LUẬN TỲ BÀ SA
Tác giả: A la hán Thi Đà Bàn Ni
Hán dịch: Đời Phù Tần, Đại sư Tăng Già Bạt Trừng, người nước Kế Tân
Việt dịch: Cư sĩ Nguyên Huệ

 

QUYỂN 1

Lá giác ý ái lạc

Cành giới thanh tịnh diệu

Ba mươi hai vô tỷ

Thân Hoa Nghiêm tướng lạ.

Quả cam lồ trí thắng

Căn tinh tấn kiên cố

Đầy đủ cây Thánh đạo

Con đảnh lễ Như Lai.

Khéo vui nói vô tỷ

Thành vô vi, đường dứt

Quy mạng Tiên công đức

Diệt trừ ưu sầu ái.

Lìa sinh lão bệnh tử

An ổn trọn không dục

Pháp Đại Tiên diễn nói

Con nay cúi đầu lạy.

Giới diệu hiển hiện cao

Núi lớn không dời đổi

Pháp trí tuệ thanh tịnh

Đại Mâu Ni giải thoát.

Cây tòng lâm thiền định

Đá thần túc vô biên

Núi Tuyết lớn Thánh chúng

Con nay cung kính lễ.

Cung kính lễ như thế

Đời khen không gì sánh

Đại sư diễn rộng giáo

Con nay kính thọ trì.

Ta nói lời chánh giác

Vui vô thượng tăng trưởng

Thánh chúng đồng muốn nghe

Chuyên tâm ý lãnh hội.

* Tỳ-bà-sa nói về 8 Kiền độ của A-tỳ-đàm là: (1) Tạp. (2) Kiết sử (Kiết). (3) Trí. (4) Hành (Nghiệp). (5) Bốn đại (Đại chủng). (6) Căn. (7) Định. (8) Kiến.

Tôn giả Ca Chiên Diên Tử, trước hết là tạo Kiền Độ Tạp có phần Nêu chung, nói:

Hỏi: Ai tạo ra Luận này?

Đáp: Đức Phật Thế Tôn.

Hỏi: Vì sao biết được?

Đáp: Vì pháp tánh của tất cả chủng loại nơi đối tượng được nhận biết vốn rất sâu xa vi diệu. Nếu không phải bậc Nhất thiết trí là Đức Phật Thế Tôn thì ai là người có thể mở bày chỉ rõ đẳng giác một cách rốt ráo?

Hỏi: Nếu như vậy thì trong đây ai hỏi ai đáp?

Đáp: Tôn giả Xá-lợi-phất hỏi, Đức Phật đáp.

Lại có thuyết nói: Năm trăm Tỳ-kheo hỏi, Đức Phật đáp.

Lại có thuyết cho: Chư thiên hỏi, Đức Phật đáp.

Lại có thuyết nêu: Hóa Tỳ-kheo hỏi, Đức Phật đáp.

Hỏi: Vì sao?

Đáp: Vì pháp ấy nên như thế. Như nhận biết phải nên giảng nói, nhưng không ai có thể hỏi. Lúc này, Đức Thế Tôn liền hóa ra vị Tỳ-kheo đoan nghiêm, vi diệu cùng tột, rất đáng tôn kính, vui vẻ, cạo bỏ râu tóc, mặc Tăng-già-lê, chấp tay thưa hỏi, Đức Thế Tôn đáp, như nơi Kinh Nhân Duyên kia đã nói.

Hỏi: Nếu như vậy vì sao nói Tôn giả Ca-chiên-diên tạo ra Luận này?

Đáp: Vì Tôn giả ấy đã tụng tập, chuyển lưu giáo hóa người khác, nêu bày rộng. Vì tụng tập, nêu giảng rộng Luận này, nên nói là tạo ra.

Hoặc nói: Tôn giả Ca-chiên-diên tạo ra Luận này.

Hỏi: Như nói trí rất sâu xa, pháp tánh vi diệu, cảnh giới của bậc Nhất thiết trí, ai có cảnh giới này. Hoàn toàn chỉ là Đức Phật. Vì sao nói do Tôn giả kia tạo nên?

Đáp: Vì Tôn giả kia vốn học rộng, lợi căn đã ở nơi trụ xứ của năm ngàn vị Phật thời quá khứ tu học A-tỳ-đàm khiến cho con đối với bậc Chánh Biến Tri nơi vị lai tạo lập chương cú A-tỳ-đàm. Vì thế nên Tôn giả kia đã dùng diệu trí quán xét xong mới tạo Luận này.

Hỏi: Nếu như vậy thì Đức Phật đã giảng nói A-tỳ-đàm như thế nào?

Đáp: Đức Phật đã giảng nói về A-tỳ-đàm tại nhiều nơi chốn, địa phương, kinh thành, vì dùng đủ các thứ pháp để giáo hóa. Thế nên Tôn giả Ca-chiên-diên-tử, ở trong pháp Phật quá khứ, đã dùng nguyện trí quán xét toàn bộ, tóm lược để tạo ra kiền độ, số phẩm, lập môn chương, qua đó theo nhiều thứ pháp không giống nhau, lập ra Kiền độ Tạp. Nói về kiết thì lập Kiền độ Kiết. Nói về trí thì lập Kiền độ Trí. Nói về Hành thì lập Kiền độ Hành. Nêu bày về bốn đại thì lập Kiền độ Bốn đại. Bàn về căn thì lập Kiền độ Căn. Nói về định thì lập Kiền độ Định. Nói về kiến thì lập kiền độ Kiến. Như Đức Phật nói: “Tất cả pháp cú”. Tức Tôn giả Đàm-ma-đa-la kia, ở trong pháp Phật quá khứ, dùng nguyện trí quán toàn bộ là tóm lược. Như nói kệ vô thường thì lập phẩm Vô thường, cho đến nói về Phạm chí thì lập phẩm Phạm chí. Như thế, Đức Phật đã giảng nói về A-tỳ-đàm tại nhiều nơi chốn, địa phương, thành ấp, vì dùng vô số pháp để giáo hóa. Thế nên Tôn giả Ca-chiên-diên-tử đã dùng nguyện trí, ở trong pháp Phật quá khứ, quán toàn bộ là tóm lược, tạo ra Kiền độ số phẩm, lập chương môn, trong ấy theo nhiều thứ không giống nhau, lập ra Kiền độ Tạp, cho đến nói về kiến lập Kiền độ Kiến.

Lại nữa, tất cả Đức Phật – Thế Tôn xuất thế đều thuyết giảng ba Tạng là Khế kinh, Luật, A-tỳ-đàm.

Hỏi: Khế kinh, Luật, A-tỳ-đàm có gì khác biệt?

Đáp: Có thuyết nói: Không có khác biệt.

Hỏi: Vì sao?

Đáp: Vì đều từ một biển trí xuất sinh, nên không có khác biệt. Vì xuất phát từ Đại bi, nên không có khác biệt. Vì đều muốn đem lại lợi ích cho tất cả chúng sinh, nên không có khác biệt. Vì cùng hội nhập nơi một môn giải thoát, nên không có khác biệt.

Hoặc nói: Có khác biệt. Vì sao? Vì Khế kinh nói về nhiều thứ loại. Luật nói về giới. A-tỳ-đàm nói về tướng.

Hoặc nói: Khế kinh dựa vào lực. Luật dựa vào đại bi. A-tỳ-đàm dựa vào vô úy.

Hoặc nói: Khế kinh nói về ý tăng thượng. Luật nói về giới tăng thượng. A-tỳ-đàm nói về tuệ tăng thượng.

Hỏi: Nếu như vậy, Khế kinh cũng nói về giới tăng thượng, tuệ tăng thượng. Luật cũng nói về ý tăng thượng, tuệ tăng thượng. A-tỳđàm cũng nói về ý tăng thượng, giới tăng thượng. Điều này có khác biệt gì?

Đáp: Như Khế kinh nói về giới tăng thượng, nên biết là Luật. Nếu nói về tuệ tăng thượng, nên biết là A-tỳ-đàm. Như Luật nói về ý tăng thượng, nên biết là Khế kinh. Nếu nói tuệ tăng thượng, nên biết là A-tỳ-đàm. Như A-tỳ-đàm nói về ý tăng thượng, nên biết là Khế kinh. Nếu nói về giới tăng thượng, nên biết là Luật. Đây là sự khác biệt giữa Khế kinh, Luật, A-tỳ-đàm.

Hỏi: Vì sao Tôn giả kia tạo luận, lại lập ra Luận này?

Đáp: Vì nhằm tạo lợi ích cho người khác: Người siêng năng, người nghe, người thọ nhận, người giữ gìn, người tư duy, người lường tính, người quan sát, cùng với vô lượng hành ác của kiết, đều được trừ diệt trong giây lát. Hoặc lại dựa vào đấy để hội nhập pháp tánh vi diệu. Ví như người muốn giúp ích cho người khác, nên ở nơi bóng tối đã đốt đèn sáng khiến người có mắt thấy rõ các hình sắc. Cũng như thế, Tôn giả kia tạo luận, vì nhằm đem lại lợi ích cho người khác, nên lập ra Luận này. Nếu là người trí có ý, tức dựa vào đấy để hội nhập nơi pháp tánh vi diệu. Đức Phật Thế Tôn cũng vì đem lại lợi ích cho chúng sinh, nên đã giảng nói mười hai bộ kinh gồm nơi Khế kinh, Luật, A-tỳ-đàm.

Hỏi: Vì sao?

Đáp: Vì nếu như các chúng sinh có sức của nhân, nếu không duyên nơi sức của người khác để mở bày, giảng giải, chúng sinh như thế tức không nhận biết sự sai biệt. Như duyên nơi sức của người khác để mở bày giải thích, thì chúng sinh như thế là nhận biết có sự dị biệt. Cũng như ở trong ao này có các thứ hoa Ưu-bátla, Bát-đầu-ma, Câu-mâu-đầu, Phân-đà-lợi, tức biết có các thứ hoa ấy, nếu chúng không được tiếp xúc với ánh sáng mặt trời thì chúng sẽ không nở hoa, phát ra các mùi hương lan tỏa. Chúng cần được tiếp xúc với ánh sáng mặt trời mới có thể nở hoa tỏa hương. Cũng như thế, chúng sinh có sức của nhân, nếu không duyên nơi sức của người khác để mở bày giải thích, chúng sinh như thế tức không nhận biết sự sai biệt. Như duyên nơi sức của người khác để mở bày, giảng giải, chúng sinh như thế là nhận biết có sự sai biệt, là phô bày tín, là nêu rộng căn, lực, giác chi đạo chi, là hương giới. Như kệ kia đã nói:

Như nhà che kín

Mà vào trong tối

Tuy có các sắc

Nhưng mắt không thấy.

Như thế có một

Người không có trí

Không nghe, không biết

Các pháp thiện, ác.

Có sáng, có sắc

Nên mắt được thấy

Nghe xong nên biết

Các pháp thiện, ác.

Nghe pháp nên biết

Nghe ác không tạo

Nghe trừ phi nghĩa

Nghe đạt tịch tĩnh.

Như thế nơi Khế kinh khác đã nói (Xuất xứ: Tạp A Hàm): Đệ tử Hiền Thánh nhất tâm nghe pháp, ngay lúc ấy đã diệt trừ năm cái (Năm thứ che lấp), tu đầy đủ bảy giác ý.

Như thế nơi Khế kinh khác đã nói (Xuất xứ: Tăng Nhất A Hàm): Một nhân, hai duyên phát sinh đẳng kiến (chánh kiến), là nghe từ người khác và bên trong chánh tư duy.

Như thế nơi Khế kinh khác đã nói (Xuất xứ: Tăng Nhất Thuyết Bốn Pháp): Có bốn pháp đem lợi ích cho mọi người. Những gì là bốn pháp? Đó là: (1) Gần gũi bậc thiện tri thức. (2) Nghe pháp thiện. (3) Bên trong chánh tư duy. (4) Nối tiếp pháp, hướng về pháp.

Như Đức Phật – Thế Tôn vì tạo lợi ích cho chúng sinh, nên đã giảng nói mười hai bộ kinh. Cũng như thế, Tôn giả kia tạo luận, cũng nhằm đem lại lợi ích cho người khác nên tạo ra Luận này.

Hoặc nói: Do ba sự việc: (1) Tăng trưởng trí. (2) Mở bày ý. (3) Lìa chấp nơi người.

Tăng trưởng trí: Đều tụng pháp trong ngoài, có thể làm tăng trưởng trí, như A-tỳ-đàm.

Mở bày ý: Nghĩa là ý của chúng sinh do nơi thùy miên nên không nhận biết. Thế nào là sử nhất thiết biến nơi giới (cõi) của mình? Thế nào là không phải sử nhất thiết biến nơi giới của mình? Thế nào là sử nhất thiết biến nơi địa của mình? Thế nào là không phải sử nhất thiết biến nơi địa của mình? Thế nào là duyên nơi giới của mình? Thế nào là không phải duyên nơi giới của mình? Thế nào là duyên nơi địa của mình? Thế nào là không phải duyên nơi địa của mình? Thế nào là duyên nơi hữu lậu? Thế nào là duyên nơi vô lậu? Thế nào là duyên nơi hữu vi? Thế nào là duyên nơi vô vi? Thế nào là gồm thâu? Thế nào là tương ưng? Thế nào là thành tựu? Thế nào là không thành tựu? Thế nào là nhân? Thế nào là duyên? Nếu ý này chuyển biến không do độ người khác, không do nghe người khác, tự thấy mình tự tại, thân tác chứng. Là do nơi sức nào? Chỉ do A-tỳ-đàm.

Lìa chấp nơi người: Là tụng từng ấy câu trước, câu sau của A-tỳđàm. Bốn câu như thế không nói là chấp nơi người. Tức trong tất cả pháp đều nói hành vô ngã, không phải chúng sinh, không phải thọ mạng, không phải nuôi lớn, không phải sĩ phu, đều là tụ không, tịnh.

Do ba sự việc: Tăng trưởng trí, Mở bày ý và Lìa chấp nơi người, nên tạo ra Luận này.

Hoặc nói: Vì phá trừ bóng tối của vô minh. Như đốt đèn sáng để dứt bỏ bóng tối, sinh khởi ánh sáng. Như thế, ngọn đèn A-tỳ-đàm phá trừ vô minh, phát sinh tuệ sáng. Đó là phá trừ bóng tối của vô minh.

Hoặc nói: Vì thấy rõ hình tượng vô ngã. Như lau chùi gương soi thật kỹ, tức thấy rõ hình tượng của mình. Như thế, gương soi A-tỳđàm rất sáng tỏ, nhận biết rõ đế, thấy hình tượng vô ngã. Đó là thấy rõ hình tượng vô ngã.

Hoặc nói: Vì vượt qua sông sinh tử. Như nương dựa nơi thuyền, hằng trăm ngàn chúng sinh an ổn qua sông. Như thế, dựa vào thuyền A-tỳ-đàm xong, vô số na-do-tha chúng sinh đều an ổn vượt qua sông sinh tử. Đó là vượt qua sông sinh tử.

Hoặc nói: Vì thấy biết Khế kinh. Như người tay cầm đèn trông thấy các thứ sắc ấy không mê lầm. Như thế, người tuệ cầm đèn A-tỳđàm xong, đối với các Khế kinh kia không mê lầm. Đó là vì để thấy rõ Khế kinh, nên lập ra Luận này.

Hỏi: Thế nào là tánh của A-tỳ-đàm?

Đáp: Là tuệ căn vô lậu. Vì gồm thâu tánh đồng của A-tỳ-đàm kia, nên gồm thâu một giới, một nhập, một ấm, một ít đối tượng nhập và phương tiện, tương ưng, cùng có. Gồm thâu ba giới, hai nhập, năm ấm. Ba giới: ý giới, pháp giới, ý thức giới. Hai nhập: ý nhập, pháp nhập. Năm ấm: sắc, thống (thọ), tưởng, hành, thức ấm.

Hỏi: Nếu như vậy, A-tỳ-đàm là Tuệ căn vô lậu, vì sao Luận này gọi là A-tỳ-đàm?

Đáp: Vì A-tỳ-đàm này gồm đủ nên gọi là A-tỳ-đàm. Như những sự gồm đủ khác, dùng gồm đủ làm tên gọi. Vui gồm đủ dùng vui làm tên gọi. Như kệ nói:

Người ưa đoạn thực

Vui vì giữ y

Vui vì đi bộ

Nương nơi hang núi.

Cấu uế gồm đủ dùng cấu uế làm tên gọi. Như kệ kia nói:

Nữ uế phạm hạnh

Nữ buộc thế gian

Khổ hạnh, phạm hạnh

Không nước gột tẩy.

Các sử gồm đủ dùng sử làm tên gọi. Như Khế kinh đã nói (Xuất xứ: Tạp A Hàm): Tỳ-kheo nên biết! Sắc là sử, là ái sắc. Nếu Tỳ-kheo bị sử sai khiến, sử ấy tức là ái. Nếu là ái, ái đó đã bị ma trói buộc.

Dục gồm đủ dùng dục làm tên gọi. Như Khế kinh kia đã nói (Đồng với trên): Công năng của năm dục là nhớ nghĩ về ái lạc của thế gian.

Dẫn dắt gồm đủ dùng dẫn dắt làm tên gọi. Như Khế kinh đã nói (Đồng với trên): Công năng của năm dục là kiến chấp về ma bị ma dẫn dắt.

Trói buộc gồm đủ dùng trói buộc làm tên gọi. Như Khế kinh đã nói (Đồng với trên): Tỳ-kheo thọ nhận sắc là bị ma trói buộc, Tỳkheo không thọ nhận sắc là lìa ma.

Hành gồm đủ dùng hành làm tên gọi. Như Khế kinh đã nói (Đồng với trên): Sáu thứ xúc này vốn là báo của hành (nghiệp).

Báo gồm đủ dùng báo làm tên gọi. Như Khế kinh đã nói (Xuất xứ: Trung A Hàm): Này các hiền! Báo của một sự thí kia, bảy lần sinh trên cảnh trời làm Thiên vương, bảy lần sinh trong nẻo người làm vua người. Như ở đây các thứ khác gồm đủ đã dùng các thứ khác làm tên gọi.

Như thế, A-tỳ-đàm gồm đủ gọi là A-tỳ-đàm, song tánh của A-tỳ-đàm là tuệ căn vô lậu.

Như nơi Khế kinh Đức Phật nói: Dạ xoa thiên này trong nẻo sinh tử tối tăm, tâm luôn chân chất, ngay thẳng, không có dua nịnh, không có lừa dối. Những sự thưa hỏi đều muốn nhận biết, không có ý quấy nhiễu. Ở đây cũng như pháp, Ta nên có thể dùng A-tỳ-đàm thâm diệu để truyền trao cho họ (Xuất xứ: Trung A Hàm).

Hỏi: Trong đây vì sao nói A-tỳ-đàm là thâm diệu?

Đáp: Tức là tuệ căn vô lậu.

Như nơi Khế kinh Đức Phật nói: Bà-la-môn Phạm ma trong đêm dài sinh tử tâm luôn chân chất ngay thẳng không có dua nịnh, không có lừa dối. Những điều thưa hỏi là đều muốn hiểu biết, không có ý gây rắc rối, nhiễu loạn. Ở đây cũng như pháp, Ta nên có thể dùng A-tỳ-đàm hết sức sâu xa để truyền trao cho họ (Đồng như trên).

Hỏi: Trong đây vì sao nói A-tỳ-đàm là rất sâu xa?

Đáp: Tức là tuệ căn vô lậu.

Như nơi Khế kinh Đức Phật nói: Tu-bạt là hàng dị học chân chất ngay thẳng không có dua nịnh, không có khi dối. Những sự việc thưa hỏi là đều muốn hiểu biết, không có ý gây tạo nhiễu loạn. Ở đây cũng như pháp, Ta nên có thể dùng A-tỳ-đàm rất thâm diệu để truyền trao cho họ (Xuất xứ: Tạp A Hàm).

Hỏi: Trong đây vì sao nói A-tỳ-đàm là rất thâm diệu?

Đáp: Tức là tuệ căn vô lậu.

Như nơi Khế kinh Đức Phật nói: Này Tôn giả A-nan! Duyên khởi rất sâu, minh cũng rất sâu (Xuất xứ: Trung A Hàm).

Hỏi: Trong đây những gì nói là rất sâu?

Đáp: Ở đây nói nhân và duyên là rất sâu.

Như nơi Khế kinh Đức Phật nói: Xứ này là rất sâu. Như duyên khởi của kinh này cũng là rất sâu. Đó là lìa bỏ tất cả sự sinh tử, ái hết, không có dục, là Niết-bàn diệt tận (Xuất xứ: Tạp A Hàm).

Hỏi: Trong đây vì sao nói là rất sâu?

Đáp: Ở đây nói nhân và duyên, nhân và duyên lìa bỏ nói là rất sâu.

Như nơi Khế kinh Đức Phật nói: Vì tất cả pháp là rất sâu xa, nên khó thấy. Do khó thấy nên là rất sâu xa (Xuất xứ: Tạp A Hàm).

Hỏi: Trong đây những gì nói là rất sâu?

Đáp: Ở đây nói tất cả pháp là rất sâu xa.

Như nơi Khế kinh Đức Phật nói: Vì sao ông là người ngu si, không có mắt, lại bàn luận về A-tỳ-đàm rất sâu xa? (Xuất xứ: Trung A Hàm)

Hỏi: Trong đây vì sao nói A-tỳ-đàm là rất sâu xa?

Đáp: Là ý sinh.

Như nơi Khế kinh Đức Phật nói: Này Tiên ni! Pháp của Ta là rất sâu xa, khó thấy, khó biết, không phải là hành xem xét, ông không thể nhận biết về pháp kia. Vì sao? Vì như ông nơi đêm dài sinh tử đã theo kiến khác, nhẫn khác, dục khác, lạc khác (Xuất xứ: Tạp A Hàm).

Hỏi: Trong đây nói những gì là rất sâu xa?

Đáp: Ở đây nói tam muội không là rất sâu xa.

Hỏi: Vì sao?

Đáp: Vì không là vô ngã. Dị học này chấp có ngã, nên không thể nhận biết về pháp kia. Vì tánh của A-tỳ-đàm là tuệ căn vô lậu. Do tánh ấy nên các thế gian đã tu tuệ, quán bất tịnh, niệm an ban, ý chỉ, noãn, đảnh, nhẫn, pháp thế gian đệ nhất, tất cả A-tỳ-đàm được mang tên. Do tánh ấy nên các tư tuệ dùng để xét đoán về tự tướng và cộng tướng của các pháp, hủy hoại chủng tử ngu si và duyên ngu, ở trong pháp hành không điên đảo. Đây cũng là tất cả A-tỳ-đàm được mang tên. Do tánh ấy nên báo của các chúng sinh đã được là văn tuệ thiện. Người kia đối với mười hai bộ này, nghe nhận, giữ gìn, tư duy, lường tính, quán xét tất cả A-tỳ-đàm này được mang tên. Tuy có những công năng như thế, nhưng tánh của A-tỳ-đàm là tuệ căn vô lậu.

Hỏi: Do những nghĩa nào nên gọi là A-tỳ-đàm?

Đáp: Tôn giả Bà-tu-mật nói: Đây là trí cứu cánh. Đây là trí quyết đoán. Đây là trí đệ nhất nghĩa. Đây là trí không có sai lầm, nên nói là A-tỳ-đàm.

Lại nói: Đây đều là pháp ở trên nên nói là A-tỳ-đàm. Nếu hàng hữu học quán xét về tự tướng, cộng tướng của các pháp, người học kia tuy dốc hết sức mình cũng không thể vượt hơn. Do đấy nên là pháp ở trên nói là A-tỳ-đàm.

Tôn giả Đàm-ma-đa-la nói: Đối với các pháp nhiễm ô, thanh tịnh, trói buộc, giải thoát, luân chuyển, xuất yếu, gọi là pháp. Từ pháp ấy nên dùng danh thân, cú thân, vị thân, theo thứ lớp kết tập sắp đặt phân biệt nên nói là A-tỳ-đàm.

Tôn giả Cù-sa nói: Người hướng cầu giải thoát, khi nên cầu đạt trí, chưa hiển bày chỉ rõ khiến hiển bày chỉ rõ, nên nói là A-tỳ-đàm. Đó là: Đây là khổ, là nhân của khổ. Đây là đạo, là quả của đạo, là cầu quả của đạo. Đây là đạo vô ngại, đạo giải thoát, đạo tăng trưởng, là hướng, là quả. Thế nên nói người hướng cầu giải thoát, khi nên cầu đạt trí, chưa hiển bày chỉ rõ khiến hiển bày chỉ rõ. Đây nói là A-tỳ-đàm.

Bộ Đàm Vô Đức nói: Pháp này là không thể so sánh. Đấy gọi là A-tỳ-đàm.

Hỏi: Pháp này vì sao không thể so sánh?

Đáp: Như kệ nói:

Trí là diệu thế gian

Hướng tới chốn đạt đến

Hay dùng những chánh trí

Dứt sinh lão bệnh tử.

Lại nữa, tuệ vượt qua trên tất cả pháp. Như nói các đệ tử Thánh khéo dùng dao tuệ đoạn dứt tất cả kiết, phược, sử, phiền não triền. Lại đoạn dứt, xua tan, trừ bỏ (Xuất xứ: Tạp A Hàm).

Vì thế nên nói pháp này là không thể so sánh. Đó gọi là A-tỳ-đàm.

Phái Tỳ-bà-xà-bà-đề nói: Ánh sáng của pháp này có thể soi chiếu khắp. Đó gọi là A-tỳ-đàm. Như nói: Thế gian không có ánh sáng nào sánh bằng với tuệ của A-tỳ-đàm (Đồng với trên). Thế nên nói ánh sáng của pháp này có thể soi chiếu khắp. Đó gọi là A-tỳ-đàm.

Phái Xá-đề nói: Chưa dứt hết có thể khiến dứt hết. Chưa lựa chọn có thể lựa chọn. Đó gọi là A-tỳ-đàm.

Hỏi: Dứt hết những thứ gì?

Đáp: Là dứt hết các thứ kiết, phược, sử, triền phiền não.

Hỏi: Lựa chọn về những gì?

Đáp: Lựa chọn về giới, nhập, ấm duyên khởi.

Do vậy nói chưa dứt hết có thể khiến dứt hết. Chưa lựa chọn có thể lựa chọn. Đó gọi là A-tỳ-đàm.

Phái Thí Dụ nói: Pháp, thứ pháp, hướng pháp. Đó gọi là A-tỳ-đàm.

Hỏi: Thế nào là pháp, thứ pháp?

Đáp: Khế kinh Phật nói: Niết-bàn là pháp đệ nhất nghĩa. Tiếp theo pháp ấy lại có pháp gì? Đó là tám Thánh đạo. Do đấy nói pháp, thứ pháp. Đó gọi là A-tỳ-đàm.

Tôn giả Bà Bạt Cầm nói: Vì sự tăng thượng, chuyển tăng thượng. Đó gọi là A-tỳ-đàm. Như nói: Trưởng tối thượng. Trưởng tăng thượng. Mạn trên hết. Mạn tăng thượng. Pháp này cũng như thế.

(Phần Tựa A-tỳ-đàm xong).

*

Chương nhỏ: GIẢI THÍCH VỀ PHẨM BẤT THIỆN

Ba kiết. Ba căn bất thiện. Ba hữu lậu. Bốn lưu. Bốn ách. Bốn thọ. Bốn phược. Năm cái. Năm kiết. Năm kiết phần dưới. Năm kiết phần trên. Năm kiến. Sáu thân ái. Bảy sử. Chín kiết. Chín mươi tám sử.

Đây là tất cả do Khế kinh Phật đã nói, trừ năm kiết, chín mươi tám sử. Trừ năm kiết xong nên lập năm kiết phần trên.

Hỏi: Vì sao như thế?

Đáp: Vì các pháp kia là do Khế kinh Phật đã nói.

Trừ chín mươi tám sử là không có nơi chốn lập.

Hỏi: Vì sao như thế?

Đáp: Tôn giả Đàm-vô-đa-la đều đem A-tỳ-đàm so với Khế kinh như bốn Bộ A Hàm, quán sát trong đó không phải là Khế kinh Phật, nên bỏ. Vì các kiết sử kia không phải do Khế kinh Phật nói nên bỏ.

Hoặc nói: Năm kiết ấy ở nơi chương này không nên bỏ. Vì sao? Vì sao trong năm pháp của Tăng Nhất A Hàm là Khế kinh do Phật nói, xuyên qua thời gian lâu xa đến nay đã mất mát. Tôn giả kia tạo luận đã dùng nguyện trí quán xong mới lập ra chương A-tỳ-đàm này. Đức Phật giảng nói vô lượng bộ, vì trải qua thời gian lâu xa, nên bị mất. Người kết tập Tăng Nhất A Hàm, từ một pháp đến một trăm pháp, nay chỉ còn từ một pháp đến mười pháp, đối với một pháp này, phần nhiều cũng có mất mát không hiện còn. Như thế, đến mười pháp cũng như vậy.

Lại nói: Tôn giả A-la-hán Xá-na-bà là thầy của Kỳ-bà, trong ngày Tôn giả kia bát Niết-bàn, tức hôm đó đã bị mất hết bảy mươi ngàn Kinh Sinh. Trong A-tỳ-đàm đã bị mất mười ngàn kinh. Từ đây về sau, pháp Phật không còn lưu hành. Như vậy, vô lượng Bộ này trong thời gian lâu đã bị mất. Như vậy, Khế kinh Phật đã nói năm kiết ở trong năm pháp của Tăng Nhất A Hàm có thể đã bị mất từ lâu. Tôn giả kia tạo luận đã dùng nguyện trí quán xét xong thành lập chương A-tỳ-đàm này.

Hỏi: Chín mươi tám sử không phải do Khế kinh Phật nói, vì sao ở nơi chương này không bỏ?

Đáp: Vì tất cả các pháp ấy là nghĩa của Khế kinh, Khế kinh chọn lấy nơi các thuyết của Khế kinh. Trong Khế kinh Phật nói bảy sử, phân biệt giới, phân biệt chủng, phân biệt hành, gồm thâu kết hợp, nên có chín mươi tám sử.

Hoặc nói: Tuy cùng không phải là Khế kinh Phật nói, nhưng ở trong chương này đều không nên bỏ.

Hỏi: Năm kiết không phải là Khế kinh Phật, ở trong chương này vì sao không bỏ?

Đáp: Vì ý của Tôn giả tạo luận muốn như thế. Như tôi đã nói riêng về kiết nhất thiết biến (tùy miên biến hành). Nói riêng về kiết không phải nhất thiết biến. Nói riêng về kiết nhất thiết biến không phải nhất thiết biến. Tôn giả kia nói riêng về kiết nhất thiết biến, như ba kiết. Nói riêng về kiết không phải nhất thiết biến, như năm kiết. Nói riêng về kiết nhất thiết biến không phải nhất thiết biến, như chín kiết. Thế nên nói là do ý của Tôn giả tạo luận muốn như thế.

* Ba kiết cho đến chín mươi tám sử:

Hỏi: Vì sao tạo ra chương?

Đáp: Vì lập môn. Tức không thể không có chương mà lập môn, không thể dùng tay để tô điểm nơi hư không.

Hỏi: Xứ nào có thể tô điểm?

Đáp: Tô điểm ở nơi chốn có thể. Như thế, không thể do không có chương mà được lập môn.

Hoặc nói: Chớ khiến không có chương nên hoàn toàn không có luận bàn.

Hoặc cho: Do muốn trụ lâu. Như số phẩm của ấm này là khéo tạo tác, khéo tạo chương, khéo lập môn. Trong trăm ngàn chúng mới có một người có thể trì tụng đầy đủ, cũng có thể là không. Huống chi giải thích phân tán, sắp đặt lộn xộn, thì ai có thể thọ trì đọc tụng. Đó gọi là do muốn trụ lâu.

Hoặc nêu: Vì tự mình không có tri kiến tạp loạn. Nếu có người tri kiến tạp loạn tạo luận, thì luận cũng sẽ tạp loạn. Do đấy có thể nhận biết Tôn giả tạo luận có tri kiến không tạp loạn, nên kết tạo luận này rất chánh thiện, không tạp loạn. Đó gọi là tự mình không có tri kiến tạp loạn nên tạo chương môn.

Hỏi: Vì sao Luận giả căn cứ vào Khế kinh Phật để tạo lập chương?

Đáp: Vì muốn hiện bày về vô lượng nghĩa của Khế kinh Phật khác với các Bộ của ngoại đạo văn nhiều nghĩa ít, hoặc không có nghĩa.

Nghĩa ít: Như sách La ma na có mười hai ngàn tụng mà chỉ nêu bày về hai nghĩa: La ma nê tương khư đà khứ. Ba la di hoàn tương lai.

Không có nghĩa: Là do một người nữ nên đã giết hại mười tám triệu chúng sinh, như cỏ đầy trong thành sắt. Các bộ của ngoại đạo có nghĩa ít hoặc vô nghĩa là như thế.

Hỏi: Khế kinh Phật thì thế nào?

Đáp: Khế kinh Phật là vô lượng nghĩa, vô biên vị. Như biển cả, vô lượng là rất sâu. Hết sức rộng là vô biên. Khế kinh Phật cũng như thế, là vô lượng nghĩa, vô biên vi. Như Tôn giả Xálợi-phất đã so sánh. Như vậy, với trăm ngàn na-do-tha Đại Luận sư như Tôn giả Xá-lợi-phất tạo ra trăm ngàn luận đều như trí tuệ của Tôn giả, nhưng cũng không thể giải thích đầy đủ nghĩa sâu rộng nơi hai câu kinh Phật. Đó gọi là Khế kinh Phật hiện bày vô lượng nghĩa.

Hoặc nói: Vì muốn chứng tỏ Khế kinh Phật có thể nêu hỏi đáp chẳng phải như các bộ của ngoại đạo không thể nêu hỏi đáp. Vì nếu khi nêu ra thì càng trở nên vô nghĩa. Như khỉ con không chịu nổi việc đánh đập đụng chạm. Nếu lúc nào đụng chạm đánh đập thì chúng sẽ phóng uế nhơ nhớp.

Hỏi: Khế kinh Phật thì thế nào?

Đáp: Như áo dày nhiều lớp được dệt nơi thành Ba La Nại, có thể chịu đựng sự vò đập xúc chạm mạnh. Nếu khi vò đập mạnh thì phát ra màu sắc tươi sạch cùng sự tiếp xúc thắng diệu. Khế kinh Phật cũng như thế. Có thể tạo nên các hỏi đáp. Hoặc khi hỏi đáp sinh tịnh giới cùng sự tiếp xúc vi diệu của sắc, căn thiện. Thế nên nói vì muốn chứng tỏ Khế kinh Phật có thể nêu hỏi đáp.

Hoặc nói: Khế kinh Phật vì mở bày chỉ rõ về sự sáng đẹp. Khế kinh Phật nói: Ba sự việc này che đậy thì tốt đẹp, mở ra thì không tốt đẹp. Những gì là ba sự việc? Là người ngu, người nữ và luận thư của ngoại đạo. Ba sự việc mở ra thì tốt đẹp, che đậy lại thì không tốt đẹp. Những gì là ba sự việc? Là người trí, mặt trời mặt trăng và kinh luận của pháp Phật (Xuất xứ: Tạp A Hàm). Đó gọi là Khế kinh Phật vì mở bày chỉ rõ về sự sáng đẹp.

Thế nên dựa nơi Khế kinh Phật tạo ra chương.

Hỏi: Vì sao trước tạo chương, sau lập môn?

Đáp: Vì như pháp đối trị địa. Như người muốn trồng cây, trước phải dọn dẹp đất đai của mình, sau đấy mới trồng cây. Người tạo luận kia cũng như thế. Theo pháp đối trị địa nên trước tạo chương, theo pháp trồng cây nên sau lập môn.

Hoặc nói: Vì như pháp làm nền. Như người cất nhà, trước phải xây nền móng, sau đấy mới dựng nhà. Người tạo luận kia cũng như thế. Theo pháp làm nền nên trước tạo chương, theo pháp làm nhà nên sau lập môn.

Hoặc cho: Vì như phương pháp chạm khắc hình tượng. Người thầy chạm khắc hình tượng và học trò của thầy, trước phải phác họa, sau đấy mới chạm khắc. Người tạo luận kia cũng như thế. Theo phương pháp phác họa nên trước tạo chương, theo pháp chạm khắc nên sau lập môn.

Hoặc nêu: Vì như pháp vẽ tranh màu. Thầy vẽ và học trò, trước là vẽ phác họa, sau đấy mới tô màu sắc. Người tạo luận kia cũng như thế. Theo pháp tạo mẫu nên trước tạo chương, theo pháp tô màu sắc nên sau lập môn.

Hoặc nói: Vì như phương pháp dùng chỉ xâu. Như thợ xâu kết tràng hoa cùng học trò xâu kết tràng hoa, trước là sâu dây chỉ, sau đấy kết thành tràng hoa. Người tạo luận kia cũng như thế. Theo pháp xâu dây chỉ nên trước tạo chương, theo pháp kết hoa nên sau lập môn.

Hoặc cho: Như phân biệt pháp. Đức Phật – Thế Tôn giảng nói cũng lại như thế. Nói phân biệt pháp, tức như Đức Thế Tôn trước giảng nói: Người Tỳ-kheo có sáu giới tụ, sáu xúc, bốn xứ (Một là xứ chân đế. Hai là xứ thí. Ba là xứ tuệ. Bốn là xứ niệm hơi thở), mười tám ý hành. Sau đấy mới phân biệt: Đây là sáu giới, sáu xúc, bốn xứ, mười tám ý hành của Tỳ-kheo. Người tạo luận kia cũng như thế. Như trước nêu pháp nên trước tạo chương. Sau phân biệt pháp nên sau lập môn. Đó gọi là hiện bày sự tôn pháp.

Hoặc nêu: Vì như pháp hiện hành quán. Người tu hành trước lập bốn đại và sắc do bốn đại tạo, sau đấy dùng sát-na cực vi để phân tích. Người tạo luận kia cũng như thế. Như cách lập bốn đại và sắc được tạo nên trước tạo chương. Như cách dùng sát-na cực vi để phân tích nên sau lập môn. Đó gọi là như pháp hiện hành quán.

Hoặc nói: Vì như hiện bày pháp biện luận. Pháp biện Luận này là trước hỏi, sau đáp. Thế nên vì như hiện bày pháp biện luận, nên người tạo luận kia, trước tạo chương, sau lập môn.

Hỏi: Vì sao Tôn giả kia tạo luận, trước lập ba kiết, sau cho đến lập chín mươi tám sử?

Đáp: Vì như trước đã nói: A-tỳ-đàm là nói về tướng. Nên xét tìm về tướng của A-tỳ-đàm, không nên xét tìm về thứ lớp. Khế kinh nên xét tìm về thứ lớp. Vì sao? Vì phẩm này theo thứ lớp nói phẩm này. Luật thì nói về gốc ngọn, nên xét tìm về gốc ngọn. Nghĩa ấy do đâu sinh? Song A-tỳ-đàm là nói về tướng, nên xét tìm về tướng của A-tỳ-đàm, không nên xét tìm về thứ lớp.

Lại nữa, có thể nêu bày về lý do. Tôn giả kia tạo luận, trước lập ba kiết, sau cho đến lập chín mươi tám sử, vì chỉ A-tỳ-đàm phần nhiều phá tán loạn, tạo tụ hợp. Ai có thể nói hết về thứ lớp? Chỉ A-tỳđàm nói về tướng nên xét tìm tướng, không nên xét tìm thứ lớp trước sau, vì không hợp.

Tôn giả Ba Xa nói: Tất cả pháp nghi không trái. Nếu trước lập ba căn bất thiện, sau cho đến lập chín mươi tám sử, hoặc trước nói chín mươi tám sử thì cũng đều có nghi: Do đâu lập chương trước nói về ba kiết? Thế nên, tất cả pháp được nêu bày không trái với pháp tướng, hoặc trước hoặc sau đều không có lỗi.

Hoặc nói: Vì ý của người tạo luận kia muốn như thế. Như tôi trước lập ba kiết, sau cho đến lập chín mươi tám sử, miễn là không trái với pháp tướng.

Hoặc cho: Vì là pháp tăng trưởng, nên trước hiện bày ba, sau là bốn, năm, sáu, bảy, chín, chín mươi tám sử. Do vậy là theo pháp tăng trưởng.

Hoặc nêu: Vì theo thứ lớp lập bốn quả vị Sa-môn. Ba kiết vĩnh viễn dứt hết, lập quả Tu-đà-hoàn. Thế nên Tôn giả kia trước lập ba căn bất thiện. Chúng hoàn toàn dứt hết nên lập quả Tu đà hàm. Đoạn hết lậu lập quả A-na-hàm. Thế nên, tiếp theo quả này lập ba hữu lậu. Vĩnh viễn dứt hết hữu lậu, lập quả A-la-hán, nên nói sau cùng. Các thứ lưu (bộc lưu), ách, thọ (thủ) chúng không có sự đoạn chứng riêng lẻ, đều chỉ rõ lần nữa về ba lậu, nên thứ lớp nói về chúng. Vì vậy trong phần này trước nói ba kiết, cho đến sau nói chín mươi tám sử. Đó là theo thứ lớp lập bốn quả Sa-môn.

Hoặc nói: Vì theo thứ lớp lập cây kiết. Đây là cây kiết trước hiện ba, sau là bốn, năm, sáu, bảy, chín và chín mươi tám sử. Thế nên Tôn giả kia tạo luận, trước lập ba kiết, cho đến sau lập chín mươi tám sử.

Nói rộng về Xứ chương xong.

*

Phần thứ 1: XỨ BA KIẾT

Ba kiết: (1) Kiết thân kiến. (2) Kiết giới đạo (Kiết giới cấm thủ). (3) Kiết nghi.

Hỏi: Ba kiết này dùng gì làm tự tánh?

Đáp: Dùng hai mươi mốt thứ làm tự tánh. Kiết thân kiến nơi ba cõi do một thứ đoạn (kiến khổ) có ba sự. Kiết giới đạo nơi ba cõi do hai thứ đoạn (kiến khổ, kiến đạo) có sáu sự. Kiết nghi nơi ba cõi do bốn thứ đoạn (kiến khổ tập diệt đạo) có mười hai sự. Tổng cộng hai mươi mốt sự là tánh của ba kiết. Tánh của ba kiết này là thể tướng hiện có nơi thân.

Đã nói về tự tánh của kiết, tiếp theo là nói về hành.

Hỏi: Vì sao gọi là kiết? Kiết nghĩa là gì?

Đáp: Nghĩa trói buộc là nghĩa của kiết. Nghĩa hệ thuộc nơi khổ là nghĩa của kiết. Nghĩa xen tạp chất độc là nghĩa của kiết.

Nghĩa trói buộc là nghĩa của kiết: Trói buộc là kiết, kiết là trói buộc.

Hỏi: Làm sao nhận biết được?

Đáp: Vì có Khế kinh. Khế kinh kia nói: Tôn giả Ma Ha Câu Hy La đi đến chỗ Tôn giả Xá-lợi-phất hỏi: Thưa Đại đức! Mắt trói buộc sắc hay sắc trói buộc mắt?

Tôn giả Xá-lợi-phất đáp: Không phải mắt trói buộc sắc, không phải sắc trói buộc mắt. Cho đến ý, pháp cũng như vậy. Không phải ý trói buộc pháp, không phải pháp trói buộc ý, chỉ vì trong ấy, hoặc dâm, hoặc dục là có sự trói buộc kia.

Tôn giả Xá-lợi-phất nói tiếp: Ví như hai con bò: một đen, một trắng, có một chiếc ách, một sợi dây buộc chúng với nhau. Nếu có người hỏi thế này: Bò đen trói buộc bò trắng hay bò trắng trói buộc bò đen? Tức nên đáp: Chẳng phải bò đen trói buộc bò trắng. Chẳng phải bò trắng trói buộc bò đen. Ở đây, chính chiếc ách và sợi dây là sự trói buộc của bò kia.

Như thế, này Tôn giả Câu Hy La! Không phải mắt trói buộc sắc, không phải sắc trói buộc mắt. Cho đến ý, pháp cũng như thế. Không phải ý trói buộc pháp, không phải pháp trói buộc ý, chỉ vì trong ấy, hoặc dâm, hoặc dục là có sự trói buộc kia. (Xuất xứ: Tạp A Hàm).

Đây tức nói nghĩa trói buộc là nghĩa của kiết.

Nghĩa hệ thuộc nơi khổ là nghĩa của kiết: Tức kiết của cõi dục, chúng sinh của cõi dục hệ thuộc nơi khổ trong cõi dục. Kiết của cõi sắc, chúng sinh của cõi sắc hệ thuộc nơi khổ trong cõi sắc. Kiết của cõi vô sắc, chúng sinh của cõi vô sắc hệ thuộc nơi khổ trong cõi vô sắc. Các kiết của cõi dục, khiến người nơi cõi dục kết hợp với khổ, không phải là vui. Các kiết của cõi sắc, vô sắc, khiến người nơi cõi sắc, vô sắc kết hợp với khổ, không phải là vui. Đây tức nói nghĩa hệ thuộc nơi khổ là nghĩa của kiết.

Nghĩa xen tạp chất độc là nghĩa của kiết: Nghĩa là sự sống thắng diệu và định hữu lậu như giải thoát, trừ nhập (thắng xứ), nhất thiết nhập (biến xứ), do vì xen tạp với phiền não nên Thánh giả chán lìa, xem như thức ăn có lẫn chất độc, tuy có ngon ngọt, người trí vẫn tránh xa. Đây tức nói nghĩa xen tạp chất độc là nghĩa của kiết.

Đây tức nói nghĩa trói buộc là nghĩa của kiết. Nghĩa hệ thuộc nơi khổ là nghĩa của kiết. Nghĩa xen tạp chất độc là nghĩa của kiết.

Như nơi Khế kinh Phật nói: Ba kiết dứt trừ hết là chứng quả Tu-đà-hoàn.

Hỏi: Như A-tỳ-đàm đã nói: Tám mươi tám sử được đoạn trừ vĩnh viễn chứng quả Tu-đà-hoàn. Như Khế kinh Trì Dụ nói: Đoạn vô lượng khổ, chứng quả Tu-đà-hoàn (Xuất xứ: Tạp A Hàm). Vì sao ở đây nói ba kiết dứt hết là quả Tu-đà-hoàn?

Đáp: Vì đây là lời giảng nói chưa trọn vẹn của Đức Thế Tôn, là nói tóm lược, vì muốn khiến vâng theo lời nói để hành trì. Nghĩa là Đức Thế Tôn vì giáo hóa chúng sinh.

Hoặc nói: Vì con người. Vì quyến thuộc. Vì vật chứa đựng. Vì sự giáo hóa. Chúng sinh kia thọ nhận sự hóa độ, có thể lãnh hội nhanh nếu giảng nói từng ấy sự việc.

Hoặc cho: Đức Thế Tôn giảng nói pháp đều vì giáo hóa chúng sinh. Như y sư chữa trị các chứng bệnh đều vì các bệnh nhân. Y sư kia vì người bệnh, chẩn đoán nhận biết rõ căn bệnh, nói là tùy theo bệnh cho thuốc, liều lượng luôn cân xứng, không ít không nhiều. Nếu ít thì bệnh không lành. Nếu nhiều thì chỉ dứt bỏ công sức, chỉ cho thuận hợp, vì muốn bệnh chóng khỏi. Như Đức Phật – Thế Tôn giảng nói pháp đều vì mục đích giáo hóa. Đức Thế Tôn vì người thọ nhận sự hóa độ, hiểu biết về thân, hiểu biết về sử xong, trao cho họ thuốc đạo, cũng không nói ít, vì e bệnh kiết không dứt, cũng không nói nhiều, vì e phí công sức vô ích, chỉ nói cân xứng.

Hoặc nêu: Vì khuyến dụ các chúng sinh được giáo hóa còn yếu kém, chỉ rõ sự việc dễ hành trì, như nắm lấy tay họ dẫn dắt. Ở đây nên nói thí dụ về Bạt Kỳ Tử:

Có thuyết cho: Có Tỳ-kheo tên Bạt Kỳ Tử, ở trong giáo pháp của Đức Thế Tôn xuất gia làm Sa-môn. Đức Thế Tôn đã vì các Tỳkheo dần dần lập ra hai trăm năm mươi giới. Ông ta nghe xong, chán nản nên đi đến chỗ Đức Thế Tôn, thưa: Bạch Thế Tôn! Đức Thế Tôn lập ra hai trăm năm mươi giới, cứ nửa tháng khiến các đệ tử đọc tụng tu học. Cúi mong Đức Thế Tôn xót thương, vì con không thể hành trì từng ấy giới như thế.

Đức Thế Tôn đã khéo dùng lời dịu dàng khuyên bảo: Lành thay, lành thay! Này Bạt Kỳ Tử! Ông có thể hành trì ba giới được chăng? Đó là giới tăng thượng, ý tăng thượng và tuệ tăng thượng.

Nghe Đức Phật nói xong, Bạt Kỳ Tử rất hoan hỷ, suy nghĩ: Ta có thể khéo hành trì ba giới này. Đoạn, ông ta nói: Bạch Đức Thế Tôn! Con sẽ học. Bạch Đức Thiện Thệ! Con xin hành trì đầy đủ. Khi học ba giới kia, tức dần dần học tất cả biển giới.

Nếu Đức Thế Tôn vì giáo hóa các chúng sinh như thế, nói tám mươi tám sử đã dứt trừ hết chứng quả Tu-đà-hoàn, đoạn hết vô lượng khổ chứng quả Tu-đà-hoàn, các chúng sinh kia nghe xong sẽ sinh chán sợ: Ai có thể phá trừ tám mươi tám núi khổ này? Ai có thể nhổ được rễ của tám mươi tám cây khổ ấy? Ai có thể vượt qua tám mươi tám con sông khổ này? Ai có thể tát cạn tám mươi tám biển khổ ấy?

Như nơi Khế kinh, Đức Phật nói ba kiết đoạn dứt hết là chứng quả Tu-đà-hoàn. Người thọ nhận sự giáo hóa kia nghe xong, tức có thể nêu ước muốn: Ta có thể khéo đoạn dứt ba kiết này. Khi trừ bỏ ba kiết kia, tức dần dần đoạn trừ hết tất cả kiết do kiến đạo đoạn. Đó gọi là vì khuyến dụ các chúng sinh được giáo hóa còn yếu kém, chỉ rõ sự việc dễ hành trì, như nắm lấy tay họ dẫn dắt. Ở đây nên nói thí dụ về Bạt Kỳ Tử (Xuất xứ: Luật).

Hoặc nói: Do gây tạo lắm tai họa, lỗi nặng, nhiều khổ.

Hỏi: Kiết thân kiến gây tạo những tai họa gì?

Đáp: Thân kiến là gốc rễ của sáu mươi hai kiến. Kiến là gốc rễ của kiết. Kiết là gốc rễ của hành (Nghiệp). Hành là gốc rễ của quả báo. Dựa vào quả báo, tất cả pháp thiện, bất thiện, vô ký đều được sinh khởi tăng trưởng.

Hỏi: Kiết giới đạo gây tạo những tai họa gì?

Đáp: Trong giới đạo sinh khởi các thứ tu khổ hạnh vô nghĩa.

Hỏi: Kiết nghi gây tạo những tai họa gì?

Đáp: Vì quá khứ nên sinh nghi, do dự. Vì vị lai nên khởi nghi, do dự. Vì hiện tại nên khởi nghi, do dự. Bên trong thì do dự, nghi hoặc: Điều này là thế nào? Sao nói là việc này? Chúng sinh này từ đâu đến? Rồi sẽ đi về đâu? Nhân nào? Có gì?

Đó gọi là do gây tạo lắm tai họa, lỗi nặng, nhiều khổ.

Hoặc cho: Vì tạo công đức, oán thù.

Hỏi: Thế nào là công đức?

Đáp: Là quả Tu-đà-hoàn.

Hỏi: Thế nào là oán thù?

Đáp: Là ba kiết.

Hoặc nêu: Khi chứng quả Tu-đà-hoàn, ba kiết kia đã tạo ra chướng ngại, không khiến vào cửa đạo, chỉ khiến dừng lại, như người canh giữ cửa.

Hoặc nói: Ba kiết này là trái với ba môn giải thoát. Kiết thân kiến trái với môn giải thoát không. Kiết giới đạo trái với môn giải thoát vô nguyện. Kiết nghi trái với môn giải thoát vô tướng. Đó gọi là trái với ba môn giải thoát. Vì lý do này nên như thế.

Hoặc cho: Ba kiết này hoàn toàn dứt hết, nhưng cho đến A-lahán cũng còn có thân kiến tương tợ mắc phải khổ. Trí vị tri vĩnh viễn dứt hết. Kiết thân kiến kia đã đoạn hết, đã nhận biết khắp, nhưng cho đến A-la-hán cũng còn có pháp tương tợ. Như A-la-hán kia khởi suy nghĩ thế này: Là y bát của ta. Là Sa-di đệ tử của ta. Là nhà của ta, vườn của ta. Tương tợ như có ngã.

Kiết giới đạo lúc được đạo, trí vị tri đã vĩnh viễn dứt trừ hết. Kiết giới đạo kia đã đoạn hết, đã nhận biết khắp, nhưng cho đến A-lahán cũng còn có pháp tương tợ. Như A-la-hán kia đi khất thực, mặc y phấn tảo, ngồi nơi khoảng đất trống, nhận lấy mười hai hạnh đầu đà của Sa-môn, tương tợ như bậc tịnh hạnh.

Kiết nghi lúc được đạo, trí vị tri đã vĩnh viễn trừ bỏ hết. Kiết nghi kia đã đoạn hết, đã nhận biết khắp, nhưng cho đến A-la-hán cũng còn có pháp tương tợ. Như A-la-hán kia thấy hai con đường liền khởi nghi: Đây là đường chính hay không phải là đường chính? Thấy hai y cũng sinh nghi: Đây là y của ta hay không phải là y của ta? Từ xa trông thấy một vật liền khởi nghi: Người ấy là nam hay là nữ?

Chớ nên khởi suy nghĩ: A-la-hán nhất định không dứt hết các kiết này. Tu-đà-hoàn đã dứt hết kiết ấy huống chi là A-la-hán.

Vì thế nên nói: Ba kiết dứt trừ hết là chứng quả Tu-đà-hoàn.

Hoặc nêu: Đây là hiện bày môn, hiện bày tóm lược, hiện bày độ. Nếu các kiết do kiến đạo đoạn, hoặc là một thứ, hoặc là hai thứ, bốn thứ. Kiết thân kiến đã nói, nên biết là nói một thứ. Kiết giới đạo đã nói, nên biết là nói hai thứ. Tuy hoàn toàn không có hai kiết có thể đạt được hai thứ, nhưng nên biết đó là hai thứ của kiết giới đạo và pháp tương ưng. Kiết nghi đã nói, nên biết là nói bốn thứ.

Hoặc nói: Nếu như kiến đạo đoạn trừ kiết, hoặc có thứ là nhất thiết biến của cõi mình, hoặc có thứ không phải là nhất thiết biến của cõi mình. Kiết thân kiến đã nói, nên biết là nói về nhất thiết biến của cõi mình. Kiết giới đạo, nghi đã nói, nên biết là nói về không phải nhất thiết biến của cõi mình.

Hỏi: Vì sao nói một thứ là nhất thiết biến của cõi mình, hai thứ không phải là nhất thiết biến của cõi mình?

Đáp: Nếu kiết kia không phải là nhất thiết biến của cõi mình, thì hoặc duyên nơi hữu lậu, hoặc duyên nơi vô lậu. Kiết thân kiến, giới đạo đã nói, nên biết là nói duyên nơi hữu lậu. Kiết nghi đã nói, nên biết là nói duyên nơi vô lậu.

Như nhất thiết biến của cõi mình – không phải nhất thiết biến của cõi mình, thì nhất thiến biến của địa mình – không phải nhất thiết biến của địa mình, duyên của cõi mình – không phải duyên của cõi mình, duyên của địa mình – không phải duyên của địa mình, đều nên nhận biết như thế.

Nếu như kiến đạo đoạn trừ kiết, hoặc duyên nơi hữu lậu, hoặc duyên nơi vô lậu. Kiết thân kiến, giới đạo đã nói, nên biết là nói duyên nơi hữu lậu. Kiết nghi đã nói, nên biết là nói duyên nơi vô lậu.

Hỏi: Vì sao hai kiết duyên nơi hữu lậu, một kiết duyên nơi vô lậu?

Đáp: Nếu có kiết duyên nơi hữu lậu, thì hoặc là nhất thiết biến của cõi mình, hoặc không phải là nhất thiết biến của cõi mình. Kiết thân kiến đã nói, nên biết là nói nhất thiết biến của cõi mình. Kiết giới đạo, nghi đã nói, nên biết là nói không phải nhất thiết biến của cõi mình.

Như duyên nơi hữu lậu – duyên nơi vô lậu, thì tranh – không tranh, thế gian – xuất thế gian, trụ – không trụ, dựa vào dục – không dựa vào dục, đều nên nhận biết như thế.

Nếu như kiến đạo đoạn trừ kiết, hoặc duyên nơi hữu vi, hoặc duyên nơi vô vi. Kiết thân kiến, giới đạo đã nói, nên biết là nói duyên nơi hữu vi. Kiết nghi đã nói, nên biết là nói duyên nơi vô vi.

Như duyên nơi hữu vi, duyên nơi vô vi, thì duyên nơi hữu thường, duyên nơi vô thường, duyên nơi có hằng, duyên nơi không hằng, duyên nơi có trụ, duyên nơi không trụ, đều nên nhận biết như thế.

Hoặc cho: Nếu như kiến đạo đoạn trừ kiết, hoặc là tánh kiến, hoặc không phải là tánh kiến. Kiết thân kiến, giới đạo đã nói, nên biết là nói về tánh kiến. Kiết nghi đã nói, nên biết là nói không phải tánh kiến.

Như tánh kiến – không phải tánh kiến, thì quán – không quán, hành – không hành, kiên trì – không kiên trì, cầu – không cầu, chuyển – không chuyển, đều nên nhận biết như thế.

Vì vậy nói là hiện bày môn, hiện bày tóm lược, hiện bày độ.

Do đấy, nên nói ba kiết dứt trừ hết là chứng quả Tu-đà-hoàn.

Hỏi: Vì mới được đạo nên gọi là Tu-đà-hoàn, hay là lần đầu được quả nên gọi là Tu-đà-hoàn?

Nếu mới được đạo nên gọi là Tu-đà-hoàn, thì vị thứ tám nên là Tu-đà-hoàn. Vị thứ tám là kiên tín, kiên pháp. Vị kia mới được đạo, là đạo của kiên tín, đạo của kiên pháp.

Nếu lần đầu được quả nên gọi là Tu-đà-hoàn, thì người kia đã lìa dục gấp bội, dứt hết dục, ái hết, nên là Tu-đà-hoàn, tức nhập chánh quyết định đến quả vị đạo loại trí. Vì lúc ấy là chứng quả đầu tiên trong bốn Thánh quả.

Đáp: Có thuyết nói: Do mới được đạo nên gọi là Tu-đà-hoàn.

Hỏi: Nếu như vậy thì vị thứ tám nên là Tu-đà-hoàn chăng?

Đáp: Nếu mới được đạo nhưng duyên đủ nơi trí đạo mới được gọi là Tu-đà-hoàn. Vị thứ tám kia tuy là mới được đạo, nhưng chưa thể duyên đủ nơi trí đạo nên không gọi là Tu-đà-hoàn.

Lại, nếu người mới được đạo, đạo ấy thuộc về đạo của quả, là đạo pháp trí nơi tu đạo mới gọi là Tu-đà-hoàn. Vị thứ tám thì không như thế.

Hoặc nói: Mới được đạo gọi là Tu-đà-hoàn, nếu hội đủ được ba sự việc: (1) Được đạo chưa từng được. (2) Bỏ đạo đã từng được. (3) Được kiết đoạn dứt được một vị. Được đạo chưa từng được: Là được tu đạo. Bỏ đạo đã từng được: Là bỏ kiến đạo. Được kiết đoạn dứt được một vị: Là được kiến đạo đoạn trừ kiết nơi ba cõi, được một vị đoạn. Vị thứ tám thì không như thế.

Hoặc nói: Mới được đạo gọi là Tu-đà-hoàn, nếu hội đủ được năm sự việc: (1) Được đạo chưa từng được. (2) Bỏ đạo đã từng được. (3) Được kiết đoạn dứt được một vị. (4) Được tám trí. (5) Trong một lúc tu mười sáu hành. Vị thứ tám thì không như thế.

Lại nữa, nếu người mới được đạo, đã đoạn trừ tất cả kiết do kiến đạo đoạn, phiền não không còn khởi, tánh tà của kiến hoặc do nhẫn đoạn trừ, mới gọi là Tu-đà-hoàn. Vị thứ tám thì không như thế.

Lại, nếu người mới được đạo có tướng, có nêu bày, có thể cùng bàn luận, mới gọi là Tu-đà-hoàn. Vị thứ tám thì không như thế.

Lại, nếu người mới được đạo có dung nạp sinh tử mới được gọi là Tu-đà-hoàn. Vị thứ tám thì không như thế.

Lại có thuyết nói: Do lần đầu được quả nên gọi là Tu-đà-hoàn.

Hỏi: Nếu như vậy thì người kia lìa dục gấp bội, hoàn toàn lìa dục của cõi dục, nhập chánh quyết định, đến quả vị đạo pháp trí, nên gọi là Tu-đà-hoàn chăng?

Đáp: Lần đầu được quả gọi là Tu-đà-hoàn, nếu chứng giải thoát thứ nhất, vì được độ thứ nhất, trụ nơi quả thứ nhất. Ngoài ra thì không như thế.

Hoặc nói: Lần đầu được quả gọi là Tu-đà-hoàn, là theo thứ lớp, không vượt quá thứ lớp. Ngoài ra thì không như thế.

Hoặc nêu: Lần đầu được quả gọi là Tu-đà-hoàn, vì là quả của bốn hướng, bốn trụ.

Hoặc cho: Lần đầu được quả gọi là Tu-đà-hoàn, vì là bốn hướng, bốn quả.

Hoặc nói: Lần đầu được quả gọi là Tu-đà-hoàn, vì phần khác chưa được tăng hành. Phần khác chưa được tăng hành tức là đạo thế gian chưa dứt hết nhưng đã được quả.

Hoặc cho: Lần đầu được quả gọi là Tu-đà-hoàn, vì không có khác biệt. Không có khác biệt tức cũng như đạo thế gian nêu trên, chưa dứt hết nhưng đã được quả.

Hoặc nêu: Lần đầu được quả gọi là Tu-đà-hoàn, nếu như quả nơi đạo không hoại, địa không hoại. Đạo không hoại nghĩa là hoàn toàn do đạo vô lậu đạt được quả. Địa không hoại nghĩa là dựa vào định vị chí mà đạt được quả. Không phải như quả A-la-hán khác: Tuy đạo không hoại, hoàn toàn là do đạo vô lậu đạt được quả, nhưng địa kia thì hoại, vì dựa vào chín địa vô lậu đạt được quả.

Quả Tư-đà-hàm tuy địa không hoại, tức dựa vào định vị chí đạt được, không phải địa khác, nhưng đạo kia thì hoại, vì dùng đạo vô lậu cùng đạo thế gian đạt được quả.

Quả A-na-hàm thì đạo cũng hoại, địa cũng hoại. Đạo hoại nghĩa là dùng đạo vô lậu và đạo thế gian để đạt được quả. Địa hoại nghĩa là dựa vào sáu địa đạt được quả.

Quả Tu-đà-hoàn này đạo cũng không hoại, địa cũng không hoại. Do đấy, nên lần đầu được quả gọi là Tu-đà-hoàn.

Lại có thuyết cho: Cũng không phải mới được đạo nên gọi là Tu-đà-hoàn. Cũng không phải lần đầu được quả nên gọi là Tuđà-hoàn.

Hỏi: Nếu như vậy thì vì sao gọi là Tu-đà-hoàn?

Đáp: Là do quả Tu-đà-hoàn kia thành tựu nên gọi là Tu-đàhoàn. Vì dựa nơi pháp nên gọi là người được quả. Như bình nước thuốc, là do thuốc nên gọi là bình nước thuốc. Là do tô nên gọi là bình tô. Là do mật nên gọi là bình mật. Như thế, người kia do thành tựu quả Tu-đà-hoàn nên gọi là Tu-đà-hoàn. Là do nơi pháp, nên gọi là người được quả, như bình nước thuốc.

Tu-đà-hoàn: Tức tám Thánh đạo gọi là nước. Tu-đà-hoàn là nhập vào đấy nên gọi là Tu-đà-hoàn.

Hỏi: Như Tư-đà-hàm, A-na-hàm, A-la-hán cũng nhập vào nước Thánh đạo. Vì sao ba quả ấy không gọi là Tu-đà-hoàn?

Đáp: Vì mới thọ nhận danh hiệu, bắt đầu dùng phương tiện để độ, do đấy nên gọi Tu-đà-hoàn. Ba quả Tư-đà-hàm, A-na-hàm, A-lahán không phải là mới thọ nhận danh hiệu, nên dựa vào đức riêng, lập tên gọi khác.

Không rơi vào pháp ác: Là trọn không rơi vào ba nẻo ác.

Hỏi: Như Tư-đà-hàm, A-na-hàm, A-la-hán cũng không rơi vào pháp ác. Vì sao chỉ nói Tu-đà-hoàn là không rơi vào pháp ác, không phải là quả vị khác?

Đáp: Vì mỗi quả vị đều có khác biệt. Như Tu-đà-hoàn này không rơi vào pháp ác, là sự khác biệt. Quả Tư-đà-hàm một lần qua lại (Nhất lai) nơi thế gian là sự khác biệt. Quả A-na-hàm không trở lại cõi dục (Bất hoàn) là sự khác biệt. Quả A-la-hán không trở lại nơi hữu (sinh tử) là sự khác biệt. Đây gọi là mỗi quả vị đều có khác biệt, nên chỉ nói một quả Tu-đà-hoàn, gọi là không rơi vào pháp ác, không phải là ba quả Tư-đà-hàm, A-nahàm, A-la-hán.

Hỏi: Như người phàm phu cũng không rơi vào pháp ác. Vì sao chỉ nói Thánh nhân không rơi vào pháp ác?

Đáp: Vì phàm phu kia không có định là rơi vào pháp ác, hoặc không rơi vào pháp ác. Thánh nhân này thì hoàn toàn không rơi vào pháp ác. Không có một Thánh nhân nào rơi vào pháp ác, còn như phàm phu kia thì không có định, vì thế Thánh nhân không rơi vào pháp ác không phải là phàm phu. Định nghĩa là trụ nơi tụ chánh định, nên gọi là định. Nên nói Tu-đà-hoàn nhất định Bát Niết-bàn, tức duyên đã biến đổi.

Hướng đến chánh giác: Là đạt tận trí, vô sinh trí tức là giác. Người Tu-đà-hoàn kia dựa vào trí này nên có hướng tới, có đi đến, có vui thích, có mong muốn. Thế nên nói là hướng đến chánh giác.

Tối đa là bảy lần trở lại hữu (sinh tử):

Hỏi: Như ở đây tối đa là mười bốn lần trở lại sinh tử, hoặc tối đa là hai mươi tám lần trở lại sinh tử. Nếu lấy số bản hữu, thì trên cảnh trời bản hữu có bảy, nhân gian có bảy, tức là mười bốn. Nếu lấy số bản hữu trung ấm, thì trên cảnh trời bản hữu bảy, trung ấm bảy, nhân gian bản hữu bảy, trung ấm bảy, tức là hai mươi tám. Vì sao nói Tu-đà-hoàn tối đa là bảy lần trở lại sinh tử?

Đáp: Vì pháp nên là bảy, tức không quá bảy. Vì nơi mỗi mỗi nẻo đều không quá bảy, nên Đức Thế Tôn nói Tu-đà-hoàn tối đa là bảy lần trở lại sinh tử. Như trên cảnh trời bản hữu bảy, trung ấm bảy. Nhân gian bản hữu bảy, trung ấm bảy, tất cả lần trở lại sinh tử kia đều không quá bảy. Do đấy, nên Đức Thế Tôn nói: Tu-đà-hoàn tối đa là bảy lần trở lại sinh tử.

Như Khế kinh khác nói: Bốn Thánh đế, ba lần chuyển là mười hai hành. Ở đây nên nói là mười hai lần chuyển, có bốn mươi tám hành. Song vì ba lần chuyển mười hai pháp, không quá ba lần chuyển, mười hai hành. Vì quán mỗi mỗi đế, nên Đức Thế Tôn nói bốn Thánh đế, ba lần chuyển, mười hai hành.

Như Khế kinh khác nói: Này các Tỳ-kheo! Có bảy xứ thiện và ba thứ nghĩa quán. Nếu nhanh chóng ở trong pháp ấy tức có thể dứt hết lậu. Ở đây, không nên nói bảy xứ thiện, nên nói tức có ba mươi lăm xứ thiện, cũng có vô lượng xứ thiện. Song vì bảy pháp, nên không quá bảy quán nơi mỗi mỗi ấm. Do đấy Đức Thế Tôn nói: Này các Tỳ-kheo! Có bảy xứ thiện và ba thứ nghĩa quán. Nếu nhanh chóng ở trong pháp ấy tức có thể dứt hết lậu.

Như Khế kinh khác nói: Tỳ-kheo! Ta sẽ vì các ông giảng nói pháp. Nghĩa là có hai pháp là mắt và sắc, tai và tiếng, mũi và hương, lưỡi và vị, thân và xúc, ý và pháp. Ở đây, không nên nói một thứ hai pháp, nên nói là có sáu thứ hai pháp. Chỉ vì là hai pháp, nên không quá hai quán về mỗi mỗi nhập, là mắt và sắc, cho đến ý và pháp. Thế nên Đức Thế Tôn nói: Tỳ-kheo! Ta sẽ vì các ông giảng nói pháp. Nghĩa là có hai pháp v.v…

Như thế, nếu trên cảnh trời bản hữu bảy, trung ấm bảy, nhân gian bản hữu bảy, trung ấm bảy, nhưng tất cả không quá bảy, vì mỗi mỗi nẻo, vì nơi cảnh trời, vì nẻo người, vì trung ấm bảy, bản hữu bảy. Do đấy, vì mỗi mỗi nẻo, nên Đức Thế Tôn nói: Tu-đà-hoàn tối đa là bảy lần trở lại nơi sinh tử.

Hỏi: Vì sao Tu-đà-hoàn tối đa bảy lần trở lại nơi sinh tử, cũng không tăng giảm?

Đáp: Tôn giả Ba Xa nói: Tất cả pháp đều có nghi nhưng không trái với pháp tướng. Hoặc tăng, hoặc giảm, thì pháp kia cũng sẽ có nghi vầy. Thế nên nói: Tất cả pháp đều có nghi nhưng không trái với pháp tướng.

Hoặc cho: Vì những lần trở lại sinh tử kia là ngang bằng với nhân báo. Như những lần trở lại kia ngang bằng với nhân báo, thì ngang bằng với quả báo cũng nên như thế. Do đấy nói những lần trở lại sinh tử kia là ngang bằng với nhân báo.

Hoặc nêu: Do sức của hành (nghiệp), nên Tu-đà-hoàn phải bảy lần trở lại nơi sinh tử. Vì sức của Thánh đạo, nên không đến tám. Như người bước đi bảy bước khi bị rắn cắn. Người kia do sức của bốn đại nên có thể đi bảy bước, vì sức mạnh của nọc độc nên không đến bước thứ tám. Như thế, do sức của hành (nghiệp), nên Tu-đà-hoàn bảy lần trở lại nơi sinh tử. Vì sức của Thánh đạo, nên không đến tám. Như người trước đã ăn no nên sống đến bảy ngày. Vì sức mạnh của thức ăn hết nên không đến ngày thứ tám. Như thế, Tu-đà-hoàn do hành gốc nên sinh trở lại bảy lần nơi sinh tử. Do hành hết nên không đến lần thứ tám.

Hoặc nói: Người kia lúc trụ nơi nhẫn tăng thượng là đã trừ bỏ bảy lần sinh nơi nẻo người, trời trong cõi dục, còn ở cõi sắc, vô sắc thì riêng một lần sinh, đối với các lần sinh khác thì đạt được phi số duyên tận (phi trạch diệt). Nếu pháp đã đạt được phi số duyên tận thì không còn hiện tiền, nên chỉ có bảy lần sinh.

Hoặc cho: Tu-đà-hoàn kia nếu tám lần sinh thì không có Thánh đạo. Nếu Tu-đà-hoàn sinh đến tám lần nơi sinh tử, thì nơi thân thứ tám sự kiến đế không phải là kiến đế, đắc quả không phải là đắc quả, hành hiện quán trở lại không hành hiện quán, được Thánh quả rồi trở lại không được, đã vào hàng Thánh rồi trở lại là người phàm. Chớ nên có những lỗi như thế. Do đó, Tu-đà-hoàn không sinh đến tám lần nơi sinh tử.

Hoặc nêu: Vì sự hiện có trong thế gian. Sự hiện có trong thế gian, nghĩa là đến bảy đời gọi là thân, nếu đến tám thì không phải là thân. Như thế, nếu Tu-đà-hoàn sinh đến tám lần nơi sinh tử, thì trong pháp Phật nhiều như số sát sông Hằng, người khác sẽ xa lìa, không thân cận. Không nên có lỗi như thế. Do đấy, Tu-đà-hoàn không sinh đến tám lần nơi sinh tử. Nếu Tu-đà-hoàn tối đa bảy lần sinh nơi cảnh trời, bảy lần sinh trong nhân gian, là căn cứ theo Tu-đà-hoàn viên mãn mà nói. Nhưng có Tu-đà-hoàn bảy lần sinh trên cảnh trời, nhân gian sáu, trên cảnh trời sáu, nhân gian năm, trên cảnh trời năm, nhân gian bốn, trên cảnh trời bốn, nhân gian ba, trên cảnh trời ba, nhân gian hai, trên cảnh trời hai, nhân gian một, hoặc ngược lại. Ở đây vì nói về tối đa, nên nói Tu-đà-hoàn nơi trời, người đều có bảy lần.

Hỏi: Tu-đà-hoàn viên mãn là ở xứ nào thì đầy đủ bảy? Ở cảnh trời hay nơi nhân gian để nhận thân thứ bảy nhập Niết-bàn?

Đáp: Hoặc có thuyết nói: Nếu thân đời này được quả Tu-đàhoàn, thì thân người đó được tính trong bảy lần sinh nơi hữu.

Hoặc có thuyết nói về số. Hoặc có thuyết không nói về số.

Thuyết nói về số cho: Nếu ở trên trời được quả thì nhập Niếtbàn ở nhân gian. Nếu ở nhân gian được quả thì nhập Niết-bàn ở trên trời.

Thuyết không nói về số nói: Nếu ở trên trời được quả thì ở trên trời nhập Niết-bàn. Nếu nơi nhân gian được quả thì ở nhân gian nhập Niết-bàn.

Có người nói như thế này: Nếu trong thân được quả Tu-đàhoàn, thì thân người ấy không được kể trong bảy lần Hỏi: Vì sao như vậy?

Đáp: Vì nếu ở trong thân người kia được Tu-đà-hoàn, thì chính là lúc ấm phàm phu đang ở trong thân người ấy. Nếu thân này được kể là một trong bảy lần sinh thì phải có đến hai mươi bảy hữu, không nên có hai mươi tám hữu. Nếu như vậy thì trái với Luận Thi Thiết đã nói. Luận ấy nói: Người Tu-đà-hoàn vì lưu chuyển qua lại trong hai mươi tám hữu, được đạo vô lậu, dùng dứt hết các kiết còn lại. Do vậy không nên nói là đời của lần đầu đắc quả là nhập nơi số bảy lần sinh nơi sinh tử.

Hỏi: Người Tu-đà-hoàn tối đa là bảy lần sinh nơi sinh tử. Vậy ở trong sáu lần sinh của đời trước, Thánh đạo có hiện khởi hay không hiện khởi? Nếu Thánh đạo có hiện khởi, thì vì sao không nhập Niếtbàn? Còn nếu Thánh đạo không hiện khởi, thì như ý của thuyết đã nêu là không có Thánh đạo?

Đáp: Có thuyết nói: Thánh đạo có hiện khởi.

Hỏi: Nếu như thế thì vì sao không nhập Niết-bàn?

Đáp: Vì người Tu-đà-hoàn kia hành theo an vui, do sức của nghiệp nơi thế gian, nên không nhập Niết-bàn.

Hỏi: Tu-đà-hoàn tối đa là bảy lần sinh nơi sinh tử. Nếu đầy đủ bảy lần sinh trong trường hợp không có Phật ra đời, người Tu-đàhoàn kia ở tại gia có được A-la-hán chăng?

Đáp: Có thuyết nói: Không được. Người ấy phải xuất gia, thọ nhận pháp phục khác mới được A-la-hán.

Có thuyết cho: Người kia ở tại gia được A-la-hán rồi, về sau tất xuất gia, thọ nhận pháp phục khác.

Nên nói như thế này: Người kia theo pháp như vậy, trở thành tướng của đệ tử Phật, tức được quả vị tột bậc. Như năm trăm Tiên nhân tu đạo trong núi Y-sư-ca, vốn là Thanh văn trong thời kỳ không có Phật ra đời. Có con khỉ vì hiện tướng đệ tử của Phật, các vị Tiên kia đều bắt chước làm theo, chứng được quả Độc giác vô học, vì không thọ nhận tướng của ngoại đạo.

Lưu chuyển qua lại: Là thọ mạng nơi cõi trời hết, sinh vào trong nẻo người. Thọ mạng nơi nẻo người hết, sinh lên cõi trời. Như người du ngoạn ngắm xem từ khu vườn này đến khu rừng kia. Lưu: Nghĩa là trung ấm. Chuyển: Nghĩa là bản hữu.

Tạo được biên vực nơi khổ: Là chứng đắc biên vực tận cùng của khổ.

Hỏi: Biên vực tận cùng của khổ này là ở trong khổ hay là ở ngoài khổ? Nếu ở trong khổ thì nên không có biên vực. Nếu ở ngoài khổ thì dụ về sự hiện có của thế gian làm sao thông? Như thẻ vàng của thế gian, phần đầu giữa và sau, lúc nào cũng là vàng. Biên vực của khổ cũng nên đều là khổ.

Đáp: Có thuyết nói: Biên vực của khổ là ở ngay trong khổ. Tức thể của các ấm sau cùng nơi A-la-hán, tuy là khổ nhưng không phải là nhân của khổ sau, nên không sinh khổ sau, vì khổ sau không nối tiếp gọi là biên vực tận cùng của khổ.

Có thuyết khác cho: Biên vực tận cùng của khổ, nghĩa là ở ngoài khổ, tức là Niết-bàn. Vì đã vĩnh viễn thoát khỏi khổ, nên gọi là biên vực tận cùng của khổ. Thí dụ về sự hiện có của thế gian, không cần phải thông hợp vì không thuộc về ba Tạng nên không cần giải thích, vì pháp thế gian và pháp Thánh, lý đều khác biệt.

Nói rộng về Xứ ba kiết xong.

HẾT – QUYỂN 1