LUẬN TỲ BÀ SA
Tác giả: A la hán Thi Đà Bàn Ni
Hán dịch: Đời Phù Tần, Đại sư Tăng Già Bạt Trừng, người nước Kế Tân
Việt dịch: Cư sĩ Nguyên Huệ

 

QUYỂN 3

Phần thứ 7: XỨ NĂM CÁI (Năm thứ phiền não che lấp)

Năm cái: (1) Cái dục ái. (2) Cái giận dữ. (3) Cái thùy miên. (4) Cái điệu hối (Trạo cử, ố tác). (5) Cái nghi.

Hỏi: Năm cái này dùng gì làm tự tánh?

Đáp: Dùng ba mươi thứ làm tự tánh.

Dục ái có năm thứ ở cõi dục, có mặt nơi sáu thức thân.

Giận dữ có năm thứ ở cõi dục, có mặt nơi sáu thức thân.

Thùy, điệu, cả hai cùng có năm thứ ở ba cõi, đối với bất thiện, vô ký, tất cả tâm nhiễm ô có thể có, trong ấy bất thiện lập làm cái, vô ký không lập làm cái.

Miên có năm thứ ở cõi dục, đối với thiện, bất thiện, vô ký, thì bất thiện được lập làm cái, thiện và vô ký không lập làm cái.

Hối ở cõi dục do tư duy (tu đạo) đoạn, đối với thiện và bất thiện, trong ấy bất thiện lập làm cái, thiện không lập.

Nghi có bốn thứ ở cả ba cõi, đối với bất thiện và vô ký, trong ấy bất thiện lập làm cái, vô ký không lập.

Như vậy: Dục ái: năm. Giận dữ: năm. Thùy, điệu: mười. Miên:

năm. Hối: một. Nghi: bốn.

Ba mươi thứ này là tánh của năm cái. Đây là tánh, là thể tướng hiện có nơi thân.

Hỏi: Cái có tướng gì?

Đáp: Tánh của cái tức là tướng. Tướng tức là tánh. Nơi tất cả pháp không thể lìa tánh để nói tướng.

Tôn giả Bà-tu-mật nói: Ở đây, mong muốn được dục liền khởi dục ái. Vì khiến chúng sinh mâu thuẫn nhau nên khởi giận dữ. Do tâm chìm đắm nên khởi thùy (hôn trầm). Đã chìm đắm, không động, tức là miên (ngủ say). Thân tâm chao động là tướng của điệu (trạo cử). Nơi tâm sinh hận, do các thứ hận khiến tạo ác nên sinh hối (ố tác). Trong tâm hành chưa thành, ý không quyết định, tức sinh nghi.

Đã nói về tự tánh của cái. Tiếp theo là nói về hành.

Hỏi: Vì sao gọi là cái? Cái có nghĩa gì?

Đáp: Nghĩa gây chướng ngại, nghĩa hủy hoại, nghĩa phá bỏ, nghĩa rơi rụng, nghĩa nằm xuống, là nghĩa của cái.

Nghĩa gây chướng ngại là nghĩa của cái: Là gây chướng ngại cho Thánh đạo và căn thiện nơi phương tiện của Thánh đạo nên gọi là cái. Như Khế kinh kia nói: Có năm hạt giống của đại thọ, tuy nhỏ nhưng cành nhánh tàng cây của chúng to lớn, che rợp các cây nhỏ khác chung quanh, khiến các cây nhỏ kia đều gãy đỗ nằm rạp xuống, không sinh hoa quả. Năm hạt giống đó là: (1) Kiến-chiết-na. (2) Kiếp-tý-đát-la. (3) A-thấp-phược-kiện-đà. (4) Ô-đàm-bạt-la. (5) Nặc-cồ-đà. Như thế, cây tâm của chúng sinh nơi cõi dục bị năm cái che lấp, không trổ hoa giác ý, cũng không chuyển thành quả Sa-môn. Thế nên nói nghĩa gây chướng ngại, nghĩa hủy hoại, nghĩa phá bỏ, nghĩa rơi rụng, nghĩa nằm xuống là nghĩa của cái.

Hỏi: Nếu cái này gây chướng ngại cho Thánh đạo cùng căn thiện nơi phương tiện của Thánh đạo, thì tất cả các kiết cũng gây chướng ngại như thế. Vì sao chỉ lập năm cái, không lập các thứ phiền não khác làm cái?

Đáp: Vì đây là Đức Thế Tôn vì nhằm giáo hóa nên nói tóm lược, nói chưa trọn đủ, vì muốn khiến người nghe theo lời nói để hành trì.

Hoặc nói: Đức Phật Thế Tôn đối với pháp luôn thấu đạt thông tỏ, không ai có thể vượt hơn. Đức Thế Tôn nhận biết đầy đủ về pháp tướng, về các hành. Nếu pháp có tướng của cái thì lập làm cái.

Hoặc cho: Khi trừ bỏ dục của ba cõi, năm cái này tạo chướng ngại hết mực, không phải là các thứ khác.

Hoặc nêu: Năm cái ấy gây chướng ngại cho chánh thọ (Định) và tạo chướng ngại nơi quả. Gây chướng ngại cho chánh thọ: Nghĩa là đối với chính chánh thọ thứ đệ tạo ra chướng ngại. Tạo chướng ngại nơi quả: Nghĩa là đối với quả của chín trí đoạn tạo ra chướng ngại.

Hoặc nói: Cái dục ái là ở trong lìa dục khiến xa lìa. Cái giận dữ là ở trong lìa ác khiến xa lìa. Cái thùy miên là ở trong quán khiến xa lìa. Cái điệu hối là ở trong chỉ khiến xa lìa. Sự lìa dục, lìa ác kia đã khiến xa lìa, chỉ quán đã mất tức trong tâm sinh nghi: Có báo của pháp ác hay không có báo của pháp ác?

Hoặc cho: Cái dục ái, giận dữ hủy hoại thân giới. Cái thùy miên hủy hoại thân tuệ. Cái điệu hối hủy hoại thân định. Người kia ba thân đã bị hủy hoại, trong tâm liền sinh nghi: Có báo của pháp ác hay không có báo của pháp ác?

Hoặc nêu: Cái dục ái, giận dữ hủy hoại giới. Cái thùy miên hủy hoại quán. Cái điệu hối hủy hoại chỉ. Người kia ba pháp này bị hủy hoại xong, trong tâm liền sinh nghi: Có báo của pháp ác hay không có báo của pháp ác?

Hoặc nói: Chúng sinh nơi cõi dục luôn luôn hành theo các hành. Trong ấy có bao nhiêu loài là hành mạn, bao nhiêu loài là hành kiến?

Trong địa ngục làm sao nói là hành mạn? Đâu có thể cho khổ của ta thọ nhận là hơn khổ của kẻ khác? Và hết thảy loài súc sinh ngu tối sao có thể hành kiến?

Tôn giả Cù sa cũng nói: Chúng sinh nơi cõi dục thường thường hành theo các hành nhưng không thấy lỗi lầm. Vì muốn khiến thấy lỗi nên nói năm cái.

Hoặc nói: Thời gian tạo nhân các cái gây tạo chướng ngại. Thời gian nhận quả các cái cũng gây tạo chướng ngại.

Thời gian tạo nhân các cái gây tạo chướng ngại: Nghĩa là nếu cái hiện ở trước, bấy giờ không thể có tâm hữu lậu thiện hiện ở trước, huống chi là tâm vô lậu.

Thời gian nhận quả các cái tạo chướng ngại: Nghĩa là nếu sinh trong nẻo ác, khi nhận lấy báo ác, thì ngay bấy giờ tức gây chướng ngại cho tất cả các công đức. Do đấy nên nơi Khế kinh Đức Phật lập ra năm cái, không phải là các pháp khác.

Hỏi: Về danh thì cái có năm. Về thể thì có bao nhiêu?

Đáp: Danh có năm. Thể có bảy.

Cái dục ái, giận dữ, nghi: Danh có ba Thể cũng có ba. Cái thùy miên: Danh có một Thể có hai. Cái điệu hối: Danh có một Thể có hai. Như thế, năm cái: Danh có năm Thể có bảy. Như danh – thể, thì danh số – thể số, danh khác – thể khác, danh riêng – thể riêng, danh giác – thể giác, nên biết cũng như thế.

Hỏi: Nếu Thể của cái có bảy vì sao tên gọi chỉ lập năm cái?

Đáp: Do ba sự việc nên lập làm cái: (1) Do một thức ăn. (2) Do một đối trị. (3) Do cùng gánh vác.

Do một thức ăn, một đối trị: Cái dục ái dùng gì làm thức ăn? Là dùng tưởng tịnh làm thức ăn. Dùng gì làm đối trị? Là dùng quán bất tịnh để đối trị. Như dục ái có một thức ăn, một đối trị, nên lập làm một cái.

Cái giận dữ dùng gì làm thức ăn? Là dùng tướng trái nhau làm thức ăn. Dùng gì làm đối trị? Là dùng quán từ để đối trị. Như giận dữ có một thức ăn, một đối trị, nên lập làm một cái.

Cái thùy miên dùng gì làm thức ăn? Là dùng tâm sân, ưu, không vui, không muốn ăn, chìm đắm làm thức ăn. Dùng gì làm đối trị? Là dùng quán để đối trị. Như thùy miên có một thức ăn, một đối trị, nên cả hai cùng lập làm một cái.

Cái điệu hối dùng gì làm thức ăn? Là tưởng về thân thuộc, đất nước, tưởng về không chết, tưởng về sự việc vui ngày xưa đã nhớ, đang nhớ, sẽ nhớ. Dùng gì làm đối trị? Là dùng chỉ để đối trị. Như điệu hối có một thức ăn, một đối trị, nên cả hai cùng lập làm một cái.

Cái nghi dùng gì làm thức ăn? Là nhân nơi đời trước nên do dự. Nhân nơi đời sau nên do dự. Nhân nơi đời này nên do dự. Bên trong cũng có do dự. Như nói: Chúng sinh này từ đâu đến? Chết rồi thì đến nơi nào? Nhân nơi gì mà có? Vì sao mà có? Dùng gì làm đối trị? Là dùng quán pháp duyên khởi để đối trị. Như nghi có một thức ăn, một đối trị, nên lập làm một cái.

Thế nên nói do một thức ăn, một đối trị, nên lập làm cái.

Do cùng gánh vác: Ba thứ dục ái, giận dữ, nghi, mỗi thứ đều có thể gánh lấy gánh nặng của một cái, nên lập riêng làm cái. Thùy miên, điệu hối, vì cả hai cùng có thể gánh lấy gánh nặng của một cái, nên thùy – miên, điệu – hối nên lập chung làm một cái.

Như nơi thôn ấp kia, một niii có thể làm xong một công việc phải làm thì để làm riêng. Nếu hai người cùng có thể làm xong một công việc phải làm thì cho làm chung. Lại như sử dụng rường cột nơi nhà, nếu loại chắc thì dùng một, loại yếu thì phải dùng hai. Đây cũng như thế.

Hỏi: Vì sao nơi Khế kinh Phật trước nói cái dục ái sau mới nói cái nghi?

Đáp: Vì theo thứ lớp như thế nên về lời văn và ngôn thuyết đều thuận hợp.

Hoặc nói: Vì theo thứ lớp như vậy thì người giảng nói và kẻ thọ nhận đều tùy thuận.

Hoặc cho: Vì thuận với gốc ngọn. Thuận với gốc ngọn, tức trước là sinh dục ái nên Đức Phật nói trước, sau đến nghi nên Đức Phật nói sau.

Tôn giả Bà-tu-mật nói: Vì yêu thích cảnh giới nên khởi dục ái. Nếu mất cảnh giới yêu thích ấy, liền sinh giận dữ. Đã mất hẳn cảnh giới yêu thích ấy nên sinh ưu sầu. Tâm trở nên yếu kém nên sinh thùy miên. Sau khi thức tỉnh, kế tiếp là sinh điệu (trạo cử) hối (ố tác). Hối lại dẫn đến nghi: Có báo của pháp thiện hay không có báo của pháp thiện?

Vì thuận với gốc ngọn, nên nơi Khế kinh Phật, trước nói về dục ái, sau cho đến nói nghi: Trong Khế kinh này, năm cái nói thành mười.

Hỏi: Vì sao nơi Khế kinh Phật, năm cái nói thành mười?

Đáp: Do ba sự việc nên chia năm thành mười: Do trong ngoài. Do chủng tánh. Do thiện, bất thiện.

Thế nào là do trong ngoài? Như Khế kinh Phật nói: Có dục ái bên trong, có dục ái bên ngoài. Như dục ái bên trong tức là cái, không phải trí, không phải đẳng giác, không chuyển thành Niết-bàn. Như dục ái bên ngoài tức là cái, không phải trí, không phải đẳng giác, không chuyển thành Niết-bàn. (Cái dục ái thành hai).

Có tưởng giận dữ bên trong, có tưởng giận dữ bên ngoài. Như tưởng giận dữ bên trong tức là cái, không phải trí, không phải đẳng giác, không chuyển thành Niết-bàn. Như tưởng giận dữ bên ngoài tức là cái, không phải trí, không phải đẳng giác, không chuyển thành Niết-bàn. (Cái giận dữ thành hai).

Thế nào là do chủng tánh? Có thùy, có miên. Như thùy tức là cái, không phải trí, không phải đẳng giác, không chuyển thành Niết-bàn. Như miên tức là cái, không phải trí, không phải đẳng giác, không chuyển thành Niết-bàn. Có điệu, có hối. Như điệu (trạo cử) tức là cái, không phải trí, không phải đẳng giác, không chuyển thành Niết-bàn. Như hối (ố tác) tức là cái, không phải trí, không phải đẳng giác, không chuyển thành Niết-bàn. (Hai cái thùy miên, điệu hối thành bốn).

Thế nào là do thiện, bất thiện? Tức có nghi về pháp thiện, có nghi về pháp bất thiện. Như nghi về pháp thiện tức là cái, không phải trí, không phải đẳng giác, không chuyển thành Niết-bàn. Như nghi về pháp bất thiện tức là cái, không phải trí, không phải đẳng giác, không chuyển thành Niết-bàn. (Cái nghi thành hai).

Đó là do ba sự việc: Do trong ngoài. Do chủng loại. Do thiện và bất thiện, nên nơi Khế kinh Đức Phật – Thế Tôn nói năm cái thành mười cái.

Lại nói: Trong bảy sử: Sử vô minh không lập làm cái. Sử mạn không lập làm cái. Sử kiến không lập làm cái. Các kiết của cõi sắc, vô sắc không lập làm cái.

Hỏi: Vì sao vô minh không lập làm cái?

Đáp: Vì là cùng gánh vác nên lập làm cái. Còn hành tướng chuyển biến của vô minh thì che giấu. Các nghĩa gánh vác thiên trọng thì không thuận hợp nên không lập.

Hỏi: Vì sao mạn không lập làm cái?

Đáp: Vì cái nghĩa là che lấp tâm. Còn mạn là tâm thọ nhận có thể dấy khởi cao ngạo.

Hỏi: Vì sao kiến không lập làm cái?

Đáp: Vì cái là diệt tuệ. Kiến là tánh tuệ, không dùng tuệ diệt tuệ.

Hỏi: Ở đây nhân luận sinh luận: Vì sao nói cái diệt tuệ, không nói diệt pháp khác?

Đáp: Do tuệ là thù thắng nên chỉ nói tuệ. Trong hết thảy phẩm loại, pháp gì là tối diệu? Đó là tuệ. Cái có thể diệt tuệ, huống chi là không diệt các pháp khác. Như một người có thể đánh thắng ngàn kẻ địch, thì đối với những kẻ nhỏ yếu, tức có thể chế ngự. Như thế, cái có thể diệt tuệ, huống gì là pháp khác.

Hỏi: Vì sao kiết của cõi sắc, vô sắc không lập làm cái?

Đáp: Vì cái khi trừ bỏ dục của ba cõi, có thể tạo ra chướng ngại. Còn kiết của cõi sắc, vô sắc, lúc trừ bỏ kiết của ba cõi thì không thể gây chướng ngại, thế nên chúng không lập làm cái.

Hoặc nói: Cái gây tạo chướng ngại đối với chánh thọ và chướng ngại đối với quả, không phải là kiết của cõi sắc, vô sắc gây chướng ngại cho chánh thọ và quả. Thế nên các kiết kia không lập làm cái.

Hoặc cho: Cái gây tạo chướng ngại đối với đạo quả của chín trí đoạn, không phải là kiết của cõi sắc, vô sắc gây chướng ngại cho đạo quả của chín trí đoạn.

Hoặc nêu: Cái gây tạo chướng ngại đối với chín chánh thọ thứ đệ, không phải là kiết của cõi sắc, vô sắc gây chướng ngại cho chín chánh thọ thứ đệ.

Hoặc nói: Cái gây tạo chướng ngại đối với việc thành tựu bốn quả Sa-môn, không phải là kiết của cõi sắc, vô sắc gây chướng ngại cho bốn quả Sa-môn.

Hoặc nêu: Cái gây tạo chướng ngại đối với ba tam muội, không phải là kiết của cõi sắc, vô sắc gây chướng ngại cho ba tam muội.

Hoặc cho: Cái gây tạo chướng ngại cho ba địa, không phải là kiết của cõi sắc, vô sắc gây chướng ngại cho ba địa.

Hoặc nói: Cái gây tạo chướng ngại đối với ba căn, không phải là kiết của cõi sắc, vô sắc gây chướng ngại cho ba căn.

Hoặc cho: Cái gây tạo chướng ngại nơi ba đạo, không phải là kiết của cõi sắc, vô sắc gây chướng ngại nơi ba đạo.

Hoặc nêu: Cái gây tạo chướng ngại đối với ba tuệ (Văn tuệ, Tư tuệ, Tu tuệ), không phải là kiết của cõi sắc, vô sắc gây chướng ngại đối với ba tuệ. Nêu bày như thế, tư duy như thế, khởi xuất yếu như thế, đều nên nhận biết.

Hoặc nói: Cái gây tạo chướng ngại đối với ba chánh thọ, không phải là kiết của cõi sắc, vô sắc gây chướng ngại đối với ba chánh thọ. Như thế, ba giới, ba tư duy, ba pháp thân, đều nên biết cũng như vậy.

Hoặc cho: Cái hoàn toàn là bất thiện, không phải là kiết của cõi sắc, vô sắc hoàn toàn là bất thiện.

Tôn giả Cù Sa cũng nói: Tất cả kiết tức nên đều là bất thiện, vì trái với Thánh đạo, chỉ vì lỗi của cái là hơn hết, nên nói cái hoàn toàn là bất thiện. Như nơi Khế kinh Phật nói: Vô minh che chấp, ái trói buộc. Như thế, kẻ ngu có được thân này, người trí tuệ cũng vậy.

Hỏi: Như vô minh cũng có thể là cái, cũng có thể là kiết. Ái cũng có thể là kiết, cũng có thể là cái. Vì sao? Vì vô minh là nói về che lấp, ái là nói về trói buộc?

Đáp: Nên nói những không nói, là Đức Thế Tôn nói chưa trọn vẹn, là nói về nghĩa hiện có, nghĩa của môn loại, nghĩa tóm lược, nghĩa về độ cần biết.

Hoặc cho: Đây là hiện bày về hai môn, hai tóm lược, hai độ, hai ngọn đuốc, hai ánh sáng, hai hào quang, hai số. Như vô minh nói về cái cũng nên nói về kiết. Như ái nói về kiết cũng nên nói về cái. Thế nên nói hiện bày về hai môn, hai tóm lược, hai độ, hai ngọn đuốc, hai ánh sáng, hai hào quang, hai số.

Hoặc nêu: Trước đã nói chướng ngại là nghĩa của cái, lại không có hai kiết, khiến cho tuệ nhãn của chúng sinh này bị chướng ngại, như vô minh trước đã nói. Nghĩa trói buộc là nghĩa của kiết, lại không có hai kiết, khiến cho chúng sinh ấy bị trói buộc trong sinh tử, như ái. Như chúng sinh này đã bị vô minh làm mù lòa, ái trói buộc. Như thế tức không thể đạt đến Niết-bàn.

Như người có hai kẻ thù oán: (1) Một kẻ đến gần dùng một nắm đất bụi tung vào mắt. (2) Một kẻ đến gần rồi dùng dây trói tay chân lại. Người kia mắt bị bụi, lại bị trói buộc tay chân, nên không thể đi đến nơi chốn. Như chúng sinh này đã bị vô minh làm mù mắt, bị ái trói buộc, như thế tức không thể đạt đến Niết-bàn. Do đấy nên nói tụng:

Vô minh hay khiến mù

Ái buộc chúng sinh chết

Kẻ trong ấy chỉ được

Các pháp ác, bất thiện.

Ở đây, nêu dụ về Lân na, Ma thúc. Tức nói có hai kẻ cướp: (1) Lân na. (2) Ma thúc. Khi muốn cướp của người kia, một tên đến gần, rồi dùng một nắm đất bụi tung vào mắt người ấy. Tên còn lại đến gần xong dùng dây trói tay chân người kia lại. Người kia mắt bị bụi, lại bị trói buộc tay chân, tức không thể có nơi đến. Như thế, chúng sinh ấy đã bị vô minh làm mù mắt, ái trói buộc. Chúng sinh kia đã mù, đã bị trói buộc như thế, nên không thể đạt đến Niết-bàn. Vì thế nên nói tụng:

Vô minh hay khiến mù

Ái buộc chúng sinh chết

Kẻ trong ấy chỉ được

Các pháp ác, bất thiện.

Trong đó, dụ về Lân na, Ma thúc (cũng như trên). Do đấy nên nơi Khế kinh Phật nói: Vô minh nói là cái, ái nói là kiết.

Nói rộng về Xứ năm cái xong.

Phần thứ 8: XỨ NĂM KIẾT

Năm kiết: (1) Kiết ái (tham). (2) Kiết giận. (3) Kiết mạn. (4) Kiết xan (keo kiệt). (5) Kiết tật (ganh ghét).

Hỏi: Năm kiết này dùng gì làm tự tánh?

Đáp: Dùng ba mươi bảy thứ làm tự tánh:

Kiết ái dùng năm thứ ái trong ba cõi là mười lăm thứ. Kiết mạn cũng như thế, tức hai kiết này có ba mươi thứ. Kiết giận có năm thứ nơi cõi dục. Kiết xan và kiết tật là do tư duy (tu đạo) đoạn trừ nên có hai thứ.

Ba mươi bảy thứ này là tánh của năm kiết. Tánh của kiết ấy là thể tướng hiện có nơi thân.

Đã nói về tự tánh của kiết. Tiếp theo là nói về hành.

Hỏi: Vì sao gọi là kiết? Kiết có nghĩa gì?

Đáp: Nghĩa trói buộc là nghĩa của kiết. Nghĩa hệ thuộc nơi khổ là nghĩa của kiết. Nghĩa xen lẫn chất độc là nghĩa của kiết.

Nghĩa trói buộc là nghĩa của kiết: Trói buộc là kiết. Kiết là trói buộc.

Hỏi: Vì sao nhận biết?

Đáp: Khế kinh chép: Tôn giả Ma Ha Câu Hy La đi đến chỗ Tôn giả Xá-lợi-phất hỏi: Thế nào là trói buộc? Mắt trói buộc sắc hay là sắc trói buộc mắt?

Tôn giả Xá-lợi-phất đáp: Này Tôn giả Ma Ha Câu Hy La! Không phải mắt trói buộc sắc, không phải sắc trói buộc mắt. Cho đến ý, pháp cũng như thế: Không phải ý trói buộc pháp, không phải pháp trói buộc ý. Chỉ vì trong ấy có hoặc dâm, hoặc dục là sự trói buộc kia.

Tôn giả Xá-lợi-phất nói tiếp: Ví như hai con bò: một đen, một trắng, có một chiếc ách, một sợi dây buộc chúng với nhau. Nếu có người hỏi thế này: Bò đen trói buộc bò trắng hay bò trắng trói buộc bò đen? Tức nên đáp: Không phải bò đen trói buộc bò trắng, không phải bò trắng trói buộc bò đen. Ở đây chính là chiếc ách và sợi dây là sự trói buộc của hai con bò kia.

Như thế, này Tôn giả Câu Hy La! Không phải mắt trói buộc sắc, không phải sắc trói buộc mắt. Cho đến ý, pháp cũng như vậy: Không phải ý trói buộc pháp, không phải pháp trói buộc ý. Chỉ vì trong ấy có hoặc dâm, hoặc dục là có sự trói buộc kia.

Nghĩa hệ thuộc nơi khổ là nghĩa của kiết: Tức kiết nơi cõi dục, chúng sinh nơi cõi dục hệ thuộc nơi khổ trong cõi dục. Kiết nơi cõi sắc, chúng sinh nơi cõi sắc hệ thuộc nơi khổ trong cõi sắc. Kiết nơi cõi vô sắc, chúng sinh nơi cõi vô sắc hệ thuộc nơi khổ trong cõi vô sắc. Các kiết nơi cõi dục khiến người nơi cõi dục kết hợp với khổ, không phải là vui. Các kiết nơi cõi sắc, vô sắc, khiến người nơi hai cõi đó kết hợp với khổ, không phải là vui.

Nghĩa xen lẫn chất độc là nghĩa của kiết: Nghĩa là sự sống thắng diệu và định hữu lậu như giải thoát, trừ nhập (thắng xứ), nhất thiết nhập (biến xứ) do vì xen tạp với phiền não (kiết) nên Thánh giả chán lìa xem như thức ăn có lẫn chất độc, tuy có ngon ngọt, người trí vẫn tránh xa.

Đây tức nói nghĩa trói buộc là nghĩa của kiết. Nghĩa hệ thuộc nơi khổ là nghĩa của kiết. Nghĩa xen lẫn chất độc là nghĩa của kiết.

Nói rộng về Xứ năm kiết xong.

*

Phần thứ 9: XỨ NĂM KIẾT PHẦN DƯỚI

Năm kiết phần dưới: (1) Dục ái (tham dục). (2) Giận dữ. (3) Thân kiến. (4) Giới đạo (giới cấm thủ). (5) Nghi.

Hỏi: Năm kiết phần dưới này dùng gì làm tự tánh?

Đáp: Dùng ba mươi mốt thứ làm tự tánh:

Kiết dục ái dùng năm thứ dục ái nơi cõi dục, hiện có nơi sáu thức thân. Kiết giận dữ dùng năm thứ giận dữ nơi cõi dục, hiện có nơi sáu thức thân. Kiết thân kiến nơi ba cõi một thứ là ba thứ. Kiết giới đạo nơi ba cõi hai thứ là sáu thứ. Kiết nghi nơi ba cõi bốn thứ là mười hai thứ.

Ba mươi mốt thứ này là tánh của năm kiết phần dưới. Tánh của kiết phần dưới này là thể tướng hiện có nơi thân.

Đã nói về tự tánh, tiếp theo là nói về hành.

Hỏi: Vì sao gọi là kiết phần dưới? Kiết phần dưới có nghĩa gì?

Đáp: Vì rơi xuống cõi dưới, là do cõi dưới đoạn trừ, là trói buộc chúng sinh nơi cõi dưới, nên nói là kiết phần dưới. Cõi dưới là cõi dục.

Hỏi: Nếu rơi xuống cõi dưới là nghĩa của kiết phần dưới, thì tất cả kiết đều rơi xuống cõi dưới. Như ba mươi sáu sử của cõi dục, hai mươi tám sử của xứ Hữu tưởng vô tưởng đều rơi xuống cõi dưới, trói buộc cõi dưới, do cõi dưới đoạn trừ. Nhân có từng ấy sử thuộc cõi dưới, nên kiết phần dưới phải lập là vô lượng. Vì sao chỉ lập năm kiết phần dưới?

Đáp: Đây là Đức Thế Tôn giảng nói tóm lược, chưa trọn vẹn, vì muốn khiến người nghe theo lời nói để hành trì nhằm giáo hóa chúng sinh.

Hoặc nói: Đức Phật – Thế Tôn đối với pháp luôn thấu đạt thông tỏ, không ai có thể vượt hơn. Đức Phật nhận biết đầy đủ về pháp tướng, về các hành. Nếu pháp có tướng của kiết phần dưới thì lập làm kiết phần dưới, nếu không có tướng thì không lập.

Hoặc nói: Dưới có hai loại: (1) Cõi dưới. (2) Địa dưới. Cõi dưới là cõi dục. Địa dưới là hàng phàm phu. Như chúng sinh ấy không thể vượt qua cõi dưới. Vì sao? Vì do nơi các kiết dục ái, giận dữ. Không thể vượt qua địa dưới. Vì sao? Vì do nơi các kiết thân kiến, giới đạo, nghi.

Lại nói dưới có hai thứ: (1) Cõi dưới. (2) Chúng sinh dưới. Cõi dưới là cõi dục. Chúng sinh dưới là hàng phàm phu. Như chúng sinh ấy không thể vượt qua cõi dưới. Vì sao? Vì do nơi các kiết dục ái, giận dữ. Không thể vượt qua chúng sinh dưới. Vì sao? Vì do nơi các kiết thân kiến, giới đạo, nghi.

Hoặc nói: Các kiết kia giống như người canh giữ cửa ngục. Như người bị giam giữ ở trong ngục, có hai người canh giữ cửa ngục và ba người tuần tra bên ngoài. Nếu tù nhân này gây phương tiện tổn hại cho người giữ cửa ngục, như phá cửa ngục chạy trốn, thì ba người tuần tra bên ngoài tùy theo khoảng cách xa gần của người tù kia, bắt dẫn trở lại, giam nhốt trong ngục. Ngục tù ở đây tức dụ cho cõi dục. Tù nhân dụ cho hàng phàm phu ngu tối. Hai cai ngục dụ cho hai kiết đầu. Ba người tuần tra dụ cho ba kiết sau. Như thế, nếu có chúng sinh dùng quán bất tịnh trừ bỏ dục ái, lại dùng quán từ bi trừ bỏ giận dữ, lìa dục cho đến xứ đệ nhất hữu (Xứ vô sở hữu) thì kẻ kia cũng bị ba kiết thân kiến, giới đạo và nghi bắt giữ dẫn trở lại giam nơi cõi dục.

Tôn giả Cù Sa cũng nói: Do hai kiết phần dưới chưa đoạn hết, chưa nhận biết khắp, nên không thể thoát khỏi ngục cõi dục. Do ba kiết phần dưới chưa đoạn hết, chưa nhận biết khắp, nên tuy ở nơi xứ đệ nhất hữu cũng bị dẫn trở lại, trói buộc trong ngục cõi dục.

Tôn giả Bà Bạt La Trà cũng nói: Vì bị hai kiết phần dưới trói buộc, nên không thể ra khỏi. Vì ba kiết phần dưới chưa đoạn hết, nên phải trở lại trong cõi dục.

Hoặc nói: Đây là hiện bày môn, hiện bày tóm lược. hiện bày độ. Nếu có từng ấy kiết, hoặc một thứ, hai thứ, bốn thứ, năm thứ. Nói về thân kiến nên biết là nói một thứ. Nói về giới đạo nên biết là nói hai thứ. Tuy không có hai kiết khác có thể đạt được hai thứ, nên biết tức giới đạo kia cùng pháp tương ưng với giới đạo là hai thứ. Nói về nghi nên biết là nói bốn thứ. Nói về dục ái, giận dữ nên biết là nói năm thứ. Thế nên gọi là hiện bày môn, hiện bày tóm lược, hiện bày độ. Do đấy nên Đức Thế Tôn lập năm kiết phần dưới.

Nếu hỏi vì sao hai kiết đầu (dục ái, giận dữ) được lập làm kiết phần dưới, nên đáp rộng như trong xứ ba căn bất thiện. Nếu hỏi vì sao ba kiết sau (thân kiến, giới đạo, nghi) được lập làm kiết phần dưới, nên đáp rộng như trong xứ ba kiết.

Như nơi Khế kinh Phật nói: Các Tỳ-kheo! Các ông nên thọ trì năm kiết phần dưới như Ta trước đây đã chỉ rõ chăng? Các Tỳ-kheo đều im lặng. Đức Thế Tôn lại ba lần nói với các Tỳ-kheo về việc thọ trì năm kiết phần dưới như mình đã chỉ rõ không? Các Tỳ-kheo cũng lại ba lần im lặng.

Bấy giờ, Tôn giả Man Đồng Chân cũng ở trong chúng, đã từ tòa ngồi đứng dậy, sửa lại y phục, trịch áo vai bên phải, chấp tay hướng về Đức Thế Tôn, bạch: Bạch Đức Thế Tôn! Con đã thọ trì năm kiết phần dưới như Đức Thế Tôn đã chỉ rõ.

Đức Thế Tôn bảo Tôn giả Man Đồng Chân: Này Man Đồng Chân! Thế nào là thọ trì năm kiết phần dưới như Ta đã chỉ rõ?

Tôn giả Man Đồng Chân thưa: Đức Thế Tôn đầu tiên nói dục ái là kiết phần dưới, con đã thọ trì. Giận dữ, thân kiến, giới đạo, nghi, Đức Thế Tôn đã nói chúng là kiết phần dưới, con đã thọ trì.

Đức Thế Tôn nói: Này Man Đồng Chân! Thế nào là thọ trì lấy năm kiết phần dưới như Ta đã chỉ rõ? Từ nơi lời nói nào để thọ trì năm kiết phần dưới như Ta đã nói? Ta không nói toàn bộ. Ông là người ngu tối nên lại nói là toàn bộ.

Hỏi: Như năm kiết phần dưới này, trong tất cả Khế kinh Phật đã nói, vì sao Đức Thế Tôn lại quở trách Man Đồng Chân?

Đáp: Tôn giả Man Đồng Chân cho hành là kiết nên nêu bày như thế. Tôn giả nói: Nếu hành là kiết thì chẳng hành tức chẳng phải là kiết. Đức Thế Tôn cho chưa dứt trừ hết là kiết nên đã quở trách. Đức Thế Tôn nói: Kiết là hành, chẳng hành, hành chưa trọn vẹn đều là kiết.

Hoặc nói: Tôn giả Man Đồng Chân cho kiết được hiện bày ở trước, nên nói như thế. Tôn giả nói: Nếu kiết đã hiện bày ở trước, tức là kiết, không hiện bày ở trước thì không phải là kiết. Đức Thế Tôn cho kiết đã tạo thành là kiết, nên quở trách. Đức Thế Tôn nói: Kiết nếu đã hiện bày ở trước, hoặc không hiện bày ở trước, nói chung các kiết đã hình thành đều là kiết.

Do sự việc này, nên dùng dụ về việc quở trách trẻ con để quở trách.

Man Đồng Chân đối với các chúng dị học kia đã không dùng dụ về việc quở trách trẻ con ấy để chê trách họ chăng? Man Đồng Chân cho như hàng trẻ con tuổi nhỏ chưa có ý dục, vì muốn khiến người kia không có sử dục, chỉ vì bị sai khiến, nên gọi là sử dục ái.

Hoặc cho: Tôn giả Man Đồng Chân cho kiết là ở hiện tại, nên nói như thế. Tôn giả Man Đồng Chân nói: Nếu kiết ở hiện tại là kiết, thì các kiết khác không phải là kiết. Đức Thế Tôn nói kiết ở cả ba đời, nên đã quở trách.

Hoặc nêu: Tôn giả Man Đồng Chân cho kiết chưa dứt hết là kiết nên nói như thế. Tôn giả Man Đồng Chân nói: Nếu kiết chưa dứt hết là kiết thì các kiết khác không phải là kiết. Đức Thế Tôn nói kiết đã dứt hết, chưa dứt hết đều là kiết, nên đã quở trách.

Vì lý do này, nên Đức Phật – Thế Tôn đã quở trách Tôn giả Man Đồng Chân.

Nói rộng về Xứ năm kiết phần dưới xong.

*

Phần thứ 10: XỨ NĂM KIẾT PHẦN TRÊN

Năm kiết phần trên: (1) Sắc ái (Ái của cõi sắc). (2) Vô sắc ái (Ái của cõi vô sắc). (3) Điệu (trạo cử). (4) Mạn. (5) Vô minh.

Hỏi: Năm kiết phần trên này dùng gì làm tự tánh?

Đáp: Dùng tám thứ làm tự tánh. Sắc ái: Ái của cõi sắc do tư duy (tu đạo) đoạn là một thứ. Vô sắc ái: Ái của cõi vô sắc do tư duy đoạn là một thứ. Điệu, mạn, vô minh do tư duy của cõi sắc, vô sắc đoạn là sáu thứ. Tám thứ này là tánh của năm kiết phần trên. Tánh của kiết phần trên là thể tướng hiện có nơi thân.

Đã nói về tự tánh của năm kiết phần trên. Tiếp theo là nói về hành.

Hỏi: Vì sao gọi là kiết phần trên? Phần trên có nghĩa gì?

Đáp: Nghĩa dẫn đến cõi trên, sinh nơi cõi trên, trói buộc chúng sinh nơi cõi trên, nên gọi là phần trên. Cõi trên là cõi sắc, vô sắc.

Hỏi: Nếu dẫn đến cõi trên, sinh nơi cõi trên, trói buộc chúng sinh nơi cõi trên nói là phần trên, thì không nên lập lưu. Vì ở đây cũng bị trôi xuống các cõi, các nẻo, các loài, lưu chuyển trong sinh tử?

Đáp: Không phải như thế.

Hỏi: Nếu không như vậy thì sự việc này là thế nào?

Đáp: Vì các cõi nên lập kiết phần trên. Vì kiết kia bị dẫn đến cõi trên, khiến sinh lên cõi trên, trói buộc chúng sinh nơi cõi trên. Vì giải thoát, vì chánh trí, vì Thánh đạo và vì pháp thiện nên lập lưu. Từ ly sinh đến trong xứ đệ nhất hữu, nên nói là dưới. Vì giải thoát, vì chánh trí, vì Thánh đạo và vì pháp thiện nên lập lưu.

Tôn giả Bà Bạt La Trà cũng nói: Sinh lên trên, trôi xuống dưới trong thời gian lâu, thế nên gọi là lưu.

Hoặc nói: Kiết phần trên này là sinh lên cõi trên, không sinh xuống cõi dưới.

Hỏi: Ở đây nhân luận sinh luận: Vì sao năm kiết phần trên sinh nơi cõi trên, không sinh ở cõi dưới?

Đáp: Kiết do kiến đế (kiến đạo), do tư duy (tu đạo) đoạn cũng sinh nơi cõi trên, cũng sinh nơi cõi dưới. Còn kiết phần trên này hoàn toàn do tư duy (tu đạo) đoạn. Vì thế nên sinh nơi cõi trên, không sinh ở cõi dưới.

Hoặc nói: Những kiết phần trên chỉ do các bậc Thánh giả có thể đoạn trừ được không phải là phàm phu. Trong hàng Thánh giả thì A-na-hàm có thể đoạn trừ được không phải là Tu-đà-hoàn, Tưđà-hàm.

Hỏi: Ở đây cũng nhân luận sinh luận: Vì sao bậc A-na-hàm đối với kiết phần trên có thể đoạn trừ được, không phải là Tu-đà-hoàn, Tư-đà-hàm?

Đáp: Tức sự việc kia như đã nói ở trên. Tức bậc Thánh kia sinh nơi cõi trên, không sinh nơi cõi dưới. Như Tu-đà-hoàn, Tư-đà-hàm cũng sinh lên cõi trên, cũng sinh xuống cõi dưới, còn A-na-hàm thì hoàn toàn sinh nơi cõi trên, không sinh nơi cõi dưới.

Hoặc nói: Nghĩa là vượt qua cõi và đắc quả. Cõi vượt qua là cõi dục. Đắc quả là quả A-na-hàm. Bậc Tu-đà-hoàn, Tư-đà-hàm tuy đắc quả nhưng chưa vượt qua cõi.

Hoặc cho: Tức là vượt qua cõi và năm kiết phần dưới vĩnh viễn đoạn trừ hết, nhận biết khắp. Tu-đà-hoàn, Tư-đà-hàm cũng không vượt qua cõi, cũng không vĩnh viễn đoạn trừ hết, nhận biết khắp các kiết phần dưới.

Hoặc nêu: Nói đắc quả, hành tác các công đức, không hành ác. Tu-đà-hoàn, Tư-đà-hàm tuy đắc quả, nhưng họ cũng hành tác các công đức, cũng hành ác.

Hoặc nói: Nghĩa là đắc quả, không đồng với các hành sự chuyển biến của hàng phàm phu. Tu-đà-hoàn, Tư-đà-hàm tuy đắc quả, nhưng còn đồng với các hành sự chuyển biến của hàng phàm phu. Tức luôn hiện bày các động tác, dấy khởi hành nơi thân, miệng, ở chung với vợ con, cất giữ vàng bạc, các thứ hương chiên đàn, đeo tràng hoa, thân nằm giường cao rộng, tiếp xúc với người nữ, cả hai gần nhau. A-na-hàm thì hoàn toàn không có các sự việc này.

Hoặc cho: Sau khi đắc quả, không còn trở lại thế gian, không vào thai mẹ, không có liên hệ với tù ngục, không còn ở trong sinh tạng, thục tạng nữa. Tu-đà-hoàn, Tư-đà-hàm tuy được quả, nhưng vẫn còn có những sự việc này.

Do đấy nên năm kiết phần trên bậc A-na-hàm có thể đoạn trừ được không phải là các vị khác.

Hỏi: Vì sao một ái được lập làm hai kiết phần trên, còn điệu (trạo cử) mạn, vô minh chỉ lập một?

Đáp: Tức nên lập, nếu chưa lập nên biết là do Đức Thế Tôn giảng nói chưa trọn vẹn. Hoặc đây là nhằm hiện bày về nghĩa môn, nghĩa tóm lược, nghĩa độ.

Hoặc nêu: Đức Phật – Thế Tôn đối với pháp luôn thấu đạt thông tỏ, không ai có thể vượt hơn. Đức Phật nhận biết đầy đủ về pháp tánh, về các hành tướng, đối với các pháp có thể đảm nhận riêng thì lập, không thể đảm nhận thì không lập.

Hoặc nói: Đây là hiện nêu về hai môn, hai tóm lược, hai độ, hai ngọn đuốc, hai ánh sáng, hai hào quang, hiện nêu hai số. Như ái được lập làm hai kiết phần trên, như thế điệu, mạn, vô minh cũng nên lập hai. Như điệu, mạn, vô minh chỉ lập một kiết phần trên, thì ái cũng nên lập một. Tức kiết phần trên ấy nên có bốn, hoặc có tám. Do vậy nói là hiện nêu về hai môn, cho đến hiện nêu hai số.

Hoặc cho: Ái được đoạn trừ ở cõi, đoạn trừ ở địa, đoạn trừ ở chủng loại.

Hoặc nêu: Vì ái đã khiến tất cả kiết hưng thịnh, nên ái được lập làm hai kiết phần trên. Điệu, mạn, vô minh chỉ được lập một.

Hỏi: Như thùy (hôn trầm), điệu (trạo cử), cả hai đều cùng có, nơi ba cõi có năm thứ. Tất cả tâm nhiễm ô đều có cả hai thứ. Vì sao điệu lập làm kiết phần trên, không lập thùy?

Đáp: Vì Đức Phật – Thế Tôn đối với pháp luôn thấu đạt thông tỏ, không ai có thể vượt hơn. Đức Phật nhận biết đầy đủ về pháp tánh, về các hành. Nếu pháp có tướng của phần trên thì lập làm kiết phần trên, không có thì không lập.

Hoặc nói: Đây là nói do điệu tạo nhiều tai hại, lỗi nặng, nhiều khổ, do đấy nên luận của Tôn giả Bà-tu-mật lập làm bất thiện trong đại địa. Do có nhiều tai hại, nên Luận Thi Thiết nói: Lúc phàm phu khởi sử dục liền phát sinh năm pháp: (1) Sử dục ái. (2) Chủng tử của sử dục ái. (3) Sử vô minh. (4) Chủng tử của sử vô minh. (5) Điệu (Trạo cử).

Vì điệu có nhiều tai hại nên trong A-tỳ-đàm chương Kiền Độ Tạp hỏi: Thế nào là sử vô minh không chung? Thế nào là triền điệu không chung? Còn thùy thì không như thế, nên không lập thùy làm kiết phần trên.

Hoặc cho: Điệu này đối với bốn chi, năm chi định có thể làm nhiễu loạn. Còn thùy thì tùy thuận nơi định.

Lại nữa, nếu thùy nơi tâm hưng thịnh thì sẽ nhanh chóng phát khởi định, không phải làm chướng ngại định như điệu, nên điệu được lập làm kiết phần trên, không lập thùy.

Hỏi: Năm kiết phần trên, điệu là tánh của kiết hay không phải là tánh của kiết?

Nếu là tánh của kiết thì như nơi Luận của Tôn giả Bà-tu-mật nói làm sao thông? Luận kia nói: Thế nào là pháp kiết? Là chín kiết. Thế nào là pháp không phải kiết? Là trừ chín kiết, là các pháp còn lại.

Nếu không phải là tánh của kiết, thì như Luận này nói làm sao thông? Như ở đây nói năm kiết phần trên là sắc ái, vô sắc ái, điệu, mạn, vô minh?

Đáp: Nên nói là tánh của kiết.

Hỏi: Nếu như thế tức trong Luận này lập điệu làm năm kiết phần trên. Còn như nơi Luận của Tôn giả Bà-tu-mật đã nói làm sao thông?

Đáp: Các Sư nước ngoài đã tụng khác với đây. Nghĩa là các Sư ấy tụng: Thế nào là pháp kiết? Là chín kiết và điệu trong kiết phần trên. Thế nào là pháp không phải kiết? Là các pháp còn lại, trừ chín kiết cùng điệu trong kiết phần trên.

Hỏi: Vì sao các Sư ở nước Kế Tân không tụng như các Sư kia?

Đáp: Các Sư ở đây cũng nên tụng như thế, nhưng không tụng là có ý riêng. Do điệu kia đã không quyết định là kiết, không phải là kiết. Nghĩa là tánh của điệu phần ít là kiết tức ở nơi hai cõi trên. Phần ít không phải là kiết tức ở nơi cõi dục. Hoặc có trường hợp là kiết tức kiết do Thánh giả khởi. Hoặc có trường hợp không phải là kiết tức do phàm phu khởi. Có phần vị là kiết tức Thánh giả lìa nhiễm nơi cõi dục khởi. Có phần vị không phải là kiết tức Thánh giả chưa lìa nhiễm nơi cõi dục mà khởi.

Hỏi: Ở đây cũng nhân luận sinh luận: Vì sao điệu ở cõi sắc, vô sắc được lập làm kiết, còn ở cõi dục không lập làm kiết?

Đáp: Vì cõi dục không phải là cõi định, không phải là địa tư duy, không phải là địa đoạn trừ dục, kiết trong cõi dục này như ngựa không cương, nên ở cõi dục điệu không hiện rõ. Cõi sắc, vô sắc là cõi định, là địa tư duy, là địa đoạn trừ dục, kiết ở hai cõi ấy không như ngựa không cương, nên điệu (trạo cử) nơi hai cõi sắc, vô sắc kia được hiện rõ. Vì vậy điệu của cõi sắc, vô sắc được lập làm kiết, còn điệu của cõi dục thì không lập.

Hoặc nói: Ở cõi dục có nhiều thứ phiền não phi pháp như phẫn hận v.v… che ngăn điệu khiến điệu không hiện rõ, nên không lập làm kiết. Ở cõi sắc, vô sắc không có các thứ phiền não phi pháp như thế che ngăn điệu, điệu ở hai cõi này luôn hiện rõ nên lập làm kiết.

Hoặc cho: Cõi dục này không phải là cõi định, không phải là địa tư duy, không phải là địa đoạn trừ dục. Nơi cõi này không có định thù thắng để nhận biết điệu có thể làm nhiễu loạn tâm ý. Cõi sắc, vô sắc là cõi định, là địa tư duy, là địa đoạn trừ dục, có định tuệ thù thắng nhận biết điệu kia tạo nhiễu loạn nên lập làm kiết.

Do vậy nên điệu của cõi sắc, vô sắc được lập làm kiết. Điệu của cõi dục không lập.

Nói rộng về Xứ năm kiết phần trên xong.

*

Phần thứ 11: XỨ NĂM KIẾN

Năm kiến: (1) Thân kiến. (2) Biên kiến. (3) Tà kiến. (4) Kiến đạo (Kiến thủ). (5) Giới đạo (Giới cấm thủ).

Hỏi: Năm kiến này dùng gì làm tự tánh?

Đáp: Dùng ba mươi sáu thứ làm tự tánh: Thân kiến nơi ba cõi có một thứ, là ba thứ. Biên kiến cũng như thế (ba thứ). Tà kiến nơi ba cõi có bốn thứ, là mười hai thứ. Kiến đạo cũng như vậy (mười hai thứ). Giới đạo ở ba cõi có hai thứ, là sáu thứ. Ba mươi sáu thứ này là tánh của năm kiến. Tánh của kiến này là thể tướng hiện có nơi thân.

Đã nói về tự tánh của năm kiến. Tiếp theo là nói về hành.

Hỏi: Vì sao gọi là kiến? Kiến có nghĩa gì?

Đáp: Do quán, hành, chấp chặt, vào sâu nơi đối tượng duyên.

Quán: Nghĩa là có thể nhìn, xem xét.

Hỏi: Như kiến này đã là quán tà, quán điên đảo, vì sao gọi là nhìn, xem xét?

Đáp: Tuy là quán tà, quán điên đảo, song kiến này là tuệ, nên gọi là nhìn, xem xét. Đây là tánh của tuệ. Như người trông thấy, tuy không rõ ràng cũng gọi là thấy. Quán tà, quán điên đảo như thế, nhưng kiến này là tuệ, nên gọi là nhìn xem. Đây là tánh của tuệ nên gọi là quán.

Hành: Nghĩa là có thể có đối tượng hành.

Hỏi: Chỉ trong khoảng một lúc làm sao hành?

Đáp: Do nhanh nhẹn, nhạy bén, nên gọi là hành.

Chấp chặt: Nghĩa là chấp giữ chặt các sự việc tà vạy. Những sự việc tà vạy do kiến này chấp giữ là hết sức kiên cố, nếu không phải là dao bén Thánh đạo thì không thể dứt bỏ. Như Đức Phật và các đệ tử Phật đã dùng dao bén Thánh đạo để đoạn mầm kiến kia, sau đấy mới trừ bỏ hẳn. Do đó nên nói tụng:

Nếu nhận tuệ ác

Như răng cá cắn

Thất Tao Ma ngậm

Phải búa mới lìa.

Có thuyết nói: Trong biển cả có loài vật tên Thất-tao-ma-la. Con vật này nếu khi bị nó ngậm phải, hoặc là cỏ, hoặc là cây thì càng ngậm rất chắc, nếu không dùng dao, tất không nhả ra. Chính là dùng dao chặt gẫy răng vật Thất-tao-ma-la, sau đó mới thoát khỏi. Như thế, các sự việc tà vạy do kiến này chấp giữ là rất kiên cố, nếu không phải dao của Thánh đạo thì không thể dứt bỏ. Nếu Đức Phật, đệ tử Phật phát khởi, thì dùng dao Thánh đạo đoạn dứt mầm kiến, sau đấy mới trừ bỏ hẳn. Nên nói là chấp chặt.

Vào sâu nơi đối tượng duyên: Nghĩa là tánh mạnh mẽ, nhạy bén, vào sâu nơi đối tượng duyên, như cây kim găm sâu xuống bùn, nên gọi là kiến.

Hoặc nói: Do hai sự việc nên gọi là kiến: Là ngắm nhìn kỹ và suy đoán quyết định.

Hoặc cho: Lại do hai sự việc nên gọi là kiến: Là tướng kia thành tựu và sự việc kia đã xong.

Hoặc nêu: Do ba sự việc nên gọi là kiến: Là tướng kia đã thành tựu, sự việc kia đã xong, và vào sâu nơi đối tượng duyên.

Hoặc nói: Lại do ba sự việc nên gọi là kiến: Vì ý ưa thích, chấp trước, suy cứu.

Hoặc cho: Lại do ba sự việc nên gọi là kiến: Vì ý ưa thích, vì phương tiện, vì không nhận biết. Ý ưa thích: Là ý xấu ác. Phương tiện: Là phương tiện xấu ác. Không nhận biết: Là hai sự việc ấy đều cùng có.

Lại nói: Ý ưa thích: Là tu định tà. Phương tiện: Là cầu tìm tà. Không nhận biết: Là nghe pháp tà.

Như thế, về hành chung đã nói xong. Nay sẽ nói về hành riêng.

Hỏi: Vì sao gọi là Thân kiến?

Đáp: Vì kiến này ở nơi tự thân hành chuyển, nên nói là Thân kiến.

Hỏi: Như kiến khác cũng ở nơi tự thân hành chuyển, vì sao chỉ nói một thân kiến, không nói các kiến khác?

Đáp: Vì thân kiến này hoàn toàn ở nơi tự thân hành chuyển, không phải ở nơi thân khác hành chuyển, cũng không phải ở nơi không phải là thân. Các kiến khác cũng ở nơi tự thân hành chuyển, cũng ở nơi thân khác hành chuyển, cũng ở nơi không phải là thân hành chuyển.

Ở nơi tự thân hành chuyển: Nghĩa là duyên nơi cõi của mình.

Ở nơi thân khác hành chuyển: Nghĩa là duyên nơi cõi khác.

Ở nơi không phải là thân hành chuyển: Nghĩa là duyên nơi tận đạo.

Thân kiến này hoàn toàn ở nơi tự thân hành chuyển, không phải ở nơi thân khác hành chuyển, không phải ở nơi không phải là thân hành chuyển. Thế nên nói có một thân kiến, không phải là thứ khác.

Hoặc nói: Ở nơi tự thân hành chuyển là ngã, là hành chuyển của ngã. Đây là hành tướng của thân. Các kiến khác tuy ở nơi tự thân hành chuyển, nhưng không có sự việc này.

Hoặc cho: Ở nơi tự thân hành chuyển là ngã tạo tác, là hành chuyển của ngã tạo tác, nên gọi là thân kiến. Các kiến khác tuy ở nơi tự thân hành chuyển, nhưng không có sự việc ấy.

Hoặc nêu: Ở nơi tự thân hành chuyển là hành tham đắm, luyến tiếc, là hành chuyển của ngã sở hành tác, nên gọi là thân kiến. Các kiến khác tuy ở nơi tự thân hành chuyển, nhưng không có sự việc ấy.

Hoặc nói: Ở nơi tự thân hành chuyển là những sự việc thuộc ngã thọ, đều là hành chuyển của tự thân hành tác, nên gọi là thân kiến. Các kiến khác tuy ở nơi tự thân hành chuyển, nhưng không có sự việc ấy.

Hoặc cho: Vì chấp giữ tự thân nên gọi là thân kiến. Tự thân là năm thạnh ấm (năm thủ ấm). Kiến này chấp giữ năm thủ ấm kia, nên gọi là thân kiến. Các kiến khác tuy ở nơi tự thân hành chuyển, nhưng không có sự việc ấy.

Hỏi: Vì sao gọi là Biên kiến?

Đáp: Vì chấp giữ hai biên, nên gọi là Biên kiến. Hai biên: Là đoạn và thường. Vì kiến này chấp giữ hai biên kia, nên gọi là Biên kiến. Như nơi Khế kinh kia nói: Này Ca-chiên-diên! Tập khởi của thế gian nên chánh quán như thật về có của thế gian chẳng phải là có. Như quán ấm, trì, nhập lần lượt cùng sinh, liền khởi suy nghĩ: Những thứ này sinh khởi rồi diệt, chẳng phải là thường. Này Cachiên-diên! Diệt của thế gian nên chánh quán như thật về không của thế gian chẳng phải là có. Như quán thân chuyển sinh lên cõi trên, liền khởi suy nghĩ: Thân này sau cùng cũng sinh, chẳng phải là đoạn.

Hoặc nói: Kiến này nhân nơi hai hành chuyển biến là hành đoạn và hành thường, nên gọi là Biên kiến.

Hoặc cho: Các hàng dị học kia chấp giữ sai lạc, chấp giữ ngu si, chấp giữ bất chánh, cho là có ngã, ngã ấy hoặc thường, hoặc đoạn.

Như nơi Khế kinh Phật nói: Các Tỳ-kheo! Ta không cùng với thế gian tranh luận, nhưng thế gian lại cùng với Ta tranh luận.

Hỏi: Vì sao Đức Thế Tôn không cùng với thế gian tranh luận?

Đáp: Vì Đức Thế Tôn khéo thể hiện sự bình đẳng, có thể cộng sự, không nói lời thô ác. Nếu hàng dị học theo đoạn kiến cùng biện luận, dị học theo đoạn kiến kia cho có nhân nhưng không có quả, tức cho quả kia là đoạn. Đức Thế Tôn nói: Ông có nhân, Ta cũng có nhân. Nhưng ông hủy báng quả, ông tự nên nhận biết.

Nếu hàng dị học theo thường kiến cùng biện luận, dị học theo thường kiến kia cho không có nhân nhưng có quả, tức cho quả kia là không nhân, là có thường. Đức Thế Tôn nói: Ông có quả, Ta cũng có quả. Nhưng ông hủy báng nhân, ông tự nên nhận biết.

Đức Thế Tôn chọn lấy nhân của một biên, quả của hai biên, tức lìa hai nẻo đoạn, thường, ở nơi trung đạo để thuyết pháp. Thế nên nói: Tỳ-kheo! Ta không cùng với thế gian tranh luận, nhưng thế gian lại cùng với Ta tranh luận.

Tôn giả Bà-tu-mật nói: Như Đức Thế Tôn nói: Tỳ-kheo! Ta không cùng với thế gian tranh luận, nhưng thế gian lại cùng với Ta tranh luận.

Hỏi: Vì sao Đức Phật không cùng với thế gian tranh luận, nhưng thế gian lại cùng với Đức Phật tranh luận?

Đáp: Vì Đức Thế Tôn nói pháp, thế gian nói phi pháp, nên không thể nói pháp cùng với nói phi pháp tranh biện.

Lại nói: Đức Thế Tôn tùy thuận ở trong thứ bậc của thế gian, còn thế gian thì không tùy thuận nơi đệ nhất nghĩa của Đức Thế Tôn. Thế nên nói: Tỳ-kheo! Ta không cùng với thế gian tranh luận.

Lại cho: Vì khéo dứt trừ cội rễ của hai thứ tranh chấp. Gốc rễ của hai thứ tranh chấp ấy là ái và kiến. Hai thứ này, Đức Thế Tôn đã đoạn dứt hết, còn thế gian thì chưa đoạn dứt hết. Thế nên nói: Tỳkheo! Ta không cùng với thế gian tranh luận.

Tôn giả Đàm-ma-đa-la nói: Chư tôn! Như ngựa cứ theo đường xấu mà đi nên xem đường đó là không tốt. Như thế, hàng dị học kia không nói sự thật nên xem lời nói đó là không đúng. Vì hiện nghĩa, hiện pháp, hiện thiện, hiện diệu của Đức Thế Tôn, nên xem là nêu bày chân chánh. Thế nên nói: Tỳ-kheo! Ta không cùng với thế gian tranh luận, nhưng thế gian lại cùng với Ta tranh luận.

Hỏi: Vì sao gọi là Tà kiến?

Đáp: Vì hành theo nẻo tà vạy, nên gọi là Tà kiến.

Hỏi: Như tất cả kiến đều hành theo nẻo tà vạy, vì sao chỉ nói một tà kiến, không nói các kiến khác?

Đáp: Do hai sự việc nên gọi là tà kiến, là hành theo nẻo tà vạy cùng không có hành chuyển nên gọi là tà kiến. Các kiến khác tuy là hành chuyển theo tà vạy, nhưng không có các sự việc này.

Hoặc nói: Là hành chuyển theo nẻo tà vạy cùng hủy báng ân của chúng sinh và ân của pháp. Hủy báng ân của chúng sinh: Như nói không có cha mẹ. Hủy báng ân của pháp: Như nói thế gian không có A-la-hán chân thật, không có chánh chí chánh hạnh. Nói là đời này, đời sau, tự nhận biết, tác chứng thành tựu. Các kiến khác tuy hành chuyển theo nẻo tà vạy, nhưng không có các sự việc này.

Hoặc cho: Là hành chuyển theo nẻo tà vạy và hành chuyển phủ nhận là không, tức cho là không có bố thí, không có cúng tế, không có thuyết giảng, không có hành thiện hành ác, không có quả báo, không có đời này đời sau. Các kiến khác tuy hành chuyển theo nẻo tà vạy, nhưng không có các sự việc này.

Hoặc nêu: Là hành chuyển theo nẻo tà vạy cùng hủy báng nhân quả, hủy báng cả Như Lai quá khứ, vị lai, hiện tại, đạo quả của bậc Vô trước Đẳng chánh giác, cũng hủy báng Tam bảo và Tứ đế. Các kiết khác tuy hành chuyển theo nẻo tà vạy, nhưng không có các sự việc này.

Hoặc nói: Là hành chuyển theo nẻo tà vạy cùng hủy báng sự việc hiện tiền. Như người rơi trong hầm lửa lớn, vì lừa dối người khác, nên nói là ta rất vui thích. Như thế, chúng sinh nhận lấy sinh tử, như nhận lấy thỏi sắt nóng, vì tà kiến nên nói là không có khổ. Các kiến khác tuy hành chuyển theo nẻo tà vạy, nhưng không có các sự việc này.

Hoặc cho: Là hành chuyển theo nẻo tà vạy cùng kiến ác. Như nói: Cư sĩ! Người tà kiến, các hành của thân, miệng, ý, tư duy, mong cầu cùng tương ưng với kiến ác kia. Tất cả pháp ấy là không yêu mến, không nhớ nghĩ, không mừng vui, không mong muốn mà chuyển biến. Vì sao? Vì Cư sĩ kiến ác nên nói là Cư sĩ tà kiến. Các kiến khác tuy hành chuyển theo nẻo tà vạy, nhưng không có các sự việc này.

Hỏi: Vì sao gọi là Kiến đạo (Kiến thủ)?

Đáp: Vì kiến này chấp giữ các kiến, nên gọi là Kiến đạo.

Hỏi: Như ở đây là chấp giữ chung cả năm thủ ấm, vì sao chỉ gọi là kiến đạo?

Đáp: Vì kiến này nhân nơi các kiến chấp giữ chung năm ấm, nên gọi là kiến đạo.

Hoặc nói: Do tướng nào để lập tên là kiến đạo? Nghĩa là nếu nhận lấy kiến hoặc nhận lấy ấm khác, rồi chấp cho là hơn hết nên lập tên là kiến đạo.

Hỏi: Vì sao gọi là Giới đạo (Giới cấm thủ)?

Đáp: Vì kiến này nhận lấy chấp giữ các giới cấm, nên gọi là giới đạo.

Hỏi: Như ở đây là chấp giữ nơi tất cả năm ấm, vì sao chỉ gọi là giới đạo?

Đáp: Vì nhân nơi giới cấm khởi chấp giữ tất cả năm ấm, nên gọi là giới đạo.

Hoặc nói: Do hành tướng nên gọi là giới đạo. Nghĩa là nhận lấy giới cấm hoặc nhận lấy ấm khác, rồi chấp cho là có thể đạt được thanh tịnh, nên gọi là giới đạo.

Hỏi: Vì sao hai kiến này cùng gọi là đạo (thủ)?

Đáp: Vì hai kiến này đều nhận lấy đạo (thủ) làm hành tướng chuyển nên cùng gọi là đạo (thủ). Nghĩa là thân kiến chấp ngã và ngã sở. Biên kiến chấp đoạn thường. Tà kiến chấp cho không có nhân quả. Còn ở đây: Nhận lấy các kiến này rồi chấp cho là hơn hết nên gọi là kiến đạo (kiến thủ). Vì chấp lấy các giới cấm cho là có thể đạt được thanh tịnh nên gọi là giới đạo( giới cấm thủ).

Nói rộng về Xứ năm kiến xong.

*

Phần thứ 12: XỨ SÁU ÁI THÂN

Sáu ái thân: (1) Ái thân do nhãn xúc sinh. (2) Ái thân do nhĩ xúc sinh. (3) Ái thân do tỷ xúc sinh. (4) Ái thân do thiệt xúc sinh. (5) Ái thân do thân xúc sinh. (6) Ái thân do ý xúc sinh.

Ái thân như thế: Nên nói là một, như ái của ba cõi trong chín kiết, lập kiết ái. Nên nói là hai, như ái nơi cõi dục trong bảy sử, lập sử dục, ái nơi cõi sắc, vô sắc lập sử hữu. Nên nói là ba, như ái nơi cõi dục, ái nơi cõi sắc, ái nơi cõi vô sắc. Nên nói là bốn, như khởi bốn ái. Nơi Khế kinh nói: Các Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni nhân nơi y phục, nhân nơi thức ăn uống, nhân nơi giường nằm, nhân nơi có hay không có, nên sinh khởi ái tùy theo những lúc đi đứng, mặc y phục. Nên nói là năm, như ái do kiến khổ đoạn, do kiến tập, tận, đạo, tư duy (tu đạo) đoạn. Nên nói là chín, như chín thứ ái từ phẩm thượng thượng đến phẩm hạ hạ. Nên nói là mười tám, như nói mười tám hành ái. Nên nói là ba mươi sáu, như ba mươi sáu hành ái. Nên nói là một trăm lẻ tám, như một trăm lẻ tám thọ ái. Do thời gian, do tâm ý, nên có vô lượng ái.

Hỏi: Vì sao Đức Thế Tôn nói rộng về một ái, tóm lược về vô lượng ái để nói sáu ái thân?

Đáp: Vì nương dựa nên lập sáu ái thân. Nếu có một ái cùng vô lượng ái thì tất cả ái kia đều dựa nơi sáu hành, sáu môn, sáu dấu vết, sáu đạo, sáu độ, tương ưng với sáu thức thân. Vì nương dựa nên nói sáu ái thân.

Hỏi: Giận dữ, vô minh cũng dựa nơi sáu hành, sáu môn, sáu dấu vết, sáu đạo, sáu độ, tương ưng với sáu thức thân. Vì sao nói sáu ái thân, không nói sáu giận dữ thân, sáu vô minh thân?

Đáp: Đây là Đức Thế Tôn giảng nói chưa trọn vẹn. Đây cũng là nghĩa của nghĩa hiện, nghĩa môn, nghĩa tóm lược, tức nghĩa ái nên biết. Như nói: Sáu ái thân thì giận dữ, vô minh cũng vậy, vì chỗ nương dựa như nhau.

Hỏi: Nếu không nói thì có ý gì?

Đáp: Nghĩa là nói ái thì cõi đoạn, địa đoạn, chủng tánh đoạn.

Hoặc nói: Do ái làm hưng thịnh tất cả kiết nên nói riêng.

Hoặc cho: Ái có thể nhận biết các cõi, các địa, các bộ, cũng có thể sinh trưởng các phiền não, do vậy nên lập làm ái thân. Giận dữ, vô minh đều không có sự việc như thế, nên không nói là thân.

Hỏi: Vì sao gọi là thân?

Đáp: Vì nhiều ái chứa nhóm thân. Nghĩa là không phải trong một sát-na, nhãn xúc sinh khởi ái gọi là ái thân do nhãn xúc sinh, mà chính là nhiều sát-na nhãn xúc sinh ái mới gọi là ái thân do nhãn xúc sinh. Cho đến ái thân do ý xúc sinh cũng như thế. Như chẳng phải một con voi gọi là quân binh voi. Chẳng phải một con ngựa gọi là quân binh ngựa. Chẳng phải một chiếc xe gọi là quân binh xa. Chẳng phải một lính đi bộ gọi là quân binh bộ. Chính là nhiều voi mới gọi là quân binh voi. Nhiều ngựa mới gọi là quân binh ngựa. Nhiều xe mới gọi là quân binh xa. Nhiều lính đi bộ mới gọi là quân binh bộ. Thế nên, nhiều ái mới gọi là thân.

Nói rộng về Xứ sáu ái thân xong.

*

Phần thứ 13: XỨ BẢY SỬ

Bảy sử: (1) Sử dục. (2) Sử giận dữ. (3) Sử hữu. (4) Sử mạn. (5) Sử vô minh. (6) Sử kiến. (7) Sử nghi.

Hỏi: Bảy sử này dùng gì làm tự tánh?

Đáp: Dùng chín mươi tám sự việc làm tự tánh.

Sử dục, sử giận dữ đều có năm bộ (Do năm bộ đoạn trừ) nơi cõi dục là mười thứ. Sử hữu nơi hai cõi sắc, vô sắc mỗi cõi đều có năm bộ là mười thứ. Sử mạn, sử vô minh mỗi thứ đều có năm bộ nơi ba cõi là ba mươi thứ. Sử kiến nơi ba cõi mỗi cõi đều có mười hai là ba mươi sáu thứ. Sử nghi nơi ba cõi mỗi cõi đều có bốn là mười hai thứ. Tổng cộng là chín mươi tám thứ.

Chín mươi tám thứ này là tánh của bảy sử. Tánh của sử ấy là thể tướng hiện có nơi thân.

Đã nói về tự tánh của sử. Tiếp theo là nói về hành.

Hỏi: Vì sao gọi là sử? Sử có nghĩa gì?

Đáp: Nghĩa vi tế, nghĩa sai khiến, nghĩa tùy trói buộc là nghĩa của sử.

Nghĩa vi tế là nghĩa của sử: Là bảy hành tướng vi tế của sử dục v.v… như bảy cực vi hợp thành một sắc tế.

Nghĩa sai khiến là nghĩa của sử: Là bảy sử như dục v.v… có mặt khắp tất cả pháp hữu lậu vi tế, thảy đều tăng trưởng sai khiến.

Cho đến một cực vi hoặc trong khoảnh khắc một sát-na, bảy sử như dục v.v… đều tăng trưởng, sai khiến.

Nghĩa tùy trói buộc là nghĩa của sử: Là như đi trên không có bóng, đi dưới nước cũng theo bóng đó. Đi trên không là loài chim, đi dưới nước là các loài thủy tộc. Loài chim bay trên không, do sức mạnh của đôi cánh muốn vượt qua biển lớn. Các loài thủy tộc kia suy nghĩ: Nước nơi biển cả này sâu rộng vô lượng, chẳng phải là loài chim thường có thể từ bờ bên này bay đến bờ bến kia được, trừ loài Kim-sí-điểu. Loài thủy tộc biết chim này bay tất rơi xuống nước, nên khi trông thấy bóng chim liền đuổi theo. Cuối cùng, chim sa xuống nước, loài thủy tộc bắt được ăn thịt. Như thế, chúng sinh chưa diệt trừ dục, nơi tất cả thời gian đều bị bảy sử cùng theo đuổi trong hiện tại. Nếu kiết đã hiện ở trước, thì ngay lúc ấy là thọ nhận quả y và quả báo (quả đẳng lưu và quả dị thục) đáng yêu thích hoặc không đáng yêu thích. Thế nên nghĩa tùy trói buộc là nghĩa của sử.

Hoặc nói: Nghĩa vi tế là nghĩa của sử là căn cứ nơi tự tánh mà nói. Nghĩa sai khiến là nghĩa của sử là căn cứ vào tác dụng mà nói. Nghĩa tùy trói buộc là nghĩa của sử là căn cứ vào sự bị trói buộc kia mà nói.

Hoặc cho: Nghĩa vi tế là nghĩa của sử là dựa vào tự tánh mà nói. Nghĩa sai khiến là nghĩa của sử là dựa vào sự nối tiếp mà nói. Nghĩa tùy trói buộc là nghĩa của sử là dựa vào tập khí bền chắc mà nói.

Hoặc nêu: Nghĩa vi tế là nghĩa của sử là dựa vào sử quá khứ mà nói. Nghĩa sai khiến là nghĩa của sử là dựa vào sử hiện tại mà nói. Nghĩa tùy trói buộc là nghĩa của sử là dựa vào sử vị lai mà nói.

Hoặc nói: Nghĩa vi tế là nghĩa của sử là căn cứ theo hành tướng mà nói. Nghĩa sai khiến là nghĩa của sử là căn cứ theo chỗ trói buộc nơi đối tượng duyên mà nói. Nghĩa tùy trói buộc là nghĩa của sử là dựa vào chỗ trói buộc nơi tương ưng mà nói.

Hoặc cho: Hai nghĩa trước của sử là căn cứ vào sử tương ưng mà nói. Nghĩa thứ ba là dựa vào sử không tương ưng mà nói.

Hỏi: Như sử đều cùng với tâm tương ưng. Vì sao nói là dựa vào sử không tương ưng để nói?

Đáp: Ở đây là đối với sử đã được lập gọi là có được sử nên nói là sử tương ưng, không tương ưng.

Các Sư nước ngoài nói: Do bốn thứ nghĩa nên gọi là sử: (1) Nghĩa vi tế. (2) Nghĩa tùy nhập. (3) Nghĩa sai khiến. (4) Nghĩa tùy trói buộc.

Nghĩa vi tế là nghĩa của sử: Là hành tướng nói tự tánh của các sử như dục v.v… đều rất vi tế.

Nghĩa tùy nhập là nghĩa của sử: Là sự nối tiếp, tùy nhập của các sử không đâu là không có mặt khắp, như dầu ở trong hạt mè, chất béo ở trong một cục mỡ.

Nghĩa sai khiến là nghĩa của sử: Là như sử dục v.v… ở trong sự nối tiếp lần lượt tăng trưởng sai khiến. Như bé con bú mẹ.

Nghĩa tùy trói buộc là nghĩa của sử: Là như bóng theo hình.

Hoặc nói: Nghĩa vi tế: Là căn cứ vào tự tánh. Nghĩa tùy nhập: Là dựa vào sự tương ưng. Nghĩa sai khiến: Là dựa vào hành tướng. nghĩa tùy trói buộc: Là dựa vào chỗ bị trói buộc.

Hoặc cho: Do ba sự việc nên nhận biết là sử: (1) Do tự tánh. (2) Do quả. (3) Do con người.

Do tự tánh: Sử dục: Như chất ngọt nơi cỏ thuốc. Sử giận dữ: Như quả đắng. Sử hữu: Như áo của nhũ mẫu. Sử mạn: Như người giàu sang kiêu ngạo. Sử vô minh: Như người mù lòa. Sử kiến: Như người mê muội đi lạc đường. Sử nghi: Như nghi hoặc giữa hai con đường. Đó là nói về tự tánh.

Do quả: Hành tác sử dục, hành tác nhiều sẽ sinh trong loài chim sẻ, uyên ương, bồ câu. Hành tác sử giận dữ, hành tác nhiều sẽ sinh trong loài ong, rít, rắn độc. Hành tác sử hữu, hành tác nhiều sẽ sinh nơi cõi sắc, vô sắc. Hành tác sử mạn, hành tác nhiều sẽ sinh trong nơi chốn tộc họ hèn kém. Hành tác sử vô minh, hành tác nhiều sẽ sinh trong cảnh ngu si, tăm tối. Hành tác sử kiến, hành tác nhiều sẽ sinh trong hàng dị đạo. Hành tác sử nghi, hành tác nhiều sẽ sinh nơi biên địa. Đó là nói về quả.

Do con người: Sử dục: Nên quán như Tôn giả Nan-đà. Sử giận dữ: Nên quán như Thế Hợp và Ương Quật Ma. Sử hữu: Nên quán như A Tư Đà, A La Lan, Uất Đầu Lam Tử. Sử mạn: Nên quán như Ma Na Đa Đà. Sử vô minh: Nên quán như Uất Tỳ La. Sử kiến: Nên quán như Man Đồng Chân. Sử nghi: Nên quán như Tu Na Sát Đa La. Đó là nói về con người.

Do ba sự việc ấy nên nhận biết là sử.

Hỏi: Keo kiệt (xan), ganh ghét (tật), vì sao không lập trong sử?

Đáp: Vì Đức Phật – Thế Tôn đối với pháp luôn thấu đạt, thông tỏ, không ai có thể vượt hơn. Đức Phật nhận biết đầy đủ về pháp tướng, về các hành. Nếu pháp có tướng của sử thì lập trong sử, không có tướng của sử thì không lập.

Hoặc cho: Nói kiết có hai thứ: (1) Kiết đầy đủ. (2) Kiết không đầy đủ.

Kiết đầy đủ: Được lập trong sử. Kiết không đầy đủ: Không được lập trong sử.

Hoặc nêu: Tức kiết do kiến đoạn (kiến đạo đoạn), do tư duy (tu đạo) đoạn, kiết ấy được lập trong sử. Keo kiệt, ganh ghét hoàn toàn do tư duy đoạn, nên không lập trong sử.

Hoặc nói: Keo kiệt, ganh ghét tánh thì dày, đục, còn sử thì mỏng, trong hơn.

Hoặc cho: Tập khí của sử rất bền chắc như nơi đất này, sau khi đốt cả đống cây rừng, tuy lửa đã tắt từ lâu nhưng đất vẫn còn nóng. Tập khí của hai thứ kia không bền chắc như vậy. Như nơi đất này sau khi đốt cỏ, đốt vỏ cây hoa, ngọn lửa vừa tắt thì đất liền nguội ngay. Do đấy nên keo kiệt, ganh ghét không lập trong sử.

Nói rộng về Xứ bảy sử xong.

*

Phần thứ 14: XỨ CHÍN KIẾT

Chín kiết: (1) Kiết ái. (2) Kiết giận dữ. (3) Kiết mạn. (4) Kiết vô minh. (5) Kiết kiến. (6) Kiết thất nguyện (Kiết thủ). (7) Kiết nghi. (8) Kiết xan (keo kiệt). (9) Kiết tật (ganh ghét).

Hỏi: Chín kiết này dùng gì làm tự tánh?

Đáp: Dùng một trăm sự việc làm tự tánh:

Kiết ái nơi ba cõi có năm thứ là mười lăm thứ. Kiết mạn, kiết vô minh cũng như vậy (ba mươi thứ). Kiết giận dữ chỉ có năm thứ nơi cõi dục. Kiết kiến có mười tám thứ. Kiết thất nguyện cũng như vậy (mười tám thứ). Kiết nghi nơi ba cõi có bốn thứ là mười hai thứ. Kiết keo kiệt, ganh ghét do tư duy nơi cõi dục đoạn (hai thứ). Tổng cộng là một trăm thứ.

Một trăm thứ này là tánh của chín kiết. Tánh của kiết ấy là thể tánh hiện có nơi thân.

Đã nói về tự tánh, tiếp theo là nói về hành.

Hỏi: Vì sao gọi là kiết? Kiết có nghĩa gì?

Đáp: Nghĩa trói buộc là nghĩa của kiết. Nghĩa hệ thuộc nơi khổ là nghĩa của kiết. Nghĩa xen lẫn chất độc là nghĩa của kiết. Ngoài ra, đã giải thích rộng như nơi phần thứ 1: Xứ ba kiết và phần thứ 8: Xứ năm kiết.

Đã nói về hành chung. Tiếp theo là nói về hành riêng.

Hỏi: Thế nào là Kiết ái?

Đáp: Là ái của ba cõi.

Hỏi: Vì sao ái của cõi dục trong sử lập làm sử dục. Ái của cõi sắc, vô sắc lập làm sử hữu? Như thế, trong Khế kinh khác nói có ba ái: Ái của cõi dục. Ái của cõi sắc. Ái của cõi vô sắc. Còn ở đây nói tất cả ái của ba cõi được lập trong một kiết ái. Ba ái này khác nhau như thế nào?

Đáp: Đức Phật – Thế Tôn đối với pháp luôn thấu đạt, thông tỏ, không ai có thể vượt hơn. Đức Phật nhận biết đầy đủ về pháp tướng, về các hành. Nếu pháp có thể đảm nhận riêng thì lập riêng, không thể đảm nhận riêng thì lập theo phẩm loại.

Hoặc nói: Đức Thế Tôn giáo hóa các chúng sinh tùy theo căn tánh lanh lợi, hoặc căn tánh trung bình, hoặc căn tánh yếu kém.

Người căn tánh lanh lợi: Tức nói tất cả ái của ba cõi là một kiết ái.

Người căn tánh trung bình: Tức nói hai ái. Như trong bảy sử ái của cõi dục lập sử dục, ái của cõi sắc, vô sắc lập sử hữu.

Người căn tánh yếu kém: Tức nói ba ái. Như nói ba ái là ái của cõi dục, ái của cõi sắc, ái của cõi vô sắc.

Hoặc cho: Lại nữa, Đức Thế Tôn giáo hóa các chúng sinh, hoặc muốn nói lược, hoặc muốn nói rộng, hoặc muốn nói vừa lược vừa rộng. Nghĩa là muốn nói lược: Tức Đức Phật nói tất cả ái của ba cõi là một kiết ái. Muốn nói rộng: Tức Đức Phật nói ba ái, như nói ba ái: Ái của cõi dục, ái của cõi sắc, ái của cõi vô sắc. Nói vừa lược vừa rộng: Tức Đức Phật nói hai ái, như trong bảy sử, ái của cõi dục thì lập sử dục, ái của cõi sắc, cõi vô sắc thì lập sử hữu.

Hoặc nói: Lại nữa, Đức Thế Tôn giáo hóa các chúng sinh, hoặc đối với người mới hành trì, hoặc đối với người đã hành trì một ít, hoặc đối với người hành trì đã thành thục. Người mới hành trì: Đức Phật nói ba ái. Như nói: Ái của cõi dục, ái của cõi sắc, ái của cõi vô sắc. Người đã hành trì một ít: Đức Phật nói hai ái. Như trong bảy sử, ái của cõi dục thì lập sử dục, ái của cõi sắc, cõi vô sắc thì lập sử hữu. Người hành trì đã thành thục: Đức Phật nói tất cả ái của ba cõi là một kiết ái.

Hoặc nêu: Trước đã nói nghĩa hệ thuộc nơi khổ là nghĩa của kiết. Ái nơi cõi dục là tướng hệ thuộc, hệ thuộc trong khổ, không phải là vui. Ái nơi cõi sắc, vô sắc, tất cả là tướng hệ thuộc, hệ thuộc trong khổ, không phải là vui. Do cùng là một tướng, nên tất cả ái của ba cõi, Đức Thế Tôn đã lập làm kiết ái.

Hỏi: Thế nào là Kiết giận dữ?

Đáp: Là đối với chúng sinh dấy khởi ác, muốn làm tổn hại.

Hỏi: Như đối với phi chúng sinh cũng dấy khởi ác. Vì sao chỉ nói đối với chúng sinh dấy khởi ác?

Đáp: Nhân nơi chúng sinh dấy khởi ác, đối với phi chúng sinh cũng dấy khởi ác.

Hoặc nói: Vì phần nhiều. Do đa phần nhân nơi chúng sinh khởi ác, một ít nhân nơi phi chúng sinh.

Hoặc cho: Vì phần nhiều tăng thêm điều ác, nên phần nhiều tăng thêm điều ác đối với chúng sinh khởi ác, ít tăng thêm ác đối với phi chúng sinh.

Hỏi: Thế nào là Kiết mạn?

Đáp: Bảy mạn gọi là kiết mạn. Bảy mạn là mạn, tăng thượng mạn, mạn tăng mạn (Mạn quá mạn), ngã mạn, khi mạn (quá mạn), bất như mạn (Ty mạn), tà mạn. Bảy mạn này gọi là kiết mạn.

Hỏi: Thế nào là Kiết vô minh?

Đáp: Là không nhận biết về ba cõi.

Hỏi: Thế nào là Kiết kiến?

Đáp: Ba kiến gọi là kiết kiến. Ba kiến là thân kiến, biên kiến, tà kiến. Ba kiến này gọi là kiết kiến.

Hỏi: Thế nào là Kiết thất nguyện (Kiết thủ)?

Đáp: Tức hai đạo (Hai thủ) là kiết thất nguyện. Hai đạo là kiến đạo (Kiến thủ) và giới đạo (Giới cấm thủ) . Hai thứ ấy gọi là kiết thất nguyện.

Hỏi: Vì sao năm kiến trong sử lập một sử kiến, ba kiến trong kiết lập làm kiết kiến, hai kiến thì lập làm kiết thất nguyện?

Đáp: Đức Phật – Thế Tôn đối với pháp luôn thấu đạt, thông tỏ, không ai có thể vượt hơn. Đức Phật nhận biết đầy đủ về pháp tướng, về các hành. Nếu pháp có thể đảm nhận riêng thì nên lập riêng, không thể đảm nhận riêng thì lập theo phẩm loại.

Hoặc nói: Lúc hệ thuộc nơi khổ, do tên gọi như nhau. Nghĩa là ba kiến trước đồng là tên người nữ. Hai kiến sau đồng là tên người nam. Do kiến là tiếng nữ, đạo (thủ) là tiếng nam. Lại nữa, lúc hệ thuộc nơi khổ, do sự việc như nhau. Nghĩa là kiết kiến (ba), kiết thất nguyện (kiết thủ – 2) đều gồm thâu mười tám sự việc. Lại nữa, gồm thâu về sử cũng như nhau. Nghĩa là kiết kiến và kiết thất nguyện, trong chín mươi tám sử, mỗi thứ đều gồm thâu mười tám.

Hoặc cho: Do ba kiến trước là suy tìm lường xét, không phải là nhận giữ, nên kết hợp lập làm kiết kiến. Hai kiến sau là suy tìm lường xét mà cũng là nhận giữ, nên kết hợp lập làm kiết thất nguyện (Kiết thủ). Lại do ba kiết trước là suy tìm lường xét về cảnh, nên kết hợp lập làm kiết kiến. Hai kiết sau là cùng suy tìm lường xét về kiến, nên kết hợp lập làm kiết thất nguyện (Kiết thủ).

Hỏi: Thế nào là Kiết nghi?

Đáp: Là đối với đế còn do dự.

Hỏi: Vì sao nói kiết này đối với đế còn do dự?

Đáp: Người không quyết định, vì muốn khiến họ có được quyết định. Nghĩa là như có người thoáng thấy từ xa một vật đang đứng liền sinh do dự: Vật kia là cây trụi cành lá hay là con người? Nếu vật ấy là người thì là nam hay nữ? Hoặc thấy hai con đường vội sinh do dự: Không biết đường này mình đã đi qua hay là chưa? Thấy hai y bát cũng sinh do dự: Y bát này là của mình hay của người khác? Hoặc nghi những sự việc này là kiết nghi thật. Vì muốn cho nghi kia được quyết định, nay chỉ rõ: Nghi như đã nêu chỉ là vô ký không ẩn mất (Vô ký vô phú) của cõi dục, lấy trí tà làm thể, không phải là kiết nghi thật. Kiết nghi thật là đối với bốn đế như khổ v.v… còn do dự.

Hỏi: Thế nào là Kiết tật (ganh ghét)?

Đáp: Là tâm giận dữ đố kỵ. Tâm đố kỵ là tướng giận của kiết này.

Hỏi: Thế nào là Kiết xan (keo kiệt)?

Đáp: Là tâm keo kiệt cất giữ. Tâm cất giữ không muốn buông bỏ là tướng tham của kiết này.

Hỏi: Vì sao nói hai thứ này có tướng riêng biệt ?

Đáp: Vì muốn khiến cho người nghi có được quyết định. Nghĩa là người thế gian đối với ganh ghét (tật) cho là keo kiệt (xan), đối với keo kiệt cho là ganh ghét.

Đối với ganh ghét cho là keo kiệt: Là như có kẻ thấy người khác đạt được các sự việc tốt đẹp, sinh tâm đố kỵ, liền cho là keo kiệt, nhưng thật ra đây là ganh ghét không phải là keo kiệt.

Đối với keo kiệt cho là ganh ghét: Là như có kẻ thấy người khác bỏn sẻn, giữ vợ v.v… liền cho là ganh ghét, nhưng thật ra đây là keo kiệt không phải là ganh ghét.

Vì muốn cho nghi kia được quyết định nên nêu rõ hai tướng của hai kiết tật, xan là khác nhau.

Hỏi: Vì sao trong mười triền, hai triền tật, xan được lập làm hai kiết trong chín kiết?

Đáp: Do Đức Phật – Thế Tôn đối với pháp luôn thấu đạt thông tỏ, không ai có thể vượt hơn. Đức Phật nhận biết đầy đủ về pháp tướng, về các hành. Nếu pháp có tướng của kiết thì lập trong kiết, không có tướng của kiết thì không lập. Tức hai triền này có tướng của kiết nên lập làm kiết. Các triền khác không có tướng của kiết nên không lập.

Hoặc nói: Vì lấy sau để hiển bày trước nên chỉ nói có hai. Nghĩa là trong mười triền thì hai triền này là ở sau cùng. Do vậy, nói sau là kiết tức đã hiển bày về trước.

Hoặc cho: Do hai triền này là đứng riêng, là lìa hai, nên lập làm kiết. Các triền khác thì không như thế. Đứng riêng nghĩa là tự lực hiện hành. Lìa hai là toàn bộ đều bất thiện. Lại nữa, do hai triền này là rất thô bỉ, thấp kém, đáng chán bỏ, nên lập làm kiết.

Hoặc nêu: Nhân nơi hai pháp keo kiệt, ganh ghét, nên khiến chúng sinh ở trong sinh tử phải nhận vô số sự hủy nhục. Thế gian có hai điều bị khinh rẻ: (1) Không có uy đức. (2) Rất nghèo khổ.

Không có uy đức: Là do nhiều ganh ghét. Rất nghèo khổ: Là do quá keo kiệt. Kẻ không có uy đức và rất nghèo khổ thì cha mẹ, anh em, vợ con, hàng tôi tớ hãy còn khinh rẻ, huống chi là kẻ khác. Thế nên trong mười triền, lập hai triền tật, xan làm kiết, không lập các triền khác.

Hoặc nói: Nghĩa là hai pháp keo kiệt, ganh ghét này như lính giữ cửa ngục. Các chúng sinh nơi cõi dục như bị trói buộc ở trong ngục, lập ra hai lính ngục canh giữ cổng, khiến các tù nhân không thể ra khỏi. Lại có khu vườn cảnh lầu gác rất trang nghiêm, sửa sang xong, sai hai người giữ cổng, không cho vào. Như vậy, chúng sinh này không thể ra khỏi nẻo ác, như người bị giam giữ nơi ngục tù là do keo kiệt, ganh ghét. Không sinh vào được nẻo trời người, như vào khu vườn cảnh lầu gác cũng là do keo kiệt, ganh ghét ngăn cản. Vì thế hai triền keo kiệt, ganh ghét nơi mười triền được lập làm kiết trong chín kiết, không lập các triền khác.

Hoặc cho: Tức nhân nơi keo kiệt, ganh ghét nên hàng trời cùng A-tu-la thường xuyên chiến đấu với nhau. Như nơi Khế kinh nói: Thích-đề-hoàn-nhân đi đến chỗ Đức Thế Tôn thưa hỏi: Thưa bậc Đại Tiên! Do kiết nào khiến các hàng trời, người, rồng, A-tu-la lại thường xuyên gây chiến đánh giết nhau? Đức Thế Tôn nói: Do hai kiết ganh ghét và keo kiệt.

Hỏi: Các loài chúng sinh hoặc có đủ chín kiết, hoặc có sáu kiết, hoặc có ba kiết, hoặc hoàn toàn không có kiết. Có đủ chín kiết: Là hàng phàm phu bị trói buộc đủ. Có sáu kiết: Là hàng phàm phu đã lìa nhiễm cõi dục và Thánh giả chưa lìa nhiễm cõi dục. Có ba kiết: Là Thánh giả đã lìa nhiễm cõi dục. Hoàn toàn không có kiết: Là bậc A-la-hán. Không có thành lập hai kiết và một kiết. Vì sao Đức Thế Tôn nói do hai kiết tật, xan, nên các hàng trời, A-tu-la v.v… thường xuyên gây chiến đánh nhau?

Đáp: Kinh kia chỉ nói về những kẻ giàu sang thường hiện hành kiết, không nói về sự gây tạo. Nghĩa là Thiên Đế Thích là bậc tôn quý trong hai cõi trời do ganh ghét cùng với keo kiệt nên thường xuyên tranh chấp, đánh nhau với chúng A-tu-la. Vì vậy chỉ nói hai kiết.

Lại nữa, do Đức Phật quở trách Thiên Đế Thích, nên kinh kia chỉ nói đến hai kiết này. Nghĩa là trong chư thiên có vị thức ăn Tô đà hơn A-tu-la. Còn A-tu-la thì có người nữ xinh đẹp hơn bên phía chư thiên. Chư thiên tự keo kiệt về hương vị, ganh ghét về mỹ nữ của A-tu-la. Còn A-tu-la thì keo kiệt về mỹ nữ, ganh ghét về hương vị của trời. Trời vì mỹ nữ nên đến cung của A-tu-la. A-tu-la thì vì hương vị nên đến cung trời. Đó là lý do khiến chư thiên thường xuyên tranh chấp đánh nhau với A-tu-la, chỉ vì hai kiết ganh ghét và keo kiệt.

Bấy giờ, Thiên Đế Thích vừa chiến đấu với A-tu-la xong, tâm vẫn còn sợ sệt đi đến chỗ Đức Phật hỏi: Do kiết nào khiến trời, A-tula v.v… thường xuyên đánh nhau? Vua trời kia có ý muốn hỏi: Do kiết nào khiến chư thiên và A-tu-la thường xuyên gây chiến đánh nhau, nên Đức Phật mới bảo là do hai kiết ganh ghét và keo kiệt. Ý Đức Thế Tôn nói: Chúng trời các ông và A-tu-la đều do hai thứ kiết ấy nên thường xuyên gây chiến đánh nhau. Đó là chứng bệnh của các ông cũng là gánh nặng rất tổn hại. Vậy các ông phải nên nhanh chóng lìa bỏ.

Do đấy, nên hai triền keo kiệt, ganh ghét nơi mười triền được lập làm hai kiết trong chín kiết, không lập các triền khác.

Nói rộng về Xứ chín kiết xong.

*

Phần thứ 15: XỨ CHÍN MƯƠI TÁM SỬ

Chín mươi tám sử (Tùy miên): Ái của cõi dục năm, giận dữ năm. Ái của cõi sắc, vô sắc mười. Mạn nơi ba cõi mười lăm. Vô minh nơi ba cõi mười lăm. Kiến nơi ba cõi ba mươi sáu. Nghi nơi ba cõi mười hai.

Như vậy, cõi dục có ba mươi sáu. Hai cõi sắc, vô sắc mỗi cõi có ba mươi mốt.

Đây tức dùng chín mươi tám sự việc làm tự tánh.

Về danh, nghĩa của sử như trước đã giải thích.

Hỏi: Vì lý do gì nói chín mươi tám thứ sử này?

Đáp: Đây là ý của người tạo luận muốn như thế. Nghĩa là Luận sư của bản luận theo ý muốn tạo luận, không trái với pháp tướng, do đó không nên vấn nạn.

Lại nữa, vì nhằm ngăn chận ý của Sa-môn vướng mắc nơi văn tự. Nghĩa là có Sa-môn chấp trước nơi văn tự, lìa chỗ giảng nói của kinh thì hoàn toàn không dám nêu bày. Sa-môn ấy suy niệm: Ai là người có trí tuệ hơn Đức Phật? Đức Phật chỉ nói có bảy thứ sử, vì sao lại miễn cưỡng thêm là chín mươi tám thứ? Vì muốn ngăn chận ý của Sa-môn kia, để nói rộng bảy sử thành chín mươi tám sử.

Tức căn cứ vào sự sai biệt nơi các cõi, bộ, hành tướng: Vì sự sai biệt của bộ nơi sử dục trong bảy sử là năm. Sử giận dữ cũng như vậy.

Vì sự sai biệt nơi cõi dục của sử hữu là hai. Vì sự khác biệt của bộ nên là năm. Vì sự khác biệt của cõi, bộ nên là mười.

Vì cõi nơi sử mạn khác nhau nên là ba. Vì sự khác biệt nơi bộ nên là năm. Vì cõi và bộ khác biệt nên là mười lăm. Sử vô minh cũng như thế.

Vì khác biệt về cõi nơi sử kiến nên là ba. Vì khác biệt về hành tướng nên là năm. Vì khác biệt về bộ nên là mười hai. Hành tướng, cõi, bộ khác biệt nên là ba mươi sáu.

Sử nghi: Vì cõi khác biệt nên là ba. Vì bộ khác biệt nên là bốn. Vì cõi, bộ khác biệt nên là mười hai.

Như thế, bảy sử căn cứ vào sự khác biệt của cõi, bộ và hành tướng nên là chín mươi tám sử. Tuy có khác nhau về rộng lược nhưng về thể thì không sai biệt.

Nói rộng về Xứ chín mươi tám sử xong.

Tỳ-bà-sa nêu bày về Chương Nhỏ của Phẩm Bất Thiện xong.

HẾT – QUYỂN 3