LUẬN XÁ LỢI PHẤT A TỲ ĐÀM
Hán dịch: Đời Diêu Tần, Đại sư Đàm Ma Da Xá, Đàm Ma Quật Đa
Việt dịch: Phật tử Nguyên Huệ

 

QUYỂN 1

Phẩm thứ 1: PHẦN HỎI VỀ NHẬP

Hỏi: Có bao nhiêu nhập?

Đáp: Có mười hai nhập.

Hỏi: Những gì là mười hai nhập?

Đáp: Là sáu nhập trong, sáu nhập ngoài.

Hỏi: Những gì là sáu nhập trong?

Đáp: Là nhãn nhập, nhĩ nhập, tỷ nhập, thiệt nhập, thân nhập, ý nhập. Đó gọi là sáu nhập trong.

Hỏi: Những gì là sáu nhập ngoài?

Đáp: Là sắc nhập, thanh nhập, hương nhập, vị nhập, xúc nhập, pháp nhập. Đó gọi là sáu nhập ngoài.

Như thế sáu nhập trong, sáu nhập ngoài, gọi là mười hai nhập.

Hỏi: Thế nào là nhãn nhập?

Đáp: Nhãn căn gọi là nhãn nhập.

Hỏi: Thế nào là nhãn nhập?

Đáp: Nhãn giới gọi là nhãn nhập.

Hỏi: Thế nào là nhãn nhập?

Đáp: Như mắt (Nhãn) là phần của ngã thâu tóm các sắc tịnh do bốn đại tạo ở quá khứ, hiện tại, vị lai, đó gọi là nhãn nhập.

Hỏi: Thế nào là nhãn nhập?

Đáp: Như mắt là phần của ngã thâu tóm các sắc tịnh ở quá khứ, hiện tại, vị lai, đó gọi là nhãn nhập.

Hỏi: Thế nào là nhãn nhập?

Đáp: Là phần của ngã thâu tóm các sắc đã thấy, sắc nay thấy, sắc sẽ thấy không nhất định. Như mắt là phần của ngã thâu tóm các ánh sáng của sắc đã đến, nay đến, sẽ đến, không nhất định. Đó gọi là nhãn nhập.

Hỏi: Thế nào là nhãn nhập?

Đáp: Như mắt là phần của ngã thâu tóm các sắc đã đối với mắt, nay đối, sẽ đối không nhất định. Nếu mắt không trở ngại, là nhãn nhập, là nhãn căn, nhãn giới. Gọi là ruộng, là vật, là cửa, là chứa cất, là đời, là tịnh, là suối, là biển, là ốc tiêu, là dòng xoáy, là mụt nhọt, là trói buộc, là mắt, là nhập vào phần của ngã, là bờ bên này, là nhập bên trong, mắt thấy sắc. Đó gọi là nhãn nhập.

Nhĩ, tỷ, thiệt, thân nhập cũng như thế.

Hỏi: Thế nào là ý nhập?

Đáp: Ý căn đó gọi là ý nhập.

Hỏi: Thế nào là ý nhập?

Đáp: Thức ấm đó gọi là ý nhập.

Hỏi: Thế nào là ý nhập?

Đáp: Tâm, ý, thức, sáu thức thân, bảy thức giới, đó gọi là ý nhập.

Hỏi: Thế nào là ý nhập?

Đáp: Nếu thức quá khứ, hiện tại, vị lai, trong ngoài, thô tế, hơn kém, xa gần, đó gọi là ý nhập.

Hỏi: Thế nào là sáu thức thân?

Đáp: Là nhãn thức thân, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức thân.

Hỏi: Thế nào là nhãn thức thân?

Đáp: Là duyên nơi mắt, duyên nơi sắc, duyên nơi ánh sáng, duyên nơi tư duy. Do bốn duyên này sinh ra thức, đã sinh, nay sinh, sẽ sinh, không nhất định. Đó gọi là nhãn thức thân.

Hỏi: Thế nào là nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức thân?

Đáp: Là duyên nơi ý, duyên nơi pháp, duyên nơi tư duy. Do ba duyên này nên thức đã sinh, nay sinh, sẽ sinh, không nhất định. Đó gọi là ý thức thân. Đó gọi là sáu thức thân.

Hỏi: Thế nào là bảy thức giới?

Đáp: Là nhãn thức giới, nhĩ, tỷ, thiệt, thân thức giới, ý giới, ý thức giới.

Hỏi: Thế nào là nhãn thức giới?

Đáp: Nếu thức nơi nhãn căn là chủ, đối với cảnh giới của sắc đã sinh, nay sinh, sẽ sinh, không nhất định, đó gọi là nhãn thức giới.

Hỏi: Thế nào là nhĩ, tỷ, thiệt, thân thức giới?

Đáp: Nếu thức nơi thân căn là chủ, đối với cảnh giới của xúc đã sinh, nay sinh, sẽ sinh, không nhất định, đó gọi là thân thức giới.

Hỏi: Thế nào là ý giới?

Đáp: Ý nhận biết pháp, nghĩ về pháp. Như tâm ban đầu đã sinh, nay sinh, sẽ sinh, không nhất định, đó gọi là ý giới.

Hỏi: Thế nào là ý thức giới?

Đáp: Nếu thức tương tợ, không lìa cảnh giới của thức kia và tâm tương tợ khác, đã sinh, nay sinh, sẽ sinh, không nhất định, đó gọi là ý thức giới. Đó gọi là bảy thức giới.

Hỏi: Thế nào là thức quá khứ?

Đáp: Nếu thức đã diệt, đó gọi là thức quá khứ.

Hỏi: Thế nào là thức vị lai?

Đáp: Nếu thức chưa sinh, chưa xuất, đó gọi là thức vị lai.

Hỏi: Thế nào là thức hiện tại?

Đáp: Nếu thức đã sinh chưa diệt, đó gọi là thức hiện tại.

Hỏi: Thế nào là nội thức?

Đáp: Nếu thức thọ nhận, đó gọi là nội thức.

Hỏi: Thế nào là ngoại thức?

Đáp: Nếu thức không thọ nhận, đó gọi là ngoại thức.

Hỏi: Thế nào là thức thô?

Đáp: Nếu thức hệ thuộc cõi dục, đó gọi là thức thô.

Hỏi: Thế nào là thức tế?

Đáp: Nếu thức hệ thuộc cõi sắc, hệ thuộc cõi vô sắc, hoặc không hệ thuộc, đó gọi là thức tế.

Hỏi: Thế nào là thức kém?

Đáp: Nếu thức là bất thiện, là báo của pháp bất thiện. Hoặc thức không phải là báo, không phải là pháp của báo, nhưng không vừa ý. Đó gọi là thức kém.

Hỏi: Thế nào là thức hơn?

Đáp: Nếu thức là thiện, là báo của pháp thiện. Hoặc thức không phải là báo, không phải là pháp của báo, nhưng vừa ý. Đó gọi là thức hơn.

Hỏi: Thế nào là thức xa?

Đáp: Nếu căn của các thức cùng xa, cùng rất xa, không gần, không gần bên, đó gọi là thức xa.

Hỏi: Thế nào là thức gần?

Đáp: Nếu căn của các thức cùng gần, cùng rất gần, gần bên cạnh, đó gọi là thức gần.

Hỏi: Thế nào là sắc nhập?

Đáp: Sắc giới đó gọi sắc nhập.

Hỏi: Thế nào là sắc nhập?

Đáp: Tùy theo hành tướng của sắc, đó gọi là sắc nhập.

Hỏi: Thế nào là sắc nhập?

Đáp: Nếu sắc có thể thấy, có đối, là đối tượng nhận biết của nhãn thức, đó gọi là sắc nhập.

Hỏi: Thế nào là sắc nhập?

Đáp: Nếu pháp nơi nghiệp của sắc nhập là báo do phiền não sinh ra, là phần của ngã thâu tóm nơi thân như sắc tốt, không phải sắc tốt, vẻ tươi đẹp, không phải vẻ tươi đẹp, da đẹp, không phải da đẹp, nghiêm tịnh, không phải nghiêm tịnh, được khởi lên do tâm thiện, bất thiện và vô ký, biểu hiện nơi thân như đi lại, co duỗi, xoay chuyển. Hoặc là các sắc bên ngoài, là đối tượng nhận biết của nhãn thức như màu sắc xanh, vàng, đỏ, trắng, đen, tía, thô tế, dài ngắn, tròn vuông, nước, đất liền, ánh sáng, hình ảnh, khói, mây, sương mù, khí, sáng, tối, cùng các sắc bên ngoài khác đều là đối tượng nhận biết của nhãn thức. Đó gọi là sắc nhập.

Hỏi: Thế nào là thanh nhập?

Đáp: Thanh giới đó gọi là thanh nhập.

Hỏi: Thế nào là thanh nhập?

Đáp: Nếu sắc không thể thấy, có đối, là đối tượng nhận biết của nhĩ thức, đó gọi là thanh nhập.

Hỏi: Thế nào là thanh nhập?

Đáp: Nếu pháp nơi nghiệp của thanh nhập là báo do phiền não sinh ra, là phần của ngã thâu tóm nơi thân như tiếng tốt, tiếng không tốt, các tiếng vi diệu, không phải là các tiếng vi diệu, tiếng hòa nhã, không phải là tiếng hòa nhã, được tập hợp khởi lên do tâm thiện, bất thiện, vô ký, biểu hiện nơi miệng như âm thanh, câu lời, ngôn ngữ. Hoặc là các tiếng bên ngoài, là đối tượng nhận biết của nhĩ thức như tiếng tù và (vỏ ốc), tiếng trống to, tiếng trống nhỏ, tiếng đàn tranh, tiếng đàn sắt, tiếng bạt đồng, tiếng múa, tiếng ca, tiếng kỹ nhạc, tiếng buồn bã, tiếng nam, tiếng nữ, tiếng người, tiếng phi nhân, tiếng chúng sinh, tiếng phi chúng sinh, tiếng đi, tiếng đến, tiếng xúc chạm vào nhau, tiếng gió, tiếng mưa, tiếng nước, tiếng các đại va đập vào nhau, cùng các tiếng bên ngoài khác đều là đối tượng nhận biết của nhĩ thức. Đó gọi là thanh nhập.

Hỏi: Thế nào là hương nhập?

Đáp: Hương giới đó gọi là hương nhập.

Hỏi: Thế nào là hương nhập?

Đáp: Nếu sắc không thể thấy, có đối, là đối tượng nhận biết của tỷ thức, đó gọi là hương nhập.

Hỏi: Thế nào là hương nhập?

Đáp: Nếu pháp nơi nghiệp của hương nhập là báo do phiền não sinh ra, là phần của ngã thâu tóm nơi thân như mùi hương thơm, mùi hương không thơm, mùi hương hòa dịu, không phải mùi hương hòa dịu, mùi hương vừa ý, không phải mùi hương vừa ý. Hoặc là các mùi hương bên ngoài, là đối tượng nhận biết của tỷ thức, như mùi hương của rễ cây, mùi hương của lõi cây, mùi hương của nhựa cây, mùi hương của vỏ cây, mùi hương của hoa, của lá, của quả, mùi hương dễ chịu, không phải mùi hương dễ chịu, cùng các mùi hương bên ngoài khác đều là đối tượng nhận biết của tỷ thức. Đó gọi là hương nhập.

Hỏi: Thế nào là vị nhập?

Đáp: Vị giới đó gọi là vị nhập.

Hỏi: Thế nào là vị nhập?

Đáp: Nếu sắc không thể thấy, có đối, là đối tượng nhận biết của thiệt thức, đó gọi là vị nhập.

Hỏi: Thế nào là vị nhập?

Đáp: Nếu pháp nơi nghiệp của vị nhập là báo do phiền não sinh ra, là phần của ngã thâu tóm nơi thân như lưỡi nếm vị ngọt, chua, đắng, cay, mặn, lạt, nước ép. Hoặc là các vị bên ngoài, là đối tượng nhận biết của thiệt thức như các vị ngọt, chua, đắng, cay, mặn, lạt, nước ép, cùng các vị bên ngoài khác đều là đối tượng nhận biết của thiệt thức. Đó gọi là vị nhập.

Hỏi: Thế nào là xúc nhập?

Đáp: Xúc giới đó gọi là xúc nhập.

Hỏi: Thế nào là xúc nhập?

Đáp: Nếu sắc không thể thấy, có đối, là đối tượng nhận biết của thân thức, đó gọi là xúc nhập.

Hỏi: Thế nào là xúc nhập?

Đáp: Nếu pháp nơi nghiệp của xúc nhập là báo do phiền não sinh ra, là phần của ngã thâu tóm nơi thân như lạnh, nóng, nhẹ, nặng, thô, tế, nhám, trơn, cứng, mềm. Hoặc là các xúc bên ngoài, là đối tượng nhận biết của thân thức như lạnh, nóng, nhẹ, nặng, thô, tế, nhám, trơn, cứng, mềm, cùng các xúc bên ngoài khác đều là đối tượng nhận biết của thân thức. Đó gọi là xúc nhập.

Hỏi: Thế nào là pháp nhập?

Đáp: Pháp giới đó gọi là pháp nhập.

Hỏi: Thế nào là pháp nhập?

Đáp: Là thọ, tưởng, hành ấm. Nếu sắc không thể thấy, không có đối, hoặc là vô vi, đó gọi là pháp nhập.

Hỏi: Thế nào là pháp nhập?

Đáp: Là thọ, tưởng, tư, xúc, tư duy, giác quán, kiến tuệ, giải thoát, không tham, không sân, không si, thuận tín, hối, không hối, vui mừng, tâm tinh tấn, tâm trừ, tín, dục, không phóng dật, niệm, định, tâm xả, sử, nghi, sợ hãi, kiết, sinh, lão tử, mạng, định vô tưởng, đắc quả định diệt tận, thân miệng không phải giới, không biểu hiện, thân miệng giới hữu lậu không biểu hiện, thân hữu lậu tấn, thân hữu lậu trừ, chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng, chánh thân tấn, chánh thân trừ, trí duyên tận, phi trí duyên tận, pháp quyết định trụ duyên, trí xứ không, trí xứ thức, trí xứ bất dụng, trí xứ phi tưởng phi phi tưởng. Đó gọi là pháp nhập.

Hỏi: Trong mười hai nhập có bao nhiêu thứ là sắc, bao nhiêu thứ không phải là sắc?

Đáp: Mười nhập là sắc. Một nhập không phải là sắc. Một nhập gồm hai phần, hoặc là sắc, hoặc không phải là sắc.

Hỏi: Thế nào là mười nhập là sắc?

Đáp: Là nhãn nhập, nhĩ, tỷ, thiệt, thân nhập. Sắc nhập, thanh, hương, vị, xúc nhập. Đó gọi là mười nhập là sắc.

Hỏi: Thế nào là một nhập không phải là sắc?

Đáp: Ý nhập đó gọi là một nhập không phải là sắc.

Hỏi: Thế nào là một nhập gồm hai phần, hoặc là sắc, hoặc không phải là sắc?

Đáp: Pháp nhập đó gọi là một nhập gồm hai phần, hoặc là sắc, hoặc không phải là sắc.

Hỏi: Thế nào là pháp nhập là sắc?

Đáp: Là thân miệng không phải giới, không biểu hiện, thân miệng giới hữu lậu, không biểu hiện, thân hữu lậu tấn, thân hữu lậu trừ, chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng, chánh thân tấn, chánh thân trừ. Đó gọi là pháp nhập là sắc.

Hỏi: Thế nào là pháp nhập không phải là sắc?

Đáp: Là thọ, tưởng, cho đến định diệt tận. Trí duyên tận cho đến trí xứ phi tưởng phi phi tưởng. Đó gọi là pháp nhập không phải là sắc.

Hỏi: Trong mười hai nhập có bao nhiêu thứ có thể thấy, bao nhiêu thứ không thể thấy?

Đáp: Một nhập có thể thấy. Mười một nhập không thể thấy.

Hỏi: Thế nào là một nhập có thể thấy?

Đáp: Sắc nhập đó gọi là một nhập có thể thấy.

Hỏi: Thế nào là mười một nhập không thể thấy?

Đáp: Chín nhập là sắc còn lại, ý nhập và pháp nhập, đó gọi là mười một nhập không thể thấy.

Hỏi: Trong mười hai nhập có bao nhiêu thứ có đối, bao nhiêu thứ không có đối?

Đáp: Mười nhập có đối. Hai nhập không có đối.

Hỏi: Thế nào là mười nhập có đối?

Đáp: Mười nhập là sắc, đó gọi là mười nhập có đối.

Thế nào là hai nhập không có đối?

Ý nhập, pháp nhập, đó gọi là hai nhập không có đối.

Hỏi: Trong mười hai nhập có bao nhiêu thứ là thánh, bao nhiêu thứ không phải là thánh?

Đáp: Mười nhập không phải là thánh. Hai nhập gồm hai phần, hoặc là thánh, hoặc không phải là thánh.

Hỏi: Thế nào là mười nhập không phải là thánh?

Đáp: Mười nhập là sắc, đó gọi là mười nhập không phải là thánh.

Hỏi: Thế nào là hai nhập gồm hai phần, hoặc là thánh, hoặc không phải là thánh?

Đáp: Ý nhập, pháp nhập, đó gọi là hai nhập gồm hai phần, hoặc là thánh, hoặc không phải là thánh.

Hỏi: Thế nào là ý nhập không phải là thánh?

Đáp: Nếu ý nhập hữu lậu, đó gọi là ý nhập không phải là thánh.

Hỏi: Thế nào là ý nhập không phải là thánh?

Đáp: Nếu ý thức là thọ ấm, đó gọi là ý nhập không phải là thánh.

Hỏi: Thế nào là ý nhập không phải là thánh?

Đáp: Nếu ý nhập là phi học phi vô học, từ nhãn thức cho đến ý thức, đó gọi là ý nhập không phải là thánh.

Hỏi: Thế nào là ý nhập là thánh?

Đáp: Nếu ý nhập vô lậu, đó gọi là ý nhập là thánh.

Hỏi: Thế nào là ý nhập là thánh?

Đáp: Nếu ý nhập là tín căn tương ưng với ý giới, ý thức giới, đó gọi là ý nhập là thánh.

Hỏi: Thế nào là ý nhập là thánh?

Đáp: Nếu ý nhập là học, vô học. Người học đã lìa kiết sử, tâm Thánh nhập đạo Thánh. Nếu là kiên tín, kiên pháp cùng người nơi nẻo khác thấy rõ lỗi lầm của hành, quán Niết-bàn vắng lặng, quán như thật về khổ tập diệt đạo, chưa được muốn được, chưa hiểu muốn hiểu, chưa chứng muốn chứng, lìa phiền não, tu đạo. Người kiến học như Tu-đà-hoàn, Tư-đà-hàm, A-na-hàm, trí quán đầy đủ, hoặc trí địa, hoặc quán tâm giải thoát, tức chứng quả Samôn, hoặc quả Tu-đà-hoàn, quả Tư-đà-hàm, quả A-na-hàm. Người vô học muốn đắc quả A-la-hán, chưa được pháp Thánh muốn được, trí quán đầy đủ, hoặc trí địa, hoặc quán tâm giải thoát, tức đắc quả A-la-hán. Nếu là người thật, hoặc là nẻo, hoặc ý giới, hoặc ý thức giới. Đó gọi là ý nhập là thánh.

Hỏi: Thế nào là pháp nhập không phải là thánh?

Đáp: Nếu pháp nhập hữu lậu, đó gọi là pháp nhập không phải là thánh.

Hỏi: Thế nào là pháp nhập không phải là thánh?

Đáp: Là thọ thọ ấm, tưởng thọ ấm, hành thọ ấm. Như sắc không thể thấy, không có đối, hữu lậu. Như không phải vô vi của Thánh. Đó gọi là pháp nhập không phải là thánh.

Hỏi: Thế nào là pháp nhập không phải là thánh?

Đáp: Là pháp nhập phi học phi vô học, từ thọ, tưởng cho đến định vô tưởng. Bốn sắc đầu không phải là bảy vô vi của Thánh. Đó gọi là pháp nhập không phải là thánh.

Hỏi: Thế nào là pháp nhập là thánh?

Đáp: Nếu pháp nhập vô lậu, đó gọi là pháp nhập là thánh.

Hỏi: Thế nào là pháp nhập là thánh?

Đáp: Nếu tín căn và tâm số pháp tương ưng với tín căn, như pháp vô lậu không duyên, đó gọi là pháp nhập là thánh.

Thế nào là pháp nhập là thánh?

Nếu pháp nhập là học, vô học. Người học đã lìa kiết sử,

tâm Thánh nhập đạo Thánh. Nếu là kiên tín, kiên pháp và người nơi nẻo khác, thấy được lỗi lầm của hành tác, quán Niết-bàn vắng lặng, quán như thật về khổ tập diệt đạo, chưa được muốn được, chưa hiểu muốn hiểu, chưa chứng muốn chứng, lìa phiền não tu đạo. Người kiến học như Tu-đà-hoàn, Tư-đà-hàm, A-na-hàm, trí quán đầy đủ, hoặc trí địa, hoặc quán tâm giải thoát, tức chứng quả Sa-môn, hoặc quả Tuđà-hoàn, quả Tư-đà-hàm, quả A-na-hàm. Người vô học muốn đắc quả A-la-hán, chưa được pháp Thánh muốn được, trí quán đầy đủ, hoặc trí địa, hoặc quán tâm giải thoát, tức chứng quả A-la-hán. Nếu là người thật, hoặc là nẻo, hoặc thọ, tưởng, tư, xúc, tư duy, giác quán, kiến tuệ giải thoát, không si, thuận tín, vui mừng, tâm tinh tấn, tâm trừ, tín, dục, không phóng dật, niệm, định, tâm xả, được quả định diệt tận, chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng, chánh thân tấn, chánh thân trừ, trí duyên tận quyết định. Đó gọi là pháp nhập là thánh.

Hỏi: Trong mười hai nhập có bao nhiêu thứ là hữu lậu, bao nhiêu thứ là vô lậu?

Đáp: Mười nhập là hữu lậu. Hai nhập gồm hai phần, hoặc là hữu lậu, hoặc là vô lậu.

Hỏi: Thế nào là mười nhập là hữu lậu?

Đáp: Mười nhập là sắc, đó gọi là mười nhập là hữu lậu.

Hỏi: Thế nào là hai nhập gồm hai phần, hoặc là hữu lậu, hoặc là vô lậu?

Đáp: Là ý nhập, pháp nhập, đó gọi là hai nhập gồm hai phần, hoặc là hữu lậu, hoặc là vô lậu.

Hỏi: Thế nào là ý nhập là hữu lậu?

Đáp: Nếu ý nhập là có ái, đó gọi là ý nhập là hữu lậu.

Hỏi: Thế nào là ý nhập là hữu lậu?

Đáp: Nếu thức là thọ ấm, đó gọi là ý nhập là hữu lậu.

Hỏi: Thế nào là ý nhập là hữu lậu?

Đáp: Ý nhập là phi học phi vô học, từ nhãn thức cho đến ý thức, đó gọi là ý nhập là hữu lậu.

Hỏi: Thế nào là ý nhập là vô lậu?

Đáp: Nếu ý nhập không có ái, đó gọi là ý nhập là vô lậu.

Hỏi: Thế nào là ý nhập là vô lậu?

Đáp: Nếu ý nhập là tín căn tương ưng với ý giới, ý thức giới, đó gọi là ý nhập là vô lậu.

Hỏi: Thế nào là ý nhập là vô lậu?

Đáp: Nếu ý nhập là học, vô học. Người học lìa kiết sử, cho đến tức chứng quả A-la-hán. Nếu là người thật, hoặc cõi, hoặc ý giới, ý thức giới. Đó gọi là ý nhập là vô lậu.

Hỏi: Thế nào là pháp nhập là hữu lậu?

Đáp: Nếu pháp nhập là có ái, đó gọi là pháp nhập là hữu lậu.

Hỏi: Thế nào là pháp nhập là hữu lậu?

Đáp: Là thọ thọ ấm, tưởng thọ ấm, hành thọ ấm. Như sắc không thể thấy, không có đối, có ái. Đó gọi là pháp nhập là hữu lậu.

Hỏi: Thế nào là pháp nhập là hữu lậu?

Đáp: Nếu pháp nhập là phi học phi vô học, từ thọ tưởng cho đến định vô tưởng, là bốn sắc đầu, đó gọi là pháp nhập là hữu lậu.

Hỏi: Thế nào là pháp nhập là vô lậu?

Đáp: Nếu pháp nhập không có ái, đó gọi là pháp nhập là vô lậu.

Thế nào là pháp nhập là vô lậu?

Nếu là tín căn, tâm số pháp tương ưng với tín căn, như

pháp không duyên, không ái, đó gọi là pháp nhập là vô lậu.

Hỏi: Thế nào là pháp nhập là vô lậu?

Đáp: Nếu pháp nhập là học, hoặc vô học, hoặc vô vi. Người học lìa kiết sử, cho đến tức chứng quả A-la-hán. Nếu là người thật, hoặc cõi, thọ, tưởng, tư, xúc, tư duy, giác quán, kiến tuệ giải thoát, không si, thuận tín, tâm vui mừng, tâm tinh tấn, trừ, tín, dục, không phóng dật, niệm, định, tâm xả, đắc quả định diệt tận, chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng, chánh thân tấn, chánh thân trừ, trí duyên tận, phi trí duyên tận, pháp quyết định trụ duyên, trí xứ không, trí xứ thức, trí xứ bất dụng và trí xứ phi tưởng phi phi tưởng. Đó gọi là pháp nhập là vô lậu.

Có ái, không ái; có cầu, không cầu; nên nhận lấy, không nên nhận lấy; có giữ lấy, không giữ lấy; có hơn, không có hơn cũng như thế.

Hỏi: Trong mười hai nhập có bao nhiêu thứ là thọ, bao nhiêu thứ không phải là thọ?

Đáp: Năm nhập là thọ. Bảy nhập gồm hai phần, hoặc là thọ, hoặc không phải là thọ.

Hỏi: Thế nào là năm nhập là thọ?

Đáp: Là nhãn nhập, nhĩ, tỷ, thiệt, thân nhập, đó gọi là năm nhập là thọ.

Hỏi: Thế nào là bảy nhập gồm hai phần, hoặc là thọ, hoặc không phải là thọ?

Đáp: Là sắc nhập, thanh, hương, vị, xúc nhập, ý nhập, pháp nhập, đó gọi là bảy nhập gồm hai phần, hoặc là thọ, hoặc không phải là thọ.

Hỏi: Thế nào là sắc nhập là thọ?

Đáp: Nếu sắc nhập là trong, đó gọi là sắc nhập là thọ.

Hỏi: Thế nào là sắc nhập là thọ?

Đáp: Nếu pháp nơi nghiệp của sắc nhập là báo do phiền não sinh ra, là phần của ngã thâu tóm nơi thân như sắc tốt, không phải sắc tốt, vẻ tươi đẹp, không phải vẻ tươi đẹp, da đẹp, không phải da đẹp, nghiêm tịnh, không phải nghiêm tịnh, nếu được tâm thọ nhận khởi lên, biểu hiện nơi thân như co duỗi, đi lại, xoay chuyển. Đó gọi là sắc nhập là thọ.

Hỏi: Thế nào là sắc nhập không phải là thọ?

Đáp: Nếu sắc nhập là ngoài, đó gọi là sắc nhập không phải là thọ.

Hỏi: Thế nào là sắc nhập không phải là thọ?

Đáp: Nếu sắc nhập là thiện, bất thiện, vô ký, không phải là phần của ngã thâu tóm như tâm thiện, tâm bất thiện, không phải là báo, không phải là pháp báo, được tâm khởi lên, biểu hiện nơi thân như co duỗi, đi lại, xoay chuyển, hoặc như sắc bên ngoài là đối tượng nhận biết của nhãn thức. Đó gọi là sắc nhập không phải là thọ.

Hỏi: Thế nào là thanh nhập là thọ?

Đáp: Nếu thanh nhập là trong, đó gọi là thanh nhập là thọ.

Hỏi: Thế nào là thanh nhập là thọ?

Đáp: Nếu pháp nơi nghiệp của thanh nhập là báo do phiền não sinh ra, là phần của ngã thâu tóm nơi thân như tiếng tốt, không phải tiếng tốt, các thứ tiếng hay, không phải các thứ tiếng hay, tiếng hòa dịu, không phải tiếng hòa dịu, được tâm thọ nhận khởi lên, biểu hiện nơi miệng như âm thanh, câu lời, ngôn ngữ. Đó gọi là thanh nhập là thọ.

Thế nào là thanh nhập không phải là thọ?

Nếu thanh nhập là ngoài, đó gọi là thanh nhập không phải là thọ.

Hỏi: Thế nào là thanh nhập không phải là thọ?

Đáp: Nếu thanh nhập là thiện, bất thiện, vô ký, không phải là phần của ngã thâu tóm như tâm thiện, tâm bất thiện, không phải là báo, không phải là pháp báo, được tâm tập hợp khởi lên, biểu hiện nơi miệng như âm thanh, ngôn ngữ, hoặc như tiếng bên ngoài là đối tượng nhận biết của nhĩ thức. Đó gọi là thanh nhập không phải là thọ.

Hỏi: Thế nào là hương nhập là thọ?

Đáp: Nếu hương nhập là trong, đó gọi là hương nhập là thọ.

Hỏi: Thế nào là hương nhập là thọ?

Đáp: Nếu pháp nơi nghiệp của hương nhập là báo do phiền não sinh ra, là phần của ngã thâu tóm nơi thân như hương tốt, không phải hương tốt, hương hòa dịu, không phải hương hòa dịu, hương vừa ý, không phải hương vừa ý. Đó gọi là hương nhập là thọ.

Hỏi: Thế nào là hương nhập không phải là thọ?

Đáp: Nếu hương nhập là ngoài, là đối tượng nhận biết của tỷ thức, như hương của rễ cây, hương của lõi cây, hương của nhựa cây, hương của vỏ cây, hương của lá, của hoa, của quả, hương thơm dễ chịu, không phải hương thơm dễ chịu, và hương bên ngoài khác đều là đối tượng nhận biết của tỷ thức. Đó gọi là hương nhập không phải là thọ.

Hỏi: Thế nào là vị nhập là thọ?

Đáp: Nếu vị nhập là trong, đó gọi là vị nhập là thọ.

Hỏi: Thế nào là vị nhập là thọ?

Đáp: Nếu pháp nơi nghiệp của vị nhập là báo do phiền não sinh ra, là phần của ngã thâu tóm nơi thân như nếm vị ngọt, chua, đắng, cay, mặn, lạt, nước miếng, nước dãi. Đó gọi là vị nhập là thọ.

Hỏi: Thế nào là vị nhập không phải là thọ?

Đáp: Nếu vị nhập là ngoài, là đối tượng nhận biết của thiệt thức như ngọt, chua, đắng, cay, mặn, lạt, nước, nước ép, và vị bên ngoài khác đều là đối tượng nhận biết của thiệt thức. Đó gọi là vị nhập không phải là thọ.

Hỏi: Thế nào là xúc nhập là thọ?

Đáp: Nếu xúc nhập là trong, đó gọi là xúc nhập là thọ.

Hỏi: Thế nào là xúc nhập là thọ?

Đáp: Nếu pháp nơi nghiệp của xúc nhập là báo do phiền não sinh ra, là phần của ngã thâu tóm nơi thân như lạnh, nóng, nhẹ, nặng, thô, tế, nhám, trơn, cứng, mềm. Đó gọi là xúc nhập là thọ.

Hỏi: Thế nào là xúc nhập không phải là thọ.

Đáp: Nếu xúc nhập là ngoài, là đối tượng nhận biết của thân thức như lạnh, nóng, nặng, nhẹ, thô, tế, nhám, trơn, cứng, mềm, và xúc bên ngoài khác là đối tượng nhận biết của thân thức. Đó gọi là xúc nhập không phải là thọ.

Hỏi: Thế nàp là ý nhập là thọ?

Đáp: Nếu ý nhập là trong, đó gọi là ý nhập là thọ.

Hỏi: Thế nào là ý nhập là thọ?

Đáp: Nếu pháp nơi nghiệp của ý nhập là báo do phiền não sinh ra, là phần của ngã thâu tóm, từ nhãn thức cho đến ý thức, đó gọi là ý nhập là thọ.

Hỏi: Thế nào là ý nhập không phải là thọ?

Đáp: Nếu ý nhập là ngoài, đó gọi là ý nhập không phải là thọ.

Thế nào là ý nhập không phải là thọ?

Nếu ý nhập là thiện, bất thiện, vô ký, không phải là phần

của ngã thâu tóm từ nhãn thức cho đến ý thức, đó gọi là ý nhập không phải là thọ.

Hỏi: Thế nào là pháp nhập là thọ?

Đáp: Nếu pháp nhập là trong, đó gọi là pháp nhập là thọ.

Hỏi: Thế nào là pháp nhập là thọ?

Đáp: Nếu pháp nơi nghiệp của pháp nhập là báo do phiền não sinh ra, là phần của ngã thâu tóm như thọ, tưởng, tư, xúc, tư duy, giác quán, kiến tuệ giải thoát, hối, không hối, vui mừng, tâm tấn, tín, dục, niệm, sợ hãi, sinh mạng, thân hữu lậu tấn. Đó gọi là pháp nhập là thọ.

Hỏi: Thế nào là pháp nhập không phải là thọ?

Đáp: Nếu pháp nhập là ngoài, đó gọi là pháp nhập không phải là thọ.

Hỏi: Thế nào là pháp nhập không phải là thọ?

Đáp: Nếu pháp nhập là thiện, bất thiện, vô ký, không phải là phần của ngã thâu tóm trừ mạng và pháp nhập khác là không phải thọ. Đó gọi là pháp nhập không phải là thọ. Trong, ngoài cũng như thế.

Hỏi: Trong mười hai nhập có bao nhiêu thứ là có báo, bao nhiêu thứ là không có báo?

Đáp: Tám nhập là không có báo. Bốn nhập gồm hai phần, hoặc là có báo, hoặc là không có báo.

Hỏi: Thế nào là tám nhập là không có báo?

Đáp: Nhãn nhập, nhĩ nhập, tỷ nhập, thiệt nhập, thân nhập, hương nhập, vị nhập, xúc nhập, đó gọi là tám nhập là không có báo.

Thế nào là bốn nhập gồm hai phần, hoặc là có báo, hoặc là không có báo?

Đáp: Sắc nhập, thanh nhập, ý nhập, pháp nhập, đó gọi là bốn nhập gồm hai phần, hoặc là có báo, hoặc là không có báo.

Hỏi: Thế nào là sắc nhập là có báo?

Đáp: Nếu sắc nhập là pháp báo, đó gọi là sắc nhập là có báo.

Hỏi: Thế nào là sắc nhập là có báo?

Đáp: Nếu sắc nhập là tâm thiện, bất thiện, được tâm thiện, bất thiện tập hợp khởi lên, biểu hiện nơi thân như đi đến, co duỗi, xoay chuyển. Đó gọi là sắc nhập là có báo.

Hỏi: Thế nào là sắc nhập là không có báo?

Đáp: Nếu sắc nhập là báo, hoặc là sắc nhập không phải là báo, đều không phải là pháp báo, như sắc tốt của thân, không phải sắc tốt của thân, dáng tươi đẹp, không phải dáng tươi đẹp, vẻ bên ngoài đẹp đẽ, không phải vẻ bên ngoài đẹp đẽ, nghiêm tịnh, không phải nghiêm tịnh, do tâm vô ký tập hợp khởi lên, biểu hiện nơi thân như đi đến, co duỗi, xoay chuyển, hoặc là sắc bên ngoài là đối tượng nhận biết của nhãn thức. Đó gọi là sắc nhập là không có báo.

Hỏi: Thế nào là thanh nhập là có báo?

Đáp: Nếu thanh nhập là pháp báo, đó gọi là thanh nhập là có báo.

Hỏi: Thế nào là thanh nhập là có báo?

Đáp: Nếu thanh nhập là tâm thiện, bất thiện, do tâm thiện, bất thiện tập hợp khởi lên, biểu hiện nơi miệng như âm thanh, ngôn ngữ. Đó gọi là thanh nhập là có báo.

Hỏi: Thế nào là thanh nhập là không có báo?

Đáp: Nếu thanh nhập là báo, hoặc thanh nhập không phải là báo, đều không phải là pháp báo, như tiếng tốt của thân, không phải tiếng tốt của thân, các thứ tiếng tốt, không phải các thứ tiếng tốt, tiếng hòa dịu, không phải tiếng hòa dịu, do tâm vô ký tập hợp khởi lên, biểu hiện nơi miệng như âm thanh, ngôn ngữ, hoặc là tiếng bên ngoài là đối tượng nhận biết của nhĩ thức. Đó gọi là thanh nhập là không có báo.

Hỏi: Thế nào là ý nhập là có báo?

Đáp: Nếu ý nhập là pháp báo, đó gọi là ý nhập là có báo.

Hỏi: Thế nào là ý nhập là có báo?

Đáp: Trừ báo thiện của ý nhập, là ý giới, ý thức giới thiện, bất thiện của ý nhập khác. Đó gọi là ý nhập là có báo.

Hỏi: Thế nào là ý nhập là không có báo?

Đáp: Nếu ý nhập là báo, hoặc ý nhập không phải là báo, đều không phải là pháp báo, từ nhãn thức cho đến ý thức. Đó gọi là ý nhập là không có báo.

Hỏi: Thế nào là pháp nhập là có báo?

Đáp: Nếu pháp nhập là pháp báo, đó gọi là pháp nhập là có báo.

Hỏi: Thế nào là pháp nhập là có báo?

Đáp: Trừ báo thiện của pháp nhập, là hữu vi thiện của pháp nhập khác, hoặc tưởng, thọ bất thiện, cho đến phiền não kiết sử, tất cả sắc của hai pháp nhập nhất định. Đó gọi là pháp nhập là có báo.

Hỏi: Thế nào là pháp nhập là không có báo?

Đáp: Nếu pháp nhập là báo, hoặc pháp nhập không phải là báo, đều không phải là pháp báo, trừ không tham, không giận, không si, kiết sử, phiền não, thân miệng không phải giới, không biểu hiện, pháp nhập còn lại là không có báo. Đó gọi là pháp nhập là không có báo.

Trong mười hai nhập có bao nhiêu thứ là tâm, bao nhiêu

thứ không phải là tâm?

Đáp: Một nhập là tâm. Mười một nhập không phải là tâm.

Hỏi: Thế nào là một nhập là tâm?

Đáp: Ý nhập đó gọi là một nhập là tâm.

Hỏi: Thế nào là mười một nhập không phải là tâm?

Đáp: Trừ ý nhập, còn lại là nhập không phải là tâm.

Hỏi: Trong mười hai nhập có bao nhiêu thứ là tâm tương ưng, bao nhiêu thứ không phải là tâm tương ưng?

Đáp: Mười nhập không phải là tâm tương ưng. Một nhập không nói là tâm tương ưng, không phải là tâm tương ưng. Một nhập gồm hai phần, hoặc là tâm tương ưng, hoặc không phải là tâm tương ưng.

Hỏi: Thế nào là mười nhập không phải là tâm tương ưng?

Đáp: Mười nhập là sắc, đó gọi là mười nhập không phải là tâm tương ưng.

Hỏi: Thế nào là một nhập không nói là tâm tương ưng, không phải là tâm tương ưng?

Đáp: Ý nhập đó gọi là là một nhập không nói là tâm tương ưng, không phải là tâm tương ưng.

Hỏi: Thế nào là một nhập gồm hai phần, hoặc là tâm tương ưng, hoặc không phải là tâm tương ưng?

Đáp: Pháp nhập đó gọi là một nhập gồm hai phần, hoặc là tâm tương ưng, hoặc không phải là tâm tương ưng.

Hỏi: Thế nào là pháp nhập là tâm tương ưng?

Đáp: Nếu tâm số của pháp nhập là thọ, tưởng, cho đến phiền não sử, đó gọi là pháp nhập là tâm tương ưng.

Hỏi: Thế nào là pháp nhập không phải là tâm tương ưng?

Đáp: Nếu pháp nhập không phải do tâm sinh ra, cho đến trí của xứ phi tưởng phi phi tưởng, đó gọi là pháp nhập không phải là tâm tương ưng.

Hỏi: Trong mười hai nhập có bao nhiêu thứ là tâm số, bao nhiêu thứ không phải là tâm số?

Đáp: Mười một nhập không phải là tâm số. Một nhập gồm hai phần, hoặc là tâm số, hoặc không phải là tâm số.

Hỏi: Thế nào là mười một nhập không phải là tâm số?

Đáp: Mười nhập là sắc và ý nhập, đó gọi là mười một nhập không phải là tâm số.

Hỏi: Thế nào là một nhập gồm hai phần, hoặc là tâm số, hoặc không phải là tâm số?

Đáp: Pháp nhập đó gọi là một nhập gồm hai phần, hoặc là tâm số, hoặc không phải là tâm số.

Hỏi: Thế nào là pháp nhập là tâm số?

Đáp: Nếu pháp nhập có duyên nơi thọ, tưởng, cho đến phiền não sử, đó gọi là pháp nhập là tâm số.

Hỏi: Thế nào là pháp nhập không phải là tâm số?

Đáp: Nếu pháp nhập không có duyên sinh, cho đến trí của xứ phi tưởng phi phi tưởng, đó gọi là pháp nhập không phải là tâm số.

Hỏi: Trong mười hai nhập có bao nhiêu thứ là duyên, bao nhiêu thứ không phải là duyên?

Đáp: Một nhập là duyên. Mười nhập không phải là duyên. Một nhập gồm hai phần, hoặc là duyên, hoặc không phải là duyên.

Thế nào là một nhập là duyên?

Đáp: Ý nhập đó gọi là một nhập là duyên.

Hỏi: Thế nào là mười nhập không phải là duyên?

Đáp: Mười nhập là sắc, đó gọi là mười nhập không phải là duyên.

Hỏi: Thế nào là một nhập gồm hai phần, hoặc là duyên, hoặc không phải là duyên?

Đáp: Pháp nhập đó gọi là một nhập gồm hai phần, hoặc là duyên, hoặc không phải là duyên.

Hỏi: Thế nào là pháp nhập là duyên?

Đáp: Nếu pháp nhập là tâm số, là thọ, tưởng, cho đến phiền não sử, đó gọi là pháp nhập là duyên.

Hỏi: Thế nào là pháp nhập không phải là duyên?

Đáp: Nếu pháp nhập không phải do tâm số sinh, cho đến trí của xứ phi tưởng phi phi tưởng, đó gọi là pháp nhập không phải là duyên.

Hỏi: Trong mười hai nhập có bao nhiêu thứ là tâm chung, bao nhiêu thứ không phải là tâm chung?

Đáp: Mười một nhập không phải là tâm chung. Một nhập gồm hai phần, hoặc là tâm chung, hoặc không phải là tâm chung.

Hỏi: Thế nào là mười một nhập không phải là tâm chung?

Đáp: Mười nhập là sắc và ý nhập, đó gọi là mười một nhập không phải là tâm chung.

Hỏi: Thế nào là một nhập gồm hai phần, hoặc là tâm chung, hoặc không phải là tâm chung?

Đáp: Pháp nhập đó gọi là một nhập gồm hai phần, hoặc là tâm chung, hoặc không phải là tâm chung.

Hỏi: Thế nào là pháp nhập là tâm chung?

Đáp: Nếu pháp nhập tùy tâm chuyển thì tâm chung sinh, cùng trụ, cùng diệt, từ thọ tưởng cho đến phiền não sử, thân miệng giới hữu lậu, không biểu hiện, thân hữu lậu tấn, thân hữu lậu trừ, chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng, chánh thân tấn, chánh thân trừ. Đó gọi là pháp nhập là tâm chung.

Hỏi: Thế nào là pháp nhập không phải là tâm chung?

Đáp: Nếu pháp nhập không tùy tâm chuyển thì tâm không chung sinh, không cùng trụ, không cùng diệt sinh, cho đến trí của xứ phi tưởng phi phi tưởng. Đó gọi là pháp nhập không phải là tâm chung.

Tùy tâm chuyển, không tùy tâm chuyển cũng như thế.

Hỏi: Trong mười hai nhập có bao nhiêu thứ là nghiệp, bao nhiêu thứ không phải là nghiệp?

Đáp: Chín nhập không phải là nghiệp. Ba nhập gồm hai phần, hoặc là nghiệp, hoặc không phải là nghiệp.

Hỏi: Thế nào là chín nhập không phải là nghiệp?

Đáp: Nhãn nhập, nhĩ nhập, tỷ nhập, thiệt nhập, thân nhập, ý nhập, hương nhập, vị nhập, xúc nhập, đó gọi là chín nhập không phải là nghiệp.

Hỏi: Thế nào là ba nhập gồm hai phần, hoặc là nghiệp, hoặc không phải là nghiệp?

Đáp: Sắc nhập, thanh nhập, pháp nhập, đó gọi là ba nhập gồm hai phần, hoặc là nghiệp, hoặc không phải là nghiệp.

Hỏi: Thế nào là sắc nhập là nghiệp?

Đáp: Nếu tâm thiện, tâm bất thiện, tâm vô ký được tập hợp khởi lên, biểu hiện nơi thân như đi lại, co duỗi, xoay chuyển. Đó gọi là sắc nhập là nghiệp.

Thế nào là sắc nhập không phải là nghiệp?

Đáp: Là sắc tốt của thân, không phải sắc tốt của thân, dáng tươi đẹp, không phải dáng tươi đẹp, vẻ bên ngoài đẹp đẽ, không phải vẻ bên ngoài đẹp đẽ, nghiêm tịnh, không phải nghiêm tịnh, hoặc là sắc bên ngoài là đối tượng nhận biết của nhãn thức. Đó gọi là sắc nhập không phải là nghiệp.

Hỏi: Thế nào là thanh nhập là nghiệp?

Đáp: Nếu tâm thiện, tâm bất thiện, tâm vô ký được tập hợp khởi lên, biểu hiện nơi miệng như âm thanh, ngôn ngữ. Đó gọi là thanh nhập là nghiệp.

Hỏi: Thế nào là thanh nhập không phải là nghiệp?

Đáp: Là tiếng tốt của thân, không phải tiếng tốt của thân, các tiếng vi diệu, không phải các tiếng vi diệu, tiếng hòa dịu, không phải tiếng hòa dịu, hoặc là tiếng bên ngoài là đối tượng nhận biết của nhĩ thức. Đó gọi là thanh nhập không phải là nghiệp.

Hỏi: Thế nào là pháp nhập là nghiệp?

Đáp: Là tư, thân miệng không phải giới, không biểu hiện, giới của thân miệng hữu lậu, không biểu hiện, chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng. Đó gọi là pháp nhập là nghiệp.

Hỏi: Thế nào là pháp nhập không phải là nghiệp?

Đáp: Trừ tư, thân miệng không phải giới, không biểu hiện, giới của thân miệng hữu lậu, không biểu hiện, chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng, pháp nhập còn lại không phải là nghiệp. Đó gọi là pháp nhập không phải là nghiệp.

Hỏi: Trong mười hai nhập có bao nhiêu thứ tương ưng với nghiệp, bao nhiêu thứ không tương ưng với nghiệp?

Đáp: Một nhập tương ưng với nghiệp. Mười nhập không tương ưng với nghiệp. Một nhập gồm ba phần, hoặc tương ưng với nghiệp, hoặc không tương ưng với nghiệp, hoặc không nói là tương ưng với nghiệp, không tương ưng với nghiệp.

Hỏi: Thế nào là một nhập tương ưng với nghiệp?

Đáp: Ý nhập đó gọi là một nhập tương ưng với nghiệp.

Hỏi: Thế nào là mười nhập không tương ưng với nghiệp?

Đáp: Mười nhập là sắc, đó gọi là mười nhập không tương ưng với nghiệp.

Hỏi: Thế nào là một nhập gồm ba phần, hoặc tương ưng với nghiệp, hoặc không tương ưng với nghiệp, hoặc không nói là tương ưng với nghiệp, không tương ưng với nghiệp?

Đáp: Pháp nhập đó gọi là một nhập gồm ba phần, hoặc tương ưng với nghiệp, hoặc không tương ưng với nghiệp, hoặc không nói là tương ưng với nghiệp, không tương ưng với nghiệp.

Hỏi: Thế nào là pháp nhập tương ưng với nghiệp?

Đáp: Nếu pháp nhập tương ưng với tư, trừ tư, còn lại từ thọ, tưởng cho đến phiền não sử, đó gọi là pháp nhập tương ưng với nghiệp.

Hỏi: Thế nào là pháp nhập không tương ưng với nghiệp?

Đáp: Nếu pháp nhập không phải do tương ưng với tư sinh ra, cho đến trí của xứ phi tưởng phi phi tưởng, đó gọi là pháp nhập không tương ưng với nghiệp.

Hỏi: Thế nào là pháp nhập không nói tương ưng với nghiệp, không tương ưng với nghiệp?

Đáp: Tư đó gọi là pháp nhập không nói tương ưng với nghiệp, không tương ưng với nghiệp.

Hỏi: Trong mười hai nhập có bao nhiêu thứ là cộng nghiệp, bao nhiêu thứ không phải là cộng nghiệp?

Đáp: Một nhập là cộng nghiệp. Mười nhập không phải là cộng nghiệp. Một nhập gồm hai phần, hoặc là cộng nghiệp, hoặc không phải là cộng nghiệp.

Hỏi: Thế nào là một nhập là cộng nghiệp?

Đáp: Ý nhập đó gọi là một nhập là cộng nghiệp.

Hỏi: Thế nào là mười nhập không phải là cộng nghiệp?

Đáp: Mười nhập là sắc, đó gọi là mười nhập không phải là cộng nghiệp.

Hỏi: Thế nào là một nhập gồm hai phần, hoặc là cộng nghiệp, hoặc không phải là cộng nghiệp?

Đáp: Pháp nhập đó gọi là một nhập gồm hai phần, hoặc là cộng nghiệp, hoặc không phải là cộng nghiệp.

Hỏi: Thế nào là pháp nhập là cộng nghiệp?

Đáp: Nếu pháp nhập tùy nghiệp chuyển, do cộng nghiệp sinh, cùng trụ, cùng diệt, tâm thọ tưởng định, tư, xúc, cho đến sử phiền não, định vô tưởng, định diệt tận, giới của thân miệng hữu lậu, không biểu hiện, thân hữu lậu tấn, thân hữu lậu trừ (khinh an), chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng, chánh thân tấn, chánh thân trừ. Đó gọi là pháp nhập là cộng nghiệp.

Hỏi: Thế nào là pháp nhập không phải là cộng nghiệp?

Đáp: Nếu pháp nhập không tùy nghiệp chuyển, không do cộng nghiệp sinh, không cùng trụ, không cùng diệt, tâm tư không nhất định, sinh, lão tử, mạng, kiết, đắc quả, thân miệng không phải giới, không biểu hiện, giới của thân miệng hữu lậu, không biểu hiện, thân hữu lậu tấn nơi chín vô vi. Đó gọi là pháp nhập không phải là cộng nghiệp.

Tùy nghiệp chuyển, không tùy nghiệp chuyển cũng như thế.

Trong mười hai nhập có bao nhiêu thứ là nhân, bao nhiêu

thứ không phải là nhân?

Đáp: Một nhập là nhân. Bảy nhập không phải là nhân. Bốn nhập gồm hai phần, hoặc là nhân, hoặc không phải là nhân.

Hỏi: Thế nào là một nhập là nhân?

Đáp: Ý nhập đó gọi là một nhập là nhân.

Hỏi: Thế nào là bảy nhập không phải là nhân?

Đáp: Nhãn nhập, nhĩ nhập, tỷ nhập, thiệt nhập, thân nhập, hương nhập, vị nhập, đó gọi là bảy nhập không phải là nhân.

Hỏi: Thế nào là bốn nhập gồm hai phần, hoặc là nhân, hoặc không phải là nhân?

Đáp: Sắc nhập, thanh nhập, xúc nhập, pháp nhập, đó gọi là bốn nhập gồm hai phần, hoặc là nhân, hoặc không phải là nhân.

Hỏi: Thế nào là sắc nhập là nhân?

Đáp: Nếu sắc nhập là pháp báo, đó gọi là sắc nhập là nhân.

Hỏi: Thế nào là sắc nhập là nhân?

Đáp: Nếu sắc nhập là thiện, bất thiện, nếu tâm thiện, tâm bất thiện được tập hợp khởi lên, biểu hiện nơi thân như đi lại, co duỗi, xoay chuyển. Đó gọi là sắc nhập là nhân.

Hỏi: Thế nào là sắc nhập không phải là nhân?

Đáp: Nếu sắc nhập là báo, hoặc là sắc nhập không phải là báo, đều không phải là pháp báo, như sắc tốt của thân, không phải sắc tốt của thân, đoan nghiêm, không phải đoan nghiêm, vẻ bên ngoài đẹp đẽ, không phải vẻ bên ngoài đẹp đẽ, nghiêm tịnh, không phải nghiêm tịnh, tâm vô ký được khởi lên, biểu hiện nơi thân như đi lại, co duỗi, xoay chuyển, hoặc là sắc bên ngoài là đối tượng nhận biết của nhãn thức. Đó gọi là sắc nhập không phải là nhân.

Hỏi: Thế nào là thanh nhập là nhân?

Đáp: Nếu thanh nhập là pháp báo, đó gọi là thanh nhập là nhân.

Hỏi: Thế nào là thanh nhập là nhân?

Đáp: Nếu thanh nhập là thiện, bất thiện, nếu tâm thiện, tâm bất thiện được tập hợp khởi lên, biểu hiện nơi miệng như âm thanh, ngôn ngữ. Đó gọi là thanh nhập là nhân.

Hỏi: Thế nào là thanh nhập không phải là nhân?

Đáp: Nếu thanh nhập là báo, hoặc thanh nhập không phải là báo, đều không phải là pháp báo, như tiếng tốt của thân, không phải tiếng tốt của thân, các tiếng đẹp, không phải các tiếng đẹp, tiếng hòa dịu, không phải tiếng hòa dịu, tâm vô ký được tập hợp khởi lên, biểu hiện nơi miệng như âm thanh, ngôn ngữ, hoặc là tiếng bên ngoài là đối tượng nhận biết của nhĩ thức. Đó gọi là thanh nhập không phải là nhân.

Hỏi: Thế nào là xúc nhập là nhân?

Đáp: Là bốn đại: Địa đại, thủy đại, phong đại, hỏa đại, đó gọi là xúc nhập là nhân.

Hỏi: Thế nào là xúc nhập không phải là nhân?

Đáp: Trừ bốn đại, các pháp của xúc nhập khác, đó gọi là xúc nhập không phải là nhân.

Hỏi: Thế nào là pháp nhập là nhân?

Đáp: Pháp nhập là duyên, hoặc pháp nhập không phải là duyên, có báo, trừ đắc quả, các pháp nhập khác không phải là duyên nơi báo thiện, từ thọ, tưởng, cho đến phiền não sử, hai định kiết, tất cả sắc.

Đó gọi là pháp nhập là nhân.

Thế nào là pháp nhập không phải là nhân?

Đáp: Nếu pháp nhập duyên nơi nhập không có báo, không do cộng nghiệp sinh, lão tử, mạng, đắc quả, thân hữu lậu tấn, chín vô vi. Đó gọi là pháp nhập không phải là nhân.

Hỏi: Trong mười hai nhập có bao nhiêu thứ là có nhân, bao nhiêu thứ là không có nhân?

Đáp: Mười một nhập là có nhân. Một nhập gồm hai phần, hoặc là có nhân, hoặc là không có nhân.

Hỏi: Thế nào là mười một nhập là có nhân?

Đáp: Mười nhập là sắc và ý nhập, đó gọi là mười một nhập là có nhân.

Hỏi: Thế nào là một nhập gồm hai phần, hoặc là có nhân, hoặc là không có nhân?

Đáp: Pháp nhập đó gọi là một nhập gồm hai phần, hoặc là có nhân, hoặc là không có nhân.

Hỏi: Thế nào là pháp nhập là có nhân?

Đáp: Nếu pháp nhập có đầu mối là thọ, tưởng, cho đến chánh thân trừ, đó gọi là pháp nhập là có nhân.

Hỏi: Thế nào là pháp nhập là không có nhân?

Đáp: Nếu pháp nhập không có đầu mối, trí duyên tận, cho đến trí của xứ phi tưởng phi phi tưởng, đó gọi là pháp nhập là không có nhân.

Có đầu mối, không có đầu mối, có nhân, không có nhân, có duyên, không có duyên, hữu vi, vô vi cũng như thế.

Hỏi: Trong mười hai nhập có bao nhiêu thứ là nhận biết, bao nhiêu thứ là không nhận biết?

Đáp: Tất cả đều nhận biết, như sự thấy biết.

Hỏi: Trong mười hai nhập có bao nhiêu thứ là thức, bao nhiêu thứ không phải là thức?

Đáp: Tất cả đều là thức, ý thức, như sự thấy biết.

Hỏi: Trong mười hai nhập có bao nhiêu thứ là hiểu, bao nhiêu thứ không phải là hiểu?

Đáp: Tất cả đều là hiểu, như sự thấy biết.

Hỏi: Trong mười hai nhập có bao nhiêu thứ là tỏ rõ, bao nhiêu thứ không phải là tỏ rõ?

Đáp: Tất cả đều là tỏ rõ, như sự thấy biết.

Hỏi: Trong mười hai nhập có bao nhiêu thứ là đoạn trí nhận biết, bao nhiêu thứ không phải là đoạn trí nhận biết?

Đáp: Tám nhập không phải là đoạn trí nhận biết. Bốn nhập gồm hai phần, hoặc là đoạn trí nhận biết, hoặc không phải là đoạn trí nhận biết.

Hỏi: Thế nào là tám nhập không phải là đoạn trí nhận biết?

Đáp: Nhãn nhập, nhĩ nhập, tỷ nhập, thiệt nhập, thân nhập, hương nhập, vị nhập, xúc nhập, đó gọi là tám nhập không phải là đoạn trí nhận biết.

Hỏi: Thế nào là bốn nhập gồm hai phần, hoặc là đoạn trí nhận biết, hoặc không phải là đoạn trí nhận biết?

Đáp: Sắc nhập, thanh nhập, ý nhập, pháp nhập, đó gọi là bốn nhập gồm hai phần, hoặc là đoạn trí nhận biết, hoặc không phải là đoạn trí nhận biết.

Hỏi: Thế nào là sắc nhập đoạn trí nhận biết?

Đáp: Nếu sắc nhập là bất thiện, tâm bất thiện đã tập hợp khởi lên, biểu hiện nơi thân như đi đến, co duỗi, xoay chuyển, đó gọi là sắc nhập là đoạn trí nhận biết.

Thế nào là sắc nhập không phải là đoạn trí nhận biết?

Đáp: Nếu sắc nhập là thiện, vô ký, sắc tốt của thân, không phải sắc tốt của thân, vẻ bên ngoài tươi đẹp, không phải vẻ bên ngoài tươi đẹp, nghiêm tịnh, không phải nghiêm tịnh. Nếu tâm thiện, hoặc tâm vô ký đã tập hợp khởi lên, biểu hiện nơi thân như đi đến, co duỗi, xoay chuyển. Hoặc là sắc bên ngoài là đối tượng nhận biết của nhãn thức. Đó gọi là sắc nhập không phải là đoạn trí nhận biết.

Hỏi: Thế nào là thanh nhập là đoạn trí nhận biết?

Đáp: Nếu thanh nhập là bất thiện, tâm bất thiện đã tập hợp khởi lên, biểu hiện nơi miệng như âm thanh, ngôn ngữ, đó gọi là thanh nhập là đoạn trí nhận biết.

Hỏi: Thế nào là thanh nhập không phải là đoạn trí nhận biết?

Đáp: Nếu thanh nhập là thiện, vô ký, tiếng tốt của thân, không phải tiếng tốt của thân, các thứ tiếng đẹp, không phải các thứ tiếng đẹp, tiếng hòa dịu, không phải tiếng hòa dịu. Nếu tâm thiện, hoặc tâm vô ký đã tập hợp khởi lên, biểu hiện nơi miệng như âm thanh, ngôn ngữ. Hoặc là tiếng bên ngoài, là đối tượng nhận biết của nhĩ thức. Đó gọi là thanh nhập không phải là đoạn trí nhận biết.

Hỏi: Thế nào là ý nhập là đoạn trí nhận biết?

Đáp: Nếu ý nhập là ý giới, ý thức giới bất thiện, đó gọi là ý nhập là đoạn trí nhận biết.

Hỏi: Thế nào là ý nhập không phải là đoạn trí nhận biết?

Đáp: Nếu ý nhập là thiện, hoặc vô ký, từ nhãn thức cho đến ý thức, đó gọi là ý nhập không phải là đoạn trí nhận biết.

Hỏi: Thế nào là pháp nhập là đoạn trí nhận biết?

Đáp: Nếu pháp nhập là bất thiện, thọ, tưởng, tư, xúc, tư duy, giác quán, kiến tuệ giải thoát, hối, không hối, tâm vui mừng, tấn, tín, dục, niệm, nghi, sợ, phiền não sử, kiết, thân miệng không phải giới, không biểu hiện, thân hữu lậu tấn. Đó gọi là pháp nhập là đoạn trí nhận biết.

Hỏi: Thế nào là pháp nhập không phải là đoạn trí nhận biết?

Đáp: Trừ kiết sử, thân miệng không phải giới, không biểu hiện, còn lại pháp nhập khác không phải đoạn trí nhận biết. Đó gọi là pháp nhập không phải là đoạn trí nhận biết.

Đoạn, không phải đoạn cũng như thế.

Hỏi: Trong mười hai nhập có bao nhiêu thứ là tu, bao nhiêu thứ không phải là tu?

Đáp: Tám nhập không phải là tu. Bốn nhập gồm hai phần, hoặc là tu, hoặc không phải là tu.

Hỏi: Thế nào là tám nhập không phải là tu?

Đáp: Nhãn nhập, nhĩ nhập, tỷ nhập, thiệt nhập, thân nhập, hương nhập, vị nhậo, xúc nhập, đó gọi là tám nhập không phải là tu.

Hỏi: Thế nào là bốn nhập gồm hai phần, hoặc là tu, hoặc không phải là tu?

Đáp: Sắc nhập, thanh nhập, ý nhập, pháp nhập, đó gọi là bốn nhập gồm hai phần, hoặc là tu, hoặc không phải là tu.

Hỏi: Thế nào là sắc nhập là tu?

Đáp: Nếu sắc nhập là thiện, tâm thiện đã tập hợp khởi lên, biểu hiện nơi thân như đi đến, co duỗi, xoay chuyển, đó gọi là sắc nhập là tu.

Hỏi: Thế nào là sắc nhập không phải là tu?

Đáp: Nếu sắc nhập là bất thiện, hoặc vô ký, như sắc tốt của thân, không phải sắc tốt của thân, đoan nghiêm, không phải đoan nghiêm, vẻ bên ngoài tươi đẹp, không phải vẻ bên ngoài tươi đẹp, nghiêm tịnh, không phải nghiêm tịnh. Nếu tâm bất thiện, hoặc tâm vô ký đã tập hợp khởi lên, biểu hiện nơi thân như đi đến, co duỗi, xoay chuyển. Hoặc là sắc bên ngoài là đối tượng nhận biết của nhãn thức. Đó gọi là sắc nhập không phải là tu.

Hỏi: Thế nào là thanh nhập là tu?

Đáp: Nếu thanh nhập là thiện, tâm thiện đã tập hợp khởi lên, biểu hiện nơi miệng như âm thanh, ngôn ngữ, đó gọi là thanh nhập là tu.

Hỏi: Thế nào là thanh nhập không phải là tu?

Đáp: Nếu thanh nhập là bất thiện, hoặc vô ký, như tiếng tốt của thân, không phải tiếng tốt của thân, các thứ tiếng vi diệu, không phải các thứ tiếng vi diệu, tiếng hòa dịu, không phải tiếng hòa dịu. Nếu tâm bất thiện, hoặc tâm vô ký đã tập hợp khởi lên, biểu hiện nơi miệng như âm thanh, ngôn ngữ. Hoặc là tiếng bên ngoài là đối tượng nhận biết của nhĩ thức. Đó gọi là thanh nhập không phải là tu.

Hỏi: Thế nào là ý nhập là tu?

Đáp: Nếu ý nhập là ý giới, ý thức giới thiện, đó gọi là ý nhập là tu.

Hỏi: Thế nào là ý nhập không phải là tu?

Đáp: Nếu ý nhập là bất thiện, hoặc vô ký, từ nhãn thức cho đến ý thức, đó gọi là ý nhập không phải là tu.

Hỏi: Thế nào là pháp nhập là tu?

Đáp: Nếu pháp nhập là thiện, từ thọ tưởng cho đến tâm xả, định vô tưởng, đắc quả định diệt tận, thân miệng giới hữu lậu, không biểu hiện, thân hữu lậu tấn, thân hữu lậu trừ, chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng, chánh thân tấn, chánh thân trừ, trí duyên tận quyết định.

Đó gọi là pháp nhập là tu.

Hỏi: Thế nào là pháp nhập không phải là tu?

Đáp: Nếu pháp nhập là bất thiện, hoặc vô ký, thọ, tưởng, tư, xúc, tư duy, giác quán, kiến tuệ giải thoát, hối, không hối, tâm vui mừng, tấn, tín, dục, niệm, nghi, sợ, phiền não sử, sinh, lão tử, mạng, kiết, thân miệng không phải giới, không biểu hiện, thân hữu lậu tấn, không phải bảy vô vi của Thánh. Đó gọi là pháp nhập không phải là tu.

Hỏi: Trong mười hai nhập có bao nhiêu thứ là chứng, bao nhiêu thứ không phải là chứng?

Đáp: Tất cả là chứng, như sự thấy biết.

Hỏi: Trong mười hai nhập có bao nhiêu thứ là thiện, bao nhiêu thứ là bất thiện, bao nhiêu thứ là vô ký?

Đáp: Tám nhập là vô ký. Bốn nhập gồm ba phần, hoặc là thiện, hoặc là bất thiện, hoặc là vô ký.

Hỏi: Thế nào là tám nhập là vô ký?

Đáp: Nhãn nhập, nhĩ nhập, tỷ nhập, thiệt nhập, thân nhập, hương nhập, vị nhập, xúc nhập, đó gọi là tám nhập là vô ký.

Hỏi: Thế nào là bốn nhập gồm ba phần, hoặc là thiện, hoặc là bất thiện, hoặc là vô ký?

Đáp: Sắc nhập, thanh nhập, ý nhập, pháp nhập, đó gọi là bốn nhập gồm ba phần, hoặc là thiện, hoặc là bất thiện, hoặc là vô ký.

Hỏi: Thế nào là sắc nhập là thiện?

Đáp: Nếu sắc nhập là tâm tu thiện đã tập hợp khởi lên, biểu hiện nơi thân như đi đến, co duỗi, xoay chuyển, đó gọi là sắc nhập là thiện.

Hỏi: Thế nào là sắc nhập là bất thiện?

Đáp: Nếu sắc nhập tùy theo tâm bất thiện khởi lên, biểu hiện nơi thân như đi đến, co duỗi, xoay chuyển, đó gọi là sắc nhập là bất thiện.

Thế nào là sắc nhập là vô ký?

Đáp: Nếu sắc nhập là thọ, hoặc là sắc nhập không phải là báo, không phải là pháp báo. Sắc tốt của thân, không phải sắc tốt của thân, đoan nghiêm, không phải đoan nghiêm, vẻ bên ngoài tươi đẹp, không phải vẻ bên ngoài tươi đẹp, nghiêm tịnh, không phải nghiêm tịnh, tâm vô ký đã tập hợp khởi lên, biểu hiện nơi thân như đi đến, co duỗi, xoay chuyển. Hoặc là sắc bên ngoài là đối tượng nhận biết của nhãn thức. Đó gọi là sắc nhập là vô ký.

Hỏi: Thế nào là thanh nhập là thiện?

Đáp: Nếu thanh nhập là tâm tu thiện đã tập hợp khởi lên, biểu hiện nơi miệng như âm thanh, ngôn ngữ, đó gọi là thanh nhập là thiện.

Hỏi: Thế nào là thanh nhập là bất thiện?

Đáp: Nếu thanh nhập là đoạn, tâm bất thiện đã tập hợp khởi lên, biểu hiện nơi miệng như âm thanh, ngôn ngữ, đó gọi là thanh nhập là bất thiện.

Hỏi: Thế nào là thanh nhập là vô ký?

Đáp: Nếu thanh nhập là thọ, hoặc thanh nhập không phải là báo, không phải là pháp báo. Tiếng tốt của thân, không phải tiếng tốt của thân, các thứ tiếng vi diệu, không phải các thứ tiếng vi diệu, tiếng hòa nhã, không phải tiếng hòa nhã, tâm vô ký đã tập hợp khởi lên, biểu hiện nơi miệng như âm thanh, ngôn ngữ. Hoặc là tiếng bên ngoài là đối tượng nhận biết của nhĩ thức. Đó gọi là thanh nhập là vô ký.

Hỏi: Thế nào là ý nhập là thiện?

Đáp: Nếu ý nhập là ý giới, ý thức giới thiện, đó gọi là ý nhập là thiện.

Hỏi: Thế nào là ý nhập là bất thiện?

Đáp: Nếu ý nhập đoạn ý giới, ý thức giới, đó gọi là ý nhập là bất thiện.

Hỏi: Thế nào là ý nhập là vô ký?

Đáp: Nếu ý nhập là thọ, hoặc ý nhập không phải là báo, không phải là pháp báo, từ nhãn thức cho đến ý thức. Đó gọi là ý nhập là vô ký.

Hỏi: Thế nào là pháp nhập là thiện?

Đáp: Nếu pháp nhập là tu từ thọ tưởng cho đến tâm xả, định vô tưởng, đắc quả định diệt tận, giới của thân miệng hữu lậu, không biểu hiện, thân hữu lậu tấn, thân hữu lậu trừ, chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng, chánh thân tấn, chánh thân trừ, trí duyên tận quyết định. Đó gọi là pháp nhập là thiện.

Hỏi: Thế nào là pháp nhập là bất thiện?

Đáp: Nếu pháp nhập là đoạn thọ, tưởng, tư, xúc, tư duy, giác quán, kiến tuệ giải thoát, hối, không hối, tâm vui mừng, tấn, tín, dục, niệm, nghi, sợ, sử kiết, thân miệng không phải giới, không biểu hiện, thân hữu lậu tấn. Đó gọi là pháp nhập là bất thiện.

Hỏi: Thế nào là pháp nhập là vô ký?

Đáp: Nếu pháp nhập là thọ, hoặc pháp nhập không phải là báo, không phải là pháp báo, không phải là vô vi của Thánh, thọ, tưởng, tư, xúc, tư duy, giác quán, kiến tuệ giải thoát, hối, không hối, tâm vui mừng, tấn, tín, dục, niệm, sợ, sinh, lão tử, mạng, thân hữu lậu tấn, không phải bảy vô vi của Thánh. Đó gọi là pháp nhập là vô ký.

Hỏi: Trong mười hai nhập có bao nhiêu thứ là học, bao nhiêu thứ là vô học, bao nhiêu thứ là phi học phi vô học?

Đáp: Mười nhập là phi học phi vô học. Hai nhập gồm ba phần, hoặc là học, hoặc là vô học, hoặc là phi học phi vô học. Hỏi: Thế nào là mười nhập là phi học phi vô học?

Đáp: Mười nhập là sắc, đó gọi là mười nhập là phi học phi vô học.

Thế nào là hai nhập gồm ba phần, hoặc là học, hoặc là vô học, hoặc là phi học phi vô học?

Đáp: Ý nhập, pháp nhập, đó gọi là hai nhập gồm ba phần, hoặc là học, hoặc là vô học, hoặc là phi học phi vô học.

Hỏi: Thế nào là ý nhập là học?

Đáp: Nếu ý nhập là Thánh phi vô học, đó gọi là ý nhập là học.

Hỏi: Thế nào là ý nhập là học?

Đáp: Nếu ý nhập là học, tín căn tương ưng với ý giới, ý thức giới, đó gọi là ý nhập là học.

Hỏi: Thế nào là ý nhập là học?

Đáp: Người học đã lìa kiết sử, tâm Thánh nhập đạo Thánh. Nếu là kiên tín, kiên pháp và người nơi nẻo khác thấy rõ lỗi lầm của hành, quán Niết-bàn tĩnh lặng, quán như thật về khổ tập diệt đạo, chưa được muốn được, chưa hiểu muốn hiểu, chưa chứng muốn chứng, xa lìa phiền não, tu đạo. Người kiến học như Tu-đà-hoàn, Tư-đà-hàm, A-na-hàm, trí quán đầy đủ, hoặc trí địa, hoặc quán tâm giải thoát, tức chứng quả vị Sa-môn, hoặc quả Tu-đà-hoàn, hoặc quả Tư-đà-hàm, hoặc quả A-na-hàm. Nếu là người thật, hoặc là nẻo, hoặc là ý giới, ý thức giới. Đó gọi là ý nhập là học.

Hỏi: Thế nào là ý nhập là vô học?

Đáp: Nếu ý nhập là Thánh phi học, đó gọi là ý nhập là vô học.

Hỏi: Thế nào là ý nhập là vô học?

Đáp: Nếu ý nhập là vô học, tín căn tương ưng với ý giới, ý thức giới, đó gọi là ý nhập là vô học.

Hỏi: Thế nào là ý nhập là vô học?

Đáp: Người vô học muốn đắc quả A-la-hán, chưa được pháp Thánh, muốn được tu đạo, trí quán đầy đủ, hoặc trí địa, hoặc quán tâm giải thoát, tức đắc quả A-la-hán. Nếu là người thật, hoặc là nẻo, hoặc là ý giới, ý thức giới. Đó gọi là ý nhập là vô học.

Hỏi: Thế nào là ý nhập là phi học phi vô học?

Đáp: Nếu ý nhập không phải là thức thọ ấm của Thánh, từ nhãn thức cho đến ý thức, đó gọi là ý nhập là phi học phi vô học.

Hỏi: Thế nào là pháp nhập là học?

Đáp: Nếu pháp nhập là Thánh phi vô học, đó gọi là pháp nhập là học.

Hỏi: Thế nào là pháp nhập là học?

Đáp: Là tín căn của học và tín căn tương ưng với tâm số pháp. Hoặc pháp nhập không phải duyên nơi vô lậu, không phải là vô học. Đó gọi là pháp nhập là học.

Hỏi: Thế nào là pháp nhập là học?

Đáp: Người học đã lìa kiết sử, tâm Thánh nhập đạo Thánh, cho đến tức đạt được quả A-na-hàm. Nếu là người thật, hoặc là cõi, hoặc là thọ, tưởng, tư, xúc, tư duy, giác quán, kiến tuệ giải thoát, không si, thuận tín, vui mừng, tâm tấn, tâm trừ (khinh an), tín, dục, không phóng dật, niệm, định, tâm xả, được quả định diệt tận, chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng, chánh thân tấn, chánh thân trừ, trí duyên tận quyết định. Đó gọi là pháp nhập là học.

Hỏi: Thế nào là pháp nhập là vô học?

Đáp: Nếu pháp nhập là Thánh phi học, đó gọi là pháp nhập là vô học.

Hỏi: Thế nào là pháp nhập là vô học?

Đáp: Là tín căn của vô học và tín căn tương ưng với tâm số pháp. Hoặc pháp nhập không phải duyên nơi vô lậu, không phải là học. Đó gọi là pháp nhập là vô học.

Thế nào là pháp nhập là vô học?

Đáp: Người vô học cho đến tức đạt được quả A-la-hán. Nếu là người thật, hoặc là nẻo, hoặc là thọ, tưởng, tư, xúc, tư duy, giác quán, kiến tuệ giải thoát, không si, thuận tín, tâm vui mừng, tâm tấn, trừ, tín, dục, không phóng dật, niệm, định, tâm xả, được quả định diệt tận, chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng, chánh thân tấn, chánh thân trừ, trí duyên tận. Đó gọi là pháp nhập là vô học.

Hỏi: Thế nào là pháp nhập là phi học phi vô học?

Đáp: Nếu pháp nhập không phải là thọ thọ ấm, tưởng thọ ấm, hành thọ ấm của Thánh, hoặc là sắc không thể thấy, không có đối, là hữu lậu, không phải thọ, tưởng vô vi của Thánh, cho đến định vô tưởng, bốn sắc đầu không phải là bảy vô vi của Thánh. Đó gọi là pháp nhập là phi học phi vô học.

Hỏi: Trong mười hai nhập có bao nhiêu thứ là báo, bao nhiêu thứ là pháp báo, bao nhiêu thứ không phải là báo, không phải là pháp báo?

Đáp: Năm nhập là báo. Ba nhập gồm hai phần, hoặc là báo, hoặc không phải là báo không phải là pháp báo. Bốn nhập gồm ba phần, hoặc là báo, hoặc là pháp báo, hoặc không phải là báo không phải là pháp báo.

Hỏi: Thế nào là năm nhập là báo?

Đáp: Nhãn nhập, nhĩ nhập, tỷ nhập, thiệt nhập và thân nhập, đó gọi là năm nhập là báo.

Hỏi: Thế nào là ba nhập gồm hai phần, hoặc là báo, hoặc không phải là báo không phải là pháp báo?

Đáp: Hương nhập, vị nhập và xúc nhập, đó gọi là ba nhập gồm hai phần, hoặc là báo, hoặc không phải là báo không phải là pháp báo.

Thế nào là bốn nhập gồm ba phần, hoặc là báo, hoặc là pháp báo, hoặc không phải là báo không phải là pháp báo?

Đáp: Sắc nhập, thanh nhập, ý nhập, pháp nhập, đó gọi là bốn nhập gồm ba phần, hoặc là báo, hoặc là pháp báo, hoặc không phải là báo không phải là pháp báo.

Hỏi: Thế nào là hương nhập là báo?

Đáp: Nếu hương nhập là thọ, đó gọi là hương nhập là báo.

Hỏi: Thế nào là hương nhập là báo?

Đáp: Nếu pháp nơi nghiệp của hương nhập là báo do phiền não sinh ra, là phần của ngã thâu tóm nơi thân như hương tốt, không phải hương tốt, hương hòa dịu, không phải hương hòa dịu, hương vừa ý, không phải hương vừa ý. Đó gọi là hương nhập là báo.

Hỏi: Thế nào là hương nhập không phải là báo, không phải là pháp báo?

Đáp: Nếu hương nhập là ngoài, hoặc hương bên ngoài là đối tượng nhận biết của tỷ thức như hương rễ cây, hương lõi cây, hương nhựa cây, hương vỏ cây, hương lá, hương hoa, hương quả, hương tốt, hương không phải tốt, cùng các hương bên ngoài khác đều là đối tượng nhận biết của tỷ thức. Đó gọi là hương nhập không phải là báo, không phải là pháp báo.

Hỏi: Thế nào là vị nhập là báo?

Đáp: Nếu vị nhập là thọ, đó gọi là vị nhập là báo.

Hỏi: Thế nào là vị nhập là báo?

Đáp: Nếu pháp nơi nghiệp của vị nhập là báo do phiền não sinh ra, là phần của ngã thâu tóm nơi thân như nếm các vị ngọt, chua, đắng, cay, mặn, lạt, nước miếng, máu. Đó gọi là vị nhập là báo.

Thế nào là vị nhập không phải là báo, không phải là pháp báo?

Đáp: Nếu vị nhập là ngoài, hoặc vị bên ngoài là đối tượng nhận biết của thiệt thức như các vị ngọt, chua, đắng, cay, mặn, lạt, nước ép, cùng các vị bên ngoài khác đều là đối tượng nhận biết của thiệt thức. Đó gọi là vị nhập không phải là báo, không phải là pháp báo.

Hỏi: Thế nào là xúc nhập là báo?

Đáp: Nếu xúc nhập là thọ, đó gọi là xúc nhập là báo.

Hỏi: Thế nào là xúc nhập là báo?

Đáp: Nếu pháp nơi nghiệp của xúc nhập là báo do phiền não sinh ra, là phần của ngã thâu tóm nơi thân như lạnh, nóng, nhẹ, nặng, thô, tế, nhám, trơn, cứng, mềm. Đó gọi là xúc nhập là báo.

Hỏi: Thế nào là xúc nhập không phải là báo, không phải là pháp báo?

Đáp: Nếu xúc nhập là ngoài, hoặc xúc bên ngoài là đối tượng nhận biết của thân thức như lạnh, nóng, nhẹ, nặng, thô, tế, nhám, trơn, cứng, mềm, cùng các xúc bên ngoài khác đều là đối tượng nhận biết của thân thức. Đó gọi là xúc nhập không phải là báo, không phải là pháp báo.

Hỏi: Thế nào là sắc nhập là báo?

Đáp: Nếu sắc nhập là thọ, đó gọi là sắc nhập là báo.

Hỏi: Thế nào là sắc nhập là báo?

Đáp: Nếu pháp nơi nghiệp của sắc nhập là báo do phiền não sinh ra, là phần của ngã thâu tóm nơi thân như sắc tốt, không phải sắc tốt, đoan nghiêm, không phải đoan nghiêm, vẻ bên ngoài tươi đẹp, không phải vẻ bên ngoài tươi đẹp, nghiêm tịnh, không phải nghiêm tịnh, tâm thọ nhận khởi lên, biểu hiện nơi thân như đi đến, co duỗi, xoay chuyển. Đó gọi là sắc nhập là báo.

Thế nào là sắc nhập là pháp báo?

Đáp: Nếu sắc nhập có báo, đó gọi là sắc nhập là pháp báo.

Hỏi: Thế nào là sắc nhập là pháp báo?

Đáp: Nếu sắc nhập là thiện, bất thiện, hoặc tâm thiện, tâm bất thiện đã tập hợp khởi lên, biểu hiện nơi thân như đi đến, co duỗi, xoay chuyển. Đó gọi là sắc nhập là pháp báo.

Hỏi: Thế nào là sắc nhập không phải là báo, không phải là pháp báo?

Đáp: Nếu sắc nhập là vô ký, không phải là phần của ngã thâu tóm, không phải là báo, không phải là pháp báo, được tâm khởi lên, biểu hiện nơi thân như đi đến, co duỗi, xoay chuyển, hoặc là sắc bên ngoài là đối tượng nhận biết của nhãn thức. Đó gọi là sắc nhập không phải là báo, không phải là pháp báo.

Hỏi: Thế nào là thanh nhập là báo?

Đáp: Nếu thanh nhập là thọ, đó gọi là thanh nhập là báo.

Hỏi: Thế nào là thanh nhập là báo?

Đáp: Nếu pháp nơi nghiệp của thanh nhập là báo do phiền não sinh ra, là phần của ngã thâu tóm nơi thân như tiếng tốt, không phải tiếng tốt, các thứ tiếng hay, không phải các thứ tiếng hay, tiếng hòa dịu, không phải tiếng hòa dịu, tâm thọ nhận tập hợp khởi lên, biểu hiện nơi miệng như âm thanh, ngôn ngữ. Đó gọi là thanh nhập là báo.

Hỏi: Thế nào là thanh nhập là pháp báo?

Đáp: Nếu thanh nhập có báo, đó gọi là thanh nhập là pháp báo.

Hỏi: Thế nào là thanh nhập là pháp báo?

Đáp: Nếu thanh nhập là thiện, bất thiện, hoặc tâm thiện, tâm bất thiện tập hợp khởi lên, biểu hiện nơi miệng như âm thanh, ngôn ngữ. Đó gọi là thanh nhập là pháp báo.

Thế nào là thanh nhập không phải là báo, không phải là pháp báo?

Đáp: Nếu thanh nhập là vô ký, không phải là phần của ngã thâu tóm, không phải là báo, không phải là pháp báo, do tâm đã tập hợp khởi lên, biểu hiện nơi miệng như âm thanh, ngôn ngữ, hoặc âm thanh bên ngoài là đối tượng nhận biết của nhĩ thức. Đó gọi là thanh nhập không phải là báo, không phải là pháp báo.

Hỏi: Thế nào là ý nhập là báo?

Đáp: Nếu ý nhập là thọ, hoặc ý nhập là báo thiện, từ nhãn thức cho đến ý thức, đó gọi là ý nhập là báo.

Hỏi: Thế nào là ý nhập là pháp báo?

Đáp: Nếu ý nhập có báo, đó gọi là ý nhập là pháp báo.

Hỏi: Thế nào là ý nhập là pháp báo?

Đáp: Trừ báo thiện của ý nhập, còn lại là ý nhập thiện, hoặc ý giới, ý thức giới bất thiện, đó gọi là ý nhập là pháp báo.

Hỏi: Thế nào là ý nhập không phải là báo, không phải là pháp báo?

Đáp: Nếu ý nhập là vô ký, không phải là phần của ngã thâu tóm, từ nhãn thức cho đến ý thức, đó gọi là ý nhập không phải là báo, không phải là pháp báo.

Hỏi: Thế nào là pháp nhập là báo?

Đáp: Nếu pháp nhập là thọ, hoặc pháp nhập là báo thiện, trừ không tham, không giận, còn lại từ thọ tưởng cho đến tâm xả, sợ, sinh mạng, định vô tưởng, đắc quả định diệt tận, thân miệng giới hữu lậu, không biểu hiện, thân hữu lậu tấn, thân hữu lậu trừ, chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng, chánh thân tấn, chánh thân trừ. Đó gọi là pháp nhập là báo.

Thế nào là pháp nhập là pháp báo?

Đáp: Nếu pháp nhập có báo, đó gọi là pháp nhập là pháp báo.

Hỏi: Thế nào là pháp nhập là pháp báo?

Đáp: Trừ báo thiện của pháp nhập, còn lại là pháp nhập hữu vi thiện. Nếu thọ tưởng bất thiện, cho đến phiền não kiết sử, tất cả sắc của hai định. Đó gọi là pháp nhập là pháp báo.

Hỏi: Thế nào là pháp nhập không phải là báo, không phải là pháp báo?

Đáp: Nếu pháp nhập là vô ký, không phải là phần của ngã thâu tóm. Hoặc là vô vi Thánh nơi thọ, tưởng, tư, xúc, tư duy, giác quán, kiến tuệ giải thoát, hối, không hối, tâm vui mừng, tấn, tín, dục, niệm, sợ sinh, lão tử, thân hữu lậu tấn nơi chín vô vi. Đó gọi là pháp nhập không phải là báo, không phải là pháp báo.

Hỏi: Trong mười hai nhập có bao nhiêu thứ do kiến đoạn (kiến đạo đoạn), bao nhiêu thứ do tư duy đoạn (tu đạo đoạn), bao nhiêu thứ không phải do kiến đoạn, không phải do tư duy đoạn?

Đáp: Tám nhập không phải do kiến đoạn, không phải do tư duy đoạn. Bốn nhập gồm ba phần, hoặc là do kiến đoạn, hoặc là do tư duy đoạn, hoặc không phải do kiến đoạn, không phải do tư duy đoạn.

Hỏi: Thế nào là tám nhập không phải do kiến đoạn, không phải do tư duy đoạn?

Đáp: Nhãn nhập, nhĩ nhập, tỷ nhập, thiệt nhập, thân nhập, hương nhập, vị nhập và xúc nhập, đó gọi là tám nhập không phải do kiến đoạn, không phải do tư duy đoạn.

Hỏi: Thế nào là bốn nhập gồm ba phần, hoặc là do kiến đoạn, hoặc là do tư duy đoạn, hoặc không phải do kiến đoạn, không phải do tư duy đoạn?

Đáp: Sắc nhập, thanh nhập, ý nhập, pháp nhập, đó gọi là bốn nhập gồm ba phần, hoặc là do kiến đoạn, hoặc là do tư duy đoạn, hoặc không phải do kiến đoạn, không phải do tư duy đoạn.

Hỏi: Thế nào là sắc nhập do kiến đoạn?

Đáp: Nếu sắc nhập là bất thiện, không phải do tư duy đoạn mà do kiến đoạn, tâm phiền não đã tập hợp khởi lên, biểu hiện nơi thân như đi đến, co duỗi, xoay chuyển. Đó gọi là sắc nhập do kiến đoạn.

Hỏi: Thế nào là sắc nhập do tư duy đoạn?

Đáp: Nếu sắc nhập là bất thiện, không phải do kiến đoạn mà do tư duy đoạn, tâm phiền não đã tập hợp khởi lên, biểu hiện nơi thân như đi đến, co duỗi, xoay chuyển. Đó gọi là sắc nhập do tư duy đoạn.

Hỏi: Thế nào là sắc nhập không phải do kiến đoạn, không phải do tư duy đoạn?

Đáp: Nếu sắc nhập là thiện, hoặc vô ký, sắc tốt của thân, không phải sắc tốt của thân, đoan nghiêm, không phải đoan nghiêm, vẻ bên ngoài tươi đẹp, không phải vẻ bên ngoài tươi đẹp, nghiêm tịnh, không phải nghiêm tịnh. Nếu tâm thiện, hoặc tâm vô ký đã tập hợp khởi lên, biểu hiện nơi thân như đi đến, co duỗi, xoay chuyển. Hoặc là sắc bên ngoài là đối tượng nhận biết của nhãn thức. Đó gọi là sắc nhập không phải do kiến đoạn, không phải do tư duy đoạn.

Hỏi: Thế nào là thanh nhập do kiến đoạn?

Đáp: Nếu thanh nhập là bất thiện, không phải do tư duy đoạn mà do kiến đoạn, tâm phiền não đã tập hợp khởi lên, biểu hiện nơi miệng như âm thanh, ngôn ngữ. Đó gọi là thanh nhập do kiến đoạn.

Hỏi: Thế nào là thanh nhập do tư duy đoạn?

Đáp: Nếu thanh nhập là bất thiện, không phải do kiến đoạn mà do tư duy đoạn, tâm phiền não đã tập hợp khởi lên, biểu hiện nơi miệng như âm thanh, ngôn ngữ. Đó gọi là thanh nhập do tư duy đoạn.

Thế nào là thanh nhập không phải do kiến đoạn, không phải do tư duy đoạn?

Đáp: Nếu thanh nhập là thiện, hoặc vô ký, tiếng tốt của thân, không phải tiếng tốt của thân, các thứ tiếng vi diệu, không phải các thứ tiếng vi diệu, tiếng hòa nhã, không phải tiếng hòa nhã. Nếu tâm thiện, hoặc tâm vô ký đã tập hợp khởi lên, biểu hiện nơi miệng như âm thanh, ngôn ngữ. Hoặc các tiếng bên ngoài là đối tượng nhận biết của nhĩ thức. Đó gọi là thanh nhập không phải do kiến đoạn, không phải do tư duy đoạn.

Hỏi: Thế nào là ý nhập do kiến đoạn?

Đáp: Nếu ý nhập là bất thiện, không phải do tư duy đoạn mà do kiến đoạn, ý giới, ý thức giới của tâm tương ưng với phiền não. Đó gọi là ý nhập do kiến đoạn.

Hỏi: Thế nào là ý nhập do tư duy đoạn?

Đáp: Nếu ý nhập là bất thiện, không phải do kiến đoạn mà do tư duy đoạn, ý giới, ý thức giới của tâm tương ưng với phiền não. Đó gọi là ý nhập do tư duy đoạn.

Hỏi: Thế nào là ý nhập không phải do kiến đoạn, không phải do tư duy đoạn?

Đáp: Nếu ý nhập là thiện, hoặc vô ký, từ nhãn thức cho đến ý thức. Đó gọi là ý nhập không phải do kiến đoạn, không phải do tư duy đoạn.

Hỏi: Thế nào là pháp nhập do kiến đoạn?

Đáp: Nếu pháp nhập là bất thiện, không phải do tư duy đoạn mà do kiến đoạn, phiền não trong một lúc đều cùng đoạn. Thọ, tưởng, tư, xúc, tư duy, giác quán, kiến tuệ giải thoát, hối, không hối, tâm vui mừng, tấn, tín, dục, niệm, nghi, sợ, phiền não kiết sử, thân miệng không phải giới, không biểu hiện, thân hữu lậu tấn. Đó gọi là pháp nhập do kiến đoạn.

Thế nào là pháp nhập do tư duy đoạn?

Nếu pháp nhập là bất thiện, không phải do kiến đoạn mà do tư duy đoạn, phiền não trong một lúc đều cùng đoạn. Thọ, tưởng, tư, xúc, tư duy, giác quán, kiến tuệ giải thoát, hối, không hối, tâm vui mừng, tấn, tín, dục, niệm, nghi, sợ, phiền não kiết sử, thân miệng không phải giới, không biểu hiện, thân hữu lậu tấn. Đó gọi là pháp nhập do tư duy đoạn.

Hỏi: Thế nào là pháp nhập không phải do kiến đoạn, không phải do tư duy đoạn?

Đáp: Nếu pháp nhập là thiện, hoặc vô ký, trừ nghi, phiền não kiết sử, thân miệng không phải giới, không biểu hiện, còn lại là pháp nhập khác. Đó gọi là pháp nhập không phải do kiến đoạn, không phải do tư duy đoạn.

Hỏi: Trong mười hai nhập có bao nhiêu thứ là nhân của kiến đoạn, bao nhiêu thứ là nhân của tư duy đoạn, bao nhiêu thứ không phải là nhân của kiến đoạn, không phải là nhân của tư duy đoạn?

Đáp: Tất cả đều có ba phần: Hoặc là nhân của kiến đoạn, hoặc là nhân của tư duy đoạn, hoặc không phải là nhân của kiến đoạn, không phải là nhân của tư duy đoạn.

Hỏi: Thế nào là nhãn nhập là nhân của kiến đoạn?

Đáp: Nếu nhãn nhập là pháp báo của kiến đoạn, là nhãn nhập của địa ngục, súc sinh, ngạ quỷ, đó gọi là nhãn nhập là nhân của kiến đoạn.

Hỏi: Thế nào là nhãn nhập là nhân của tư duy đoạn?

Đáp: Nếu nhãn nhập là pháp báo của tư duy đoạn, là nhãn nhập của địa ngục, súc sinh, ngạ quỷ, đó gọi là nhãn nhập là nhân của tư duy đoạn.

Thế nào là nhãn nhập không phải là nhân của kiến đoạn,

không phải là nhân của tư duy đoạn?

Đáp: Nếu nhãn nhập là pháp báo thiện, là nhãn nhập trong nẻo người, trên cõi trời, đó gọi là nhãn nhập không phải là nhân của kiến đoạn, không phải là nhân của tư duy đoạn.

Nhĩ nhập, tỷ nhập, thiệt nhập, thân nhập cũng như thế.

Hỏi: Thế nào là ý nhập là nhân của kiến đoạn?

Đáp: Nếu ý nhập do kiến đoạn, hoặc ý nhập là pháp báo của kiến đoạn, từ nhãn thức cho đến ý thức, đó gọi là ý nhập là nhân của kiến đoạn.

Hỏi: Thế nào là ý nhập là nhân của tư duy đoạn?

Đáp: Nếu ý nhập do tư duy đoạn, hoặc ý nhập là pháp báo của tư duy đoạn, từ nhãn thức cho đến ý thức, đó gọi là ý nhập là nhân của tư duy đoạn.

Hỏi: Thế nào là ý nhập không phải là nhân của kiến đoạn, không phải là nhân của tư duy đoạn?

Đáp: Nếu ý nhập là thiện, hoặc ý nhập là pháp báo thiện. Hoặc ý nhập không phải là báo, không phải là pháp báo, từ nhãn thức cho đến ý thức. Đó gọi là ý nhập không phải là nhân của kiến đoạn, không phải là nhân của tư duy đoạn.

Hỏi: Thế nào là sắc nhập là nhân của kiến đoạn?

Đáp: Nếu sắc nhập do kiến đoạn, hoặc là sắc nhập là pháp báo của kiến đoạn, như không phải sắc tốt của thân, không phải đoan nghiêm, không phải vẻ bên ngoài tươi đẹp, không phải nghiêm tịnh, nhân của kiến đoạn, tâm đã tập hợp khởi lên, biểu hiện nơi thân như đi đến, co duỗi, xoay chuyển. Đó gọi là sắc nhập là nhân của kiến đoạn.

Thế nào là sắc nhập là nhân của tư duy đoạn?

Nếu sắc nhập do tư duy đoạn, hoặc là sắc nhập là pháp báo của tư duy đoạn, như không phải sắc tốt của thân, không phải đoan nghiêm, không phải vẻ bên ngoài tươi đẹp, không phải nghiêm tịnh, nhân của tư duy đoạn, tâm đã tập hợp khởi lên, biểu hiện nơi thân như đi đến, co duỗi, xoay chuyển. Đó gọi là sắc nhập là nhân của tư duy đoạn.

Hỏi: Thế nào là sắc nhập không phải là nhân của kiến đoạn, không phải là nhân của tư duy đoạn?

Đáp: Nếu sắc nhập là thiện, hoặc là sắc nhập là pháp báo thiện. Hoặc là sắc nhập không phải là báo, không phải là pháp báo. Như sắc tốt của thân, đoan nghiêm, vẻ bên ngoài tươi đẹp, nghiêm tịnh, không phải là nhân của kiến đoạn, không phải là nhân của tư duy đoạn, tâm đã tập hợp khởi lên, biểu hiện nơi thân như đi đến, co duỗi, xoay chuyển. Hoặc là sắc bên ngoài là đối tượng nhận biết của nhãn thức. Đó gọi là sắc nhập không phải là nhân của kiến đoạn, không phải là nhân của tư duy đoạn.

Hỏi: Thế nào là thanh nhập là nhân của kiến đoạn?

Đáp: Nếu thanh nhập do kiến đoạn, hoặc thanh nhập là pháp báo của kiến đoạn, như không phải tiếng tốt của thân, không phải các thứ tiếng vi diệu, không phải tiếng hòa nhã, nhân của kiến đoạn, tâm đã tập hợp khởi lên, biểu hiện nơi miệng như âm thanh, ngôn ngữ. Đó gọi là thanh nhập là nhân của kiến đoạn.

Hỏi: Thế nào là thanh nhập là nhân của tư duy đoạn?

Đáp: Nếu thanh nhập do tư duy đoạn, hoặc thanh nhập là pháp báo của tư duy đoạn, như không phải tiếng tốt của thân, không phải các thứ tiếng hay, không phải tiếng hòa nhã, nhân của tư duy đoạn, tâm đã tập hợp khởi lên, biểu hiện nơi miệng như âm thanh, ngôn ngữ. Đó gọi là thanh nhập là nhân của tư duy đoạn.

Thế nào là thanh nhập không phải là nhân của kiến đoạn, không phải là nhân của tư duy đoạn?

Đáp: Nếu thanh nhập là thiện, hoặc thanh nhập là pháp báo thiện. Hoặc thanh nhập không phải là báo, không phải là pháp báo. Như tiếng tốt của thân, các thứ tiếng hay, tiếng hòa nhã, không phải là nhân của kiến đoạn, không phải là nhân của tư duy đoạn, tâm đã tập hợp khởi lên, biểu hiện nơi miệng như âm thanh, ngôn ngữ. Hoặc là tiếng bên ngoài, là đối tượng nhận biết của nhĩ thức. Đó gọi là thanh nhập không phải là nhân của kiến đoạn, không phải là nhân của tư duy đoạn.

Hỏi: Thế nào là hương nhập là nhân của kiến đoạn?

Đáp: Nếu hương nhập là pháp báo của kiến đoạn, như hương không tốt của thân, hương không phải hòa dịu, hương không vừa ý. Đó gọi là hương nhập là nhân của kiến đoạn.

Hỏi: Thế nào là hương nhập là nhân của tư duy đoạn?

Đáp: Nếu hương nhập là pháp báo của tư duy đoạn, như hương không tốt của thân, hương không phải hòa dịu, hương không vừa ý. Đó gọi là hương nhập là nhân của tư duy đoạn.

Hỏi: Thế nào là hương nhập không phải là nhân của kiến đoạn, không phải là nhân của tư duy đoạn?

Đáp: Nếu hương nhập là pháp báo thiện, hoặc hương nhập không phải là báo, không phải là pháp báo, như hương tốt của thân, hương hòa dịu, hương vừa ý. Hoặc hương bên ngoài là đối tượng nhận biết của tỷ thức. Đó gọi là hương nhập không phải là nhân của kiến đoạn, không phải là nhân của tư duy đoạn.

Hỏi: Thế nào là vị nhập là nhân của kiến đoạn?

Đáp: Nếu vị nhập là pháp báo của kiến đoạn, như thân nếm các vị ngọt, chua, đắng, cay, mặn, lạt, nước miếng, máu. Đó gọi là vị nhập là nhân của kiến đoạn.

Thế nào là vị nhập là nhân của tư duy đoạn?

Nếu vị nhập là pháp báo của tư duy đoạn, như thân nếm các vị ngọt, chua, đắng, cay, mặn, lạt, nước miếng, máu. Đó gọi là vị nhập là nhân của tư duy đoạn.

Hỏi: Thế nào là vị nhập không phải là nhân của kiến đoạn, không phải là nhân của tư duy đoạn?

Đáp: Nếu vị nhập là pháp báo thiện, hoặc vị nhập không phải là báo, không phải là pháp báo, như thân nếm các vị ngọt, chua, đắng, cay, mặn, lạt, nước miếng, máu. Hoặc vị bên ngoài là đối tượng nhận biết của thiệt thức. Đó gọi là vị nhập không phải là nhân của kiến đoạn, không phải là nhân của tư duy đoạn.

Hỏi: Thế nào là xúc nhập là nhân của kiến đoạn?

Đáp: Nếu xúc nhập là pháp báo của kiến đoạn, như thân lạnh, nóng, nhẹ, nặng, thô, tế, nhám, trơn, cứng, mềm. Đó gọi là xúc nhập là nhân của kiến đoạn.

Hỏi: Thế nào là xúc nhập là nhân của tư duy đoạn?

Đáp: Nếu xúc nhập là pháp báo của tư duy đoạn, như thân lạnh, nóng, nhẹ, nặng, thô, tế, nhám, trơn, cứng, mềm. Đó gọi là xúc nhập là nhân của tư duy đoạn.

Hỏi: Thế nào là xúc nhập không phải là nhân của kiến đoạn, không phải là nhân của tư duy đoạn?

Đáp: Nếu xúc nhập là pháp báo thiện, hoặc xúc nhập không phải là báo, không phải là pháp báo, như thân lạnh, nóng, nhẹ, nặng, thô, tế, nhám, trơn, cứng, mềm. Hoặc xúc bên ngoài là đối tượng nhận biết của thân thức. Đó gọi là xúc nhập không phải là nhân của kiến đoạn, không phải là nhân của tư duy đoạn.

Hỏi: Thế nào là pháp nhập là nhân của kiến đoạn?

Đáp: Nếu pháp nhập là nhân của kiến đoạn, hoặc pháp nhập là pháp báo của kiến đoạn, là thọ, tưởng, tư, xúc, tư duy, giác quán, kiến tuệ giải thoát, hối, không hối, tâm vui mừng, tấn, tín, dục, niệm, nghi, sợ, phiền não sử, sinh mạng, kiết, thân miệng không phải giới, không biểu hiện, thân hữu lậu tấn. Đó gọi là pháp nhập là nhân của kiến đoạn.

Hỏi: Thế nào là pháp nhập là nhân của tư duy đoạn?

Đáp: Nếu pháp nhập là nhân của tư duy đoạn, hoặc pháp nhập là pháp báo của tư duy đoạn, là thọ, tưởng, tư, xúc, tư duy, giác quán, kiến tuệ giải thoát, hối, không hối, tâm vui mừng, tấn, tín, dục, niệm, nghi, sợ, phiền não sử, sinh mạng, kiết, thân miệng không phải giới, không biểu hiện, thân hữu lậu tấn. Đó gọi là pháp nhập là nhân của tư duy đoạn.

Hỏi: Thế nào là pháp nhập không phải là nhân của kiến đoạn, không phải là nhân của tư duy đoạn?

Đáp: Nếu pháp nhập là thiện, là báo của pháp thiện, hoặc pháp nhập không phải là báo, không phải là pháp báo, trừ nghi, phiền não sử, kiết, thân miệng không phải giới, không biểu hiện, còn lại là pháp nhập khác không phải là nhân của kiến đoạn, không phải là nhân của tư duy đoạn. Đó gọi là pháp nhập không phải là nhân của kiến đoạn, không phải là nhân của tư duy đoạn.

Hỏi: Trong mười hai nhập có bao nhiêu thứ hệ thuộc cõi dục, bao nhiêu thứ hệ thuộc cõi sắc, bao nhiêu thứ hệ thuộc cõi vô sắc, bao nhiêu thứ không hệ thuộc?

Đáp: Bốn nhập hệ thuộc cõi dục. Sáu nhập gồm hai phần, hoặc hệ thuộc cõi dục, hoặc hệ thuộc cõi sắc. Hai nhập gồm bốn phần, hoặc hệ thuộc cõi dục, hoặc hệ thuộc cõi sắc, hoặc hệ thuộc cõi vô sắc, hoặc không hệ thuộc.

Thế nào là bốn nhập hệ thuộc cõi dục?

Thiệt nhập, tỷ nhập, hương nhập, vị nhập, đó gọi là bốn nhập hệ thuộc cõi dục.

Hỏi: Thế nào là sáu nhập gồm hai phần, hoặc hệ thuộc cõi dục, hoặc hệ thuộc cõi sắc?

Đáp: Nhãn nhập, nhĩ nhập, thân nhập, sắc nhập, thanh nhập, xúc nhập, đó gọi là sáu nhập gồm hai phần, hoặc hệ thuộc cõi dục, hoặc hệ thuộc cõi sắc.

Hỏi: Thế nào là hai nhập gồm bốn phần, hoặc hệ thuộc cõi dục, hoặc hệ thuộc cõi sắc, hoặc hệ thuộc cõi vô sắc, hoặc không hệ thuộc?

Đáp: Ý nhập, pháp nhập, đó gọi là hai nhập gồm bốn phần, hoặc hệ thuộc cõi dục, hoặc hệ thuộc cõi sắc, hoặc hệ thuộc cõi vô sắc, hoặc không hệ thuộc.

Hỏi: Thế nào là nhãn nhập hệ thuộc cõi dục?

Đáp: Nếu nhãn nhập là dục lậu, nhãn nhập là hữu lậu, đó gọi là nhãn nhập hệ thuộc cõi dục.

Hỏi: Thế nào là nhãn nhập hệ thuộc cõi sắc?

Đáp: Nếu nhãn nhập là sắc lậu, nhãn nhập là hữu lậu, đó gọi là nhãn nhập hệ thuộc cõi sắc.

Nhĩ nhập, thân nhập cũng như thế.

Hỏi: Thế nào là sắc nhập hệ thuộc cõi dục?

Đáp: Nếu sắc nhập là dục lậu, hữu lậu, như sắc tốt của thân, không phải sắc tốt của thân, đoan nghiêm, không phải đoan nghiêm, vẻ bên ngoài tươi đẹp, không phải vẻ bên ngoài tươi đẹp, nghiêm tịnh, không phải nghiêm tịnh. Tâm dục hành đã tập hợp khởi lên, biểu hiện nơi thân như đi đến, co duỗi, xoay chuyển. Hoặc là sắc bên ngoài là đối tượng nhận biết của nhãn thức là dục lậu, hữu lậu. Đó gọi là sắc nhập hệ thuộc cõi dục.

Hỏi: Thế nào là sắc nhập hệ thuộc cõi sắc?

Đáp: Nếu sắc nhập là sắc lậu, hữu lậu, như sắc tốt của thân, đoan nghiêm, vẻ bên ngoài tươi đẹp, nghiêm tịnh. Tâm sắc hành khởi lên, biểu hiện nơi thân như đi đến, co duỗi, xoay chuyển. Hoặc là sắc bên ngoài là đối tượng nhận biết của nhãn thức là sắc lậu, hữu lậu. Đó gọi là sắc nhập hệ thuộc cõi sắc.

Hỏi: Thế nào là thanh nhập hệ thuộc cõi dục?

Đáp: Nếu thanh nhập là dục lậu, hữu lậu, như tiếng tốt của thân, không phải tiếng tốt của thân, các thứ tiếng vi diệu, không phải các thứ tiếng vi diệu, tiếng hòa nhã, không phải tiếng hòa nhã. Tâm dục hành đã tập hợp khởi lên, biểu hiện nơi miệng như âm thanh, ngôn ngữ. Hoặc tiếng bên ngoài là đối tượng nhận biết của nhĩ thức là dục lậu, hữu lậu. Đó gọi là thanh nhập hệ thuộc cõi dục.

Hỏi: Thế nào là thanh nhập hệ thuộc cõi sắc?

Đáp: Nếu thanh nhập là sắc lậu, hữu lậu, như tiếng tốt của thân, các thứ tiếng vi diệu, tiếng hòa nhã. Tâm sắc hành đã tập hợp khởi lên, biểu hiện nơi miệng như âm thanh, ngôn ngữ. Hoặc tiếng bên ngoài là đối tượng nhận biết của nhĩ thức là sắc lậu, hữu lậu. Đó gọi là thanh nhập hệ thuộc cõi sắc.

Hỏi: Thế nào là xúc nhập hệ thuộc cõi dục?

Đáp: Nếu xúc nhập là dục lậu, hữu lậu, như thân lạnh, nóng, nhẹ, nặng, thô, tế, nhám, trơn, cứng, mềm. Hoặc xúc bên ngoài là đối tượng nhận biết của thân thức, là dục lậu, hữu lậu. Đó gọi là xúc nhập là hệ thuộc cõi dục.

Thế nào là xúc nhập hệ thuộc cõi sắc?

Nếu xúc nhập là sắc lậu, hữu lậu, như thân lạnh, nóng,

nhẹ, nặng, thô, tế, nhám, trơn, cứng, mềm. Hoặc xúc bên ngoài là đối tượng nhận biết của thân thức, là sắc lậu, hữu lậu. Đó gọi là xúc nhập hệ thuộc cõi sắc.

Hỏi: Thế nào là ý nhập hệ thuộc cõi dục?

Đáp: Nếu ý nhập là dục lậu, hữu lậu, từ nhãn thức cho đến ý thức. Đó gọi là ý nhập hệ thuộc cõi dục.

Hỏi: Thế nào là ý nhập hệ thuộc cõi sắc?

Đáp: Nếu ý nhập là sắc lậu, hữu lậu, từ nhãn thức cho đến ý thức. Đó gọi là ý nhập hệ thuộc cõi sắc.

Hỏi: Thế nào là ý nhập hệ thuộc cõi vô sắc?

Đáp: Nếu ý nhập là vô sắc lậu, hữu lậu nơi ý giới, ý thức giới. Đó gọi là ý nhập hệ thuộc cõi vô sắc.

Hỏi: Thế nào là ý nhập không hệ thuộc?

Đáp: Nếu ý nhập là ý giới, ý thức giới của vô lậu Thánh. Đó gọi là ý nhập không hệ thuộc.

Hỏi: Thế nào là pháp nhập hệ thuộc cõi dục?

Đáp: Nếu pháp nhập là dục lậu, hữu lậu, như thọ, tưởng, tư, xúc, tư duy, giác quán, kiến tuệ giải thoát, không tham, không giận, không si, thuận tín, hối, không hối, tâm vui mừng, tấn, tín, dục, không phóng dật, niệm, nghi, sợ, phiền não sử, sinh, lão tử, mạng, kiết, thân miệng không phải giới, không biểu hiện, thân miệng giới hữu lậu, không biểu hiện, thân hữu lậu tấn. Đó gọi là pháp nhập hệ thuộc cõi dục.

Hỏi: Thế nào là pháp nhập hệ thuộc cõi sắc?

Đáp: Nếu pháp nhập là sắc lậu, hữu lậu, như thọ, tưởng, tư, xúc, tư duy, giác quán, kiến tuệ giải thoát, không si, thuận tín, tâm vui mừng, tâm tinh tấn, trừ, tín, dục, không phóng dật, niệm, định, tâm xả, nghi, phiền não sử, sinh, lão tử, mạng, kiết, định vô tưởng, thân miệng giới hữu lậu, không biểu hiện, thân hữu lậu tấn, thân hữu lậu trừ. Đó gọi là pháp nhập hệ thuộc cõi sắc.

Hỏi: Thế nào là pháp nhập hệ thuộc cõi vô sắc?

Đáp: Nếu pháp nhập là vô sắc lậu, hữu lậu, như thọ, tưởng, tư, xúc, tư duy, kiến tuệ giải thoát, không si, thuận tâm tín, tâm tinh tấn, trừ, tín, dục, không phóng dật, niệm, định, tâm xả, nghi, sử phiền não, sinh, lão tử, mạng, kiết, thân miệng giới hữu lậu, không biểu hiện, thân hữu lậu tấn, thân hữu lậu trừ. Đó gọi là pháp nhập hệ thuộc cõi vô sắc.

Hỏi: Thế nào là pháp nhập không hệ thuộc?

Đáp: Nếu pháp nhập là vô lậu, vô vi Thánh, như thọ, tưởng, tư, xúc, tư duy, giác quán, kiến tuệ giải thoát, không si, thuận tín, tâm vui mừng, trừ, tín, dục, không phóng dật, niệm, định, tâm xả, được quả định diệt tận, chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng, chánh thân tấn, chánh thân trừ, chín vô vi. Đó gọi là pháp nhập không hệ thuộc.

Hỏi: Trong mười hai nhập có bao nhiêu thứ là quá khứ, bao nhiêu thứ là vị lai, bao nhiêu thứ là hiện tại, bao nhiêu thứ không phải là quá khứ, không phải là vị lai, không phải là hiện tại?

Đáp: Mười một nhập gồm ba phần, hoặc là quá khứ, hoặc là vị lai, hoặc là hiện tại. Một nhập gồm bốn phần, hoặc là quá khứ, hoặc là vị lai, hoặc là hiện tại, hoặc không phải là quá khứ, vị lai, hiện tại.

Hỏi: Thế nào là mười một nhập gồm ba phần, hoặc là quá khứ, hoặc là vị lai, hoặc là hiện tại?

Đáp: Từ nhãn nhập cho đến xúc nhập, đó gọi là mười một nhập gồm ba phần, hoặc là quá khứ, hoặc là vị lai, hoặc là hiện tại.

Hỏi: Thế nào là một nhập gồm bốn phần, hoặc là quá khứ, hoặc là vị lai, hoặc là hiện tại, hoặc không phải là quá khứ, vị lai, hiện tại?

Đáp: Pháp nhập đó gọi là một nhập gồm bốn phần, hoặc là quá khứ, hoặc là vị lai, hoặc là hiện tại, hoặc không phải là quá khứ, vị lai, hiện tại.

Hỏi: Thế nào là nhãn nhập là quá khứ?

Đáp: Nếu nhãn nhập đã sinh rồi diệt, đó gọi là nhãn nhập là quá khứ.

Hỏi: Thế nào là nhãn nhập là vị lai?

Đáp: Nếu nhãn nhập chưa sinh chưa xuất, đó gọi là nhãn nhập là vị lai.

Hỏi: Thế nào là nhãn nhập là hiện tại?

Đáp: Nếu nhãn nhập sinh chưa diệt, đó gọi là nhãn nhập là hiện tại.

Cho đến xúc nhập cũng như thế.

Hỏi: Thế nào là pháp nhập là quá khứ?

Đáp: Nếu pháp nhập đã sinh rồi diệt, từ thọ tưởng cho đến chánh thân trừ, đó gọi là pháp nhập là quá khứ.

Hỏi: Thế nào là pháp nhập là vị lai?

Đáp: Nếu pháp nhập chưa sinh chưa xuất, từ thọ tưởng cho đến chánh thân trừ, đó gọi là pháp nhập là vị lai.

Hỏi: Thế nào là pháp nhập là hiện tại?

Đáp: Nếu pháp nhập sinh chưa diệt, từ thọ tưởng cho đến chánh thân trừ, đó gọi là pháp nhập là hiện tại.

Hỏi: Thế nào là pháp nhập không phải là quá khứ, vị lai, hiện tại?

Đáp: Nếu pháp nhập là vô vi, trí duyên tận, cho đến trí của xứ phi tưởng phi phi tưởng, đó gọi là pháp nhập không phải là quá khứ, vị lai, hiện tại.

HẾT – QUYỂN 1