong thân này và chỗ khác trong thân, gọi là giới địa trong.

Thế nào là giới địa ngoài? Nếu ngoài, thì không phải phần nhận cứng chắc trong thân: Tính chất đồng, sắt, chì, thiếc, bạch lạp, vàng, bạc, chân châu, lưu ly, kha bối, bích ngọc, lưu ly, tiền bảo bối, châu sa, đá, cỏ, cây, cành, lá, cọng, lóng và những phần cứng ngoài khác, không phải trong thân, gọi là giới địa ngoài.

Như thế, giới địa trong, giới địa ngoài, gọi là giới địa.

Hỏi: Thế nào là giới thủy?

Đáp: Có hai thứ giới thủy: giới thủy trong, và giới thủy ngoài.

Thế nào là giới thủy trong? Nếu thọ nhận trong thân này: nước miếng, đàm dãi, nước mật, mồ hôi, nước mở của tủy, não, nước mắt, nước mũi, mủ, máu, tiểu tiện và những phần khác trong thân nhận sự thấm ướt, gọi là giới thủy trong.

Thế nào là giới thủy ngoài? Nếu ngoài, không phải trong thân thọ nhận như: Dầu tô, thạch mật (đường phèn), mật thạch đen, sữa, lạc, nước lạc, rượu nồng, rượu mía, rượu mật và thủy ngoài khác không phải trong thân thọ nhận, gọi là giới thủy ngoài.

Như thế, giới thủy trong, giới thủy ngoài, gọi là giới thủy.

Giới hỏa là gì?

Đáp: Có hai giới hỏa: giới hỏa trong, giới hỏa ngoài.

Thế nào là giới hỏa trong? Nếu sức nóng của lửa thọ nhận trong thân này, nếu nhiệt năng làm cho nóng, khiến thân nóng, làm cháy sém bên trong. hăn uống, tiêu hóa các thức ăn uống v.v… và lửa được thọ nhận trong những phần khác của thân, này gọi là giới hỏa trong.

Thế nào là giới hỏa ngoài? Nếu lửa ngoài không phải là nhiệt được nhận trong thân, hoặc nhiệt của lửa, nhiệt của mặt trời, nhiệt của ngọc châu, nhiệt của nhà, của tường, của núi, nhiệt của hơi lúa, nhiệt của cỏ, nhiệt của gỗ, nhiệt của phân bò, và nhiệt năng của lửa ngoài khác chẳng phải thọ nhận trong thân, gọi là giới hỏa ngoài.

Như thế, giới hỏa trong, và giới hỏa ngoài, gọi là giới hỏa.

Hỏi: Thế nào là giới phong?

Đáp: Có hai thứ giới phong: giới phong trong, và giới phong ngoài.

Giới phong trong là gì? Nếu phong được thọ nhận trong thân này, gió trên, gió dưới, gió trong các khớp, gió khoèo cả hai chân, gió trong đốt xương, gió hơi thở ra, vào, và gió được thọ nhận của những phần khác trong thân, gọi là giới phong trong.

Giới phong ngoài là gì? Nếu gió ngoài không phải trong thân thọ nhận: Như gió đông tây, gió nam, bắc, gió bụi xen lẫn, gió bụi không xen lẫn, gió lạnh, gió nóng, gió đen, gió tỳ phong, gió chuyển động đất, và gió ngoài khác không phải trong thân thọ nhận, gọi là giới phong ngoài.

Như thế, giới phong trong, và giới phong ngoài, gọi là giới phong.

Hỏi: Thế nào là giới không?

Đáp: Có hai thứ giới không: giới không trong, và giới không ngoài.

Giới không trong là gì? Nếu hư không được thọ nhận trong thân này, thì không bị bốn đại che lấp. Như lỗ tai, lỗ mũi và lỗ miệng, chỗ do đã ăn uống, chỗ dừng lại của thức ăn uống, chỗ thải ra của thức ăn uống và không được thọ nhận từ các phần khác trong thân này, không bị bốn đại che lấp, gọi là giới không trong.

Thế nào là giới không ngoài? Nếu không ngoài, không phải trong thân thọ nhận, không bị bốn đại che lấp: như gò nổng, giếng, bình, chậu sành, chén nhỏ, hang và khoảng không ngoài khác không phải trong thân thọ nhận, không bị bốn đại che lấp, gọi là giới không ngoài.

Giới không trong, giới không ngoài như thế, gọi là giới không.

Hỏi: Thế nào là giới thức?

Đáp: Sáu thức thân: Nhãn thức thân, thân nhĩ thức, thân tỷ thức, thân thiệt thức, thân thân thức, và thân ý thức, gọi là giới thức.

Hỏi: Thế nào là giới lạc?

Đáp: Lạc căn nơi lạc thọ của xúc nhãn, của xúc nhĩ, tỷ, thiệt, thân, gọi là giới lạc.

Giới khổ là gì?

Đáp: Khổ thọ của xúc nhãn, khổ căn của khổ thọ của xúc nhĩ, tỷ, thiệt, thân, gọi là giới khổ.

Hỏi: Thế nào là giới hỷ?

Đáp: Nếu hỷ căn, lạc thọ của tâm gọi là giới hỷ.

Giới ưu là gì?

Đáp: Nếu ưu căn, khổ thọ của tâm, gọi là giới ưu.

Hỏi: Thế nào là giới xả?

Đáp: Thân, tâm phi khổ, phi lạc thọ, nghĩa là xả căn, phi khổ, phi lạc thọ của xúc nhãn, phi khổ, phi lạc thọ của xúc nhĩ, tỷ, thiệt, thân, gọi là giới xả.

Hỏi: Thế nào là giới vô minh?

Đáp: Căn bất thiện si gọi là giới vô minh?

Giới dục là gì?

Đáp: Giới dục của dục gọi là giới dục.

Hỏi: Thế nào là giới giận dữ?

Đáp: Giới giận dữ của sự giận dữ, gọi là giới giận dữ.

Giới hại là gì?

Đáp: Giới hại của hại, gọi là giới hại.

Hỏi: Thế nào là giới dục?

Đáp: Nếu dục của dục, chất bẩn dục, ái dục, hỷ dục, chi dục, nhà dục, trạng thái dục, khát dục, sự cháy sém của dục, lưới dục, gọi là giới dục.

Thế nào là giới giận dữ?

Đáp: Nếu gây xúc não chúng sinh, xâm đoạt, hy vọng, chẳng phải dứt mạng căn, gọi là giới giận dữ.

Hỏi: Thế nào là giới hại?

Đáp: Nếu làm hại chúng sinh, lấn hiếp, cắt đứt mạng căn, gọi là giới hại.

Hỏi: Thế nào là giới dục?

Đáp: Năm dục: Yêu, mừng, vừa ý, yêu sắc, nhiễm dục thường nối tiếp nhau. Mắt nhận biết sắc, yêu, mừng, vừa ý, yêu sắc nhiễm dục nối tiếp nhau, tai, mũi, lưỡi thân thức tiếp xúc với yêu, mừng, vừa ý, yêu sắc, nhiễm dục nối tiếp nhau. Nếu dục của người phong ấp của người, phụ nữ của người, vật của người, làm cho mình được. Nếu tham, tham nặng, tham tột cùng tương ưng với hy vọng ái dục, nhiễm nặng, dục nhiễm tột đỉnh, dục nhiễm và các pháp đáng tham khác. Nếu tham nặng, tham rốt ráo, tham hy vọng, ái dục, nhiễm nặng, dục nhiễm tột đỉnh, dục nhiễm, gọi là giới dục.

Hỏi: Thế nào là giới giận dữ?

Đáp: Nếu ít chúng sinh, hoặc nhiều chúng sinh, gây tổn hại cho chúng sinh này, ràng buộc khiến chúng chịu các thứ khổ. Nếu giận dữ, giận dữ trầm trọng, giận dữ cuối cùng tương ưng với cơn phẫn nộ, với lòng oán ghét, não hại, hung tợn, không thương, xót, không lợi ích, gọi là giới giận dữ.

Hỏi: Thế nào là giới hại?

Đáp: Nếu làm chúng sinh phiền não, dùng tay nắm gạch đá, dao, gậy và các vật xúc não khác. Như thế, khi dể, hãm hại, lấn hiếp chúng sinh với ý muốn dứt mạng, gọi là giới hại.

Hỏi: Thế nào là giới xuất?

Đáp: Trừ từ, bi, các pháp xuất thế tốt khác, gọi là giới xuất.

Hỏi: Thế nào là giới không giận dữ?

Đáp: Từ là giới không giận dữ.

Giới không hại là gì?

Đáp: Bi là giới không hại.

Hỏi: Thế nào là giới ánh sáng?

Đáp: Ánh sáng sắc, ánh sáng huệ.

Ánh sáng của sắc là gì?

Đáp: Ánh sáng lửa, ánh sáng mặt trời, ánh sáng mặt trăng, ánh sáng của hạt ngọc, ánh sáng của các vì sao, ánh sáng Phật, ánh sáng chúng sinh và ngoài ánh sáng được bốn đại soi sáng, gọi là ánh sáng của sắc.

Ánh sáng huệ là gì?

Đáp: Ba huệ: Tư tuệ, văn tuệ, tu tuệ, gọi là ánh sáng tuệ. Ánh sáng sắc, ánh sáng tuệ như thế, gọi là giới ánh sáng.

Hỏi: Thế nào là giới tịnh?

Đáp: Tịnh, giải thoát và sắc tịnh khác, sắc năng tịnh, vừa ý, nhìn ngắm không chán, gọi là giới tịnh.

Hỏi: Thế nào là giới sắc?

Đáp: Sắc nhập, sắc ấm, gọi là giới sắc.

Thế nào là giới Không xứ?

Đáp: Hai giới Không xứ: hoặc giới Không xứ hữu vi, hoặc giới Không xứ vô vi.

Hỏi: Thế nào là giới Không xứ hữu vi?

Đáp: Định của Không xứ, sinh lên cõi Không xứ.

Định của Không xứ là gì?

Đáp: Nếu Tỳ-kheo lìa tất cả tưởng sắc, diệt tưởng giận dữ, không tư duy ngần ấy tưởng, thì sẽ thành tựu vô biên Không xứ.

Hỏi: Thế nào là sinh lên cõi Không xứ?

Đáp: Nếu gần gũi định này, vì thường tu học nên thọ, tưởng, hành, thức thuộc phần ngã của bốn hạng Không xứ thiên gọi là sinh lên cõi Không xứ.

Định Không xứ như thế, sinh Không xứ như thế, gọi là giới Không xứ hữu vi.

Giới Không xứ vô vi là gì?

Đáp: Nếu dùng trí dứt, giới Không xứ nếu dứt, đó gọi là Không xứ.

Giới Thức xứ vô vi, giới bất dụng xứ, giới Phi tưởng Phi phi tưởng xứ cũng như thế.

Hỏi: Thế nào là mười tám giới?

Đáp: Giới nhãn, giới sắc, nhãn thức giới, giới nhĩ, giới thanh, giới nhĩ thức, giới tỷ, giới hương, giới tỷ thức, giới thiệt, giới vị, giới thiệt thức, giới thân, giới xúc, thân thức giới, giới ý, giới pháp, giới ý thức, gọi là mười tám giới.

 

Phẩm 2: PHẨM NGHIỆP THUỘC PHẦN PHI VẤN

Nghiệp tư, nghiệp tư dĩ, nghiệp cố tạo, nghiệp không phải cố tạo, nghiệp nhận lấy, nghiệp không phải nhận lấy, nghiệp nhận lấy phần ít, nghiệp nhận lấy phần nhiều. Nghiệp thành thục, nghiệp không thành thục; nghiệp sắc, nghiệp chẳng phải sắc, nghiệp có thể thấy, nghiệp không thể thấy; nghiệp có đối, nghiệp không có đối; nghiệp Thánh, nghiệp chẳng phải Thánh; nghiệp hữu lậu, nghiệp vô lậu; nghiệp có ái, nghiệp không có ái; nghiệp có mong cầu, nghiệp không có mong cầu; nghiệp sẽ nhận, nghiệp không phải sẽ nhận; nghiệp có nhận lấy, nghiệp không có nhận lấy; nghiệp có vượt hơn, nghiệp không có vượt hơn; nghiệp thọ, nghiệp chẳng phải thọ; nghiệp trong, nghiệp ngoài; nghiệp có báo, nghiệp không có báo; nghiệp của tâm tương ưng, nghiệp chẳng phải tâm tương ưng; nghiệp của tâm sở, nghiệp của chẳng phải tâm sở; nghiệp duyên, nghiệp không phải duyên; nghiệp của tâm chung, nghiệp của tâm không chung; nghiệp tùy tâm chuyển, nghiệp không tùy tâm chuyển; nghiệp tương ưng với phi nghiệp, phi phi nghiệp tương ưng với phi nghiệp, nghiệp tương ưng, nghiệp chung, nghiệp chẳng phải chung, nghiệp tùy, nghiệp chuyển, nghiệp không tùy nghiệp chuyển, nghiệp nhân, nghiệp chẳng phải nhân, nghiệp có nhân, nghiệp có đầu mối, nghiệp có duyên, nghiệp hữu vi, nghiệp biết, nghiệp chẳng biết, nghiệp thức, nghiệp phi thức, nghiệp giải, nghiệp không phải giải, nghiệp liễu, nghiệp phi liễu, nghiệp dứt trí biết, nghiệp chẳng phải dứt trí biết, nghiệp dứt, nghiệp chẳng phải dứt, nghiệp tu, nghiệp chẳng phải tu, nghiệp chứng, nghiệp không phải chứng, nghiệp giáo, nghiệp không phải giáo, nghiệp thân có giáo có giáo, vô giáo của thân, nghiệp miệng có giáo vô giáo, nghiệp thân, nghiệp miệng, nghiệp ý, nghiệp giới, nghiệp không có giới, nghiệp chẳng phải giới, nghiệp chẳng phải không có giới, nghiệp của giới thân, không có giới, chẳng phải giới, chẳng phải không không có giới, nghiệp của giới miệng, không có giới, chẳng phải giới, chẳng phải không có giới, nghiệp của giới ý, không có giới, chẳng phải giới, không phải không có giới, nghiệp thiện, nghiệp bất thiện, nghiệp vô ký; nghiệp học, nghiệp Vô học, nghiệp phi học, phi Vô học; nghiệp báo, nghiệp của pháp báo, nghiệp chẳng phải báo, chẳng phải pháp báo; nghiệp của kiến đoạn, nghiệp của tư duy đoạn, nghiệp không phải kiến đoạn, nghiệp không phải tư duy đoạn; nghiệp nhân của kiến đoạn, nghiệp nhân của tư duy đoạn, nghiệp nhân không phải kiến đoạn, không phải tư duy đoạn; nghiệp thấp kém, nghiệp ở giữa, nghiệp vượt hơn; nghiệp thô, nghiệp tế, nghiệp vi; nghiệp lạc thọ, nghiệp khổ thọ; nghiệp xả thọ, nghiệp lạc thọ, nghiệp khổ thọ, nghiệp phi khổ, phi lạc thọ, nghiệp hỷ xứ, nghiệp ưu xứ, nghiệp xả xứ, nghiệp hỷ xứ, nghiệp ưu xứ, nghiệp không phải hỷ, không phải ưu xứ, nghiệp hiện pháp thọ, nghiệp sinh thọ, nghiệp hậu thọ, nghiệp cho vui, nghiệp nhổ gốc khổ, nghiệp cho không khổ, không vui, nghiệp quả vui, nghiệp quả Khổ, nghiệp quả không khổ, không vui, nghiệp báo vui, nghiệp báo khổ, nghiệp báo không khổ, không vui, nghiệp quá khứ, nghiệp vị lai, nghiệp hiện tại, nghiệp của cảnh giới quá khứ, nghiệp của cảnh giới vị lai, nghiệp của cảnh giới hiện tại, nghiệp của cảnh giới không phải quá khứ, không phải vị lai, không phải hiện tại, nghiệp lệ thuộc cõi Dục, nghiệp lệ thuộc cõi Sắc, nghiệp lệ thuộc cõi Vô sắc, nghiệp không lệ thuộc.

Bốn nghiệp, bốn nghiệp thọ, năm sợ sệt, năm oán, năm vô gián. Nghiệp năm giới vượt qua năm giới, nhân tham, nghiệp nhân giận dữ, nghiệp nhân si; nghiệp của nhân không tham, nghiệp của nhân không giận dữ, nghiệp của nhân không si; nghiệp hướng đến địa ngục, nghiệp hướng đến súc sinh, nghiệp hướng đến ngạ quỷ, nghiệp hướng đến cõi người, nghiệp hướng đến cõi trời, nghiệp hướng đến Niết-bàn.

Bảy pháp bất thiện, bảy pháp thiện, tám Thánh ngữ, không phải tám Thánh ngữ.

Thân nghiệp, miệng nghiệp ý nghiệp nhân tham; thân nghiệp, miệng nghiệp, ý nghiệp nhân giận dữ; thân nghiệp, miệng nghiệp, ý nghiệp nhân si; thân nghiệp, miệng nghiệp, ý nghiệp. Thân thân nghiệp, miệng nghiệp, ý nghiệp nhân không tham. Thân nghiệp, miệng nghiệp, ý nghiệp nhân không giận dữ; thân nghiệp, miệng nghiệp, ý nghiệp nhân không si.

Mười nghiệp đạo bất thiện, mười nghiệp đường thiện, mười pháp thành tựu, đọa địa ngục nhanh như giáo đâm, mười pháp thành tựu, sinh lên cõi trời, nhanh như giáo đâm, hai mươi pháp thành tựu, đọa địa ngục, nhanh chóng như giáo đâm. Hai mươi pháp thành tựu sanh lên cõi trời nhanh như giáo đâm ba mươi pháp thành tựu, đọa địa ngục nhanh như giáo đâm, ba mươi pháp thành tựu, sinh lên cõi trời, nhanh như giáo đâm; bốn mươi pháp thành tựu, đọa địa ngục nhanh như giáo đâm; bốn mươi pháp thành tựu, sinh lên cõi trời, nhanh như giáo đâm.

Hỏi: Thế nào là nghiệp tư?

Đáp: Ý nghiệp, gọi là nghiệp tư.

Nghiệp tư dĩ là gì?

Đáp: Thân nghiệp, miệng nghiệp, gọi là nghiệp tư dĩ.

Hỏi: Thế nào là nghiệp cố tạo ra?

Đáp: Nếu nghiệp cố ý tạo thì sẽ nhận lãnh báo, gọi là nghiệp cố tạo ra.

Nghiệp không cố tạo là gì?

Đáp: Nếu nghiệp không cố tạo thì sẽ không nhận báo, gọi là nghiệp không cố tạo ra.

Hỏi: Thế nào là nghiệp thọ?

Đáp: Nếu nghiệp có báo gọi là nghiệp thọ.

Thế nào là nghiệp chẳng phải thọ?

Đáp: Nếu nghiệp không có báo, gọi là nghiệp chẳng phải thọ.

Lại nữa, nghiệp thọ, nếu nghiệp có báo và không có báo của tư, gọi là nghiệp thọ.

Lại nữa, nghiệp chẳng phải thọ, nếu nghiệp không có báo của thân nghiệp, miệng nghiệp, gọi là nghiệp chẳng phải thọ.

Hỏi: Thế nào là nghiệp thọ một ít?

Đáp: Nếu nghiệp phải chịu một ít báo thì gọi là nghiệp thọ một ít.

Nghiệp thọ nhiều là gì?

Đáp: Nếu nghiệp không phải chịu một ít báo thì gọi là nghiệp thọ nhiều.

Hỏi: Thế nào là nghiệp thành thục?

Đáp: Nếu nghiệp phải chịu báo gần, gọi là nghiệp thành thục.

Thế nào là nghiệp không phải thành thục?

Đáp: Nếu nghiệp không thọ báo gần, gọi là nghiệp không phải thành thục.

Hỏi: Thế nào là nghiệp sắc?

Đáp: Thân nghiệp, miệng nghiệp, gọi là nghiệp sắc.

Thế nào là nghiệp phi sắc?

Đáp: Ý nghiệp, gọi là nghiệp phi sắc.

Thế nào là nghiệp có thể thấy?

Đáp: Nếu nghiệp thuộc sắc nhập, gọi là nghiệp có thể thấy.

Hỏi: Thế nào là nghiệp không thể thấy?

Đáp: Nếu nghiệp thuộc về pháp nhập, gọi là nghiệp không thể thấy.

Nghiệp có đối là gì?

Đáp: Nếu nghiệp thuộc thanh nhập, sắc nhập, gọi là nghiệp có đối.

Nghiệp không có đối là gì?

Đáp: Nếu nghiệp thuộc về pháp nhập, gọi là nghiệp không có đối.

Hỏi: Thế nào là nghiệp Thánh?

Đáp: Nếu nghiệp vô lậu thì gọi là nghiệp Thánh.

Hỏi: Thế nào là nghiệp chẳng phải Thánh?

Đáp: Nếu nghiệp hữu lậu, gọi là nghiệp chẳng phải Thánh.

Hỏi: Thế nào là nghiệp hữu lậu?

Đáp: Nếu nghiệp có ái, gọi là nghiệp hữu lậu.

Hỏi: Thế nào là nghiệp vô lậu?

Đáp: Nếu nghiệp không có ái, gọi là nghiệp vô lậu.

Nghiệp có ái là sao?

Đáp: Nếu nghiệp có mong cầu, gọi là nghiệp có ái.

Nghiệp không có ái là sao?

Đáp: Nếu nghiệp không có mong cầu, gọi là nghiệp không có ái.

Hỏi: Thế nào là nghiệp có mong cầu?

Đáp: Nếu nghiệp sẽ nhận lấy, gọi là nghiệp có mong cầu.

Hỏi: Thế nào là nghiệp không có mong cầu?

Đáp: Nếu nghiệp không phải sẽ nhận lấy, gọi là nghiệp không có mong cầu.

Nghiệp sẽ nhận lấy là sao?

Đáp: Nếu nghiệp có nhận lấy, gọi là nghiệp sẽ nhận lấy.

Hỏi: Thế nào là nghiệp không phải sẽ nhận lấy?

Đáp: Nếu nghiệp không có nhận lấy, gọi là nghiệp không phải sẽ nhận lấy.

Nghiệp có nhận lấy là sao?

Đáp: Nếu nghiệp có vượt hơn thì gọi là nghiệp có nhận lấy.

Nghiệp không có nhận lấy là thế nào?

Đáp: Nếu nghiệp không có vượt hơn, gọi là nghiệp không có nhận lấy.

Hỏi: Thế nào là nghiệp có vượt hơn?

Đáp: Nếu nghiệp có nhận lấy, gọi là nghiệp có vượt hơn.

Nghiệp không có vượt hơn là sao?

Đáp: Nếu nghiệp không có nhận lấy, gọi là nghiệp không có vượt hơn.

Lại nữa, nghiệp có vượt hơn, nếu nghiệp này là nghiệp hữu dư, tinh đẹp vượt hơn, vượt qua trên, gọi là nghiệp có vượt hơn.

Lại nữa, nghiệp không có vượt hơn, nếu nghiệp này là nghiệp vô dư, tinh đẹp vượt hơn, vượt qua trên, gọi là nghiệp không có vượt hơn.

Hỏi: Thế nào là nghiệp thọ?

Đáp: Nếu nghiệp nội, gọi là nghiệp thọ.

Hỏi: Thế nào là nghiệp chẳng phải thọ?

Đáp: Nếu nghiệp ngoài, gọi là nghiệp chẳng phải thọ.

Nghiệp nội là sao?

Đáp: Nếu nghiệp thọ thì gọi là nghiệp nội.

Nghiệp ngoài là thế nào?

Đáp: Nếu nghiệp chẳng phải thọ, gọi là nghiệp ngoài.

Hỏi: Thế nào là nghiệp có báo?

Đáp: Nếu nghiệp có báo, gọi là nghiệp có báo.

Hỏi: Thế nào là nghiệp không có báo?

Đáp: Nếu nghiệp chẳng phải báo, gọi là nghiệp không có báo.

Hỏi: Thế nào là nghiệp tương ưng của tâm?

Đáp: Nếu tâm sở của nghiệp, gọi là nghiệp tương ưng tâm.

Chẳng phải nghiệp tương ưng của tâm là gì?

Đáp: Nếu nghiệp chẳng phải tâm sở, gọi là nghiệp không tương ưng với tâm.

Hỏi: Thế nào là nghiệp của tâm sở.

Đáp: Nếu nghiệp duyên thì gọi là nghiệp của tâm sở.

Thế nào không phải là nghiệp của tâm sở?

Đáp: Nếu nghiệp chẳng phải duyên, gọi là chẳng phải nghiệp của tâm sở.

Hỏi: Thế nào là nghiệp duyên?

Đáp: Nếu tâm sở của nghiệp, gọi là nghiệp duyên.

Thế nào là chẳng phải nghiệp duyên?

Đáp: Nếu nghiệp chẳng phải tâm sở, gọi là chẳng phải nghiệp duyên.

Hỏi: Thế nào là nghiệp của tâm chung?

Đáp: Nếu nghiệp tùy tâm chuyển, tâm chung sinh, Trụ chung, diệt chung, gọi là nghiệp của tâm chung.

Hỏi: Thế nào là chẳng phải nghiệp của tâm chung?

Đáp: Nếu nghiệp do tâm không chung chuyển tâm không chung sinh, trụ không chung, diệt không chung, gọi là nghiệp của tâm không chung.

Hỏi: Thế nào là nghiệp tùy tâm chuyển?

Đáp: Nếu tâm chung của nghiệp sinh, trụ chung, diệt chung, gọi là Nghiệp tùy tâm chuyển.

Hỏi: Thế nào là nghiệp không tùy tâm chuyển?

Đáp: Nếu nghiệp do tâm không chung sinh, trụ không chung, diệt không chung, gọi là nghiệp không tùy tâm chuyển.

Hỏi: Thế nào là nghiệp tương ưng của chẳng phải nghiệp?

Đáp: Nếu nghiệp không phải tương ưng tư thì gọi nghiệp tương ưng của chẳng phải nghiệp.

Hỏi: Thế nào là tương ưng của chẳng phải nghiệp không phải nghiệp tương ưng của chẳng phải nghiệp?

Đáp: Tư, gọi là tương ưng của chẳng phải nghiệp, không phải là nghiệp tương ưng của chẳng phải nghiệp.

Hỏi: Thế nào là nghiệp chung?

Đáp: Nếu nghiệp tùy nghiệp chuyển, nghiệp chung sinh, trụ chung, diệt chung, gọi là nghiệp chung.

Nghiệp không chung là gì?

Đáp: Nếu nghiệp không tùy nghiệp chuyển, nghiệp không chung sinh, trụ không chung, diệt không chung, gọi là nghiệp không chung.

Hỏi: Thế nào là nghiệp tùy nghiệp chuyển?

Đáp: Nếu nghiệp là nghiệp chung sinh, trụ chung, diệt chung, gọi là nghiệp tùy nghiệp chuyển.

Hỏi: Thế nào là nghiệp không tùy nghiệp chuyển?

Đáp: Nghiệp không chung sinh, trụ không chung, diệt không chung, gọi là nghiệp không tùy nghiệp chuyển.

Hỏi: Thế nào là nghiệp nhân?

Đáp: Nếu nghiệp duyên theo nghiệp, hoặc nghiệp không phải duyên có báo, thì gọi là nghiệp nhân.

Chẳng phải nghiệp nhân là gì?

Đáp: Nếu nghiệp không phải duyên không có báo, thì nghiệp không chung, gọi là nghiệp chẳng phải nhân.

Hỏi: Thế nào là nghiệp có nhân?

Đáp: Nếu nghiệp có đầu mối, gọi là nghiệp có nhân.

Nghiệp có đầu mối là gì?

Đáp: Nếu nghiệp có duyên chuyển nghiệp, hoặc nghiệp là nghiệp chung, gọi là nghiệp có đầu mối.

Hỏi: Thế nào là nghiệp có duyên?

Đáp: Nếu nghiệp hữu vi, gọi là nghiệp có duyên. Nghiệp hữu vi là gì?

Đáp: Nếu nghiệp có duyên, gọi là nghiệp hữu vi.

Hỏi: Thế nào là nghiệp biết?

Đáp: Tất cả nghiệp biết, như sự thấy biết, gọi là nghiệp biết.

Chẳng phải nghiệp biết là gì?

Đáp: Đều là nghiệp biết. Lại nữa, nói tất cả nghiệp chẳng biết, như sự thấy biết, gọi là nghiệp chẳng biết.

Hỏi: Thế nào là nghiệp thức?

Đáp: Ý thức của tất cả nghiệp thức, nhận thức như sự, gọi là nghiệp thức.

Chẳng phải nghiệp thức là gì?

Đáp: Chẳng phải không nghiệp thức. Lại nữa, nói tất cả nghiệp không phải thức, ý thức như sự nhận thức, gọi là nghiệp không phải thức.

Hỏi: Thế nào là nghiệp giải?

Đáp: Như sự thấy biết, gọi là nghiệp giải.

Nghiệp không phải giải là gì?

Đáp: Đều là nghiệp giải. Lại nữa, nói tất cả nghiệp không phải giải, như sự thấy biết, gọi là nghiệp không phải giải.

Hỏi: Thế nào là nghiệp rõ biết?

Đáp: Tất cả nghiệp rõ biết, như sự thấy biết, gọi là nghiệp rõ biết.

Nghiệp không phải rõ biết là gì?

Đáp: Đều là nghiệp rõ biết.

Hỏi: Thế nào là nghiệp dứt trí biết?

Đáp: Nếu nghiệp bất thiện, gọi là nghiệp dứt trí biết.

Nghiệp chẳng phải dứt trí biết là gì?

Đáp: Nếu nghiệp thiện, hoặc vô ký, gọi là nghiệp chẳng phải dứt trí biết.

Hỏi: Thế nào là nghiệp dứt?

Đáp: Nếu nghiệp bất thiện thì gọi là nghiệp dứt.

Nghiệp chẳng phải dứt là gì?

Đáp: Nếu nghiệp thiện, hoặc vô ký, gọi là nghiệp chẳng phải dứt.

Hỏi: Thế nào là nghiệp tu?

Đáp: Nếu nghiệp thiện, đó gọi là nghiệp tu.

Nghiệp không tu là gì?

Đáp: Nếu nghiệp bất thiện, vô ký, đó gọi là nghiệp chẳng phải tu.

Hỏi: Thế nào là nghiệp chứng?

Đáp: Tất cả nghiệp chứng, như sự thấy biết, gọi là nghiệp chứng.

Nghiệp không phải chứng là gì?

Đáp: Đều là nghiệp chứng. Lại nữa, nói tất cả nghiệp không phải chứng, như sự thấy biết, gọi là nghiệp không phải chứng.

Hỏi: Thế nào là nghiệp giáo?

Đáp: Thân nghiệp, miệng nghiệp, gọi là nghiệp giáo.

Hỏi: Thế nào là nghiệp vô giáo?

Đáp: Ý nghiệp, gọi là nghiệp vô giáo.

Nghiệp thân giáo là gì?

Đáp: Nếu thân nghiệp thuộc về sắc nhập thì gọi là nghiệp thân giáo.

Hỏi: Thế nào là nghiệp vô giáo của thân?

Đáp: Nếu thân nghiệp thuộc về pháp nhập, gọi là nghiệp vô giáo của thân.

Nghiệp vô giáo của khẩu là sao?

Đáp: Nếu khẩu nghiệp thuộc về thanh nhập, gọi là nghiệp vô giáo của khẩu.

Hỏi: Thế nào là nghiệp vô giáo của khẩu (miệng)?

Đáp: Nếu miệng nghiệp thuộc về pháp nhập, gọi là nghiệp vô giáo của miệng.

Hỏi: Thế nào là thân nghiệp?

Đáp: Nếu nghiệp không phải duyên, không phải miệng nghiệp, gọi là thân nghiệp.

Hỏi: Thế nào là miệng nghiệp?

Đáp: Nếu nghiệp không phải duyên, không phải thân nghiệp, gọi là miệng nghiệp.

Hỏi: Thế nào là ý nghiệp?

Đáp: Nếu nghiệp duyên, gọi là ý nghiệp.

Hỏi: Thế nào là nghiệp giới?

Đáp: Nếu tâm thiện của nghiệp đã khởi lên thân giáo như đi đến, co duỗi, xoay trở, nhóm họp miệng giáo như tập hợp âm thanh, lời nói, giới của thân, miệng hữu lậu, không có giáo, chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng và khéo tư duy, gọi là nghiệp của giới.

Hỏi: Thế nào là nghiệp không có giới?

Đáp: Nếu nghiệp bất thiện, tâm bất thiện khởi lên thân giáo như đến, đi, co duỗi xoay trở, nhóm họp miệng giáo như tập hợp âm thanh, lời nói, thân, miệng chẳng phải giới, không có giáo, và tư duy bất thiện, gọi là nghiệp không có giới.

Hỏi: Thế nào là chẳng phải giới, chẳng phải nghiệp không có giới?

Đáp: Nếu tâm vô ký của nghiệp đã khởi thân giáo như đến, đi, co, duỗi, xoay trở, nhóm họp khẩu giáo như nhóm hợp âm thanh, lời nói và tư vô ký, gọi là chẳng phảigiới, chẳng phải nghiệp không có giới.

Hỏi: Thế nào là nghiệp của giới thân?

Đáp: Nếu thân nghiệp thiện, tâm thiện lên khởi thân giáo như đến, đi, co, duỗi, xoay trở, giới của thân hữu lậu không là vô giáo, chánh nghiệp, thân, chánh mạng, gọi là nghiệp của giới thân.

Hỏi: Thế nào là nghiệp không có giới của thân?

Đáp: Nếu thân nghiệp bất thiện, tâm bất thiện khởi lên thân giáo như đến, đi, co, duỗi xoay trở, thân chẳng phải giới, không có giáo, gọi là nghiệp không có giới của thân.

Hỏi: Thế nào là thân nghiệp chẳng phải giới, không phải thân nghiệp không có giới?

Đáp: Nếu thân nghiệp vô ký, tâm vô ký khởi lên thân giáo như đến, đi, co duỗi, xoay trở, gọi là thân chẳng phải giới, chẳng phải nghiệp không có giới.

Hỏi: Thế nào là nghiệp của khẩu?

Đáp: Nếu miệng nghiệp thiện, tâm thiện đã khởi nhóm họp miệng giáo như âm thanh, lời nói, giới miệng hữu lậu, không có giáo, miệng chánh ngữ, chánh mạng, gọi là nghiệp giới của khẩu.

Hỏi: Thế nào là nghiệp không có giới của khẩu?

Đáp: Nếu miệng nghiệp bất thiện, tâm bất thiện khởi lên tập hợp nhóm họp miệng giáo như tập hợp âm thanh, lời nói, miệng chẳng phải giới, không có giáo, gọi là nghiệp không có giới của miệng.

Hỏi: Thế nào là miệng chẳng phải giới, chẳng phải nghiệp không có giới?

Đáp: Nếu miệng nghiệp vô ký, tâm vô ký khởi lên nhóm họp miệng giáo như nhóm hợp âm thanh, lời nói, gọi là miệng nghiệp chẳng phải giới, không phải là nghiệp không có giới.

Hỏi: Thế nào là nghiệp của giới ý?

Đáp: Nếu ý nghiệp thiện, tâm thiện tương ưng với tư, gọi là nghiệp của giới ý.

Nghiệp không có giới của ý là gì?

Đáp: Nếu ý nghiệp bất thiện, tâm bất thiện tương ưng với tư, gọi là nghiệp không có giới của ý.

Hỏi: Thế nào là ý chẳng phải giới, chẳng phải nghiệp không có giới?

Đáp: Nếu ý nghiệp vô ký, tâm vô ký tương ưng với tư, gọi là ý chẳng phải giới, không phải nghiệp không có giới.

Hỏi: Thế nào là nghiệp thiện?

Đáp: Nếu nghiệp tu thì gọi là nghiệp thiện.

Nghiệp bất thiện là gì?

Đáp: Nếu nghiệp dứt, gọi là nghiệp bất thiện.

Hỏi: Thế nào là nghiệp vô ký?

Đáp: Nếu nghiệp thọ, hoặc nghiệp chẳng phải báo, chẳng phải pháp báo, gọi là nghiệp vô ký.

Nghiệp học là gì?

Đáp: Nếu nghiệp Thánh phi Vô học, gọi là nghiệp học. Nghiệp Vô học là thế nào?

Đáp: Nếu nghiệp Thánh phi học, gọi là nghiệp Vô học.

Hỏi: Thế nào là nghiệp phi học, phi Vô học?

Đáp: Nếu nghiệp chẳng phải Thánh, gọi là nghiệp phi học, phi Vô học.

Báo nghiệp là sao?

Đáp: Nếu nghiệp thọ, hoặc báo thiện của nghiệp, gọi là báo nghiệp.

Nghiệp pháp báo là thế nào?

Đáp: Nếu nghiệp có báo, gọi là nghiệp pháp báo.

Thế nào là chẳng phải báo, chẳng phải nghiệp pháp báo?

Đáp: Nếu nghiệp vô ký, không thuộc về phần ngã thì gọi là chẳng phải báo, chẳng phải nghiệp pháp báo.

Hỏi: Thế nào là nghiệp của kiến đoạn?

Đáp: Nếu nghiệp bất thiện, không phải tư duy đoạn, gọi là nghiệp của kiến đoạn.

Nghiệp của tư duy đoạn là thế nào?

Đáp: Nếu nghiệp bất thiện, không phải kiến đoạn, gọi là nghiệp của tư duy đoạn.

Thế nào là nghiệp không phải kiến đoạn, không phải tư duy đoạn?

Đáp: Nếu nghiệp thiện, vô ký, gọi là không phải nghiệp kiến đoạn, chẳng phải nghiệp tư duy đoạn.

Hỏi: Thế nào là nghiệp nhân của kiến đoạn?

Đáp: Nếu nghiệp kiến đoạn, hoặc pháp báo của kiến đoạn, gọi là nghiệp nhân của kiến đoạn.

Hỏi: Nghiệp nhân của tư duy đoạn là sao?

Đáp: Nếu là nghiệp của tư duy đoạn, hoặc pháp báo của tư duy đoạn, gọi là nghiệp nhân của tư duy đoạn.

Hỏi: Thế nào là chẳng phải nghiệp nhân của kiến đoạn, chẳng phải nghiệp nhân của tư duy đoạn?

Đáp: Nếu nghiệp thiện, hoặc pháp báo của nghiệp thiện, hoặc báo nghiệp chẳng phải báo, chẳng phải pháp báo, gọi là chẳng phải nghiệp nhân của kiến đoạn, chẳng phải nghiệp nhân của tư duy đoạn.

Hỏi: Nghiệp thấp kém là sao?

Đáp: Nếu nghiệp bất thiện thì gọi là nghiệp thấp kém.

Hỏi: Nghiệp ở giữa là sao?

Đáp: Nếu nghiệp vô ký, gọi là nghiệp ở giữa.

Hỏi: Thế nào là nghiệp vượt hơn?

Đáp: Nếu nghiệp thiện, gọi là nghiệp vượt hơn.

Lại nữa, nghiệp thấp kém, nếu nghiệp bất thiện, vô ký, gọi là nghiệp thấp kém.

Lại nữa, nghiệp chính giữa, hoặc nghiệp chẳng phải Thánh thiện, gọi là nghiệp ở giữa.

Lại nữa, nghiệp vượt hơn, hoặc nghiệp Thánh vô lậu, gọi là nghiệp vượt vượt hơn.

Hỏi: Thế nào là nghiệp thô?

Đáp: Nếu nghiệp lệ thuộc cõi Dục, gọi là nghiệp thô.

Nghiệp tế là gì?

Đáp: Nếu nghiệp lệ thuộc cõi Sắc, hoặc không lệ thuộc, gọi là nghiệp tế.

Hỏi: Thế nào là nghiệp vi?

Đáp: Nếu nghiệp lệ thuộc cõi Vô sắc, gọi là nghiệp vi.

Lại nữa, nghiệp thô, nếu nghiệp lệ thuộc cõi Dục, lệ thuộc cõi Sắc, gọi là nghiệp thô.

Lại nữa, nghiệp tế, nếu nghiệp lệ thuộc Không xứ, Thức xứ, Bất dụng xứ, nếu không lệ thuộc thì gọi là nghiệp tế.

Lại nữa, nghiệp vi, nếu nghiệp lệ thuộc phi tưởng Phi Phi tưởng xứ, gọi là nghiệp vi.

Lại nữa, nghiệp thô, nếu nghiệp lệ thuộc cõi Dục, cõi Sắc, Không xứ, Thức xứ, Bất dụng xứ, gọi là nghiệp thô.

Lại nữa, nghiệp tế, nếu nghiệp không lệ thuộc, gọi là nghiệp tế.

Lại nữa, nghiệp vi, nếu nghiệp lệ thuộc Phi tưởng Phi phi tưởng xứ, gọi là nghiệp vi.

Hỏi: Thế nào là nghiệp lạc thọ?

Đáp: Nếu nghiệp tương ưng với lạc thọ, gọi là nghiệp của lạc thọ.

Hỏi: Thế nào là nghiệp khổ thọ?

Đáp: Nếu nghiệp tương ưng với khổ thọ, gọi là nghiệp của khổ thọ.

Hỏi: Thế nào là nghiệp xả thọ?

Đáp: Nếu nghiệp tương ưng với bất khổ bất lạc thọ, gọi là nghiệp xả thọ.

Nghiệp của lạc thọ là sao?

Đáp: Nếu nghiệp thọ nhận báo vui, gọi là nghiệp lạc thọ.

Hỏi: Thế nào là nghiệp của khổ thọ?

Đáp: Nếu nghiệp chịu báo khổ thì gọi là nghiệp khổ thọ.

Hỏi: Thế nào là nghiệp xả thọ?

Đáp: Nếu nghiệp thọ báo không khổ, không vui, gọi là nghiệp xả thọ.

Hỏi: Nghiệp lạc thọ là thế nào?

Đáp: Trừ nghiệp của khổ thọ, bất khổ bất lạc thọ, còn thì nghiệp khác, nếu thiện có báo thì gọi là nghiệp lạc thọ.

Hỏi: Thế nào là nghiệp khổ thọ?

Đáp: Nếu nghiệp bất thiện thì gọi là nghiệp khổ thọ.

Hỏi: Nghiệp của phi khổ, phi lạc thọ là sao?

Đáp: Trừ nghiệp lạc thọ, khổ thọ, nếu nghiệp khác, gọi là nghiệp phi khổ, phi lạc thọ.

Thế nào là nghiệp của xứ hỷ?

Đáp: Nếu nghiệp phát ra rồi, sinh hỷ, gọi là nghiệp của xứ hỷ.

Hỏi: Thế nào là nghiệp của xứ ưu?

Đáp: Nếu nghiệp phát ra rồi, sinh ưu, gọi là nghiệp của xứ ưu.

Nghiệp của xứ xả là gì?

Đáp: Nếu nghiệp phát rồi, sinh xả, gọi là nghiệp của xứ xả.

Lại nữa, nghiệp của xứ hỷ, trừ nghiệp của xứ xả, còn nghiệp của xứ khác, nếu thiện có báo, gọi là nghiệp của xứ hỷ.

Lại nữa, nghiệp của xứ ưu, nếu là nghiệp bất thiện, gọi là nghiệp của xứ ưu.

Lại nữa, nghiệp của xứ xả, trừ nghiệp của xứ hỷ, còn lại nghiệp, nếu thiện có báo, thì gọi là nghiệp của xứ xả.

Lại nữa, nghiệp của xứ hỷ, nếu nghiệp thiện có báo, gọi là nghiệp của xứ hỷ.

Lại nữa, nghiệp của xứ ưu, nếu nghiệp bất thiện có báo, gọi là nghiệp của xứ ưu.

Lại nữa, không phải xứ hỷ, không phải là nghiệp của xứ ưu, trừ nghiệp xứ hỷ, và xứ ưu, nếu các nghiệp khác, gọi là không phải xứ hỷ, chẳng phải nghiệp của xứ ưu.

Hỏi: Thế nào là nghiệp hiện pháp thọ?

Nếu nghiệp sinh ra phần ngã, hoặc đã tạo ra lớn, nhỏ, thành tựu nghiệp này, thì đối với sự sống ở đây, thân ta sẽ cảm nhận báo lớn, nhỏ, gọi là nghiệp thọ hiện pháp.

Hỏi: Thế nào là nghiệp của sinh thọ?

Đáp: Nếu nghiệp sinh ra phần ngã đã tạo ra lớn, bé, thành tựu báo sinh thọ của nghiệp này, gọi là nghiệp sinh thọ.

Nghiệp của hậu thọ là sao?

Đáp: Nếu nghiệp sinh ra phần của ta, nếu lớn, bé đã tạo ra, thành tựu nghiệp này, báo sinh thọ thứ ba, thứ tư, hoặc nhiều, gọi là nghiệp của hậu thọ.

Hỏi: Thế nào là nghiệp cho vui?

Đáp: Nếu quả của nghiệp cho vui, gọi là nghiệp cho vui.

Nghiệp cho khổ là gì?

Nếu quả của nghiệp cho khổ, gọi là nghiệp cho khổ.

Hỏi: Thế nào là nghiệp không phải cho vui, không phải cho khổ?

Đáp: Trừ nghiệp cho vui, cho khổ, còn nghiệp khác, gọi là nghiệp không phải cho vui, cho khổ.

Hỏi: Thế nào là nghiệp của quả vui?

Đáp: Nếu nghiệp thiện có báo vui, gọi là nghiệp quả vui.

Nghiệp quả khổ là gì?

Đáp: Nếu nghiệp bất thiện, gọi là nghiệp quả khổ.

Hỏi: Thế nào là chẳng phải nghiệp quả vui, chẳng phải nghiệp quả khổ?

Đáp: Trừ nghiệp quả vui, nghiệp quả khổ, còn nghiệp khác gọi là chẳng phải nghiệp quả vui, chẳng phải nghiệp quả khổ.

Hỏi: Thế nào là nghiệp báo vui?

Đáp: Nếu quả vui của nghiệp, gọi là nghiệp báo vui.

Hỏi: Thế nào là nghiệp báo khổ?

Đáp: Nếu quả khổ của nghiệp, gọi là nghiệp báo khổ.

Hỏi: Thế nào là nghiệp báo không phải vui, không phải khổ?

Đáp: Trừ nghiệp báo vui, nghiệp báo khổ, còn nghiệp khác, gọi là chẳng phải nghiệp báo vui, chẳng phải nghiệp báo khổ.

Nghiệp báo vui là gì?

Đáp: Nếu nghiệp thiện có báo thì gọi là nghiệp báo vui.

Hỏi: Thế nào là nghiệp báo khổ?

Đáp: Nếu nghiệp bất thiện, gọi là nghiệp báo khổ.

Nghiệp báo phi lạc, phi khổ là gì?

Đáp: Trừ nghiệp báo vui, nghiệp báo khổ, nếu nghiệp khác, gọi là nghiệp báo phi lạc, phi khổ.

Hỏi: Thế nào là nghiệp quá khứ?

Đáp: Nếu nghiệp sinh rồi diệt, gọi là nghiệp quá khứ.

Hỏi: Thế nào là nghiệp vị lai?

Đáp: Nếu nghiệp chưa sinh, chưa phát ra, gọi là nghiệp vị lai.

Hỏi: Thế nào là nghiệp hiện tại?

Đáp: Nếu nghiệp sinh chưa diệt, gọi là nghiệp hiện tại.

Hỏi: Nghiệp của cảnh giới quá khứ là gì?

Đáp: Tư duy pháp quá khứ, nếu nghiệp sinh, gọi là nghiệp của cảnh giới quá khứ.

Hỏi: Thế nào là nghiệp của cảnh giới vị lai?

Đáp: Tư duy pháp vị lai, nếu nghiệp sinh, gọi là nghiệp của cảnh giới vị lai.

Hỏi: Thế nào là nghiệp của cảnh giới hiện tại?

Đáp: Tư duy pháp hiện tại, nếu nghiệp sinh, gọi là nghiệp của cảnh giới hiện tại.

Hỏi: Thế nào là nghiệp của cảnh giới chẳng phải quá khứ, chẳng phải vị lai, chẳng phải hiện tại?

Đáp: Tư duy không phải quá khứ, không phải vị lai, chẳng phải pháp hiện tại, nếu nghiệp sinh, gọi là nghiệp của cảnh giới không phải quá khứ, không phải vị lai, không phải hiện tại.

Hỏi: Thế nào là nghiệp lệ thuộc cõi Dục?

Đáp: Nếu nghiệp dục lậu, hữu lậu, gọi là nghiệp lệ thuộc cõi Dục.

Nghiệp lệ thuộc cõi Sắc là gì?

Đáp: Nếu nghiệp sắc lậu, hữu lậu, gọi là nghiệp lệ thuộc cõi Sắc.

Hỏi: Thế nào là nghiệp lệ thuộc cõi Vô sắc?

Đáp: Nếu nghiệp vô sắc lậu, hữu lậu, thì sẽ gọi là nghiệp lệ thuộc cõi Vô sắc.

Hỏi: Thế nào là nghiệp không lệ thuộc?

Đáp: Nếu nghiệp Thánh vô lậu, gọi là nghiệp không lệ thuộc.

Hỏi: Thế nào là bốn nghiệp?

Đáp: Nghiệp đen, báo đen; nghiệp trắng, báo trắng; nghiệp đen trắng, báo đen trắng; nghiệp không phải đen, không phải trắng, báo không phải đen, không phải trắng.

Hỏi: Thế nào là nghiệp đen, báo đen?

Đáp: Nếu nghiệp bất thiện có báo thì gọi là nghiệp đen, báo đen.

Nghiệp trắng, báo trắng là gì?

Đáp: Nếu nghiệp thiện có báo, gọi là nghiệp trắng, báo trắng.

Hỏi: Thế nào là nghiệp đen trắng, báo đen trắng?

Đáp: Không có một nghiệp, nếu đen trắng, báo đen trắng. Báo kia, nếu nghiệp đen, báo đen, nếu nghiệp trắng, báo trắng, gọi là nghiệp đen trắng, báo đen trắng.

Hỏi: Thế nào là nghiệp không phải đen, không phải trắng, báo không phải đen, không phải trắng?

Đáp: Nếu bậc Thánh có báo dứt phiền não, gọi là nghiệp không phải đen, không phải trắng, báo không phải đen, không phải trắng.

Nghiệp đen, báo đen là gì?

Đáp: Nếu nghiệp bất thiện có báo, thì nghiệp báo này được gọi là nghiệp đen, báo đen.

Hỏi: Thế nào là nghiệp trắng, báo trắng?

Đáp: Nếu nghiệp thiện có báo, thì nghiệp báo này gọi là nghiệp trắng, báo trắng.

Nghiệp đen trắng, báo đen trắng là gì?

Đáp: Không có một nghiệp đen, trắng, báo đen, trắng. Báo kia, nếu nghiệp đen, báo đen, là nghiệp báo này, nếu nghiệp trắng, báo trắng là nghiệp báo này, gọi là nghiệp đen trắng, báo đen trắng.

Hỏi: Thế nào là nghiệp không phải đen, không phải trắng, báo không phải đen, không phải trắng?

Đáp: Nếu pháp của bậc Thánh có báo, dứt trừ phiền não, gọi là nghiệp chẳng phải đen, trắng, báo không phải đen, trắng.

Nghiệp đen, báo đen là gì?

Đáp: Như Đức Thế tôn nói: Ta chính tự biết, nói bốn nghiệp, bốn nghiệp đó là:

  1. Nghiệp đen, báo đen.
  2. Nghiệp trắng, báo trắng.
  3. Nghiệp đen trắng, báo đen trắng.
  4. Nghiệp không phải đen, không phải trắng, báo không phải đen, không phải trắng. Nghiệp có thể dứt hết nghiệp.

Hỏi: Thế nào là nghiệp đen, báo đen?

Đáp: Nếu người gây ra hành vi của thân không thanh tịnh, tạo nên hành vi của miệng không thanh tịnh, tạo ra hành vi của ý không thanh tịnh, thành tựu nghiệp không thanh tịnh kia thực hành hành vi của thân, miệng, ý không thanh tịnh, đã thành tựu nghiệp không thanh tịnh, đã sinh vào xứ không thanh tịnh, người kia đã sinh vào chốn không thanh tịnh rồi, tiếp xúc với xúc không thanh tịnh, tiếp xúc với xúc không thanh tịnh rồi, thọ nhận thọ không thanh tịnh, hoàn toàn bị khổ ép ngặt, hoàn toàn chịu khổ cháy sém, hoàn toàn bất thiện, hoàn toàn không ái, hỷ, vừa ý, hoàn toàn bị oán ghét, trời, người chẳng hy vọng. Như chúng sinh địa ngục. Chúng sinh này sinh về nơi nào, tùy theo nghiệp đã làm mà sinh, sinh rồi tiếp xúc với xúc. Ta biết chúng sinh do nghiệp cho khổ, gọi là nghiệp đen, báo đen.

Hỏi: Thế nào là nghiệp trắng, báo trắng?

Đáp: Nếu người tạo ra hành vi thân thanh tịnh, tạo ra hành vi miệng thanh tịnh, tạo ra hành vi ý thanh tịnh, thành tựu nghiệp thanh tịnh, thực hành hành vi của thân, miệng, ý thanh tịnh rồi, tạo thành nghiệp thanh tịnh rồi, sinh vào chỗ thanh tịnh, sinh vào chỗ thanh tịnh rồi, tiếp xúc với xúc thanh tịnh, tiếp xúc với xúc thanh tịnh rồi, thọ nhận thọ thanh tịnh, hoàn toàn vui, ái, hỷ, vừa ý, hoàn toàn không bị oán ghét, trời, người, hy vọng ở giống như chúng sinh của trời Biến Tịnh. Nếu chúng sinh sinh về nơi nào, tùy nghiệp đã tạo mà sinh, sinh rồi, tiếp xúc với xúc, ta biết chúng sinh do nghiệp cho vui, gọi là nghiệp trắng, báo trắng.

Hỏi: Thế nào là nghiệp đen trắng, báo đen trắng?

Đáp: Nếu người có thân hành thanh tịnh, không thanh tịnh, thực hành khẩu hạnh thanh tịnh, không thanh tịnh, thực hành ý hạnh thanh tịnh, không thanh tịnh, thành tưụ nghiệp thanh tịnh, không thanh tịnh. Người ấy thực hành hành vi thân, miệng, ý thanh tịnh, không thanh tịnh kia rồi, thành tựu nghiệp thanh tịnh, không thanh tịnh rồi, sinh vào xứ thanh tịnh, không thanh tịnh, sinh vào xứ thanh tịnh, không thanh tịnh rồi, tiếp xúc xúc thanh tịnh, không thanh tịnh, tiếp xúc xúc thanh tịnh, không thanh tịnh rồi, thọ nhận thọ thanh tịnh, không thanh tịnh, thọ xen lẫn khổ, vui, như người, như trời. Nếu chúng sinh sanh về cõi nào đó, tùy nghiệp đã tạo mà sinh, sinh rồi, tiếp xúc với xúc, ta biết chúng sinh do nghiệp cho khổ, vui, gọi là nghiệp đen trắng, báo đen trắng.

Hỏi: Thế nào là nghiệp không phải đen trắng, báo không phải đen trắng.

Đáp: Nghiệp có thể dứt hết nghiệp, nếu nghiệp đen, báo đen, nếu dứt tư, nếu nghiệp trắng, báo trắng, nếu dứt tư, nếu nghiệp đen trắng, thì báo đen trắng, nếu dứt tư, gọi là nghiệp không phải đen trắng, báo không phải đen trắng, nghiệp có thể dứt hết nghiệp, gọi là bốn nghiệp.

Hỏi: Thế nào là bốn nghiệp thọ?

Đáp: Như Đức Thế Tôn nói: Bốn nghiệp thọ, bốn nghiệp ấy là: Nghiệp hữu hiện khổ, báo khổ của hữu sau; nghiệp hữu hiện vui, hữu sau báo khổ; nghiệp hữu hiện khổ, hữu sau báo vui; nghiệp hữu hiện vui, hữu sau báo vui.

Hỏi: Thế nào là nghiệp tho, hiện khổ, báo khổ của hữu sau?

Đáp: Nếu người nhẫn ưu, nhẫn khổ, vì sát sinh duyên sát sinh, nên đã dùng các thứ tâm để chịu nỗi khổ ưu, nhẫn ưu, nhẫn khổ, trộm cắp, tà dâm, nói dối, nói lưỡi đôi chiều, nói lời hung dữ, nói thêu dệt, tham dục, giận dữ, vì tà kiến duyên tà kiến, nên do các thứ tâm thọ nhận khổ ưu, thân tan rã, khi chết, đọa đường ác địa ngục. Đây là hiện khổ của nghiệp thọ, báo khổ của hữu sau.

Hỏi: Thế nào là hiện vui của nghiệp thọ, báo khổ của hữu sau?

Đáp: Nếu người nhẫn hỷ, nhẫn lạc, vì sát sinh duyên sát sinh, nên đã dùng các thứ tâm, tâm để nhận sự mừng, vui, nhẫn mừng, nhẫn vui, trộm cắp, tà dâm, nói dối, nói lưỡi đôi chiều, nói lời hung dữ, nói thêu dệt, tham dục, giận dữ vì tà kiến duyên tà kiến, nên đã dùng các thứ tâm để nhận mừng, vui, khi chết, đọa đường ác địa ngục. Đây là hiện vui của nghiệp thọ, báo khổ của hữu sau.

Hỏi: Thế nào là hiện khổ của nghiệp thọ, báo vui của hữu sau?

Đáp: Nếu người nhẫn ưu, nhẫn khổ, vì không sát sinh duyên không sát sinh, nên đã dùng các thứ tâm để thọ ưu, khổ, nhẫn ưu, nhẫn khổ, không trộm cắp, không tà dâm, không nói dối, không nói lưỡi đôi chiều, không nói lời hung dữ, vì chánh kiến duyên chánh kiến, nên đã dùng các thứ tâm thọ nhận ưu khổ, khi chết sinh đường lành cõi trời. Đây là hiện khổ của nghiệp thọ, báo vui của hữu sau.

Hỏi: Thế nào là hiện vui của nghiệp thọ, báo vui của hữu sau?

Đáp: Nếu người nhẫn mừng, nhẫn vui, vì không sát sinh duyên không sát sinh, nên dùng các thứ tâm để nhận lấy mừng, vui, nhẫn mừng, nhẫn vui, không trộm cắp, không tà dâm, không nói dối, không nói lưỡi đôi chiều, không nói lời hung dữ, không nói thêu dệt, không tham dục, không giận dữ, vì chánh kiến duyên chánh kiến, nên dùng các thứ tâm thọ nhận sự mừng, vui, khi qua đời sẽ sinh lên đường lành cõi trời. Đây là hiện vui của nghiệp thọ, báo vui của hữu sau, gọi là bốn nghiệp thọ.

Hỏi: Thế nào là năm sự sợ?

Nếu vì sát sinh duyên sát sinh, nên thân hiện tại sinh khởi sợ sệt, thân sau sinh sợ sệt. Vì trộm cắp, tà dâm, nói dối, uống rượu, nên thân hiện tại sinh khởi sợ sệt, thân sau sinh sợ sệt, gọi là năm sự sợ sệt.

Hỏi: Thế nào là năm oán?

Đáp: Nếu vì sát sinh duyên sát sinh, nên thân hiện tại sinh khởi thù oán, thân sau sinh oán. Trộm cắp, tà dâm, nói dối, chỗ buông lung uống rượu duyên theo chỗ buông lung uống rượu, nên thân hiện tại sinh thù oán, thân sau sinh oán, gọi là năm oán.

Hỏi: Thế nào là năm vô gián?

Đáp: Vô gián hại mẹ, vô gián hại cha, vô gián hại A-la-hán, vô gián phá hoại Tăng, vô gián với tâm ác làm cho thân Như lai, chảy máu.

Thế nào là vô gián hại mẹ? Nếu mẹ mà nghĩ là mẹ, nên dứt mạng, gọi là vô gián hại mẹ.

Thế nào là vô gián hại cha? Nếu cha mà tưởng là cha, nên dứt mạng, gọi là vô gián hại cha.

Thế nào là vô gián hại A-la-hán? Cố ý dứt mạng của Thanh văn A-la-hán, gọi là vô gián hại A-la-hán.

Thế nào là vô gián phá hoại Tăng? Một mặt, thỉnh bốn Tỳ-kheo, hoặc nhiều, mặt khác, thỉnh bốn Tỳ-kheo, hoặc nhiều, làm thẻ, xướng lịnh, gọi là vô gián phá hoại Tăng.

Thế nào là vô gián đối với thân Như lai? Có tâm ác làm chảy máu? Nếu cố ý với tâm ác làm cho thân Như lai chảy máu, tạo thành nghiệp cho đến gây tổn hại như đầu sợi tóc, gọi là vô gián với tâm ác làm cho thân Như lai chảy máu, gọi là năm vô gián.

Hỏi: Thế nào là năm giới?

Đáp: Không sát sinh, không trộm cắp, không tà dâm, không nói dối, không uống rượu chỗ buông lung, gọi là năm giới.

Hỏi: Thế nào là vượt qua năm giới?

Đáp: Sát sinh, trộm cắp, tà dâm, nói dối, chỗ buông lung uống rượu, gọi là vượt qua năm giới.

Hỏi: Thế nào là nhân nghiệp tham?

Đáp: Nếu nghiệp tham nhân của tham, đầu mối của tham, tập tham duyên thân nghiệp, miệng nghiệp, ý nghiệp, gọi là nhân nghiệp tham.

Hỏi: Thế nào là nhân nghiệp giận dữ?

Đáp: Nghiệp nếu nhân của sự giận dữ, đầu mối của sự giận dữ, gom góp sự giận dữ, sự giận dữ duyên thân nghiệp, miệng nghiệp, ý nghiệp, gọi là nhân nghiệp giận dữ.

Hỏi: Thế nào là nhân nghiệp si?

Đáp: Nếu nghiệp si nhân đầu mối của si, si nhóm hợp si duyên thân nghiệp, miệng nghiệp, ý nghiệp, gọi là nhân nghiệp si.

Hỏi: Thế nào là không tham nhân nghiệp?

Đáp: Nếu không tham nhân đầu mối không tham, nhóm họp không tham, không tham duyên thân nghiệp, miệng nghiệp, ý nghiệp, gọi là không tham nhân nghiệp.

Hỏi: Thế nào là không giận dữ nhân nghiệp?

Đáp: Nếu không giận dữ nhân đầu mối không giận dữ, nhóm hợp không giận dữ, không giận dữ duyên thân nghiệp, miệng nghiệp, ý nghiệp thì gọi là không giận dữ nhân nghiệp.

Không si nhân nghiệp là sao?

Đáp: Nếu không si nhân đầu mối không si, không si gom góp không si, duyên thân nghiệp, miệng nghiệp, ý nghiệp, gọi là không si nhân nghiệp.

Hỏi: Thế nào là hướng về nghiệp địa ngục?

Đáp: Nếu nghiệp bất thiện tăng, có thể khiến cho đọa địa ngục, gọi là hướng về nghiệp địa ngục.

Hỏi: Thế nào là hướng về nghiệp súc sinh?

Đáp: Nếu trong nghiệp thiện bất thiện, có thể khiến đọa vào súc sinh, gọi là hướng về nghiệp súc sinh.

Hỏi: Thế nào là hướng về nghiệp ngạ quỷ?

Đáp: Nếu nghiệp bất thiện yếu, có thể khiến đọa ngạ quỷ, gọi là hướng về nghiệp ngạ quỷ.

Hỏi: Thế nào là hướng về nghiệp người?

Đáp: Nếu nghiệp thiện không tăng, có thể khiến sinh trong loài người, gọi là hướng đến nghiệp người.

Hỏi: Thế nào là hướng đến nghiệp trời?

Đáp: Nếu nghiệp thiện tăng, có thể khiến sinh lên cõi trời, gọi là hướng đến nghiệp trời.

Hỏi: Thế nào là hướng nghiệp Niết-bàn?

Đáp: Nếu nghiệp Thánh có báo, dứt được phiền não, gọi là hướng về nghiệp Niết-bàn.

Hỏi: Thế nào là bảy pháp bất thiện?

Đáp: Sát sinh, trộm cắp, tà dâm, nói dối, nói lưỡi đôi chiều, nói lời hung ác, nói thêu dệt, gọi là bảy pháp bất thiện.

Thế nào là bảy pháp thiện?

Đáp: Không sát sinh, không trộm cắp, không tà dâm, không nói dối, không nói lưỡi đôi chiều, không nói lời hung ác, không nói lời thêu dệt, gọi là bảy pháp thiện.

Hỏi: Thế nào là tám thứ chẳng phải Thánh ngữ?

Đáp: Không thấy nói thấy, thấy nói không thấy, không nghe nói nghe, nghe nói không nghe, không hay nói hay, hay nói không hay, không biết nói biết, biết nói không biết, gọi là tám thứ chẳng phải Thánh ngữ.

Thế nào là tám Thánh ngữ?

Đáp: Không thấy nói không thấy, thấy nói thấy, không nghe nói không nghe, nghe nói nghe, không hay nói không hay, hay nói hay, không biết nói không biết, biết nói biết, gọi là tám thứ Thánh ngữ.

Hỏi: Thế nào là thân nghiệp nhân tham?

Đáp: Nếu thân nghiệp bất thiện nhân tham, không lìa tham, bị tham che lấp tâm, khởi lên thân giáo như đến, đi, co, duỗi, xoay trở, thân chẳng phải giới, không có biểu hiện gọi là thân nghiệp nhân tham.

Hỏi: Thế nào là miệng nghiệp nhân tham?

Đáp: Nếu miệng nghiệp bất thiện, nhân tham, không rời tham, bị tham che lấp tâm, khởi lên nhóm họp miệng giáo như tập hợp âm thanh, lời nói, miệng chẳng phải giới, không có biểu hiện gọi là miệng nghiệp nhân tham.

Hỏi: Thế nào là ý nghiệp nhân tham?

Đáp: Nếu ý nghiệp bất thiện nhân tham, không tham, tham che lấp tâm, tương ưng với tư, gọi là ý nghiệp nhân tham.

Hỏi: Thế nào là thân nghiệp nhân giận dữ?

Đáp: Nếu thân nghiệp bất thiện, nhân giận dữ, không lìa giận dữ, bị sự giận dữ che lấp tâm mà khởi lên thân nghiệp như đến, đi, co, duỗi, xoay trở, thân chẳng phải giới, không có giáo, gọi là thân nghiệp nhân sự giận dữ.

Khẩu nghiệp nhân giận dữ là sao?

Đáp: Nếu miệng nghiệp bất thiện, nhân si, không lìa cơn giận dữ, bị sự giận dữ che lấp tâm, mà tương ưng tư, đó gọi là ý nghiệp nhân giận dữ.

Hỏi: Thế nào là thân nghiệp nhân si mê?

Đáp: Nếu thân nghiệp bất thiện, nhân si không lìa si, bị si che lấp tâm, khởi nhóm họp miệng giáo như gom góp âm thanh, lời nói, miệng chẳng phải giới, không có biểu hiện gọi là miệng nghiệp nhân giận dữ.

Hỏi: Thế nào là ý nghiệp nhân giận dữ?

Đáp: Nếu ý nghiệp bất thiện, nhân si, không lìa si, bị si che lấp

tâm, tương ưng tư, đó gọi là ý nghiệp nhân si.

Hỏi: Thế nào là thân nghiệp nhân si mê?

Đáp: Nếu thân nghiệp bất thiện, nhân si không lìa si. Bị si che lấp tâm, khởi thân giáo như đến, đi, co, duỗi, xoay trở, thân chẳng phải giới, không có biểu hiện gọi là thân nghiệp nhân si?

Miệng nghiệp nhân si là gì?

Đáp: Nếu miệng nghiệp bất thiện nhân si, không rời si, bị si che lấp tâm, đã khởi nhóm họp miệng giáo như tập hợp âm thanh, lời nói, miệng chẳng phải giới, không có biểu hiện gọi là miệng nghiệp nhân si.

Ý nghiệp nhân si là thế nào?

Đáp: Nếu ý nghiệp bất thiện, nhân si, không rời si, bọ si che lấp tâm, tương ưng với tư, gọi là ý nghiệp nhân si.

Hỏi: Thế nào là thân nghiệp nhân không tham?

Đáp: Nếu thân nghiệp thiện nhân không tham, xa lìa tánh tham, không phải tham che lấp tâm, đã khởi thân giáo như đến đi, co, duỗi, xoay trở, giới của thân hữu lậu, không có giáo, gọi là nhân thân nghiệp không tham.

Hỏi: Thế nào là miệng nghiệp nhân không tham?

Đáp: Nếu miệng nghiệp thiện nhân không tham, xa lìa tham, không bị tham che lấp tâm, khởi lên nhóm họp miệng giáo như tập hợp âm thanh, lời nói, miệng giới hữu lậu, không có giáo, gọi là miệng nghiệp nhân không tham.

Ý nghiệp nhân không tham là gì?

Đáp: Nếu ý nghiệp thiện nhân không tham, lìa tham, không bị tham che lấp tâm, tương ưng với tư, gọi là nhân ý nghiệp không tham.

Hỏi: Thế nào là thân nghiệp nhân không giận dữ?

Đáp: Nếu thân nghiệp là thiện, nhân không giận dữ, lìa giận dữ, không bị sự giận dữ che lấp tâm khởi thân giáo như đến, đi, co, duỗi, xoay trở, giới của thân hữu lậu, không có giáo, gọi là thân nghiệp nhân không giận dữ.

Hỏi: Thế nào là miệng nghiệp nhân không giận dữ?

Đáp: Nếu khẩu nghiệp là nhân thiện, không giận dữ, lìa giận dữ, không bị giận dữ che lấp tâm khởi nhóm họp miệng giáo như, tập hợp âm thanh, lời nói, giới của miệng hữu lậu không có giáo, gọi là miệng nghiệp nhân không giận dữ.

Ý nghiệp nhân không giận dữ là sao?

Đáp: Nếu ý nghiệp thiện, nhân không giận dữ, lìa giận dữ không bị giận dữ che lấp tâm, tương ưng với tư, gọi là ý nghiệp nhân không giận dữ.

Hỏi: Thế nào là thân nghiệp nhân không si?

Đáp: Nếu thân nghiệp là thiện, nhân không si, lìa sự ngu si, không bị si che lấp tâm khởi lên thân giáo như đến đi, co duỗi, xoay trở, giới thân hữu lậu, không có giáo, chánh nghiệp thân, chánh mạng, đó gọi là thân nghiệp nhân không si.

Hỏi: Thế nào là miệng nghiệp nhân không si?

Đáp: Nếu miệng nghiệp thiện, nhân không si, lìa si, không bị si che lấp tâm mà khởi nhóm họp miệng giáo như, ngôn ngữ, câu, âm thanh, miệng giới hữu lậu, không có giáo, miệng chánh ngữ, chánh mạng, đó gọi là miệng nghiệp nhân không si.

Ý nghiệp nhân không si là sao?

Đáp: Nếu ý nghiệp thiện, nhân không si, lìa si, chẳng phải si che lấp tâm, tương ưng với tư, gọi là ý nghiệp nhân không si.

Hỏi: Thế nào là mười nghiệp đạo bất thiện?

Đáp: Sát sinh, trộm cắp, tà dâm, nói dối, nói lưỡi đôi chiều, nói lời hung ác, nói lời thêu dệt, tham dục, giận dữ tà kiến, gọi là mười nghiệp đạo bất thiện.

Hỏi: Thế nào là mười nghiệp đường thiện?

Đáp: Không sát sinh, không trộm cắp, không tà dâm, không nói dối, không nói lưỡi đôi chiều, không nói lời hung ác, không nói thêu dệt, không tham dục, không giận dữ, hành chánh kiến, gọi là mười nghiệp đường thiện.

Hỏi: Thế nào là mười pháp làm cho, đọa địa ngục, nhanh như giáo đâm?

Đáp: Sát sinh cho đến tà kiến, là mười pháp làm cho, đọa địa ngục, nhanh như giáo đâm.

Hỏi: Thế nào là mười pháp làm cho được sinh về cõi lành, nhanh như giáo đâm?

Đáp: Không sát sinh, cho đến hành chánh kiến, là mười pháp làm cho, sinh về cõi lành nhanh như giáo đâm.

Hỏi: Thế nào là hai mươi pháp làm cho, đọa địa ngục, nhanh như giáo đâm?

Đáp: Tự sát sinh, xúi người khác sát sinh, cho đến chính mình tà kiến, xúi giục người khác tà kiến, đó gọi là hai mươi pháp làm cho, đọa địa ngục, nhanh như giáo đâm.

Hỏi: Thế nào là hai mươi pháp làm cho, sinh về cõi lành, nhanh như giáo đâm?

Đáp: Tự mình không sát sinh, khuyên người khác không sát sinh, cho đến tự chánh kiến, khuyên người khác thực hành chánh kiến, đó gọi là hai mươi pháp làm cho, sinh về cõi lành, nhanh như giáo đâm.

Hỏi: Thế nào là ba mươi pháp làm cho, đọa địa ngục, nhanh như giáo đâm?

Đáp: Tự sát sinh, bảo người khác sát sinh, khen ngợi sát sinh, cho đến tự tà kiến, bảo kẻ khác tà kiến, ca tụng tà kiến, đó gọi là ba mươi pháp làm cho, đọa địa ngục, nhanh như giáo đâm.

Hỏi: Thế nào là ba mươi pháp làm cho, sinh về đường lành, nhanh như giáo đâm?

Đáp: Tự không sát sinh, khuyên người khác không sát sinh, khen ngợi sự không sát sinh cho đến tự chánh kiến, khuyên người khác chánh kiến, khen ngợi hành chánh kiến, đó gọi là ba mươi pháp làm cho, sinh vào về đường lành, nhanh như giáo đâm.

Hỏi: Thế nào là bốn mươi pháp làm cho, đọa địa ngục, nhanh như giáo đâm?

Đáp: Tự sát sinh, khuyên kẻ khác sát sinh, ca tụng sát sinh, mong muốn ưa sát sinh, cho đến tự tà kiến khuyên người khác tà kiến, khen ngợi tà kiến, nguyện ưa tà kiến, là bốn mươi pháp làm cho, đọa địa ngục, nhanh chóng như giáo đâm.

Hỏi: Thế nào là bốn mươi pháp làm cho, sinh về đường lành, nhanh như giáo đâm?

Đáp: Tự không sát sinh, khuyên người không sát sinh, ca tụng không sát sinh, không mong muốn ưa sát sinh, cho đến tự chánh kiến, khuyên người khác hành chánh kiến, khen ngợi chánh kiến, nguyện ưa hành chánh kiến, đó là bốn mươi pháp tạo thành, sinh về đường lành, nhanh như giáo đâm.