LUẬN TỤNG HIỂN DƯƠNG THÁNH GIÁO
Tác giả: Bồ-tát Vô Trước.
Hán dịch: Tam Tạng Pháp sư Huyền Tráng
Việt dịch: Linh Sơn Pháp Bảo Đại Tạng Kinh
Phẩm 1: NHIẾP SỰ
Thiện Thệ khéo nói ba thân diệu,
Chứng giáo pháp, không sợ, không.
Đức thượng thừa chân thật Mâu-ni,
Nay con chí thành lễ khen trước,
Cúi đầu lạy, bậc Đại Từ Tôn,
Vị vua Pháp nối tiếp dòng trí,
Thế gian không chỗ nương, quay về.
Người giảng nói Du-già sư địa,
Xưa, con Vô Trước nghe Phật kia,
Nay góp lời quan trọng của luận,
Làm sáng rỡ Thánh giáo, từ bi,
Văn gọn, nghĩa khắp mà dễ hiểu.
Nhiếp sự, tịnh nghĩa thành khéo léo
Vô thường, Khổ, Không và Vô tính,
Hiện quán Du-già không nghĩ bàn,
Nhiếp thắng chọn thành mười một phẩm.
Tất cả cõi Tạp nhiễm
Nương chắc từng phần giác
Quả Bổ-đặc-già-la
Các công đức chín việc.
Tâm, tâm sở có sắc
Không tương ưng vô vi
Cõi đó là Dục, Sắc
Cùng thế giới tam thiên.
Tính nghiệp phiền não sinh
Tướng tạp nhiễm, nên biết
Các Đế có sáu thứ
Y chỉ tám và hai.
Giác phần có nhiều thứ
Đầu tiên, ba mươi bảy
Trí và môn giải thoát
Hành tích và Chỉ quán.
Chỗ ở và chỗ nương
Phát tâm và thương xót
Các hành, tánh thông đạt
Địa Ba-la-mật-đa.
Bồ-tát hành nhiếp sự
Và Đà-la-ni kia
Môn Tam-ma-địa thảy
Tướng tác ý chân như
Tin hiểu không nghĩ bàn
Rộng lớn A-thế-da
Nên biết các tự số.
Bảy tùy, tín, hạnh, thảy
Còn tám thứ, nên biết
Cực bảy lần trở lại,
Pháp thoái chuyển có sáu, v.v…
Bảy thứ nhuyến căn thảy
Thế tục và xuất gia
Ba thừa Thanh văn thảy
Thể cứu, không thể cứu.
Nhập chín phương tiện thảy
Sinh sai khác có hai
Lại do các cõi khác
Nên biết mười ba thứ.
Dứt quả có năm thứ
Biến tri và Thanh tịnh
Quả tịnh giới Bồ-đề
Vô học do tự số.
Dứt nhiều nhân nên dứt
Kiến lập dứt chỗ theo
Do tác ý nương tu
Và được thứ lớp dứt.
Dứt khác nhau, nên biết
Và dứt tướng lợi ích
Như thế, như đã nói
Lại nên biết nhiều thứ.
Vô lượng các giải thoát
Thắng xứ và Biến xứ
Trí diệu nguyện vô tránh
Thần thông, vô ngại giải.
Các tướng tốt thanh tịnh
Và các lực Vô úy
Bất hộ và niệm trụ
Dứt hẳn các tập khí.
Không quên mất pháp mầu
Và Như lai đại bi
Pháp bất cộng của Phật
Nhất thiết chủng diệu trí.
Phải biết chín sự trước
Đầu là hai chỗ nương
Kế hai sau sáu thứ
Gồm tạp nhiễm Thanh tịnh.
Do nhiễm nương khác nhau
Làm thanh tịnh sở duyên
Vì tâm không lưu tán
Vì chánh tu phương tiện.
Vì vị kia khác nhau.
Do nhân nói năng thảy
Do công đức quả kia
Thứ lớp số chỉ vậy.
Muốn nghĩ lường vô lượng
Các hỏi đáp khác nhau
Do ngôn ngữ Chư Phật
Sự và tướng thâu nhiếp.
Câu-mê hoặc lý luận
Trụ tịnh diệu chân thật
Đạo lý tánh vắng lặng
Giả lập bày hiện quán.
Phân biệt chỗ phương vị
Tạo nắm giữ tăng giảm
Hiểu được lời kín trên
Xa lìa chuyển cất giữ.
Xét chọn cùng hiện hành
Thùy miên và thuộc nhau
Các tướng gồm tương ưng
Nói nhậm trì thứ lớp.
Đã tạo cảnh Du-già
Xa-ma-tha và quán
Các tác ý truyền trao
Đức Thánh giáo Bồ-đề.
Nếu muốn chánh tu hành
Công đức biết khắp thảy
Do mười thứ pháp hành
Và sáu thứ lý thú.
Phẩm 2: NHIẾP TỊNH NGHĨA
Thắng luận trong các luận
Cũng khéo nhập Du-già
Nghĩa thanh tịnh nên biết
Do đủ bốn đức tịnh.
Gồm nhiếp tất cả nghĩa
Bên ngoài kia không hoại
Dễ nhập nên đã nhập
Nên hành không hoại mất.
Chư Phật nói pháp mầu
Nương đúng với hai đế
Một gọi là thế tục
Hai gọi là thắng nghĩa.
Trước nói dụng ngã pháp
Vì tùy chỗ khác nói
Bảy thứ và bốn thứ
Chân như gọi thắng nghĩa.
Nghĩa tự tánh kiến lập
Số thứ lớp thiện xảo
Tưởng sai khác nên biết
Rõ nghĩa uẩn thế tục.
Năm ba pháp chân thật
Nên biết, lại bốn kia
Và bốn thứ tầm tư
Bốn thứ trí như thật.
Thành lập ba tự tánh
Ẩn kín nghiệp khác nhau
Phương tiện nhiếp khác nhau.
Mỗi cái có nhiều thứ.
Nghe mười hai phần giáo
Quy y ba tối thắng Ba học ba
Bồ-đề Vì hữu tình tịnh nói.
Nghe quy học Bồ-đề
Sáu ba mười hai năm
Thứ lớp tùy danh số
Ứng hợp rộng phân biệt.
Thánh hạnh vô thượng thừa
Công đức đại Bồ-đề
Dị luận, luận pháp Thích
Nên biết đều nhiều loại.
Thù đặc chẳng thù đặc
Tâm bình đẳng lợi ích
Báo ân và khen mừng
Không luống hành phương tiện.
Phương tiện không điên đảo
Thoái đọa và thắng tấn
Công đức giống như thật
Khéo điều phục hữu tình.
Các Bồ-tát thọ ký
Rơi vào số quyết định
Định làm, thường nên làm
Pháp tối thắng nên biết.
Các lập bày, xây dựng
Tất cả pháp tầm tư
Và biến trí như thật
Hợp đến các vô lượng.
Giảng nói quả lợi ích
Tánh Đại thừa và thâu
Bồ-tát nên biết mười
Lập ra các danh hiệu.
Chấp trong nhân có quả
Hiện rõ có khứ lai
Đời trước thường gây nhân
Hại pháp tự tại thảy.
Biên, vô biên rối loạn
Thấy vô nhân, dứt không
Chấp thắng tịnh an lành
Gọi: Mười sáu dị luận.
Công năng không thể tánh
Thâu, không thâu trái nhau
Hữu dụng và vô dụng
Vì nhân thành lỗi lớn.
Luận thể, luận xứ sở
Luận cứ, luận trang nghiêm
Luận thua, luận xuất ly
Luận làm ra nhiều pháp.
Thể thích văn nghĩa pháp
Nghĩa khởi nạn sư kế
Chúng nghe nói khen Phật
Rộng hẹp học thắng lợi.
Các địa tác ý nhau
Đức chẳng đức, chỗ nương
Chỗ đối trị năng trị
Nghĩa rộng lược nên biết.
Phẩm 3: THÀNH THIỆN XẢO
Đối các uẩn, giới, xứ
Và các pháp Duyên khởi
Xứ, phi xứ, căn, đế
Việc thiện xảo nên biết.
Thân là tự tại thảy
Vô nhân, thân là trụ
Trôi lăn gây các nghiệp
Và hai thứ tăng thượng.
Đối thân ấy đẳng khởi
Thật ngã được trụ giữ
Người trôi lăn người tạo,
Và các nghĩa tăng thượng.
Nhiễm ô hoặc thanh tịnh
Khởi bảy thứ ngu si
Đối trị nầy nên biết
Gồm bảy thứ thiện xảo.
Vọng chấp là thân ta,
Nương, vào các căn trụ
Hồi chuyển trong cảnh giới
Thọ dụng ái chẳng ái.
Nói năng chỗ nương trụ
Người tạo có người giác
Do sai khác nơi uẩn
Đều thấy là một thân.
Nhân ban đầu mê hoặc
Chấp thường nhân, vô nhân
Ngã nắm giữ các căn
Năng xúc và năng thọ.
Từ nơi sinh tử này
Chấp có người trôi lăn
Người tạo pháp, phi pháp
Và quả tăng thượng kia.
Nơi tà hạnh tu tập
Cho là kẻ nhiễm ô
Với chánh hạnh tu tập
Vọng chấp người giải thoát.
Phật chưa hiện ở đời
Ngu si chuyển như vậy
Do Phật hiện thế gian
Nói bảy thứ thiện xảo.
Biết thế gian khác nhau
Trừ được tưởng hợp nhất
Tức lìa và giải thoát
Chúng sinh không thật có.
Nhiều thứ và tổng lược
Cùng có sai khác chuyển
Trí tăng ích tổn giảm
Uẩn thiện xảo nên biết.
Do thấy ba nhân sinh
Nói là giới thiện xảo
Từ tự chủng vô thỉ
Sinh khởi nhiều chủng loại.
Do đây và ở đây
Chấp lấy, không thật có
Nương tự, trí thành tựu
Giải trừ tánh thấp hèn.
Biết các xúc các thọ
Do hai thứ môn sinh
Y chỉ đối với xúc
Phải biết chỗ thiện xảo.
Biết pháp xứ, thiện xứ
Chỗ nương dựa sau sau,
Do đế của thế tục
Biết rõ hai thứ tánh.
Biết chưa dứt vô thường
Nhân năng sinh các quả
Tự tương tục giống nhau
Gọi duyên khởi thiện xảo.
Chúng sinh không thật có
Mà có xả nối tiếp
Do rõ biết sâu xa
Nên bốn thứ duyên khởi.
Không tạo, không hướng được
Hai thể khác không chuyển
Thấy tịnh không nghiệp khác
Phi ngã, tự tại hai.
Trí như vậy biết được
Xứ, phi xứ thiện xảo
Đối tự quả định xứ
Khác đây nói phi xứ.
Đối năng thủ sinh trụ
Và nhiễm ô thanh tịnh
Vô lý ngoài ngã quán
Đối quả tăng thượng kia.
Với phương tiện như vậy
Gọi là căn thiện xảo
Là với thủ sinh trụ
Nên nhiễm tịnh tăng thượng.
Hai tự tánh là khổ
Hợp nên lý chẳng ứng
Do vô nhân có nhân
Và năm thứ thí dụ.
Như vậy tùy theo giác
Nên biết Đế thiện xảo
Tùy giác chưa từng thấy
Chưa thọ nghĩa nhân duyên.
Phải biết các thiện xảo
Hai mươi ba khác nhau
Khác Nhiếp Luận làm trước
Cuối cùng rất thanh tịnh.
Phẩm 4: THÀNH VÔ THƯỜNG
Vô thường là hữu vi
Tương ưng với ba tướng
Nghĩa vô thường thích ứng
Sáu tám thứ nên biết.
Vô tánh hoại chuyển khác
Biệt ly đắc nên có
Sát-na nối tiếp bệnh
Tâm là vật thọ dụng.
Đổi khác nên phải biết
Mười lăm thứ khác nhau
Cái gọi phần vị thảy
Bị tám duyên ép ngặt.
Cõi dưới đủ tất cả
Cõi giữa, lìa ba môn
Đủ ba thứ đổi khác
Cõi trên lại trừ vật.
Nghĩa vô tánh, vô thường
Biến kế là sở chấp
Nghĩa vô thường ngoài ra
Nên biết y tha khởi.
Các vô thường đều khổ
Các khổ luôn xen lẫn
Kẻ ngu mê pháp tánh
Bị hại mà không biết.
Do quả của tâm kia
Sinh rồi, tự nhiên diệt
Về sau được đổi khác
Niệm niệm diệt, nên biết.
Tâm huân tập tăng thượng
Định tự tại chuyển biến
Ảnh tượng sinh đạo lý
Và ba loại Thánh giáo.
Sinh nhân trái lẫn nhau
Hai nhân vô trụ diệt
Tự nhiên trụ thường lỗi
Phải biết nhậm vận diệt.
Chẳng nước, lửa, gió diệt
Mà đều cùng khởi diệt
Tương ưng kia diệt rồi
Biến dị khác sinh nhân.
Trái nhau nối nhau dứt
Hai tướng thành vô tướng
Hiện thấy trái thế gian
Vô pháp và nhân khác.
Chẳng thân, sữa, rừng thảy
Trước không có đổi khác
Cũng chẳng đầu không hoại
Lúc sau cùng mới diệt.
Vị tư phần phiền não
Vì vô thường đổi khác
Đó nếu không đổi khác
Thọ tạo thoát phi lý.
Do không có công năng
Thâu, không thâu trái nhau
Hữu dụng và vô dụng
Vì nhân thành lỗi lầm.
Tự tánh, tướng đổi khác
Có, không, chẳng hợp lý
Chẳng vô thường, khác nhau
Có năm lỗi khác nhau.
Vô tướng cũng vô nhân
Chẳng tự tánh thường khác
Trước, không có đổi khác
Nên ngã thường giải thoát.
Thường tạo không đúng lý
Là do hai, ba nhân
Hữu tình, của tăng thượng
Rất nhỏ, chẳng thường trụ.
Vô thường vì nương kia
Thứ lớp khác nhau chuyển
Khác nhau các thọ thảy
Phải biết ngộ vô thường.
Và vô thường không trí
Gốc rễ bốn điên đảo
Phải biết đạo trên đời
Sức ngu si càng tăng.
Do buông lung, biếng nhác
Thấy tối, thiếu tư lương
Bạn ác chẳng chánh pháp
Phải biết nhân vô trí.
Tác ý không đúng lý
Nhớ nghĩ đời trước thảy
Tương tợ chuyển nối tiếp
Vô thường chấp là thường.
Sinh trước, sau, khoảng giữa
Chấp ba tướng hữu vi
Vô thường, trí điều phục
Phải biết do hai nhân.
Kiến kia có sáu thứ
Và bốn thứ duyên khởi
Tự chủng, chẳng phải khác
Đợi duyên, chẳng phải tự.
Không làm nên chẳng chung
Dụng nên chẳng vô nhân.
Phẩm 5: THÀNH KHỔ
Sinh vì muốn lìa nhân
Sinh diệt hòa hợp dục
Đảo vô đảo, chán lìa
Nhân đó, là tướng khổ.
Nương ba thọ sai khác
Lập ra ba tướng khổ
Nên nói tất cả thọ
Thể tánh đều là khổ.
Phải biết khổ tánh hành
Đều tùy theo thô, trọng
Vui xả chẳng đúng lý
Đồng lỗi không giải thoát.
Chướng ngại lợi sâu thảy
Nương tấn dựa vào không
Chấp trước tánh thấp kém
Như ung thư, ghẻ, thảy
Chỗ nương của ba thọ
Làm phát khởi ba xúc
Tùy chuyển chấp vui thảy.
Tự tướng, tự phân biệt
Tánh khổ không an ổn
Năm mười lăm nên biết
Ba khổ, đã gồm nhiếp.
Những nẻo, giới duyên thân
Chủng loại đế ba đời
Phẩm thời mạng khác nhau
Dẫn các khổ khác nhau.
Chưa lìa dục sắc thảy,
Ba thứ địa nên biết
Tất cả chủng cõi Dục
Trừ cõi Sắc, Vô sắc.
Thế tục có hai thứ
Thắng nghĩa là biến hành
Hai duyên cả địa trên
Phải biết nhiễm không hiện.
Phi vô sắc gánh nặng
Trời Biến hành thô nặng
Và đế, biên sau cùng
Ngoài bảy buộc tùy trên.
Phải biết sinh các khổ
Đều năm thứ khác nhau
Tương ưng khổ, thô, nặng
Chỗ ba khổ nương tựa.
Sau cùng và sau cùng
Đều chỗ nương bốn khổ
Căn bản là sinh sinh
Và tánh khổ biến hoại.
Đều thuộc về ba đời
Hai duyên khổ chẳng trên
Đã nói các khổ khác
Đều cõi Dục nên biết.
Mất niệm, vô công dụng
Suy nghĩ loạn bất chánh
Ngu si hiểu không đúng
Và do buông lung thảy.
Ngu muội nên yếu kém
Và khởi sự buông lung
Vì nối tiếp đoạn dứt
Vọng niệm chuyển nên biết.
Ngu muội nên buông lung
Phải giữ gìn hiện pháp
Không tin nên phải khổ
Phát khởi vô công dụng.
Tương tự chuyển nối nhau
Đối trị vọng phân biệt
Do đều giữ thói quen
Khởi bốn thứ điên đảo.
Cõi riêng, duyên khởi riêng
Vị khác thứ lớp khác
Và sai khác nối tiếp
Nên biết đều nhiều thứ.
Tin hiểu và nghĩ chọn
Tâm không loạn, chán lìa
Kiến tu và rốt ráo
Lại mười một như trước.
Nghi trói, không ưa lìa
Chìm trong các đường ác
Hạnh thấp kém sinh khởi
Riêng khắp các khổ hết.
Phẩm 6: THÀNH KHÔNG
Nếu đối vô hữu nầy
Và tất cả khác nầy
Tùy hai thứ đạo lý
Nói tướng không, chẳng hai.
Biết tương ưng sâu xa
Lấy, bỏ không thêm bớt
Có rất nhiều khác nhau
Những điều kia đã nói.
Chỉ là giả lỗi lầm
Do lỗi uẩn, vô ngã
Do lỗi ngã vô thân
Ba, ngã không đúng lý.
Như chủ hỏa minh không
Hình dị nương lỗi khác
Vô thường, không nghiệp dụng
Chẳng nhân, chẳng có ngã.
Ngã lẽ ra là giả
Ví dụ, không thật có
Bảy dụ vọng phân biệt
Ba người không thấy thảy.
Nếu như chủng vô thường
Người tạo nên thành giả
Như thành tựu thần thông
Hợp thế tục tự tại.
Ngã như địa như không
Nên vô thường, vô tánh
Nên như hai vô tác
Nghiệp rõ ràng khả đắc.
Năng đốt và năng dứt
Chỉ lửa thảy tạo ra
Ngã có đủ kiến thảy
Chẳng như lửa, đao thảy.
Như ánh sáng chiếu dụng
Lìa sáng, thể không khác
Cho nên đối trong ngoài
Không, vô ngã thành nghĩa.
Như vật ngoài thế gian
Lìa ngã có tổn, ích
Trong, tuy không ngã thật
Nghĩa nhiễm tịnh nên thành.
Trụ nghĩ phần phiền não
Nên vô thường đổi thay
Ngã thường không chuyển dời
Thọ giải thoát nên không.
Pháp tánh từ duyên sinh
Lần lượt hiện nối tiếp
Có nhân mà không trụ
Đổi khác nên gọi chuyển.
Như thân, huyễn, sông, đèn
Có các thứ tác dụng
Ngã thường không đổi khác
Chuyển, hoàn không đúng lý.
Nương ngã khởi danh, tưởng
Thấy hai thứ lỗi lầm
Cho nên khắp tất cả
Thật ngã tánh đều không.
Vì ngôn thuyết dễ dàng
Tùy thuận theo thế gian
Dứt trừ sự sợ hãi
Hiển rõ hai được mất.
Chợt vây giác loạn khởi
Thế gian hiện có được
Giác vì trước tạo nghiệp
Mắc mười thứ lỗi lầm.
Giác ngã nhân công dụng
Tự tại thảy đều hai
Có nhân và vô nhân
Phải biết mười thứ lỗi.
Không xét kỹ biến hành
Tăng ích và vô sự
Đối việc sợ vọng kiến
Ví dụ năm, nên biết.
Vô thể và xa lìa
Dứt trừ ba thứ nương
Đối trị các tưởng buộc
Mười sáu thứ sai khác.
Tự tánh và chấp trước
Không mở, hiểu lãng quên
Tất cả khắp một phần
Ngu sai khác trôi lăn.
Pháp trụ cầu tự tâm
Trụ tự tâm trừ buộc
Sợ không hai nhiễm, tịnh,
Chứng đắc lý chân không.
Tu mười tám khác nhau
Hoặc có độc, vô độc
Đối trị năm thứ chấp
Nên biết lược hai thứ.
Quả tu nên phải biết
Công đức Tam-Bồ-đề
Nương dựa chuyển y tánh
Thành tựu việc phải làm.
Phẩm 7: THÀNH VÔ TÁNH
Nên biết ba tự tánh:
Đầu: Biến kế sở chấp
Kế tánh y tha khởi
Cuối cùng: Viên thành thật.
Nên biết ba vô tánh:
Không lìa ba tự tánh
Do tướng không, sinh không
Và thắng nghĩa vô tánh.
Chẳng thuộc về năm việc
Ngoài ra, lại có, không
Do tên mà nghĩa chuyển
Hai làm khách lẫn nhau.
Nơi danh, trước biết vô
Nhiều tên và bất định
Đối có nghĩa, vô nghĩa
Chuyển phi lý thành nghĩa.
Chấp mình mà đặt tên
Khác thì không thể giữ
Như chúng sinh tà chấp
Tăng ích vì điên đảo.
Do huân khởi y tha
Nương sinh nầy điên đảo
Như vậy làm duyên nhau
Xoay vần sinh nối tiếp.
Tự tánh và sai khác
Có giác ngộ tùy miên
Gia hạnh gọi biến kế
Lại phải biết năm thứ.
Có tám thứ phân biệt
Năng sinh ra ba việc
Nên biết phân biệt thể
Tâm, tâm pháp ba cõi.
Do hai buộc đã buộc
Chấp chặt hai tự tánh
Nên giải thoát hai buộc
Chánh vô đắc, vô kiến.
Giả có nhân chỗ nương
Nếu khác hoại hai thứ
Tạp nhiễm có thể được
Phải biết y tha khởi.
Tướng thô, trọng là thể
Đó lại cùng duyên sinh
Chẳng tự nhiên mà có
Nên nói sinh vô tánh.
Chẳng quyết định có không
Tất cả chủng đều thuận
Hai tánh có giả thật
Thế tục nói là có.
Giảng nói dùng ngã pháp
Đều gọi là thế tục
Phải biết Thắng nghĩa đế
Là bảy thứ chân như.
Tự tánh viên thành thật
Nghĩa hai trí tối thắng
Không có các hý luận
Xa lìa một dị tánh.
Sở duyên rất thanh tịnh
Thường không có đổi khác
Thiện tánh và lạc tánh
Tất cả đều thành tựu.
Thắng nghĩa thật vô tánh
Hý luận ngã nên vô
Y tha chẳng tướng kia
Cũng thắng nghĩa vô tánh.
Nên biết nương ba tướng
Kiến lập năm thứ tướng
Như sự thích hợp kia
Có năm nghiệp riêng khác.
Chấp pháp nên kẻ ngu
Chúng sinh kia khởi chấp
Trừ giác tánh pháp kia
Giác pháp, ngã chấp dứt.
Nơi y tha chấp đầu
Huân tập thành tạp nhiễm
Không chấp viên thành thật
Huân tập thành thanh tịnh.
Tánh hữu lậu tạp nhiễm
Thanh tịnh thì vô lậu
Phải biết chuyển y nầy
Hai thứ không nghĩ bàn.
Chân thật và tự thể
Vắng lặng và công đức
Tất cả không nghĩ bàn
Phải biết do bốn đường.
Thanh văn có hai loại
Hướng tịch, hướng Bồ-đề
Nương dựa thân biến hóa
Hướng chánh giác vô thượng.
Các Thanh Văn chuyển y
Chán lìa tu đạt được
Bồ-tát tu phương tiện
Nương vào trí không hai.
Do không trụ sinh diệt
Trí Chư Phật vô thượng
Lợi lạc các hữu tình
Không nghĩ bàn, không hai.
Phẩm 8: THÀNH HIỆN QUÁN
Phải biết hiện sở quán
Phẩm sự, hạ, trung, thượng
Hữu lậu và vô lậu
Chưa thấy, chưa thọ khắp.
Thắng trí xuất thế gian
Trừ được do kiến dứt
Chứng đắc, vô phân biệt
Chỉ nương dựa tĩnh lự.
Cực buồn chẳng đường ác
Cực vui chẳng hai trên
Trời, người ở cõi Dục
Hiện quán Phật xuất thế.
Chưa lìa dục, lìa bội
Và người lìa dục rồi
Độc nhất chứng Chánh giác
Do ngã tối thắng sinh.
Chẳng ngã làm nhân trí
Cũng chẳng tự chấp cảnh
Ngã chẳng từ hiện quán
Chấp ái do tự ngã.
Vô thường có cảnh giới
Đợi duyên trí khởi sinh
Dứt ba thô trọng thảy
Nên nương tâm hiện quán.
Đã nối tiếp thành thục
Hoặc lắng nghe chánh pháp
Tự nhiên rất đúng lý
Tác ý nên hiện quán.
Hệ niệm với sở duyên
Tinh tấn tu định tĩnh
Sức gốc lành tăng thượng
Chứng Thánh giác đạo phần.
Từ đấy nhập thấy đạo
Khởi chánh kiến vô lậu
Dứt hẳn ba thứ kết
Chứng hiện quán, nên biết.
Tuy đường ác tạp nhiễm
Chấp chỗ khởi dứt hoặc
Cảnh thấy Đạo sư thảy
Thuộc về tùy sinh ba.
Do trí thế gian trước
Xét chọn Đế rốt ráo
Với Đế không gia hạnh
Tướng quyết định sinh khởi.
Trí cảnh hòa hợp tướng
Chỗ đã biết, rốt ráo
Phải biết đế hiện quán
Với mười thứ quyết định.
Tánh ngã không ba cõi
Bất diệt không có hai
Vô phân biệt, không sợ
Quyết định trong tự dứt.
Phát khởi chứng đẳng lưu
Thành mãn thứ lớp bốn
Lại pháp trụ trí thảy
Thứ lớp tám nên biết.
Không hối trụ sở duyên
Thấy cảnh giới như thật
Đạo chỗ nương không hoặc
Thuần khác nhau hành đoạn.
Nên biết thuộc ba tịnh
Giới tịnh và tâm tịnh
Cảnh giới nương vào đạo
Gọi là tuệ thanh tịnh.
Biết nhân duyên thân thảy
Khéo đạt ở ba đời
Kế biết rõ bốn khổ
Lại tám khổ nên biết.
Từ đấy chánh quán đế
Khởi mười sáu hành trí
Vì trị bốn điên đảo
Chỗ dựa về sau sau.
Từ đấy chuyển tu tập
Nơi tâm đều chán lìa
Đế xét chọn quyết định
Rốt ráo giác sinh khởi.
Từ đó không gia hạnh
Trí giải thoát ba tâm
Có một trăm mười hai
Phiền não dứt thuộc mười.
Chứng Bồ-đề phần nầy
Sáu thứ tướng tịnh trí
Nên hành vô phân biệt
Tùy chỗ làm kiến lập.
Bồ-tát ở vị nầy
Trước tu sức thắng nhân
Nơi thân khổ mình, người
Khởi tâm tánh bình đẳng.
Là ý lạc đại ngã
Nơi tự tánh vô đắc
Ý vui rộng phải biết
Hai tánh vô phân biệt.
Kế mười sáu hành trên
Trí thế gian thanh tịnh
Đối trị nơi giới địa
Việc rốt ráo thành tựu.
Hiện quán nầy sai khác
Hoặc sáu hoặc mười tám
Rất nhiều tướng thắng lợi
Tùy kinh luận nói rộng.
Phẩm 9: THÀNH DU-GIÀ
Bát-nhã vượt Du-già
Đẳng Chí vô phân biệt
Tất cả tất cả chủng
Vì không có phân biệt.
Tất cả tất cả chủng
Ba tướng và ba luân
Gọi là tướng nhiễm tịnh
Và đều chẳng hai chủng.
Nơi pháp và pháp không
Không hai thứ hý luận
Vô phân biệt, không cùng
Trên đây chẳng đúng lý.
Nếu đều không sở chấp
Không tuệ cũng không vượt
Đều thành chấp lìa lời
Vì thuận chẳng vô dụng.
Phẩm 10: THÀNH BẤT TƯ NGHỊ
Chín việc không nghĩ bàn
Do nương vào năm xứ
Do có năm thứ nhân
Được, mất đều ba thứ.
Không nên nghĩ không ghi,
Phải biết do bốn nhân
Chẳng định một rất sâu
Dẫn tướng vô nghĩa trụ.
Chẳng nghĩ ngã có, không
Thành hai thứ lỗi lầm
Với người cũng hai lỗi
Chẳng lẽ nghĩ một khác.
Hai dù không dựa kiến
Thành nên chẳng nên nghĩ
Không nghĩ sinh như vậy
Ba lỗi tùy theo chỗ.
Đường thiện và đường ác
Hai người tạo, chẳng định
Nghiệp thiện, ác quá khứ
Nơi việc thảy khó nghĩ.
Tánh chân như vô lậu
Nghĩa lợi đã tạo thành
Như Lai bậc tĩnh lự
Tự tại không thí dụ.
Lời ngoại đạo đã nói
Dẫn đến không nghĩa lợi
Phi lý xa bốn nơi
Vô ký không nên nghĩ.
Phi xứ gắng công dụng
Chê bai đối đại ngã
Không tu thiện thanh tịnh
Nên thành ba lỗi lầm.
Xa lìa, không nghĩ bàn
Nơi nghĩ, đáng nghĩ bàn
Đủ tám thứ công đức
Nên như lý đáng nghĩ.
Những gì Chư Phật nói
Biết khắp thảy, không trái
Do năm nhân hai nhân
Nơi ấy chẳng nên nghĩ.
Phẩm 11: NHIẾP THẮNG QUYẾT TRẠCH
Số tướng riêng có nơi
Bờ mé và sinh khởi
Thuộc tưởng khéo léo thảy
Các việc thắng quyết trạch.
Tâm tánh có hai thứ
Dị thục và cùng chuyển
Đầu: Thức A-lại-da
Hạt giống hai, nên biết.
Chấp thọ sáng rõ đầu
Thân thọ nghiệp hạt giống
Định vô tâm qua đời
Chẳng đều không đúng lý.
Cảnh sở duyên tương ưng
Hỗ trợ tánh hai nhân
Thức thảy đều trôi lăn
Tạp nhiễm ô hoàn diệt.
Sức cảnh giới chỗ nương
Kiến lập tâm khác nhau
Lại do bảy thứ hành
Tướng khó hiểu nên biết.
Sở duyên không tự tại
Trụ chỗ nương xấu ác
Tùy sức duyên trói buộc
Tâm ràng buộc nên biết.
Tán loạn và an trụ
Sáu thứ, mười lăm thứ
Duyên cảnh giới sáu thảy
Tâm sở trị chẳng một.
Nương nhiều cảnh biết rõ
Đều là tự nghiệp sinh
Tâm pháp không nên nghĩ
Tương tự như cảnh chuyển.
Tâm dẫn ba phân biệt
Lĩnh ngôi xét rõ tướng
Những được mất doanh sự
Gọi nghiệp tác ý thảy.
Cõi trên không hương vị
Tạo lớn tùy có được
Rất nhỏ không tự thể
Chẳng thật có bảy việc.
Nhỏ hòa hợp không lìa
Thiện ác không tự nhiên
Ba tướng tưởng ngoài không
Mười hai pháp xứ sắc.
Phải biết bất tương ưng
Đều giả lập bày có
Giả có tánh sáu thứ
Đều do hai lỗi kia.
Nhân ba lỗi chẳng năm
Nhờ tướng lược buộc hợp
Nương nhau xứ sai khác
Kiến lập có nhiều thứ.
Do tâm sở duyên thảy
Do thanh tịnh sở duyên
Do bốn thứ ly hệ
Kiến lập tám vô vi.
Nên phải biết ba cõi
Mười hai tướng khác nhau.
Sở trị và năng trị
Chỉ hay tổn phục chủng.
Biển pháp vương vị mặn
Muốn sống lâu đường ác
Nhiều thế giới cộng một
Đều hai thứ nhân duyên.
Ý tương ưng bốn hoặc
Biến hành mà cùng khởi
Vô ký diệt sau cùng
Tùy sinh ra tánh kia.
Tất cả sinh nối tiếp
Hiện khởi cùng với duyên
Cảnh tùy miên thô nặng
Đều hai mươi khác nhau.
Vì thuận theo nên tự sinh
Do hạt giống, do sự
Nên sinh bốn lỗi lầm
Bất tịnh do ba nhân.
Nghiệp nghĩ và nghĩ rồi
Sai khác có mười ba
Quả kia sáu ba vị
Nghiệp chắc chắn năm thứ.
Bốn thứ tự nghiệp thảy
Thục trước nầy cũng bốn
Lại chín thứ phải biết
Tức hai thứ khác nhau.
Khi chết, định bất định
Trung, yểu do sáu nhân
Hiểu rõ vị ba tâm
Trung hữu hoặc có, không.
Nương khác có sở duyên
Tâm nhiễm ô sinh khởi
Trong bốn thứ sinh kia
Và năm đường, ba cõi.
Phải biết thế tục đế
Nghĩa ý giải và nói
Tịnh sở duyên tánh kia
Phương tiện gọi thắng nghĩa.
Phải biết bốn thứ nầy
Là thuộc về nhiễm tịnh
Chưa thấy, chưa qua thọ
Như bệnh, bệnh diệt nhân.
Phải biết bốn đế nầy
Đều bốn tướng, bốn hành
Bốn thứ biết khắp thảy
Tánh nhân quả khác nhau.
Giác kia không trái, cãi
Chứng pháp nhĩ cũng vậy
Ba thứ đế, chỉ thiện
Lại ba thứ nên biết.
Phải biết bảy y chỉ
Ba thứ, tánh chỗ nương
Thiện xảo kia, hai thứ
Nói rộng bốn câu thảy.
Phần chướng tĩnh lự số
Và kiến lập rộng kia
Xa lìa nơi khổ động
Sau sau phần thắng khác.
Cận phần hỷ có động
Chỉ đầu tiên lậu dứt
Cũng hai thứ tiếng duyên
Tám đẳng chí xả tám.
Hiện pháp trụ an vui
Năng nhập vào hiện quán
Khen nói tưởng giải thoát
Bốn thứ nhân phải biết.
Ái vị thảy nên rõ
Mười thứ, sáu ba thứ
Trị chướng, thoái nối tiếp
Đều nhiều thứ sai khác.
Lợi căn và chuyển sinh
Phải biết không có lui
Nương địa dưới, phát định
Nên lìa dục, sinh sau.
Nương hai thứ Đại thừa
Do hai mươi bảy tướng
Chánh phương tiện phải biết
Kiến lập với giác phần.
Ba khác nhau thân thảy
Ảnh tượng kia tùy quán
Do ba trí nghe thảy
Nhớ pháp, không mê hoặc.
Chín thứ sở trị kia
Tạo ý phải biết hai
Tu sai khác có ba
Hai thứ không hoại mất.
Vì dứt nơi trầm, trạo
Hai thứ tương ưng đạo
Quan sát xả phiền não
Và vì dứt ba ái.
Vì dứt tăng thượng mạn
Điên đảo nương nơi vị
Và ba tâm hướng nhập
Tu tập nơi niệm trụ.
Do sai khác căn thảy
Kiến lập năm, chỉ hai
Giả sử nên biết năm
Ba việc thành tròn đầy.
Chứng chuyển y không khởi
Hai nhân quả không lui
Ba nhân nên đoạn thường
Ba quả, ba nhân ghi.
Kiến lập các công đức
Do mười bảy tăng thượng
Sai khác kia vô biên
Chướng năng trị, sở trị.
Suy nghĩ nghĩa khổ vui
Tác ý và an trụ
Gian nan và tướng mạo
Thù đặc chẳng thù đặc.
Chủng tánh Như lai nói
Chư Phật và Nhị thừa
Năm thứ và mười thứ
Sáu, sáu thứ đạo lý
Chư Phật công đức mầu
Quả cõi kia, thanh tịnh
Giải thoát và pháp thân
Đều không nghĩ vô thượng.
Tuy không dùng gia hạnh
Nguyện lực trước đã dẫn
Nương vô vi phát khởi
Đã tạo không hai tướng.
Giảng nói các sự pháp
Riêng giải thoát, phân biệt
Các pháp tướng mười một
Là kinh luật, bổn tạng.
Các tướng và đoạn diệt
Không hoại mất phương tiện
Hai quả sai khác kia
Là lược nghĩa các kinh.
Lược nói đạo Du-già
Duyên chánh pháp đã nghe
Xa-ma-tha và quán
Nương ảnh tượng thành tựu.