LUẬN TÔN BÀ TU MẬT BỒ TÁT SỞ TẬP
Tác giả: Tôn giả Bà Tu Mật
Hán dịch: Tam Tạng Tăng Già Bạt Trừng, Đời Phù Tần người nước Kế-Tân
Việt dịch: Linh Sơn Pháp Bảo Đại Tạng Kinh
Hội Văn Hóa Giáo Dục Linh Sơn Đài Bắc Xuất Bản

 

QUYỂN 4

Thứ 3: KIỀN ĐỘ TAM-MUỘI (Phần đầu)

Lại nữa, Đức Thế Tôn nói: Các Tỳ-kheo nhóm hợp đến hội có hai nhân duyên: Hoặc sẽ luận về nghĩa sâu xa của kinh, hoặc sẽ im lặng theo pháp của bậc Hiền Thánh, miệng không hề nói.

Hỏi: Thế nào là luận về nghĩa sâu xa của kinh? Hoặc sẽ mặc nhiên im lặng theo pháp của bậc Hiền Thánh, miệng không hề nói là sao?

Đáp: Hoặc tạo ra thuyết này: Đối với dục, không mê đắm, quán dục ác lộ, bất tịnh, nói là luận nghĩa sâu xa của kinh. Hiền Thánh ở đệ Nhị thiền im lặng tư duy.

Tôn giả Đại Mục-kiền-liên cũng tạo ra thuyết này: Ở đây, Tỳkheo tư duy Đệ Nhị thiền, nói là Hiền Thánh im lặng.

Hoặc có thuyết nói: Mười hai nhân duyên, là luận về nghĩa sâu xa của kinh. Tư duy mười hai nhân duyên là nói Hiền Thánh im lặng.

Hoặc có thuyết nói: Kệ Khế kinh quyết định giảng nói rộng khắp nghĩa kinh sâu xa. Tâm chuyên nhất không tán loạn mà nghe pháp, nói là Hiền Thánh im lặng.

Hoặc có thuyết nói: Dứt bỏ tất cả hành vi xấu ác, là nghĩa kinh sâu xa. Nghĩ đến việc dứt bỏ tất cả hành, tư duy về hành, gọi là Hiền Thánh im lặng.

Hoặc có thuyết nói: Phân biệt rộng khắp không, vô tướng, Vô nguyện là nghĩa sâu xa của kinh. Tư duy không, vô tướng, Vô nguyện là Hiền Thánh im lặng.

Hoặc có thuyết nói: Phân biệt bốn đế của bậc hiền Thánh, là nói nghĩa kinh sâu xa, khéo tư duy bốn đế của hiền Thánh là nói Hiền Thánh im lặng.

Hoặc có thuyết nói: Luận về pháp, là nhóm hợp dân chúng, thể hiện phổ biến pháp bình đẳng. Hiền Thánh yên lặng, nghĩa là tư duy pháp quán bất tịnh, pháp khởi liền khởi, diệt liền diệt.

Hoặc có thuyết nói: Tiếng nói pháp nghe xa, gọi là luận pháp, tư duy việc bên trong, gọi là Hiền Thánh im lặng.

Lại nữa, nhóm họp đến pháp hội, cũng là việc ấy. Sẽ nói các pháp đã nói, nên khéo lắng nghe. Luận về pháp kia, thân cận Hiền Thánh. Thí dụ như nền tảng vững chắc của giới, định, tuệ, giải thoát, giải thoát tri kiến cho đến mười hai nhân duyên.

Nghe nền tảng này rồi, nhớ giữ gìn vững chắc, đọc tụng, với ý không mê đắm, không nhàm chán, tâm không tán loạn, khéo tư duy, nên gọi là Hiền Thánh im lặng. Như đã nói: Tôn giả Đại Mục-kiền-liên nói Hiền Thánh im lặng, đây là nghĩa ấy.

Tỳ-kheo ni Đàm-ma-đề-na tạo ra thuyết này: Tỳ-kheo kia từ xuất định Diệt tận, tiếp cận ba xúc: xúc Lặng yên, xúc Định bất dụng, xúc Vô tưởng.

Hỏi: Thế nào là xúc Lặng yên? Thế nào là xúc Định bất dụng? Thế nào là xúc Vô tưởng?

Đáp: Hoặc có thuyết nói: Môn không giải thoát là xúc lặng yên. Môn giải thoát Vô nguyện là xúc định bất dụng. Môn giải thoát vô tướng là xúc Vô tưởng.

Hoặc có thuyết nói: Tỳ-kheo kia xuất định diệt tận, vì duyên vô lậu Niết-bàn, nên định bất dụng hiện ở trước, tức nên nói định Bất dụng.

Định bất dụng kia, định Vô tưởng kia, định bất dụng vô lậu, định bất dụng duyên Niết-bàn vô tướng. Lại nữa, Tỳ-kheo kia xuất định diệt tận, trụ Hữu tưởng, Vô tưởng khởi ngần ấy tâm, nên nói là tiếp cận với xúc Vô tưởng. Tỳ-kheo kia lúc trụ, nhập định bất dụng, khởi ngần ấy tâm, nên nói tiếp cận xúc định bất dụng. Nếu khi trụ định kia, khởi thức xứ, khởi ngần ấy tâm, nên nói là gần với xúc lặng yên, đó gọi là nghĩa ấy.

Đối với năm Tam-muội, Tỳ-kheo kia khởi ngần ấy tâm, nên nói là khởi tâm, cũng như ngủ dần dần, thức giấc, ấy là khởi một cách nhanh chóng. Như thế, dần dần nhập Tam-muội Diệt tận, không dần dần khởi, nên nói là quán.

Hơn nữa, có hai bậc Tư-đà-hàm đã thành tựu một thiền vô lậu, hiện ở trước, đệ Nhị thiền không hiện trước mặt chăng?

Hoặc có thuyết nói: Có, nếu ứng với không, thì hiện ở trước mắt, nếu thích ứng với Vô nguyện thì không hiện ở trước mắt.

Hoặc có thuyết nói: Nếu đối tượng nương tựa có sức, thì hiện ở trước mắt, nếu công sức của chỗ dựa ít, thì sẽ không hiện ở trước mắt.

Hoặc có thuyết nói: Nếu người căn cơ nhạy bén thì hiện ở trước mắt, nếu người căn cơ chậm lụt thì sẽ không hiện ở trước mắt.

Hoặc có thuyết nói: Nếu nhàm chán cõi Dục, dứt bỏ hành cõi Dục, thì sẽ hiện ở trước mắt. Nếu nhàm chán ba cõi, dứt bỏ hành ba cõi, thì không hiện ở trước. Lại nữa, chưa từng có hành vi đã tạo, nhập quán Tam-muội vô lậu ứng với vô lậu.

Vả lại, Sơ thiền trung gian có gần với Tam-muội diệt tận chăng?

Hoặc có thuyết nói: Có, nếu đạt đến khả năng siêu tuyệt vượt hơn Tam-muội, thì ở thiền trung gian nhập Tam-muội diệt tận.

Hoặc có thuyết nói: Nếu dựa vào Sơ thiền, đồng vượt qua trình tự thủ chứng, thì ở Sơ thiền trung gian, bốn đế đã dứt kiết sử, tức là gần Tam-muội Diệt tận.

Hỏi: Người kia không phải gần Sơ thiền trung gian, nhập Tammuội, người ấy được gần với Tam-muội Diệt tận?

Đáp: Hoặc có thuyết nói: Sơ thiền trung gian lúc nhập đệ Nhị thiền, các kiết tương ưng trên cõi Phạm thiên, đều được diệt tận.

Hỏi: Vì phải khởi thiền trung gian, cho nên người kia không gần thiền trung gian?

Đáp: Hoặc có thuyết nói: Nếu dựa vào Sơ thiền trung gian, đồng vượt qua trình tự thủ chứng, thì người kia ở Sơ thiền trung gian, bốn đế đã dứt trừ kiết, gần với Tam-muội Diệt tận.

Hỏi: Đây không phải là Sơ thiền trung gian. Vì sao? Vì phải khởi thiền trung gian tkế tục, đạo Hiền Thánh hiện ở trước mắt. Lại nữa, không phải nhập Sơ thiền trung gian, gần với Tam-muội Diệt tận, kiết sử chưa hết, quán ngoại hết, hạt giống trí của người kia đều có pháp trụ, nên không giác, có quán, tức khởi, không diệt tận. Như chúng sanh ưa thích nhập Tam-muội từ, không phải tất cả chúng sanh đều có ưa thích, Tam-muội kia duyên với những gì?

Đáp: Hoặc có thuyết nói: Các chúng sanh có căn thiện, tức nhân duyên của Tam-muội từ bi.

Hỏi: Không duyên tất cả chúng sanh có từ kia?

Đáp: Hoặc có thuyết nói: Tất cả chúng sanh có lợi căn, chúng sanh đó tức là duyên.

Hỏi: Không phải tất cả chúng sanh đều có căn thiện hiện ở trước mắt, cũng có chúng sanh hiện tại có căn an vui?

Đáp: Hoặc có thuyết nói: Nếu tự nương theo an lạc thì tất cả chúng sanh kia đều được giải thoát.

Hỏi: Không phải do sự an vui này mà khiến chúng sanh an vui chăng?

Đáp: Hoặc có thuyết nói: Không phải do lòng từ mà tất cả chúng sanh có niềm vui, tuy nhiên nhờ phương tiện này, giữ vững tâm mình, diệt các sự giận dữ mà thành tựu các pháp.

Hỏi: Vì điên đảo, nên diệt các cơn giận dữ. Hơn nữa, nhận biết các chúng sanh đều có căn thiện, mong cầu các thứ vui giải thoát. Ban ơn cho chúng sanh, đều được thành tựu, như vốn đã nói: Tam-muội kia nên nói là điên đảo, hay nên nói không điên đảo?

Đáp: Hoặc có thuyết nói: Nên nói không phải điên đảo. Tất cả chúng sanh đều có lạc căn. Đây là nhân duyên của từ bi, như vốn đã nói. Lại nữa, nên nói không phải điên đảo, sự giận dữ diệt hết, như chúng sanh khổ, nhập Tam-muội Từ, không phải tất cả chúng sanh đều có khổ, Tam-muội kia là duyên những gì!

Hoặc có thuyết nói: Các chúng sanh khổ, tức là nhân duyên của Tam-muội từ kia. Hoặc có thuyết nói tất cả chúng sanh đều có khổ căn, tâm bi kia là duyên của khổ căn.

Hoặc có thuyết nói: Không phải ngôi nhà bi, nên hết thảy chúng sanh có khổ. Lại nữa, do phương tiện bi này trụ vững chắc tâm mình, diệt tâm hại của mình. Lại nữa, nhận biết các chúng sanh đều có trạng thái khổ, giải thoát khổ, và thương xót tất cả chúng sanh, đều cầu mong sao chúng sanh được yên vui. Như vốn đã nói: Tam-muội kia, nên nói là điên đảo hay nên nói không phải điên đảo?

Hoặc có thuyết nói: Nói không phải điên đảo, các chúng sanh khổ tức là duyên ấy. Hoặc có thuyết nói: Nên nói chẳng phải điên đảo, vì đã diệt tâm hại, như chúng sanh hoan hỷ, nhập Tam-muội hỷ. Không phải tất cả chúng sanh đều hoan hỷ, Tam muội kia duyên theo những gì?

Hoặc có thuyết nói: Các chúng sanh hoan hỷ đều là duyên của hỷ kia.

Hoặc có thuyết nói: Tất cả chúng sanh đều có hỷ căn, hỷ căn này là duyên của Tam-muội kia.

Hoặc có thuyết nói: Tự mình được hoan hỷ, muốn cho tất cả chúng sanh đồng được hoan hỷ.

Hoặc có thuyết nói: Không phải vì ngôi nhà hoan hỷ, nên tất cả chúng sanh đều có hỷ. Lại nữa, do phương tiện hỷ này, giữ vững tâm mình, diệt các nỗi lo sầu. Lại nữa, nhận biết trạng thái hoan hỷ của các chúng sanh là hỷ giải thoát, đối với tất cả chúng sanh đồng hoan hỷ, như vốn đã nói: Tam-muội kia, nên nói là điên đảo hay không điên đảo?

Hoặc có thuyết nói: Nên nói là chẳng phải điên đảo, vì các chúng sanh hoan hỷ, tức là nhân duyên.

Hoặc có thuyết nói: Nên nói chẳng phải điên đảo, do tất cả chúng sanh đều có hỷ căn, cho nên là nhân duyên của hỷ, như vốn đã nói. Lại nữa, nên nói không phải điên đảo, vì sự buồn rầu có sai trái.

Lại nữa, Đức Thế Tôn nói: Ở đây, Tỳ-kheo nên tu quán niệm hơi thở để dứt các quán tưởng.

Hỏi: Thế nào là nên tu quán niệm hơi thở để dứt các quán tưởng?

Đáp: Hoặc có thuyết nói: Tu quán niệm hơi thở nhập đệ Nhị thiền. Đã nhập đệ Nhị thiền, là vượt qua quán tưởng.

Hỏi: Cũng có phương tiện khác nhập Đệ Nhị thiền, thế nên dùng phương tiện khác dứt các quán tưởng?

Đáp: Hoặc có thuyết nói: Tu quán niệm hơi thở là dựa vào sự xoay chuyển lại của cõi Sắc, không dựa vào quán tưởng để dứt các quán tưởng. Việc này như đã nói như trên.

Hoặc có thuyết nói: Đếm hơi thở ra vào có một duyên ở giữa không có quán, không có giác. Như thế, dứt các quán, điều này cũng đã nói như trên. Lại nữa, tu quán niệm hơi thở là duyên gần Tammuội không. Vì duyên ngần ấy duyên không có chúng sanh, một ít sinh nghiệp của chúng sanh kia, dứt các quán tưởng.

Lại, Đức Thế Tôn nói: Quán khắp các thân, biết rõ hơi thở ra, quán khắp các thân biết hơi thở vào.

Hỏi: Thế nào là quán khắp hơi thở ra của các thân? Quán khắp hơi thở vào của các thân là sao?

Đáp: Hoặc có thuyết nói: Quán thân đều vô thường, nhận biết hơi thở ra, vào.

Hỏi: Không xuất định chăng?

Đáp: Tam-muội không khởi, phương tiện hơi thở kia sẽ không hoài nghi.

Hoặc có thuyết nói: Quán thân tất cả bất tịnh, hơi thở ra vào, đều không đắm nhiễm, cũng không xả bỏ.

Hoặc có thuyết nói: Tất cả hơi thở ra vào trong thân đều nhận biết.

Hoặc có thuyết nói: Khi quán xoay lại, đối với quán cõi Sắc trong tất cả thân, hơi thở ra, vào không gồm nhiếp tưởng cõi Sắc kia, cũng không buông xả. Lại nữa, do phương tiện này, giúp tâm mình trụ kiên cố, dùng việc này để tư duy rộng.

Hỏi: Thế nào là nhập đệ Tứ thiền dứt hết hơi thở ra vào?

Đáp: Hoặc có thuyết nói: Khi đếm hơi thở ra vào, tức nhận biết hơi thở ra vào kia nhập đệ Tứ thiền, ở trong đó, hơi thở ra vào có thể đều diệt.

Hỏi: Dùng phương tiện khác nhập đệ Tứ thiền, hơi thở ra vào kia có diệt chăng?

Đáp: Hoặc có thuyết nói: Khi nhập đệ Tứ thiền, hơi thở ở địa Tứ thiền có xoay lại, lấp bít các lỗ chân lông, chẳng có thở ra vào hay không?

Hỏi: Không từ xuất định, hơi thở ra vào không xoay lại chăng?

Đáp: Khởi lại dựa vào sự xoay lại của hơi thở khác.

Hoặc có thuyết nói: Như nhập Sơ thiền, hơi thở liền tăng trưởng. Đệ Nhị thiền hơi thở nhẹ nhàng, đệ Tam thiền hơi thở cũng nhẹ nhàng hơn. Như thế, khi hơi thở trở nên nhẹ nhàng dần, đến đệ Tứ thiền thì không còn hơi thở nữa.

Lại nữa, trừ bỏ hết giác, khi ấy hơi thở ra vào của thiền không còn quay lại. Vì sao? Vì sinh cõi Dục, chúng sanh được thiền, đối với thiền không còn lùi sụt, lúc chết liền sinh lên cõi Sắc, đã sinh cõi Sắc, được tất cả thiền, không lùi sụt thiền, nên khi chết liền sinh trở lại cõi Sắc.

Hoặc có thuyết nói: Trong cõi Dục này, hành đối lập với địa. Trong cõi này khởi thiền mà sinh trong cõi Sắc kia. Nếu người kia nhập Tam-muội, dù người sinh trong cõi Sắc kia có có báo ứng, thì sẽ không do báo ứng có báo ứng.

Hỏi: Như hiện nay, không có ai mất ở cõi kia, lại sinh trong cõi kia chăng?

Đáp: Hoặc có thuyết nói: Nhập địa vị khí thanh tịnh của đệ Tam thiền, tương ưng với thiền vô lậu thanh tịnh, được sinh trong cõi đó, tương ưng với khí vị, lùi sụt vô lậu nhập Niết-bàn. Như thế sinh trong cõi kia, nếu Tam-muội tịnh thiền, thì sinh trong cõi ấy. Nếu nhập khí vị tương ưng thiền, thì lùi sụt cõi kia, nếu nhập vô lâu thiền, tức ở trong cõi kia mà nhập Niết-bàn.

Hoặc có thuyết nói: Trong đây nhập bốn thứ thiền: Lùi sụt dần dần, lùi sụt trụ, lùi sụt tăng thượng, chán lùi sụt dần dần. Lùi sụt trụ, sinh lên cõi kia, lùi sụt tăng thượng, vượt qua cõi kia, nhàm chán lùi sụt thì nhập Niết-bàn. Như thế, sinh lên cõi kia, nếu nhập Tam-muội thối lui dần dần, ấy là thối lui cõi kia. Nếu nhập Tam-muội trụ lùi sụt, thì sinh trong cõi kia. Nếu nhập Tam-muội, lùi sụt thêm, thì siêu việt địa kia, do đạo vô lậu, nên nhập Niết-bàn ở trong cõi đó.

Hoặc có thuyết nói: Không phải do thiền, được sinh trong cõi kia, mà là do hành cấu uế đắm nhiễm, được sinh trong cõi kia. Nếu đã là hành đối với tử, hoặc lại trụ ở trong cõi kia do hành đối với bất tử, thì sinh trong cõi kia. Nếu không do thiền mà sinh về cõi kia, thì không phải thiền trung gian sinh trong cõi kia.

Đáp: Không có khổ. Nếu dựa vào vị lai thiền, lại ái dục hết, ở thiền trung gian được sinh trong cõi kia. Lại nữa, hai thiền này đều không phải tinh tế. Chúng sanh sinh trong cõi Dục được các thiền, ái cõi Sắc chưa hết, mạng chung không sinh cõi Sắc. Ái cõi Sắc đã hết, ái cõi Vô Sắc chưa hết thì mạng chung không sinh cõi Sắc, Vô Sắc. Ái của cõi Vô Sắc hết, bèn mạng chung, sinh về cõi Vô xứ.

Hỏi: Thế nào là thọ báo hiện nay?

Đáp: Nếu ái hết, tương ưng với báo thì không có báo, như trước người kia thì theo sau, trung gian tương ưng với quả báo, sinh cõi Sắc. Chúng sanh được thiền, ái sắc chưa hết, bèn mạng chung, không tạo ra phương tiện cầu sinh cõi Dục. Nếu không chán bỏ thì phương tiện không tăng phương tiện mong cầu bèn sinh, sinh cõi Sắc, ái hết, ái Vô Sắc chưa hết, bèn mạng chung, không sinh cõi Vô Sắc, ái cõi Vô Sắc hết, khi chết sinh về cõi vô xứ.

Hỏi: Thế nào là thọ báo hiện nay?

Đáp: Không có nhất định thọ nhận tương ưng với quả báo của hành. Ở cõi Sắc, hành thiền rất khó được, huống chi là Tam-muội cõi Vô Sắc.

Tư-đà-hàm tiếp xúc

Có vô lượng diệt tận

Niệm nói tất cả thân

Thế nào diệt cõi Dục.

Nếu tất cả thức siêu việt, nhập xứ không có, định bất dụng, làm sao định đó không có, ít có tư duy, hoặc có thuyết nói: Kia không có chỗ nương, có chỗ nương, không có tư duy.

Hỏi: Tất cả Tam-muội tư duy việc này?

Đáp: Hoặc có thuyết nói: Thức kia không có lạc, không có thường, cũng có không tư duy. Việc này cũng đã nói như trên.

Hoặc có thuyết nói: Thức kia không có ngã, cũng không tư duy, việc này cũng đã nói như trên. Lại nữa, như ngần ấy thứ tướng mạo, ấy là lìa tưởng giải thoát.

Hỏi: Vì sao định bất dụng gọi là hộ?

Đáp: Hoặc có thuyết nói: Tam-muội lìa hữu, định vô hữu, sẽ có là do có, cho nên định bất dụng nói là hộ.

Hoặc có thuyết nói: Đạo hộ vượt qua đạo kia, thế nên định bất dụng nói là hộ.

Hoặc có thuyết nói: Hộ là quả. Đức Thế Tôn cũng nói: Tu hộ rộng khắp, vượt qua định bất dụng. Lại nữa, định vô dụng không lựa chọn, không tạo ra lợi dưỡng để trụ.

Hỏi: Tịnh là nghĩa bất tịnh, là sao?

Đáp: Có thuyết nói: Các tướng bất tịnh là nghĩa tịnh.

Hỏi: Không có tướng bất tịnh. Tướng tịnh kia hoặc có tịnh, hoặc bất tịnh?

Đáp: Gọi là tịnh, tịnh ấy là điên đảo. Tịnh kia hoặc có thường hoặc vô thường.

Hỏi: Muốn nói không có tướng vô thường chăng?

Đáp: Hoặc có thuyết nói: Tướng tịnh nói không có tịnh.

Hỏi: Nếu kia không có tướng tịnh thì không nhiễm đắm, không phải do tướng tịnh làm đắm nhiễm chăng?

Đáp: Bất tịnh tạo ra tướng tịnh thì đắm nhiễm.

Hỏi: Nếu kia có tướng tịnh, như tịnh kia mà quán, thì tịnh kia sẽ đắm nhiễm. Nếu không quán như thật, thì tịnh kia sẽ không có tướng tịnh?

Đáp: Hoặc có thuyết nói: Chuyên ý tâm niệm bất tịnh như thế.

Hỏi: Tịnh kia hoặc kết cục thành, hoặc không kết cục thành, muốn cho tịnh kia là tịnh? Hay muốn cho tịnh kia là bất tịnh chăng? Lại nữa, sắc không có tịnh, không có bất tịnh, cũng như người kia đã hướng về tham đắm, không rời. Vả lại, bỏ tu Tứ thiền, định bất dụng sinh lên cõi Tịnh cư chăng?

Đáp: Hoặc có thuyết nói: Không, bỏ tu Tứ thiền mà được sinh trong cõi kia.

Hỏi: Các hữu tu Đệ Tứ thiền, sinh lên cõi trời Tịnh cư, tất cả người kia sinh lên cõi trời Tịnh cư?

Đáp: Do sự hành nên không sinh, hạt giống tuy nẩy mầm nhưng vì hành sự nên không sinh.

Lại nữa, dựa vào thiền vị lai, tu đạo vô lậu, người kia diệt các kiết, sinh lên cõi trời Tịnh cư. Tất cả người đó tu phân biệt thiền, nhập đệ Tứ thiền, tất cả người ấy đều sinh lên cõi trời Tịnh cư chăng? Nếu sinh lên cõi trời Tịnh cư, tất cả người đó tu Phân biệt thiền nhập đệ Tứ thiền chăng?

Hoặc có thuyết nói: Các người sinh lên cõi trời Tịnh cư, tất cả người đó đều tu phân biệt thiền, nhập đệ Tứ thiền.

Vả lại, tu Phân biệt thiền, nhập đệ Tứ thiền, không sinh lên cõi trời Tịnh cư, nếu A-na-hàm cõi Vô Sắc. Hoặc có thuyết nói, tu Phân biệt thiền, nhập đệ Tứ thiền, người ấy không sanh lên cõi trời Tịnh Cư, được tu phân biệt, nhập Đệ Tứ thiền, vì ái trên cõi trời Tịnh cư đã hết.

Vả lại, sinh lên cõi Tịnh cư, không tu Phân biệt thiền mà nhập đệ Tứ thiền chăng?

Dựa vào vị lai, tu đạo vô lậu, người kia đã diệt các kiết sử.

Vả lại, tu Phân biệt thiền, nhập đệ Tứ thiền, cũng sinh lên cõi trời Tịnh cư chăng?

Được tu Phân biệt thiền, nhập đệ Tứ thiền, vì ái trên cõi trời Tịnh cư chưa hết.

Hơn nữa, không tu Phân biệt thiền, nhập đệ Tứ thiền, cũng không sinh lên cõi trời Tịnh cư?

Trừ ngần ấy việc trên, còn lại là nghĩa kia.

Hỏi: Thế nào là tu Phân biệt thiền, nhập đệ Tứ thiền?

Đáp: Hoặc có thuyết nói: Nhập Tam-muội tịnh thiền, dùng vô lậu để tư duy phân biệt.

Hỏi: Tịnh thiền, người kia không phải tư duy vô lậu, như người tư duy vô lậu, thiền bất tịnh kia?

Lại nữa, thiền vô lậu, ở trung gian kia nhập tịnh thiền, trung gian tịnh thiền nhập thiền vô lậu, không dùng vô lậu để nuôi lớn tịnh thiền, vô lậu kia nuôi lớn cõi trời Tịnh Cư.

Hỏi: Làm sao biết có cõi trời Tịnh Cư?

Đáp: Hoặc có thuyết nói: Tu Phân biệt, nhập Đệ tứ thiền sinh lên cõi trời Tịnh Cư. Như trong đây, thấy tu phân biệt, đệ Tứ thiền, ái Vô Sắc chưa hết, mà qua đời, sau đó mới được biết có cõi trời Tịnh Cư. Như nhân duyên của thiên này. Lại nữa, do A-na-hàm biết, Đức Thế Tôn cũng nói: Cõi này không dễ được, giống như người phàm phu có ngã ở lâu trong sinh tử, trừ cõi trời Tịnh Cư.

Như Sơ, Đệ nhị, Đệ Tam thiền, tu Phân biệt thiền. Vì sao Sơ, Đệ nhị, Đệ Tam thiền, không sinh lên cõi trời Tịnh cư?

Hoặc có thuyết nói: Trước hết, được đỉnh Đệ Tứ thiền, lại có thể Phân biệt thiền, và ái dục hết không sinh địa khác.

Hỏi: Như không quán nhập tư duy Tam-muội, phân biệt Tứ thiền, vì sao không quán nhập Tứ thiền phân biệt tám địa?

Đáp: Hoặc có thuyết nói: Những người được căn cơ nhạy bén, ấy là có thể phân biệt được Tứ thiền. Trông cậy ở người căn cơ nhạy bén, lại vượt qua địa khác.

Hỏi: Vượt qua Đệ Tứ thiền, cho nên không sinh địa đệ Tứ thiền.

Lại nữa, lúc trời đất biến đổi, cho đến địa đệ Tam thiền hư hoại, nhưng không phải địa Hiền biến đổi. Lúc thế giới biến đổi, ở đây có các Hiền, vì lẽ báo của hành đối lập, nên được sinh lên cõi trời Tịnh Cư. Nếu được đệ Tứ thiền, dựa vào Sơ thiền, đồng vượt qua trình tự thủ chứng. Các kiết không tương ưng, lùi sụt ở Tứ thiền, nên nói mắc phải các kiết kia, vậy các Hiền kia có thành tựu hay không?

Đáp: Hoặc có thuyết nói: Nên nói là được.

Hỏi: Như đã nói: Do ngoại đạo diệt, ấy là được đạo Hiền Thánh, cho đến cuối cùng diệt hết, ngoại đạo kia không có.

Đáp: Hoặc có thuyết nói: Nên nói không được, do thực thi đạo Hiền Thánh kia cho đến rốt ráo.

Hỏi: Không ở trung gian sinh địa Tứ thiền sao?

Đáp: Việc này không có khổ, lại vượt qua Đệ Tứ thiền.

Hoặc có thuyết nói: Do tư duy đoạn, không phải Tứ đế đoạn. Vì sao? Vì Tứ đế đoạn là đạo Hiền Thánh, không phải tư duy đoạn. Lại nữa, dựa vào ý niệm đạo Hiền Thánh còn tạo ra ý niệm. Lại nữa, lùi sụt đệ Tứ thiền. Vì sao? Vì Hiền Thánh đồng vượt qua trình tự thủ chứng. Khi quay lại nhẫn trí, Hiền Thánh đều dùng sức của phương tiện, không lùi sụt sức của phương tiện ngang bằng, cho nên không lùi sụt Tứ thiền. Nếu được Tam-muội tưởng, dựa vào đệ Tam thiền, đồng vượt qua trình tự, thủ chứng, không lùi sụt Tam-muội vô tướng, do vậy sau khi chết, sẽ sinh làm chúng sanh Vô tưởng.

Hoặc có thuyết nói: Sinh lên cõi trời Quả Thật, Tam-muội vô tướng này là địa trong đó.

Hỏi: Như Tam-muội Vô tướng kia đã vượt qua địa, thì sao lại nói là địa kia đồng vượt trình tự thủ chứng?

Đáp: Hoặc có thuyết nói: Không được Tam-muội vô tướng đồng vượt qua trình tự, thủ chứng, vì ý địa kia chậm lụt, nên Tam-muội vô tướng kia hoàn toàn vắng lặng.

Hỏi: Nhập ý của đệ Tam thiền đều không có sự nghi ngờ. Lại nữa, đồng vượt trình tự, sinh đệ Tứ thiền, vượt trình tự thủ chứng. Tam-muội tưởng không rộng khắp, cũng không thân cận. Lại nữa, sinh trong đệ Tứ thiền:

Không có tịnh bất tịnh

Làm sao biết phương tiện

Như được Tam, Tứ thiền

Danh Vô tưởng không trọn.

Như tất cả đệ Tứ thiền đều được niệm, chờ đợi hỷ. Vì sao nói là

Tam thiền không phải thiền khác?

Đáp: Hoặc có thuyết nói: Đây là lời răn dạy của Đức Thế Tôn.

Hỏi: Nghĩa này thế nào?

Nghĩa là đệ Tam quán thiền, niệm chờ đợi hỷ, không phải đệ Tứ thiền.

Hoặc có thuyết nói: Lời hỗ trợ khuyên góp của Đức Thế Tôn, thuyết này là nói thứ khác.

Hỏi: Nói Sơ thiền là nói thiền khác?

Đáp: Hoặc có thuyết nói: Thú vui trong Tam thiền, vui đó là tốt đẹp hơn hết. Thế nên, với ý niệm chờ đợi, bảo hộ ở trong đó không lùi sụt.

Hỏi: Phải hộ tất cả thiền chăng?

Đáp: Hoặc có thuyết nói: Cái vui trong Tam thiền là tốt đẹp, nghĩa là ý niệm chờ đợi việc đó tương tự như hơi khí.

Hỏi: Đây không phải là ý niệm chờ đợi, của Đệ Tam thiền, cho nên vướng mắc thú vui, Đệ Tứ thiền cũng sẽ có ý niệm tạo tác không giáo. Như thế, Ngã có thiền. Lại nữa, thú vui kia có phần vượt hơn, làm sao đệ Nhị thiền tương ưng với niệm, mà tâm không đoạn xứ sở của hỷ? Như tất cả đệ Tứ thiền được xả niệm tịnh. Vì sao được hộ niệm tịnh?

Nói đó là Tứ thiền, không phải thiền khác chăng?

Đáp: Hoặc có thuyết nói: Đây là lời răn dạy của Đức Thế Tôn.

Hỏi: Ở trong Tứ thiền đó có tướng tịnh thì tất cả hộ, hoặc có thuyết nói: Trong đó có tịnh niệm, mong cầu hộ hỷ căn?

Đáp: Hoặc có thuyết nói: Do oai lực quay lại của Sơ thiền là duyên của Tứ thiền, cũng dựa vào đệ Tứ thiền, được sự hộ của xứ sở niệm, hoặc khổ, hoặc vui, có giác, có quán, và hơi thở ra vào, do lìa các việc ác.

Hoặc có thuyết nói: Chúng sanh ở cõi Tứ thiền kia phần nhiều kiết đã dứt trừ hết. Bấy giờ, hộ niệm, cũng hộ các thiền. Lại nữa, ở trong đó, hành có tăng, tâm không dời động, niềm vui đã tạo ra ý niệm được chấm dứt mà hộ Tam-muội.

Hỏi: Vậy người phàm phu có nhập Tam-muội Diệt Tận hay không?

Đáp: Hoặc có thuyết nói: Người phàm phu không nhập Tam-muội Diệt Tận, vì Tam-muội này không phải là Tam-muội của phàm phu.

Hoặc có thuyết nói: Người phàm phu duyên cõi trên, được diệt cõi trên, đến Hữu tưởng, Vô tưởng, hữu sinh nhập xứ như đối tượng duyên diệt hữu tưởng, Vô tưởng xứ, cho nên không nhập Tam-muội đó.

Hoặc có thuyết nói: Người phàm phu cũng có Tam-muội. Khi nhập Tam-muội, đầu tiên tâm tưởng chấm dứt và tâm được định. Lại nữa, giới tưởng, đó là nhân duyên, trừ bỏ duyên kia, không muốn Tam-muội, như Ưu-trì Ca-la-na-tử nhập định Vô tưởng, nên sợ sinh vào cõi trời Hữu tưởng Vô tưởng. Thế nên không nhập Tam-muội. Lại nữa, không nhập định. Vì sao? Vì như người phàm phu nhập Tam-muội, dần dần có uy lực, cho đến rốt ráo. Người phàm phu e sợ, tự thấy tưởng diệt tận ngã, thế nên không nhập Tam-muội kia.

Hỏi: Vậy có Bồ-Tát nào nhập Tam-muội diệt tận hay không?

Đáp: Hoặc có thuyết nói: Nhập Tam-muội kia, Bồ-tát phát thệ nguyện rộng lớn, tìm kiếm hết thảy nơi chốn. Do vậy, nếu không nhập Tam-muội Diệt tận này, thì Bồ-tát sẽ không thể biết được nơi chốn của tất cả chúng sanh.

Hoặc có thuyết nói: Bồ-tát không nhập Tam-muội kia. Vì sao?

Vì đó không phải là Tam-muội của phàm phu. Đây là người phàm phu Bồ-tát.

Hoặc có thuyết nói: Không nhập Tam-muội diệt tận, vì Bồ-tát dùng đạo thế tục để duyên lìa hạ phần kiết sử của địa trên, Hữu tưởng, Vô tưởng đều duyên vô sở hữu. Diệt Hữu tưởng, Vô tưởng xứ, vì thế, nên Bồ-tát không nhập Tam-muội đó.

Thế Tôn Đàm-ma-đa-la nói thế này: Mặc dù Bồ-tát tự quán sát sự yếu kém nhưng sợ không rốt ráo. Hơn nữa, Bồ-tát dùng trí tuệ vượt qua sự giận dữ kia, nhưng không hề có giận hờn, nên chẳng phải không có phương tiện Tam-muội.

Hỏi: Tam-muội Vô tưởng và Tam-muội Diệt tận có khác biệt nào?

Đáp: Hoặc có thuyết nói: Tam-muội vô tướng là Tam-muội của người phàm phu, còn Tam-muội diệt tận không phải Tam-muội của phàm phu.

Hỏi: Tôi không luận việc này là Tam-muội gì? Lại nữa, nên nói tướng mạo của Tam-muội?

Đáp: Hoặc có thuyết nói: Tam-muội Vô tưởng này rộng lớn vô biên. Tam-muội diệt tận dừng nghỉ không khởi.

Hỏi: Nếu Tam-muội này đều không có pháp mà tâm nhớ nghĩ, thì hai Tam-muội này đều không phải là sự ngừng nghỉ rộng lớn chăng?

Đáp: Hoặc có thuyết nói: Tam-muội Vô tưởng tương ưng với sắc. Tam-muội Diệt tận tương ưng với Vô Sắc.

Hỏi: Tôi cũng không luận nơi chốn của Tam-muội này, chỉ nên nói tự tướng của Tam-muội?

Đáp: Hoặc có thuyết nói: Tam-muội Vô tưởng là quả của chúng sanh Vô tưởng, Tam-muội diệt tận là quả của cõi trời Hữu tưởng và Vô tưởng.

Hỏi: Tôi cũng không luận là quả gì? Chỉ nên nói tự tướng của Tam-muội?

Đáp: Hoặc có thuyết nói: Tam-muội vô tướng tự biết nhập Tammuội hữu tưởng, Tam-muội Diệt tận tưởng thọ tự biết nhập Tam-muội. Điều này như trên đã nói. Lại nữa, như đối tượng dục, cả hai Tam-muội đều có pháp niệm của tâm sở, thì có tưởng này không có tưởng khác. Như đã nói Tam-muội hữu tưởng, tâm được nhận biết. Đối với sự dừng nghỉ của Tam-muội rộng lớn này, phương tiện của quả tương ưng của cõi Sắc, Vô Sắc, thì có phần vượt hơn. Nếu dựa vào định Bất dụng, thì sẽ đắc quả A-la-hán.

Hỏi: Vì tư duy những gì tương ưng với pháp mà tâm đã nhớ nghĩ để được quả A-la-hán?

Đáp: Hoặc có thuyết nói: Tương ưng với định Bất dụng. Đức Thế Tôn cũng nói: Như pháp tất cả thọ tưởng hành thức kia, tư duy pháp kia, như Khế kinh vốn nói.

Hoặc có thuyết nói: Tương ưng của Hữu tưởng, Vô tưởng, tự biết Hữu tưởng, Vô tưởng, xa lìa Hữu tưởng, Vô tưởng, không xa lìa định bất dụng, được dục của hữu tưởng và Vô tưởng đã hết.

Hoặc có thuyết nói: Nếu ái của định bất dụng chưa hết, thì dựa vào định Bất dụng sẽ theo kịp quả A-la-hán. Tam-muội kia tương ưng với định Bất dụng, pháp niệm của tâm sở tương ưng với hữu tưởng, Vô tưởng, nên tư duy chứng được quả A-la-hán. Nếu được Tam-muội hữu tưởng, Vô tưởng, dựa vào định Bất dụng sẽ chứng quả A-la-hán. Lại nữa, như tự tư duy ngã là không, ngã bị triền ràng buộc, đã được trí đoạn, ấy là dứt trừ ái, Vậy tư duy những hành ấm khổ nào mà diệt hết khổ khác? Như nghiệp tự do tạo ra nghiệp khác, không mắc phải lỗi này. Sự tư duy ngã này cũng nên như thế.

Hỏi: Vì sao Tam-muội vô lậu nói là duyên khác, không phải tịnh Tam-muội?

Đáp: Hoặc có thuyết nói: Tam-muội vô lậu duyên với ba cõi. Do Sơ thiền vô lậu biết rõ ba cõi, nhưng Sơ thiền tịnh không có phương tiện nhận biết Phạm thiên. Cho nên, nếu có nhân duyên nhưng không phải tịnh.

Hoặc có thuyết nói: Tam-muội vô lậu, nghĩa là mỗi mỗi sinh nhau.

Thế nên, do Sơ thiền này được tưởng vô thường thì sẽ được tất cả. Tuy nhiên, Sơ thiền tịnh không do đó mà đồng nhau.

Hoặc có thuyết nói: Tam-muội vô lậu, nghĩa là dứt trừ hết thảy các kiết sử, dứt hết không sót, nương tựa Sơ thiền vô lậu, diệt kiết ba cõi. Như thế, tất cả do tịnh Sơ thiền không có phương tiện khéo, diệt hết mà sinh lên Phạm thiên.

Hoặc có thuyết nói: Do được Sơ thiền vô lậu, được sắc vô lậu của mình, nhưng không do tịnh Sơ thiền mà hiện ở trước, cũng không được đệ Nhị thiền. Lại nữa, không phải do Tam-muội tịnh lần lượt mà được, mà là do tu hành thiền tịnh tăng thượng hiện ở trước, lại do đệ Nhị thiền tịnh của phương tiện khác mà hiện ở trước. Lúc Sơ thiền vô lậu hiện ở trước, được Vô Sắc vô lậu tăng thượng. Thế nên, Tam-muội vô lậu lần lượt có nhân duyên, nhưng không phải tịnh. Vì sao? Vì các Tam-muội tương ưng với khí vị trên, Tam-muội tương ưng với khí vị dưới, Tammuội, nhân duyên của khoảng giữa, nói là nhân duyên, nhưng không phải là duyên dưới, trên.

Hoặc có thuyết nói: Khi nhập Tam-muội, khởi thiền trung gian, lùi sụt Tam-muội kia, không trở về, như muốn lên cầu thang, phải bắt đầu từ mỗi bậc thang. Nếu từ cầu thang đi xuống, cũng phải do mỗi bậc thang đi xuống. Lại nữa, nhập khí vị của đệ Nhị thiền, tương ưng với sự lùi sụt. Lại có người nhập Sơ thiền, nhưng không phải Sơ thiền, vì vị khí tương ưng với nhập đệ Nhị thiền.

Hỏi: Từ, và đại từ có gì khác nhau?

Đáp: Hoặc có thuyết nói: Vi tế nói là từ, nói rộng là đại từ.

Hoặc có thuyết nói: Nhập một ít là từ, nhập khắp tất cả là đại từ.

Hoặc có thuyết nói: Từ duyên với khổ của thân, đại từ duyên với ý, thân.

Hoặc có thuyết nói: Từ duyên với khổ khổ của chúng sanh, đại từ duyên cứu khổ khổ của chúng sanh. Lại nữa, đại từ rộng lớn không có biên giới, đến khắp tất cả chúng sanh, chúng sanh nào đều chịu ơn. Lại nữa, Như lai, Thế Tôn che chở hết thảy chúng sanh, nhưng không phải Thanh văn có gần, có xa, tất cả chúng sanh đều được xót thương, muốn cho Thanh văn thương xót, chúng sanh có sắc, không có sắc. Nếu là môn tịnh giải thoát, như tự nhân duyên nhập, hiện sắc nhập. Và tự nhân duyên mười hai nhập, nhân duyên này có gì khác nhau?

Hoặc có thuyết nói: Trong môn giải thoát vi tế có tám hiện sắc nhập, mười hai nhập tăng thượng.

Hoặc có thuyết nói: Có một ít đại Tam-muội của môn Tam-muội giải thoát, nói là hiện sắc nhập, mười hai nhập của vô lượng Tammuội.

Hoặc có thuyết nói: Tướng tịnh, được nói là môn giải thoát. Kiết hết, tám hiện sắc nhập, không có tư duy mười hai nhập. Lại nữa, tăng thượng là nhân duyên mười hai nhập của môn giải thoát, các kiết dài cũng là mười hai nhập.

Tất cả phàm phu khổ

Hoặc oai thắng Bồ-tát

Cõi trên, dưới vô lậu

Hạnh thắng môn giải thoát.

Lại nữa, Đức Thế Tôn nói: Không có thiền thì không trí; không có trí, không thiền; có thiền có trí gọi là Niết-bàn.

Hỏi: Phật nói lời này, nghĩa ấy thế nào?

Đáp: Hoặc có thuyết nói: Theo Khế kinh này nói đắc quả Tu-đàhoàm thì được các thiền, nên nói không có trí thì không có thiền. Tu-đàhoàn cũng có trí tuệ này, thế nên thiền cũng dựa vào trí kia.

Hỏi: Giác, quán bình đẳng, ở trong đó có thiền. Nếu theo Khế kinh, thì bên ngoài cũng có thiền, cho nên thiền kia có trí, thành thử nói không có thiền thì không có trí.

Hỏi: Ngoài cũng có trí tuệ thế tục chăng?

Đáp: Nếu bên ngoài kia có trí tuệ, thì cũng có Niết-bàn bên ngoài, nên nói có thiền, có trí, nói là Niết-bàn.

Hoặc có thuyết nói: Nếu trí tuệ là tâm địa thì cũng không có trí tuệ, do trí tuệ kia không có thiền nhất tâm, nên nói không có thiền, thì không có trí. Nếu không có thiền nhất tâm, thì trí tuệ kia cũng không có trí tuệ tư duy, nên nói không có trí thì không có thiền. Nếu có nhất tâm thiền tư duy trí tuệ, thì trí tuệ ấy sẽ diệt các kiết sử, nên nói có thiền có trí. Đây là nói dựa vào Niết-bàn. Lại nữa, nếu có trí vô sinh, được pháp đẳng thiền, thì ấy là có sự dừng, nghỉ, huống chi thành quả thật, nên nói không có thiền thì không có trí. Nếu ràng buộc, chấp mắc tâm, ý, thì ấy là sự biến đổi, huống chi là có quả thật, nên nói không có trí thì không có thiền. Nếu thiền kia có chỉ, quán, thì chỉ quán đó quán ngoại luôn luôn tu hành giải thoát bền chắc, không có diệt tận, nên nói là có thiền thì có trí, đó gọi là Niết-bàn.

Hỏi: Thế nào là nghĩa Tam-muội?

Đáp: Hoặc có thuyết nói: Duyên nhất tâm mà niệm pháp gọi là Tam-muội.

Hỏi: Tam-muội Vô tướng, Tam-muội Diệt tận, không có tâm mà niệm pháp đồng sinh, muốn cho Tam-muội kia không phải là Tam-muội chăng?

Đáp: Hoặc có thuyết nói: Rất nhiều tâm duyên một nơi chốn, nói là Tam-muội. Về điều này như trên đã nói.

Lại nữa, Tam-muội có ngần ấy tướng. Tam-muội thiện pháp, Tammuội Hùng Thư, các nghĩa xả của chín bậc thứ tự thiền ngang bằng với Tâm nên gọi là Tam-muội.

Hỏi: Vả lại, nhân khổ tương ưng với thiền, thiền có hiện ở trước chăng?

Đáp: Hoặc có thuyết nói: Không có. Tương ưng với khổ ấy là có niệm, đợi chờ niệm, đợi chờ thiền. Thế nên, không hiện ra ở trước mắt.

Hoặc có thuyết nói: Hoặc hiện ở trước mặt tương ưng với khổ, như thật biết khổ, ấy là khởi niệm. Ở trong đó thiền hiện ở trước mặt. Lại nữa, lúc không cười đùa, dựa vào khổ nên thiền hiện ở trước mắt.

Hỏi: Bốn thứ như giận dữ v.v… này, ở trong chốn phạm hạnh, đẳng nào là hơn hết?

Đáp: Hoặc có thuyết nói: Từ là hơn hết. Sự thương xót chúng sanh đều khiến cho họ được yên ổn, thương yêu chúng sanh kia là đã nhập Tam-muội từ, không có nghi ngờ.

Hoặc có thuyết nói: Bi là hơn hết, vì do đại bi, nên xuất thế, nói pháp, cũng không thấy có đại từ, đại bi, đại xả.

Hoặc có thuyết nói: Xả là hơn hết, vì nhận thấy quả thật, tu xả là tu định bất dụng. Lại nữa, sự xả thân là hơn hết, mọi sự nghỉ ngơi là xả gân, sức, muốn sự giận dữ diệt, vì chúng sanh nên xả là hơn.

Hỏi: Vì sao Sơ thiền nói là lặng yên? Đệ Nhị thiền nói là Tammuội?

Đáp: Hoặc có thuyết nói: Hai thiền này đều là Tam-muội lặng yên. Sơ thiền nghỉ ngơi rất nhiều, thế nên đệ Nhị thiền lặng yên. Lại nữa, như hạt giống đất, hạt giống nước kia, như thế vắng lặng, pháp bất thiện gọi là Sơ thiền sinh, nên nói là vắng lặng. Thế nên, vì ý định do hai thiền sinh, nên nói là Tam-muội.

Hỏi: Hỷ nội, nghĩa này thế nào?

Đáp: Hoặc có thuyết nói: Có giác, có quán, sinh tâm, duyên xen lẫn, có giác, có quán sinh tâm, ấy là hoan hỷ, như gạn bỏ nước bùn nhơ, dần dần trong.

Hoặc có thuyết nói: Tâm cười đùa chấm dứt thì liền thanh tịnh, như dòng nước vọt lên khiến cho dòng chậm lại, từng giọt trong trẻo.

Hoặc có thuyết nói: Tâm kia duyên một trụ, tâm ấy nói là đẳng thanh tịnh. Như đã nói gạn đục còn trong, lại nữa nhập Nhị thiền ý được thanh tịnh, có chỗ đây, kia được Sơ thiền, hỷ, lạc có khác nhau.

Hoặc có thuyết nói: Thấp là hỷ, tăng thượng là lạc.

Hoặc có thuyết nói: Tâm sở niệm lạc, thọ là hỷ, thân thọ lạc là lạc.

Hoặc có thuyết nói: Vui mừng phấn khích sinh hỷ, khinh an sinh an vui. Lại nữa, tâm phương tiện kia là hỷ, lạc, không có ngăn ngại, ở trong đó tương ưng với hỷ, thân tâm không rối loạn, gọi là vui.

Hỏi: Có các người không bỏ dở thiền, tất cả người ấy có thành tựu thiền chăng? Nếu thành tựu thiền, tất cả người ấy không bỏ dở thiền phải chăng?

Đáp: Hoặc có thuyết nói: Các thành tựu thiền, tất cả người ấy không bỏ dở thiền.

Hỏi: Vả lại, không bỏ dở thiền, họ không thành tựu thiền chăng? Nếu người không có cấu uế, sẽ sinh cõi Vô Sắc. Lại nữa, không bỏ dở thiền, không thành tựu thiền chăng?

Đáp: Các hữu dần dần vừa trong khoảnh khắc búng ngón tay, tư duy mắt vô thường.

Hỏi: Vả lại, thành tựu thiền, chẳng phải không bỏ dở thiền chăng?

Đáp: Trí tuệ, giải thoát của A-la-hán.

Hỏi: Hơn nữa, không bỏ dở thiền, cũng thành tựu thiền chăng?

Không thành tựu thiền, có bỏ dở thiền chăng?

Đáp: Trừ ngần ấy việc, tức là nghĩa ấy.

Hỏi: Vì sao Đức Thế Tôn ở Tứ thiền, khởi Niết-bàn ở Tứ thiền, mà không dùng Niết-bàn khác?

Đáp: Hoặc có thuyết nói: Vì xót thương chúng sanh đời sau, nên hiện soi sáng để chúng sanh sau này sẽ biết được Phật, Thế Tôn thường không lìa Tứ thiền, huống chi chúng ta có thể lìa thiền.

Hoặc có thuyết nói: Như lúc Đàn-ni bảo khách sắp chết, dùng châu ngọc, vật quý báu kỳ lạ, báu đẹp sau cuối để ban cho những kẻ nghèo cùng kia. Như thế, vì sự đẹp đẽ trong thiền của chúng Tứ thiền, thế nên để ở sau. Tuy nhiên, không phải Như lai, Thế Tôn có các thứ cấu uế, chấp mắc.

Hoặc có thuyết nói: Đàn-ni kia có sức tự tại, nhưng không có phương tiện tinh xảo, vì khi sắp chết, ông ta nhập đệ nhất thiền còn khó, huống chi đệ Tứ thiền. Lại nữa, các vị nhập tất cả cõi Phật, như điều mà vua Chuyển luân mong muốn, đạt đến. Phật, Thế Tôn cũng giống như thế, các pháp vương đều tự tại, đối với điều mong muốn đều được thỏa mãn. Do vậy, nên thực hành quán này.

Hỏi: Vì sao khi Phật, Thế Tôn nhập Niết-bàn, tất cả thiền giải thoát, nhập Tam-muội chánh thọ đều hiện ở trước?

Đáp: Hoặc có thuyết nói: Vì tự nuôi nấng thân.

Hoặc có thuyết nói: Vì thân thể yếu đuối, cần nuôi nấng để gân sức được khoẻ mạnh.

Hoặc có thuyết nói: Tất cả mọi người đều như sư tử, vì muốn báo đáp phước thí kia.

Hoặc có thuyết nói: Vì chúng sanh đời sau, nên hiện soi sáng.

Hoặc có thuyết nói: Hiện có tự tại, không có tự tại, lúc sắp chết, nhập đệ nhất thiền còn khó, huống chi là nhập tất cả thiền giải thoát, chánh thọ. Lại nữa, hiện pháp không cùng tận, vì hết thảy công đức của Như lai, Thế Tôn đều thành tựu. Do được tự tại các mong muốn, ấy là đến khổ, vui của Tam-muội thiền:

Thường lặng và tâm ý

Niệm hoan hỷ không bỏ

Bốn thiền ở sau cuối.

Như đã nói mười tám triền, quán niệm hơi thở để giữ ý, tham dục, giận dữ, ngủ nghỉ, đùa bỡn, nghi, thuộc về Vô tưởng. Không tư duy chỉ, không ngồi ngay tư duy, phương tiện mong cầu, ít có phương tiện, nhiều lời nói, hy vọng vô ích, niệm chấp mắc nhiều hành, tham của báu oán hận.

Hỏi: Từ những thứ này để khởi ý nhóm họp, ở đây có gì khác nhau?

Đáp: Nghĩa dục hữu, nói là tham dục, cơn giận dữ của tâm chúng sanh, gọi là giận dữ. Tâm có phiền muộn, gọi là ngủ (thùy). Ngủ say gọi là miên. Tâm chưa dừng gọi là đùa bỡn. Tâm không chuyên định, gọi là nghi. Tâm không rốt ráo, rong ruổi muôn mối cũng nghi. Quán hơi thở ra vào, không lìa ý, gồm nhiếp Vô tưởng. Tư duy nơi chốn, quán hơi thở giữ gìn ý, trong đó thực hành phương tiện, đếm hơi thở giữ ý, ít phương tiện không tư duy, không chuyên ý, tư duy phương tiện tăng thượng, đếm hơi thở giữ ý, ý thiếu phương tiện, không tạo ra phương tiện tăng thượng, tính đếm, nhiều lời nói, bị có giác, có quán, ét ngặt. Do phương tiện này, không ưa oán hận tăng thượng, hy vọng, tư tưởng muôn mối mối hỷ, ái, đếm hơi thở giữ ý, được ý xứ của người khác, phương tiện khởi ý có lệ thuộc. Hai tháng chuyên thực hành theo như kinh đã nói.

Hỏi: Thuyết minh những lời nói trên đây, nghĩa ấy thế nào? Vì sao trong hai tháng, Đức Thế Tôn chuyên thọ trì thành tựu kinh điển?

Đáp: Hoặc có thuyết nói: Đây không phải câu hỏi mà là oai nghi giáo hóa, dẫn dắt của Phật. Vì duyên đại từ, nên Ngài nói pháp này.

Hoặc có thuyết nói: Phải nói là vào lúc ấy, không có Phật sự, do các căn thuần thục, đều được Phật độ thoát, các căn không thuần thục thì được nghe pháp.

Hoặc có thuyết nói: Các Tỳ-kheo kia thường qua đến, thân cận chỗ Như lai. Lúc ấy, Đức Thế Tôn nhập định Tam-muội, đối với các căn cơ thuần thiện rất dễ hóa độ.

Hoặc có thuyết nói: Các Tỳ-kheo kia nghe pháp sâu mầu, thường đến lãnh thọ, không nhập chánh thọ. Chính vì thế, nên Đức Thế Tôn thường nhập định Tam-muội, nói: Nếu ta nhập định này, thì các Tỳkheo cũng nên nhập định này.

Hoặc có thuyết nói: Vì biết rõ chúng sanh sau này bị chìm đắm nên Ngài mới giảng pháp soi đường dẫn lối cho họ.

Hoặc có thuyết nói: Ước muốn tự tại trong hiện pháp, như đã nói: Quất-đa-la-ma-nạp.

Hoặc có thuyết nói: Đây là nghĩa của lời nói thiết yếu, khiến cho các Tỳ-kheo không có hành vi khác, Đức Thế Tôn giảng nói về phước nhập định, nhưng không tự nhập định.

Hoặc có thuyết nói: Nuôi lớn nhất thiết trí, như nhân duyên trồng cây, tùy thời tiết tưới để cây cùng nhau lớn mạnh.

Hoặc có thuyết nói: Có Phạm chí dị học nói rằng: Sa-môn Cùđàm không có thiền định, chỉ nói pháp thôi. Thế nên, Đức Thế Tôn nhập định, ngồi thiền như đã hóa độ chúng sanh tà kiến, mà nhiếp, lấy họ. Do vậy, Thế Tôn mới nhập định, ngồi thiền. Lại nữa, do hai nhân duyên, nên Đức Thế Tôn nhập định Tam-muội, tự đã thấy pháp mà du hóa trong đó. Hơn nữa, vì chúng sanh nên Ngài mới thể hiện rõ pháp quán Tam-muội để soi sáng. Do vậy, các Tỳ-kheo, bây giờ phải chuyên nhớ nghĩ hơi thở vào, chuyên niệm hơi thở ra được biểu hiện qua bốn ý chỉ quán hơi thở vào ngắn, tự biết hơi thở ngắn. Quán hơi thở vào dài, tự biết hơi thở dài. Nhập định không lâu sẽ biết hơi thở ra vào nhanh chóng. Như nhập Tam-muội định cũng có khả năng an trụ lâu dài, biết rõ tất cả các lỗ chân lông trên thân, điều này cũng đã nói như trên. Căn cứ vào hành động của thân, để quán chiếu hành tướng của thân dần dần rộng ra cho đến việc ẩn trú ở khoảng trung gian hơi thở ra vào. Nương vào hỷ của địa hoan hỷ ở cảnh giới Sơ thiền, hoặc quán chiếu cảnh giới Nhị thiền và nên thường xuyên quan sát cảnh giới ấy, cũng dựa vào sự an vui trong pháp quán của cảnh giới Sơ thiền. Đối với cảnh giới Nhị thiền hoặc Tam thiền cũng đều phải khởi quán địa ấy, tâm hành cũng phải quán tưởng thọ.

Hoặc có thuyết nói: Quán hành của tâm ý, rồi nương vào hành vi của tâm ý ấy nhằm chuyển dần ý tưởng trở nên càng lúc càng mỏng hơn. Đây gọi là nhờ tâm quan sát thức tâm khiến cho tâm được hoan hỷ. Đức Như lai không có tâm lo, mừng v.v… như ngay khi giải thoát. Sở dĩ tâm Bồ-tát thường hoan hỷ, hoặc Tam-muội, hoặc giải thoát. khởi ngần ấy tướng, quán tưởng vô thường, quán hơi thở ra vào, thường quán diệt tận thì trừ kiết sử ái, dứt hẳn không còn sót, quán không có dục, quán ái hết, quán các sử hết. Lại có thuyết nói: Quán vô thường tức quán thân vô thường, quán tận tức quán vô minh tận, quán không có dục tức quán có ái hết, quán tận tức quán sự diệt tận về quả vị Niết-bàn hữu dư và vô dư.

Lại có thuyết nói: Quán vô thường tức quán năm ấm vô thường. Quán năm ấm là không, vô ngã, quán không có dục, quán không có ấm khổ, quán tận, quán pháp năm ấm vô sinh. Lại dùng vô dục mầu nhiệm để nhập đệ Tứ thiền. Ở cõi kia, có vị trời nói: Than ôi! Thảm thương thay! Mạng Như lai đã qua, không có hơi thở ra vào, mặc dù các căn chưa lầm lẫn, nhưng không bao lâu sẽ qua đời!

Bấy giờ, tướng cảnh giới của các Hiền Thánh hiện ra, các vị hiền nương vào đây mà chứng đắc cảnh giới thần thông, cảnh giới Tịnh Thiên, trú xứ của Tịnh Thiên, cảnh giới Phạm thiên, cảnh giới Phật. Hành nguyện của Phật lúc này không cách xa mà trở lại. A-la-hán luôn ở trong pháp lạc hiện tại thuộc Tứ thiền của cõi Hiền Thánh. Lại nữa, chuyên niệm hơi thở vào, có tưởng hơi thở vào, quán hơi thở ra, co tưởng của hơi thở ra, không lìa phương tiện, có hơi thở ra vào sự cấu uế như thế được dứt trừ, tư duy niệm tưởng hơi thở ra vào, có giác, có quán mỏng dần, sự dừng nghỉ rộng lớn, Hiền Thánh kia lại nghĩ rằng: Thân, ý hệ thuộc nối nhau, tự biết hơi thở ngắn, ấy là tự biết, không xả bỏ bản tướng. Đối với cõi hữu dư, Đức Thế Tôn tư duy khiến cho tư duy dần dần dứt, nhưng không có niệm biết tâm ngơi nghỉ. Thân tâm này không có khái niệm nhớ nghĩ ấy mà chỉ có sự chuyển biến. Toàn bộ thân tâm đều an trú, không có mong muốn hơi thở dài, quán hơi thở ra dài. Quán hơi thở ra dài, cũng biết hơi thở không lìa bản tướng. Ở trong đó, hơi thở ra vào của Đức Thế Tôn, cũng như tất cả thân thể đều được quán hơi thở ra vào, không lìa bản tướng. Lại nữa, Đức Thế Tôn chuyển sang tu hành gấp bội, được tâm dừng nghỉ, hơi thở ra vào mong manh, đều quán hơi thở đó không lìa bổn tướng. Đây là nói bốn thứ tư duy hơi thở ra vào của Đức Thế Tôn, là khí vị tự nhiên của vô lượng nhân duyên của việc kia. Lại nữa, Đức Thế Tôn tạo ra hình tượng, tâm Ngài không dời động, tâm như kim cương, quay lại hoan hỷ, nhan sắc hòa vui đều quán hơi thở không lìa bổn tướng. Lại nữa, Đức Thế Tôn thật sinh thân, tâm, đều quán hơi thở, không rời bản tướng.

Lại nữa, Đức Thế Tôn quán sự vui mừng của người kia, không có mạng, không có tưởng mạng, tâm hành được giải thoát đều quán hơi thở ra vào không lìa bổn tướng. Lại nữa, thú vui hoan hỷ kia của Đức Thế Tôn có tưởng rộng lớn tâm được giải thoát. Tâm ấy của Phật đã dừng nghỉ hành mỏng dừng nghỉ dần, đều quán hơi thở ra vào không lìa bản tướng nên nói là bốn thứ thọ của Như lai tư duy thọ kia phân biệt giải thoát vô lượng nhân duyên đã do dứt trừ tự tướng của bốn thọ ấy.

Lại nữa, người được tiếp nhận hóa độ kia của Đức Thế Tôn không có mạng, có mạng, tâm tưởng được giải thoát, hết thảy đều quán hơi thở ra vào không lìa bản tướng. Tâm Như lai kia được hoan hỷ, tư duy gấp bội sự hoan hỷ, rất hoan hy kia đều do quán hơi thở ra vào không lìa bản tướng, tâm Như lai kia duyên định Tam-muội, phương tiện giải thoát như thật không khác đều do quán hơi thở ra vào không rời bổn tướng nên nói là bốn thứ tâm tư duy của Như lai, phân biệt vô lượng nhân duyên của giải thoát lý do là bỏ đi tự tướng của bốn tâm đó.

Lại nữa, tâm giải thoát rộng lớn của Đức Thế Tôn, như thật quán tâm đó không khác, do tạo ra sức siêng năng khó nhọc nên lúc ấy lần lượt quán hơi thở ra vào nói là quán an ban giữ ý cũng quán duyên của hơi thở ra vào kia.

Quán sự ràng buộc theo trình tự quán báo của tội hành quán khắp tất cả hành của tâm sở, lần lượt quán hơi thở ra vào nói là quán niệm hơi thở để giữ ý và báo hành của tội phước bị ràng buộc theo trình tự.

Đức Phật kia như pháp này giải thoát tâm vô thường đều quán hơi thở ra vào không lìa bổn tướng.

Đức Phật kia với ý trụ các pháp của mười việc như thế, các thạnh ấm của pháp tưởng, đều trừ bỏ khiến tư duy dừng nghỉ ngơi, và đều quán hơi thở ra vào không lìa bản tướng.

Tưởng vô thường không có tướng: Ái dứt hẳn, không có dục, tư duy sự dừng nghỉ, đều quán hơi thở ra vào không lìa bản tướng.

Tâm Phật kia đã tạo ra sự hàng phục tu hành, tạo ra tưởng dứt ngã, tư duy sự dừng nghỉ, đều quán hơi thở ra vào, không lìa bản tướng nên nói là bốn thứ pháp tư duy của Như lai, phân biệt giải thoát vô lượng nhân duyên, cho nên bỏ đi tự tướng của bốn pháp tư duy kia.

Mười sáu việc như thế: Do trải qua sự quán niệm hơi thở để giữ ý với cảnh giới rộng lớn, Đức Thế Tôn tư duy chưa hề lìa cảnh giới ấy. Cảnh giới ấy tức là có tướng với tương ưng chung, cũng tương ưng với hành. Do hạnh mầu nhiệm nên khởi đệ Tứ thiền, cho đến Tam-muội diệt tận.

Đức Phật kia có một vô quán, ở đây không có hơi thở ra vào, cũng không lay động, cũng không có đối tượng nhận biết, cũng không có bổn tâm. Than ôi, thảm thương thay! Mạng của Sa-môn Cù-đàm đã đi qua, có vị trời thứ hai, quán nhan sắc của thân Như lai chưa thay đổi, bèn nói lời này: Ở đây chưa mạng quá, nay mạng quá, cũng sẽ không bao lâu. Có vị trời thứ ba đã từng quán Đức Thế Tôn và đệ tử lúc nhập Tammuội chánh thọ, cũng thấy xuất định, bèn nói lời này: Đức Phật này không qua đời, cũng sẽ không qua đời, đã vào đường tạo ra hình tượng như thế, sẽ thành A-la-hán.

Hỏi: Thế nào là nay Đức Thế Tôn biết xuất định, vốn đã xoay lại?

Đáp: Lúc nghe thanh tịnh, các căn thanh tịnh, cho nên nhân duyên lớn kia với ý thức thanh tịnh này sinh, từ nhân duyên kia khởi. Lại, nói rằng: Tự nhận biết niệm vô số, tu trí tự tại, nói là cảnh giới Hiền Thánh, thanh tịnh thiên của Hiền Thánh vô cấu, thần thông không rối loạn, cho đến đối tượng giác của Phạm thiên, học dứt kiết của A-la-hán vô học. Các Tỳ-kheo của Như lai không theo kịp, theo kịp thật quả Vô học, Thiện giảng đường ở trong hiện pháp, được pháp không có nghi ngờ.

Như Tôn giả Xá-lợi-phất nói: Khéo ưa nghỉ ngơi, nói là Niết-bàn.

Tôn giả Ma-ha Câu-hy-la-hỏi Tôn giả-Xá-lợi-phất: Người kia lạc không có thọ là sao?

Nói rộng như Khế kinh Vì người kia không có thọ nên nói là vui, khi nói lời nói này, nghĩa ấy thế nào?

Hoặc có thuyết nói: Tôn giả Câu-hy-la thọ lạc vì người kia nói, nhưng thọ lạc không rốt ráo.

Tôn giả Xá-lợi-phất nói: Dừng nghỉ vui, cho đến vui rốt ráo có thường lạc.

Hoặc có thuyết nói: Quán lạc thọ, Tôn giả kia có một ít lạc thọ có một ít khổ, vui không có quán niềm vui là Niết-bàn, nên nói: Sở dĩ vui là vì người kia không có thọ.

Hoặc có thuyết nói: Lạc thọ bị khổ ràng buộc, dừng nghỉ vui, nghĩa là vì không tương ưng với khổ, nên nói là người kia vui.

Hoặc có thuyết nói: Lạc thọ không có lạc nhất định thật, vui dừng nghỉ có lạc nhất định thật, nên nói vui kia.

Lại nữa, như xoay lại tánh hạnh được người kia khi nhập Sơ thiền tương ưng với cõi Dục tức là có tăng nếu người kia ràng buộc với dục kiến tư duy tưởng hành giận dữ là lừng lẫy, như chúng sanh vui tất nhiên phải chịu khổ, cho nên ngoài sinh tử cấu uế chỉ có thú vui Niết-bàn. Đây nói là Tôn giả nói nghĩa này nên nói là vì không có thọ nên vui.

Lại nữa, Đức Thế Tôn nói: Ông có tra-bà-la sắc, bốn vị trời tự nói: Là ngã sở thì sẽ trụ lâu. Nếu lại sinh tưởng khác tất nhiên cũng sẽ có diệt tận.

Khi nói lời này, nghĩa này thế nào?

Hỏi: Thế Tôn đã cho phép ông là học nhân Bố-tra-phi-la, tưởng kia khởi liền diệt, muốn cho dời chuyển.

Hỏi: Thế nào? Sa-môn Cù-đàm! Ngã tức là tưởng chăng? Vả lại tưởng có đối tượng nhìn thấy chăng? Dù cho sẽ thấy là tưởng của ta ấy là biết ngần ấy thứ tưởng, (như trên đã nói) ấy là biết tưởng không phải loại. Khi ấy Đức Thế Tôn chất vấn ngược lại nghĩa kia: Người Bố-trabà-la của ông có ngã? Người Bố-tra nói: Thật vậy, thưa Cù-đàm! Bốn vị người có sắc, có ngã. Lúc đó Đức Thế Tôn muốn sinh ra lời nói của người kia: Bố-tra-bà-la của ông nói: Sự tốt đẹp của sắc và thân của bốn vị trời, người có trụ ngã, là ngã sở. Nếu sinh ra tưởng khác thì tưởng sinh bèn diệt khiến chí tánh hạnh của Như lai không thể dời động.

Lại, Đức Thế Tôn nói: Đúng thế A-nan! Tam-muội tưởng nghĩa là sự răn dạy thành tựu, lại sinh, lên cõi trời hữu tưởng, Vô tưởng, nếu Tỳ-kheo nhập thiền kia phân biệt từng thứ một.

Khi nói lời nói này, nghĩa ấy thế nào?

Đáp: Hoặc có thuyết nói: Bảy Tam-muội này chí như kim cương, mọi việc đều đầy đủ, cho nên lời răn dạy thành tựu. Tam-muội Vô tưởng và Tam-muội Hữu tưởng, Tam-muội Vô tưởng, Tam muội diệt tận, tâm không tương ưng với sự dừng nghỉ không khởi, thế nên không có sự răn dạy thành tựu.

Hoặc có thuyết nói: Bảy Tam-muội này vừa hữu lậu vừa vô lậu.

Do sự răn dạy của đạo vô lậu được thành tựu cho nên lời dạy răn của Hiền Thánh kia cũng thành xong Tam-muội Vô tưởng và Tam-muội hữu tưởng Vô tưởng, Tam-muội Diệt tận đều hữu lậu không phải do đạo hữu lậu được thành tựu lời răn dạy. Thế nên không có lời răn dạy thành tựu.

Hoặc có thuyết nói: Tưởng vô thường, tưởng khổ, tưởng vô ngã, tưởng diệt tận thôi nghỉ tưởng xuất ly của đạo, ấy là sự răn dạy thành tựu Tam-muội Vô tưởng, và Tam-muội hữu tưởng, Tam-muội Vô tưởng của bước dạo đi tưởng, cho nên không có lời răn dạy thành tựu kia.

Lại nữa, sự soi sáng của trí tuệ tương ưng với thân trong thân đẳng quán. Tam-muội Vô tưởng kia là tương ưng hành của Tam-muội Diệt tận, do được dừng nghỉ, cũng người tu thiền xuất thiền có thể có nói năng. Nếu thân cận trụ nhập trong thiền thì vào lúc khác không thể có nói năng Hữu tưởng Vô tưởng là Thế Tôn cố ý nói ở đây thôi. Lại nữa, Đức Thế Tôn nói: Năm pháp thành tựu, phải ở chốn thanh nhàn trên đỉnh núi, trong tòng lâm, xiêm y thô xấu không cho là xấu, không lựa chọn thức uống ăn, giường nằm, đau bệnh, thuốc thang điều trị, thường khởi tưởng trừ khởi dục, quán sắc, pháp như thế, thành tựu các nghĩa, thường ở chốn nhàn nhã, trên đỉnh núi, tòng lâm.

Hỏi: Khi nói lên những lời này, với ý nghĩa như thế nào?

Đáp: Hoặc có thuyết nói: Cũng như có người nặng về ý dâm, vì dục ái chưa hết, nên có các bệnh này.

Hoặc có thuyết nói: Chỉ là lời khuyên bảo của Đức Thế Tôn, huống chi thành tựu năm pháp?

Không ưa ở chốn thanh nhàn, mà thường đi dọc bên kinh thành. Mặc dù ở chốn nhàn cư, nhưng cũng có đôi lúc thôi.

Lại nữa, như pháp ở trong núi, chằm, không chịu tu hành thì không thể đến ở chỗ thanh nhàn, chỗ vắng lặng dưới cội cây.

Không tu tưởng biến dịch, cho nên người kia không thể ở chốn thanh nhàn, như đỉnh núi, rừng rậm.

Tự chấp ngã, người ấy ở chốn thanh nhàn. Lại còn có ý nghĩ này: Tự chấp ngã, thường ở trong nhân gian.

Lại nữa, Đức Thế Tôn nói: Đối vơi Tỳ-kheo kia, trong khởi tưởng không có sắc, ngoài quán sắc, cho đến quán sắc trắng có tưởng về màu trắng, như Khế kinh nói: Vì sao sắc của hình tượng trắng, sắc ấy có xanh tươi, rất tốt đẹp trong các hạnh.

Hoặc có thuyết nói: Đây là sắc trên, cho nên duyên sắc kia là trên.

Hoặc có thuyết nói: Duyên tư duy màu trắng, sinh tâm màu trắng.

Lại nữa, cũng thiên nhãn và các hạnh, cho nên màu trắng là trên hết.

Lại nữa, Đức Thế Tôn nói: Có ba thư vui này:

  1. Vui không có tranh cãi, hiện thực.
  2. Vui ở một mình.
  3. Niềm vui của người không có dục.

Thế nào là vui không có tranh chấp kiện thưa? Thế nào là niềm vui ở một mình? Niềm vui của người không có dục là sao?

Hoặc có thuyết nói: Giới không có sự tranh chấp, thưa kiện, nên thường xuyên học giới cấm. Niềm vui không có dục đối với nguời: tư duy định Tam-muội, người ở chốn thanh nhàn, hàng phục tâm mình, vui chơi chốn thanh nhàn, trí không có rối loạn. Thế nên, phải học hỏi trí tuệ, niềm vui không có sự tranh chấp kiện tụng. Nên học trí tuệ, sẽ được thú vui thân, ý, không có sự phẫn nộ

Hoặc có thuyết nói: Tất cả sự sinh tử là khổ, không có sinh tử là vui. Giới cấm kia, đều là thú vui không có tranh tụng, các sự lẫn lộn, được dứt hết hẳn, vui ở một mình, không có giới cấm, đều là thú vui ở chốn thanh nhàn. Lại nữa, giới cấm thanh tịnh, bỏ đi ý khổ hạnh, lạc thọ của hạnh không có lỗi, ấy là sinh niệm cùng tương ưng.

Niềm vui của người không có dục. Người nghĩ đến giới cấm, thân sẽ có vui mừng. Đối với giới cấm này, ý thường tu hành, sinh ra các lạc thọ. Tương ưng với niệm, nghĩa là vui ở chốn thanh nhàn, như Tôn giả. Xá-lợi-phất nói: Các vị Hiền, mỗi nữa tháng thuyết giới, không khởi pháp tác chứng hiện ở trước, không khởi pháp quán, thế nào là phải?

Hoặc có thuyết nói: Đạo có thể sử dụng, được quả Tu-đà-hoàn, thường gần gũi đạo kia, cứ thuyết giới ở mỗi nữa tháng sẽ thành quả vị A-la-hán.

Hoặc có thuyết nói: Các bậc Hiền Thánh kia, thuyết giới mỗi nữa tháng để tu trí vô thường, khổ đế chưa sinh, bèn thấy tập đế, trung gian tập đế, bèn thấy tận đế, trong tận đế, bèn thấy đạo đế.

Hoặc có thuyết nói: Mỗi nửa tháng thuyết giới, khi nói pháp cho Phạm Chí Trường Trảo nghe liền tư duy mười hai việc, gặp các thứ tướng, phân biệt vô số, bèn không khởi pháp quán.

Niệm thân vui, tham đắm

Sắc kém cho đến tưởng

Ở nhàn, phân biệt hành

Ba lạc và chỉ quán.

********

Thứ 4: KIỀN ĐỘ THIÊN (Phần đầu)

Lại nữa, Đức Thế Tôn nói: Tỳ-kheo các thầy! Như người ở cõi trời Ba-mươi Ba, vui sướng thay, vãng sanh về đường lành.

Hoặc có thuyết nói: Tạo hạnh nghiệp ở trong đây, khiến người, trời được sinh.

Hoặc có thuyết nói: Chư Phật ra đời ở đây. Lại nói thế này: Vì Phật nói pháp ở trong đây, nên trong đây được tin, tu phạm hạnh ở trong đây, nên thọ cụ túc ở trong đây. Vì ở trong đây, đồng vượt trình tự thủ chứng, nên sẽ được quả A-la-hán ở trong cõi trời này. Lại nữa, trong tất cả các đường chỉ có trời, người. Như xứ thiện của trời, người kia, như thế, xứ thiện của người trời. Vì sao một hình tượng của thân trời Quang âm mà có ngần ấy tưởng?

Hoặc có thuyết nói: Do do tất cả người trời kia đã có được quả báo thiền, thế nên có ngần ấy tưởng. Vì tất cả trời kia đều có tưởng vui, tưởng khổ, nên nói là ngần ấy tưởng.

Hỏi: Trời Phạm-già-di, trời Quang âm đều được quả báo thiền. Tất cả trời kia đều có tưởng vui, tưởng khổ, muốn cho một thân, một hình kia có ngần ấy tưởng chăng? Lại nữa, Tam-muội có giác, có quán, tâm ấy là lừng lẫy, là được nhân duyên. Tâm này tính toán nhập đệ Nhị thiền có giác, có quán, dừng nghỉ. Nếu nhan sắc của trời Quang âm sáng rỡ thì các trời kia đều đồng một hình, nói niệm: Sinh cao, thấp. Thế nên, trời kia có ngần ấy tưởng.

Vì sao thiên nhãn cõi Sắc thấy sắc, tai nghe tiếng, nhưng mũi không ngửi mùi hương, lưỡi không nếm biết vị chăng?

Đáp: Hoặc có thuyết nói: Vì cõi trời kia không có nơi chốn hương, vị.

Hỏi: Trong cõi Sắc có hương vị chăng?

Đáp: Các căn được cảnh giới, vì sao lìa hương vị.

Hỏi: Đức Như lai không lìa cõi Dục, thì biết chăng?

Đáp: Căn Phật kia không lầm lẫn, hương vị cõi Dục thì lầm lẫn, Đức Phật ấy do công hạnh, nên đến.

Trong cõi Dục không có sự lẫn lộn, ràng buộc là sao?

Hỏi: Hoặc do chấp mắc do hương, vị ràng buộc của cõi Dục, mà dùng phương tiện mong cầu diệt. Nếu người chưa từng trải, mà muốn cho có quả báo duyên, thì việc này không đúng. Nếu khiến cho khổ lại thêm khổ, thì sắc, thanh cũng nên như thế, cho nên sắc thanh không thật có.

Đáp: Mắt không phải cảnh giới, tai, nghĩa là sắc, thanh không ràng buộc vướng mắc.

Hỏi: Sắc thanh dù ở xa, cũng vẫn ràng buộc, vướng mắc, như mặt trời, mặt trăng ở cách xa, vẫn chiếu sáng từ xa vào mắt ta. Nếu đánh trống to, mà tai nghe thấy, nếu được sắc, thanh, hương, vị, xúc, thì thân cũng nên ràng buộc, vướng mắc. Thế nên, sự an vui của thân không ràng buộc, vướng mắc.

Hoặc có thuyết nói: Trời kia không có khổ căn, tỷ căn sẽ có sự lộn xộn, cũng các căn thành tựu. Thế nên thành tựu tất cả các căn.

Đáp: Người kia đã hỏi, cho nên căn kia thành tựu.

Hỏi: Tất cả các cái có kia, tức là các căn thành tựu chăng? Người sinh ra đã mất mắt, căn cũng nên đầy đủ.

Đáp rằng: Việc người sinh ra đã mất mắt, cũng không đồng với tướng của sinh kia, vì căn không có đủ?

Trong cõi Vô Sắc, căn không đầy đủ, căn này không phải tốt đẹp, thế nên không có phải chăng?

Đáp: Hoặc có thuyết nói: Trời kia không có tỷ thức, thiệt thức.

Hỏi: Tương ưng với trời Quang âm không có năm thức thân vì trời kia khiến cho trời Quang âm nọ không thấy, không nghe?

Đáp: Vì tương ưng của niệm trên cõi Phạm thiên, sinh ra nhãn thức, nên nhĩ thức vừa thấy vừa nghe.

Hỏi: Vì sao không tương ưng với cõi Dục, mà sinh ra tỷ thức, thiệt thức biết có hương vị?

Đáp: Vì trời kia không nhân hương vị, nên không sinh thức. Họ cũng dùng sắc, thanh, nên sinh nhãn thức, nhĩ thức.

Hoặc có thuyết nói: Căn của trời kia chậm lụt, cảnh giới của họ chậm lụt, cho nên không xoay lại.

Hỏi: Mắt, tai không xoay lại phải chăng?

Đáp: Mắt, tai nhanh chóng, không chấp giữ cảnh giới, cũng có thể khởi thần thông. Lại nữa, cũng nghe hương vị, biết một ít không sáng suốt. Nếu vị trời kia vốn không có được hương, vị, cho nên căn của trời kia thành tựu, được cảnh giới tự tại, và được căn, cảnh giới, liền sinh căn cấu uế, như cõi Sắc vị lại đến cõi Dục, mắt thấy sắc, tai nghe tiếng. Vậy nhãn thức, nhĩ thức của vị trời kia, nên nói tương ưng với cõi Dục được chăng? Hay nên nói là tương ưng với cõi Sắc?

Hoặc có thuyết nói: Nên nói tương ưng với cõi Dục, cũng nên nói tương ưng với cõi Sắc. Vì hóa thành thân cõi Dục này, rồi đến cõi Sắc kia, nên nói là tương ưng với cõi Dục. Lại làm thân cõi Dục, nghĩa là trời kia, nên nói là tương ưng với Phạm thiên. Theo trình tự, các tương ưng với tự nhiên của trời kia, nên nói là sự tương ưng với trời kia. Vị trời kia bèn nghĩ rằng: Như năm thức thân hữu giác, hữu quán thế nào? Tam-muội tương ưng với trời Quang Âm kia cũng có giác, nhưng chẳng phải tâm Tam-muội, cho đến hữu tưởng, Vô tưởng.

Hỏi: Vì sao trời cõi sắc có tỷ căn, thiệt căn, nhưng không có nam căn, nữ căn?

Đáp: Hoặc có thuyết nói: Trời kia nói không có tác dụng của nam, nữ.

Hỏi: Tỷ căn, thiệt căn, trời kia cũng nên không có tác dụng?

Đáp: Hoặc có thuyết nói: Trời kia không tập dục.

Hỏi: Không đối với hương, vị là không có dục chăng? Tỷ căn, thiệt căn cũng không có dục chăng?

Đáp: Hoặc có thuyết nói: Nam căn, nữ căn cũng không có dục.

Hoặc có thuyết nói: Chỗ sinh nhập của trời kia tự như vậy. Lại nữa, đã dứt trừ tưởng dục, hành vi của trời kia không dừng. Trời kia có nam căn, nữ căn, họ nghĩ rằng: Vì sao trong đây có người không thàmh nam? A-la-hán cũng có căn này, cũng giống như thế. Trong cõi Dục, không có nữ căn, không thành nam ở trong thai xấu ác, muốn cho biết lạc thú của ái dục, nhận thức của A-la-hán vốn đã trải qua đến chết, không khởi tâm.

Hỏi: Vì sao trời cõi Sắc khởi hành sống lâu, nói là trụ chăng?

Đáp: Hoặc có thuyết nói: Vắng lặng không có tán loạn.

Hỏi: Nhập Tam-muội thiền cõi Dục, có phải muốn cho mỗi trời kia đều không có hành sống lâu chăng?

Đáp: Hoặc có thuyết nói: Ý tự nhiên của trời kia như vậy, việc này cũng đã nói như trên, nghĩa là trời kia cũng đều sống lâu.

Đức Thế Tôn cũng nói: Tuổi thọ của thiên tử Xà-ba-na là tuổi thọ rất nhanh chóng, không thường trụ, không có nơi chốn. Laị nữa, không có mạng sống lâu, sinh tử có trụ, nghĩa là sự sinh tự nhiên ràng buộc vướng mắc tương ưng với trời kia.

Hoặc có thuyết nói: Có các kẻ thù, thì trời kia sẽ có ý hại.

Lại, Đức Thế Tôn nói: Tỳ-kheo! Ba xứ vượt hơn của người cõi Diêm-phù-lợi là người Uất-đơn-việt.

Hỏi: Những người mạnh mẽ trong xứ này cũng tu phạm hạnh trụ, nghĩa ấy thế nào?

Đáp: Ở chỗ này vượt hơn chỗ kia, người mạnh mẽ, cũng không sợ chết. Tất cả phương tiện sinh tử, cầu trời không có cảnh giới vướng mắc.

Có chí vượt hơn, nhớ lại khi xưa vốn đã nói, tạo ra thi tụng, trời không có cảnh giới ràng buộc vượt hơn. Tu phạm hạnh ở trong đây, mà không xa lìa xuất gia ở đây, tu tập hành đạo ở trong đây, nhưng trời không có cảnh giới vượt hơn. Vì sao? Vì các thiên tử chết mất, ấy là làm hư hoại nỗi lo sầu.

Hoặc có thuyết nói: Ái thân chưa dứt hết.

Hỏi: Ái thân trong cõi Sắc chưa hết, trời kia khi vị trời khác chết có sinh lo buồn chăng?

Đáp: Không do có căn tương ưng cõi Sắc.

Hỏi: Như hiện nay, ái chưa hết, sinh trong cõi Dục. Lại nữa, cảnh giới tịnh của trời kia, chấp mắc rất sâu, trời kia không tương ưng, bèn sinh lo sầu. Các người có mạng, quán hành, sức ngu si của thân sáu ái. Vì sao về khi trời kia đã qua đời, không sinh lo sầu, dựa vào sự vượt hơn của trời kia?

Đáp: Cũng tạo ra thuyết này: Trong cõi Dục có lo sầu.

Hỏi: Làm sao thiên tử biết được pháp chết mất?

Đáp: Hoặc có thuyết nói: Cũng tự biết ta đã sinh lâu, tuổi thọ của ta đã hết không lâu.

Hỏi: Trời kia tuổi thọ không nhất định, lại vốn có tưởng tương ưng, trời kia liền biết, cũng nên hỏi: Làm sao thiên tử biết mất ở chỗ này, sẽ sinh ở chỗ kia?

Đáp: Hoặc có thuyết nói: Thọ nhận hành báo ở đường kia, muốn cho đời trước từng trải, sẽ có quả báo. Trong khi quả báo chưa thành thục, thì trời kia tự nhớ biết ta sẽ sinh ở cõi kia.

Hoặc có thuyết nói: Lúc trời kia chết mất là sự tương ưng hành của trời đó. Do hành này nên pháp này sẽ sinh vào xứ kia.

Lại nữa, chỉ nghe nói trong khoảnh khắc, thì đâu thể phân biệt biết nhân duyên của sự sinh? Tự biết nơi hướng về? Làm sao thiên tử biết được chết ở cõi kia liền sinh về cõi này?

Hoặc có thuyết nói: Sự sinh của trời kia là tự nhiên.

Hoặc có thuyết nói: Nhớ hóa sinh của trời kia. Lại nữa, trời kia không phải tất cả đều nhớ các người căn không nhanh chóng. Trời kia không nhớ người căn nhanh chóng là nhớ như thuyết đã nói: Hóa Thiên tử kia nói khiến cho nhớ, cho đến ý của Khế kinh:

Đường lành mỗi mỗi quán

Chốn này không có căn

Sinh lo, không lệ thuộc

Tự biết mất trong ấy.

Hỏi: Pháp chết mất của thiên tử kia chính là năm tướng. Nghĩa này thế nào?

Đáp: Hoặc có thuyết nói: Báo thiện, bất thiện của duyên vốn đã tạo, hành của báo thiện, được phước tự nhiên của thiên nhãn. Báo bất thiện thì sinh năm tướng.

Hoặc có thuyết nói: Nhân duyên lo sầu, thì chính là duyên của trời kia. Nếu đã sinh lo sầu, thì trời kia có sinh. Thế nên, trung gian lo sầu, nên nói nhân duyên lo sầu.

Hoặc có thuyết nói: Tự dựa vào nhân duyên sẽ sinh nhân duyên báo của hành kia. Nhân duyên lo sầu, như nhân duyên thuần thục, tự dựa vào nhân duyên, thì sẽ có báo của hành làm hư hoại, duyên tâm vô thường.

Hỏi: Sự chết của thiện tử khi sinh năm tướng, phải nói là cùng sinh hay nói sinh dần?

Đáp: Hoặc có thuyết nói: Nên nói cùng sinh, vì tất cả trời kia đều duyên lo sầu sinh, nên sự lo sầu sinh thì năm tướng này khởi.

Hoặc có thuyết nói: Nên nói sinh dần, vì đã sinh sự lo sầu, ấy là thuận với sự nóng bức, khiến cho hoa trang sức của trời kia héo khô, ôm lòng lo sầu gấp bội, sắc đẹp đổi thay tiều tuỵ, bèn tự kinh ngạc, khiến cho mồ hôi của thân trời chảy đầm đìa. Khi mồ hôi chảy ra làm dơ bẩn xiêm y, tự thấy xiêm y bẩn, bèn không ưa chỗ ngồi cũ. Lại nữa, nên nói sinh dần, như ngó sen, khi sắp chín, lá rụng từ từ. Như thế, khi quả hành của trời kia đã thành thục, thì tướng mạo này sẽ sinh dần.

Vì sao? Vì Nhật Thiên tử trụ một kiếp?

Hoặc có thuyết nói hạnh quả của chúng sanh khiến cho mặt trời trụ hành tăng trượng, thì có quả báo này.

Hỏi: Hành của chúng sanh không trải qua kiếp chăng?

Đáp: Hoặc có thuyết nói khi trời đất hư hoại hành báo liền diệt.

Hỏi: Trước tạo hành, sau thọ báo, người ấy không có sức mạnh. Lại nữa, có nghe việc này chẳng trải qua kiếp số, vì sao mặt trăng trụ một kiếp?

Đáp: Như mặt trời không có khác. Vì sao? Vì Phạm thiên nói trụ một kiếp? Hoặc có thuyết nói: Trời đất hư hoại thì có sinh ra, trời đất không hư hoại thì dứt.

Hỏi: Đây chẳng phải số kiếp?

Đáp: Hoặc có thuyết nói bốn kiếp trong hai mươi trung kiếp, hai mươi trung kiếp trong kiếp Đại kiết Trụ, đó gọi là kiếp.

Hỏi: Khế kinh thì có trái như đã nói, trời đất thay đổi, cung điện của Phạm thiên bèn sanh trong đó. Nếu trời đất không thay đổi, thì sanh lên cõi trời Quang âm. Lại nữa, ở đây từng nghe không có chỗ sanh lên cõi trời Quang Âm. Lại nữa, ở đây từng nghe không có chỗ sanh, thọ trụ một kiếp. Lại, Đức Thế Tôn nói: Bấy giờ, Tỳ-kheo có địa ngục Lục Cánh Lạc, thế nào là địa ngục Cánh Lạc? Hoặc có thuyết nói A-tỳ gọi là địa ngục Lạc Cánh Lạc, ở chỗ ấy có rất nhiều. Lại nữa, tất cả địa ngục đều là Lục Cánh lạc, đối với rất nhiều khổ độc kia sanh lo buồn.

Lại Đức Thế Tôn nói: Bấy giờ, Tỳ-kheo có trời Lục.

Hoặc có thuyết nói: Là lời khuyên bảo của Như lai, qua đó nhận thức một cách nhanh chóng, như các đường ác, quả thật, hữu tưởng, Vô tưởng.

Hỏi: Ở đây, cũng không sinh, cũng nói hai nhập xứ: Trời Tịnh cư nhanh chóng, Thức xứ cũng không.

Đáp: Hoặc có thuyết nói: Tướng sáu thức xứ của các hữu, trời kia là thức xứ trụ. Đường ác, trời hữu tưởng, Vô tưởng, không có sự đoạn diệt, không có thức. Trời Tịnh cư kiến đế mà đoạn không có thức, chúng sanh Vô tưởng đều không có thức. Thế nên, thức kia không có trụ xứ.

Hỏi: Trời kia không sinh, sao trời A-na-tỳ (trời Tịnh cư) Phất Lâu, trời Quả Thật, là có thức xứ, có nhận thức nhanh chóng, cũng không là thức tương ưng với xứ kia? Lại nữa, sở lạc xứ, thức trụ xứ, không ưa nhiều khổ não của đường ác, trời Quả Thật, hoặc tương ưng với học khác diệt hữu, hoặc cầu khi Vô tưởng thùy miên trụ, hoặc chúng sanh Vô tưởng. Thế nên, vị trời kia không ưa xứ sở, lai sinh thêm trời hữu tưởng, Vô tưởng. Lại nữa, tâm trời được dừng nghỉ, trời kia ít được vui, cho nên không được nói thức kia thâu nhiếp xứ. Vì sao? Vì không có chúng sanh cư trú, nghĩa là đường ác, nhưng đường trời Quả Thật vì sao thâu nhiếp?

Đáp: Hoặc có thuyết nói: Là lời răn dạy của Như lai. Nói con người, tức là nói đến tàn dư của đường ác, nói cõi Sắc, chính là nói trời Quả Thật.

Hoặc có thuyết nói: Đây là lời răn dạy của Như lai về nơi cư trú của chúng sanh này, có nhiều chúng sanh vui chơi trong đó. Lại nữa, đường ác khổ nhiều không vui. Trong đó có cõi trời Quả Thật, hoặc gồm nhiếp nơi trụ, hoặc không gồm nhiếp nơi trụ.

Hỏi: Vì sao chúng sanh Vô tưởng tự sinh mạng sống lâu, đi, đứng, nhưng Tỳ-kheo lại không nhập Tam-muội hữu tưởng?

Đáp: Hoặc có thuyết nói: Vì chí Tỳ-kheo kia vắng lặng.

Hỏi: Đối với Tỳ-kheo này nhập Tam-muội hữu tưởng, với ý chí vắng lặng, có phải muốn Tỳ-kheo kia đều không có hành sống lâu, hay chăng?

Đáp: Hoặc có thuyết nói: Tỳ-kheo kia không có bại hoại, không có dao, lửa, độc hại.

Hoặc có thuyết nói: Với tâm, ý của Tỳ-kheo kia thì có xoay lại, cũng không chết.

Hoặc có thuyết nói: Tỳ-kheo kia thường nhập Tam-muội. Việc này cũng như trên đã nói.

Hoặc có thuyết nói: Tỳ-kheo kia cũng có hành sống lâu. Đức Thế Tôn cũng nói: Như Khế kinh đã nói trụ vững chắc. Lại nữa, hoặc có hành sống lâu, tự nói sinh, hoặc đều tương ưng với sinh, nhưng trong đây thường có kẻ thù, Tỳ-kheo này không rốt ráo nhập Tam-muội. Cánh lạc, thế nào là trời Lục Cánh Lạc? Hoặc có thuyết nói: Trời Tha Hóa Tự Tại có rất nhiều cung điện, lại nữa, tất cả trời đều cánh lạc, cùng vui chơi với nhau và hưởng phước.

Vì sao? Vì chỗ bảy vị thần dừng nghỉ là đường ác, quả thật vì sao? Vì chỗ bảy vị thần dừng nghỉ là đường ác, quả thật chẳng thuộc về trời hữu tưởng phi tưởng.

Hoặc có thuyết nói: Đây là lời khuyên dạy người của Như lai, các tầng trời cõi Dục nói về cõi Dục rồi, địa vị Sơ thiền, Nhị thiền, Tam thiền phân biệt thì phân biệt, cõi Vô Sắc nói về ba, cõi Vô Sắc thì nói về cõi Vô Sắc.

Hỏi: Như đã nói hai nhập xứ nương thì có trái.

Đáp: Hoặc có thuyết nói: Cho nên không có hư hoại, như tưởng tu đạo của chúng sanh Vô tưởng đã hết.

Hỏi: Thế nào là trong Vô tưởng kia, sau cùng vẫn sinh đến đây?

Đáp: Hoặc có thuyết nói: Như tưởng trung gian nhập Tam-muội Vô tưởng, lùi sụt Tam-muội Vô tưởng, lại tưởng kia, tức là tạo ra nhân duyên.

Hoặc có thuyết nói: Chẳng phải Tam-muội kia tưởng có diệt tận, khởi lên trong đây, lại tu tưởng hành, như ở chốn nhàn nhã đã lâu, tạo ra các sự ngu si mờ tối, trên cũng có tăng. Lại nữa, vì nhân duyên của hành, nên thọ nhận các tưởng vướng mắc, vì hành kia, nên dựa vào sự vướng mắc, ái nhiễm, tự ngu si v.v… Sự ngu si kia, như chỗ đọa thì đọa trong đó, như hốt nắm hạt lúa quăng lên hư không, tức thì lúa ấy sẽ rơi trở lại xuống đất.

Mạng chung ngày tháng trên

Hạn kiếp số Phạm thiên

Bảy chỗ đường địa ngục

Trời hữu tưởng, chín thần.

Kiền độ Thiên thứ tư xong.