LUẬN THÍCH KINH NĂNG ĐOẠN KIM CANG BÁT NHÃ BA LA MẬT ĐA
Bồ-tát Vô Trước viết kệ tụng
Bồ-tát Thế Thân viết lời bình luận giải thích
Hán dịch: Đời Đường -Tam Tạng Pháp sư Nghĩa Tịnh
Việt dịch: Linh Sơn Pháp Bảo Đại Tạng Kinh
Hội Văn Hóa Giáo Dục Linh Sơn Đài Bắc Xuất Bản

 

QUYỂN HẠ

Như Lai nói tướng đầy đủ đó, chẳng phải là tướng đầy đủ, do đó mới nói là tướng đầy đủ. Điều nầy có ý nghĩa gì?

Tụng nói:

Gọi là chân pháp thân,

Không tùy đẹp tròn đầy,

Cũng chẳng phải tướng đủ,

Chẳng tánh thân nên biết,

Với pháp thân không khác,

Như Lai chẳng không hai,

Nói lại tướng đầy đủ,

Do hai thể đều không.

Nói pháp thân, thật không phải là thể tròn đầy, nó còn tùy theo các sắc đẹp của thân. Nên biết, nó cũng không phải là các tướng đầy đủ, vì tánh của pháp thân là không có thân. Pháp thân không có nghĩa là tướng cụ túc, cũng không phải Như Lai không có hai thứ đó. Sở dĩ nói là sắc thân tròn đầy và các tướng đầy đủ, là vì hai cái này không bao giờ rời pháp thân. Thế nên Như Lai mới có thân tướng đẹp đẽ ấy, vì đó mà phải nhắc lại.

Sắc thân tròn đầy và các tướng đầy đủ, do cả hai đều là không, thế nên cũng nói chúng là không. Nói nó chẳng phải là tròn đầy, cũng chẳng phải là tướng đầy đủ, thì cũng nói là có. Nói sắc thân tròn đầy và tướng cụ túc bằng lời, thì điều đó có ý gì? Do sắc thân đó không là tướng tốt nầy, cho nên gọi đó là sắc thân tròn đầy và tướng đầy đủ của Như Lai.

Sắc thân tròn đầy và các tướng đầy đủ cùng với thân kia không thể rời nhau. Tánh của pháp thân tất không phải như vậy. Nhưng pháp thân không phải là tánh của thân kia.

Nếu nói: Chẳng nên lấy sắc thân tròn đầy và thân tướng đầy đủ để thấy Như Lai, thì Như Lai làm sao nói pháp? Để đáp lời hỏi này: “Đây tức là có tâm ác, muốn chê bai, chống báng ta, do không hiểu được nghĩa lý của ta nói”. Tụng nói:

Như Lai nói cũng không,

Nói hai là còn chấp.

Với ý nghĩa gì mà nói lập lại: Thuyết pháp, thuyết pháp đó. Bài tụng nói: Nói hai là còn chấp. Thế nào là hai?

  1. Mới là văn.
  2. Cho là nghĩa.

Với lý do nào mà văn kinh bảo: Không có pháp có thể nói, ấy gọi là nói pháp? Đáp:

Do không lìa pháp giới, nói cũng không tự tánh. Do không lìa xa ngoài pháp giới, nên nói pháp mà tự tánh có thể được. Nếu nói không có Thế Tôn là người nói, và pháp được nói cũng không lìa pháp thân, nên trở thành chẳng có. Như thế là pháp rất sâu kín cao xa, làm thế nào mà người ta có thể tin hiểu quí kính được? Để dẹp trừ thắc mắc này, Tụng đáp:

Người nói-pháp được nói dù sâu,

Nhưng chẳng phải không có tin kính.

Kinh nói: Này Diệu Sinh! Đó chẳng phải chúng sinh, cũng chẳng phải phi chúng sinh. Là nói ý gì? Tụng nói:

Chẳng phải chúng sinh chẳng phi chúng sinh,

Chẳng phải Thánh tánh Thánh vẫn tương ưng.

Có những người, có thể sinh lòng tin kính, người đó chẳng phải là chúng sinh. Do các chúng sinh khác không cùng với Thánh tánh tương ưng, mà tương ưng với tánh phàm phu. Chẳng phải phi chúng sinh, là do cùng bậc Thánh tánh tương ưng.

Ở trong nghĩa này là do kẻ ấy trông mong tánh phàm phu, nên không phải là chúng sinh do kẻ ấy mong cầu tánh Thánh nhân, nên chẳng phải là chúng sinh. Vì sao? Chúng sinh chúng sinh ấy, Như Lai nói đó chẳng phải là chúng sinh. Đấy là căn cứ vào tính chất của hàng dị sinh ngu si thấp bé. Do đó mới nói là chúng sinh, thì đấy là căn cứ vào tánh của Thánh nhân.

Nếu nói: Như Lai chưa từng có pháp nào để được giác ngộ thì tại sao lại bảo là phải lìa sự hiểu biết đúng thứ lớp sau cùng, để được gọi là bậc Chánh Đẳng Chánh Giác Vô Thượng? Để đáp lại câu hỏi này, phải hiểu: Không phải là có pháp để có thể giác ngộ, mới gọi là Chánh Giác Vô Thượng. Nhưng do tụng nói:

Chút pháp cũng không co,

Vô Thượng Giác nên biết,

Do pháp giới không thêm,

Tánh thanh tịnh bình đẳng,

Và phương tiện vô thượng.

Ở đây, dù là một chút pháp cũng không có để vượt hơn, cho nên gọi là vô thượng. Hơn nữa, pháp giới không có thêm, vì pháp ấy bình đẳng, nên gọi là “Vô Thượng Thượng”. Tánh chất của “thượng” là không có. Vả lại, pháp thân Như Lai là thanh tịnh bình đẳng, nên pháp ấy không có chỗ nào là không bằng nhau. Không có một chút nào tăng thêm nữa, nên gọi là vô thượng.

Hơn nữa, tự tướng của pháp ấy là vô ngã, đấy tức là cao. Mà tánh cao thì không có, nên gọi là Vô thượng. Hơn nữa, đối với các phương tiện, thì cũng là Vô thượng. Hết thảy pháp lành đều tròn đầy, nên gọi là Vô thượng. Các Bồ-đề khác, đối với pháp lành thì không viên mãn. Do vậy, phương tiện này thật có trên hết. Chính vì điều đó, mà Như Lai nói chẳng phải là pháp lành, nên gọi đó là pháp lành. Đây là ý gì? Tụng nói:

Do tánh lậu chẳng pháp,

Nên chẳng phải pháp lành,

Do đó gọi là lành.

Do có tánh hữu lậu, nhưng không nắm giữ tướng hữu lậu, vì không nắm giữ, do vậy mà gọi là pháp lành. Nắm giữ tánh vô lậu, thì nhất định đó là tánh lành.

Nếu phải nhờ pháp lành để được Đại Bồ-đề, thì dầu có thuyết pháp cũng không thể chứng được Bồ-đề, vì nó thuộc tánh chất vô ký. –Để ngăn lời hỏi này, nên nói phước đức có khác nhau là để giải đáp cho việc thuyết pháp. Giả sử, việc thuyết pháp là vô ký, thì cuối cùng vẫn được phước chứng quả. Tụng nói:

Nói pháp tuy vô ký,

Chẳng phải không kết quả.

Vì chẳng lìa nó nên được Bồ-đề, tức là phải biết chỗ nương dựa, thì

Đạo Bồ-đề mới khế hợp được. Tụng nói:

Do một pháp báu này,

Hơn vô lượng báu khác.

Cho nên ở đây, nói về sự quí báu của sự thuyết pháp, tức là so sánh với việc Bố thí vô số châu báu, nhiều như số núi Diệu Cao ở trước, để chỉ rõ là phước đức có được khác nhau. Giả sử có một trăm phần, thì phước đức Bố thí ở trước, không bằng một phần của phước đức trì kinh và giảng nói rộng rãi này. Ở đây định làm rõ nghĩa gì? Tụng nói:

Với mọi cách tính đếm,

Nhân cũng có khác nhau,

Suy tìm khắp thế gian,

Dụ không có chỗ đạt.

Nghĩa là lấy phước đức này, so với khối phước đức trước, dùng đủ mọi cách tính-toán-suy-lường để biết, thì nhân có bốn thứ sai khác. Và dù có tìm kiếm mọi hình ảnh, sự kiện ở khắp thế gian, cũng không lấy gì để so sánh, thí dụ cho trường hợp này được!

Nói do tính đếm có sai khác, trước hết là giả sử có một trăm phần, rồi từ phần thứ một trăm, tính đếm mãi lên, đến mức không còn sai khác nữa thì đó là bằng nhau.

Chỉ nói việc tính đếm, tức là phải biết sự gồm thâu tổng quát, ngoài ra có bao nhiêu, thì tính đếm suy lường sẽ liệu và phân loại. –Hoặc về phần sức mạnh: Là do uy thế nơi sức mạnh ấy có khác nhau. Như sự việc của người thì có mạnh yếu không giống nhau. Hoặc là so sánh số liệu: Do phẩm chất và chủng loại có sai khác. Thí dụ như nói phước đức của việc làm đầu tiên đem so sánh, thì không bằng số lượng và chủng loại của phước đức vừa nêu trước đây. Như việc so sánh người sang kẻ hèn, với số liệu so sánh cũng không giống nhau.

Nhân đó, tức là nói rõ về nhân tố kia, thì quả của phước đức này, chẳng thể không can thiệp để ảnh hưởng nhau. Nói cách đó, cũng không thể nào cùng với cái này làm nhân Ổ-ba-ni-sát-đàm dịch là Nhân, như trồng hạt cải, đem sánh với cây tùng bách. Ở thế gian này, rốt cuộc là, không có cái gì để đem ra làm thí dụ cho hình ảnh của phước đức ấy. Do đó, nếu lấy phước trước (là Bố thí) đem so sánh với phước này (trì kinh, giảng nói) thì quá ít, đến nỗi chẳng có lời nào diễn tả thật chính xác, đầy đủ được! Cho nên nói dù có thí dụ cũng không thể bì kịp.

Nếu nói tánh và tướng của pháp ấy bình đẳng, cho nên không có chỗ nào hay việc gì chẳng bằng nhau, tức là không có người độ thoát và kẻ được độ thoát. Tại sao Như Lai lại nói có độ thoát cho loài hữu tình? Để giải đáp câu hỏi khó này, lời văn sau là để trình bày nghĩa đấy. Tụng nói:

Vì pháp giới bình đẳng,

Phật không độ chúng sinh,

Với các thứ cùng tụ,

Không ở ngoài pháp giới.

Hữu tình là chỗ các uẩn tụ hợp, nên gọi là công uẩn. Các uẩn và chúng hữu tình đó, đều không nằm ngoài pháp giới. Pháp giới này, tánh nó bình đẳng. Thế cho nên chưa từng có một chúng sinh nào có thể được Như Lai độ thoát cả. Thế thì tại sao ở đây lại nói có chấp Ngã? Việc đó có ý gì? Nếu nói chỉ có độ thoát cho năm uẩn đó mà thôi, tức là đã xem như có chúng sinh rồi. Vì thế nên có tụng nói:

Nếu khởi việc chấp pháp,

Thì lỗi như chấp ngã,

Chấp có độ chúng sinh,

Là không mà vọng chấp.

Như kinh nói: Này Diệu Sinh! Nói chấp ngã đó thì Như Lai nói là chẳng phải chấp. Vì vọng chấp nên Như Lai nói là chẳng phải sinh, tức là chẳng thể sinh ra các nghĩa pháp Thánh. Nếu nói chẳng nên lấy tướng đầy đủ mà nhìn xem Như Lai, vì cái tướng đầy đủ ấy chẳng phải là tự tánh, mà tự tánh của Như Lai tức là Pháp thân. Song, tự tánh Pháp thân của Như Lai, thì có thể dùng cái tướng đầy đủ để so sánh mà biết được. Vì có câu hỏi này, để dẹp bỏ nghi ấy nên có lời văn sau sẽ nói rõ nghĩa gì đây? Có tụng nói:

Chẳng nên lấy sắc thể,

Coi là Pháp thân Phật,

Chớ xem vua Chuyển luân,

Cùng Như Lai đồng nhau.

Đó là phước của tướng báo thân, cũng gọi là tướng đầy đủ. Do cái đó mà thành cái này, cho nên phải nhờ sức của phước, mới chứng được Bồ-đề.

Có kẻ nói: Như Lai lấy tướng đầy đủ kia hiện ra để chứng quả Chánh Giác Vô Thượng. Vì dẹp bỏ ý nghĩ đó, nên nói: “Chẳng nên lấy tướng đầy đủ v.v..” Sắp trình bày nghĩa gì đây? Lời tụng nói:

Quả báo tướng đầy đủ,

Viên mãn phước không thuận,

Cảm chứng được pháp thân,

Do dị tánh phương tiện.

Vì chơn pháp thân là tự tánh của trí tuệ, cho nên so với phước kia thì thể tánh không giống nhau. Hai bài kệ đấy cần trình bày điều chi?

Tụng nói:

Nếu lấy sắc thấy ta,

Lấy âm thinh cầu ta,

Người ấy siêng làm tà,

Chẳng thể thấy được ta!

Nên quán tánh Phật pháp,

Tức pháp thân Đạo sư,

Thức khó biết pháp tánh,

Nên không thể hiểu rõ.

Hai bài tụng này, nghĩa đã nói rồi. Tụng lại nói:

Chỉ thấy sắc nghe tiếng,

Người ấy không biết Phật,

Pháp thân Chân như này,

Chẳng phải cảnh của thức.

Ý của lời văn này nói: Không nên lấy hai thứ sắc và thanh mà nhìn thấy Như Lai. Vì là Dị sinh nên không thể thấy được. Ấy là sao? Vì người đó khởi sự chuyên cần làm việc tà quấy. Nói Dị sinh đó, vọng khởi chuyên cần làm việc tà. Không nương theo chánh đạo, mà cầu thấy được ta. Ở đây nói pháp tánh là Chân như. Nếu nói phước thì không thể chứng được Bồ-đề. Đấy tức là phước nghiệp của Bồ-tát, quả báo của nó phải đoạn trừ. Để giải đáp điều nghi này, nên có đoạn văn sau đây, nói tánh của phước ấy, tuy chẳng thể chính mình cảm chứng được Bồ-đề…Lời tụng nói:

Phước ấy chẳng quên mất,

Quả báo chẳng dứt hết,

Được Nhẫn cũng chẳng dứt,

Vì đã được vô cấu,

Lại luận về nhân phước,

Vì đấy nói dụ ấy,

Phước đó không quả báo,

Theo chánh không theo tà.

Do đây là tánh tư lương của trí ấy. Còn làm thế nào mà trình bày thí dụ cho phước được? Nên kinh nói: Được nhẫn cũng chẳng dứt, vì đã được vô cấu. Lại luận về nhân của phước kia, vì nó mà trình bày bằng dụ. Lại có nghi: Đã được trí vô sinh pháp nhẫn nên không Sinh, các phước đức của Bồ-tát đều cần phải đoạn dứt; nói vậy là để chỉ rõ, phước không đoạn dứt, và khi hoàn toàn thanh tịnh thì phước càng nhiều, quả báo cũng hơn nhiều.

“Đối với pháp không sinh thì đã được vô tánh”. Có hai thứ vô tánh. Do hai tánh ấy mà thể không sinh.

Kinh nói: Này, Diệu Sinh! Hãy nên giữ lấy chánh, không đi theo nẻo tà. Thế nào là giữ lấy chánh, không theo tà? Là khi phước kia không có quả báo nữa, lấy cái chánh không theo cái tà, tức là: Hễ có phước đức nào chiêu cảm quả báo thì phải nên chán sợ. Phải biết, nếu chấp lấy quả báo đó tức là lấy cái tà. Cũng giống như vượt bỏ con đường chánh, đi vào những ngõ ngách hiểm nguy. Nhưng nếu phước đó không gây nên quả báo, thì đó là lấy cái chánh, chứ không phải theo cái tà.

Hỏi: Bên bờ phước đức, Bồ-tát đã chẳng gây tạo nên các quả báo, thì khi nhận được quả, làm sao biết được? Tụng đáp:

Phước ấy gây tạo quả,

Làm lợi ích chúng sinh,

Việc ấy thật mặc tình,

Thành Phật hiện các phương.

Tới lui là Hóa hiện,

Chánh giác luôn bất động,

Ở nơi pháp giới ấy,

Không một và không khác.

Chư Phật Thế Tôn hiện ra đủ những biến hóa chứ không phải là Như Lai có đi lại, tới lui.

Nói: Việc ấy thì mặc tình, thành Phật hiện các phương có nghĩa là sự tới lui tức là hóa hiện, còn chánh giác thì luôn bất động. Chỉ bày rõ nghĩa này, sẽ nói ở đoạn văn sau. Chưa từng có đi, chẳng hề có lại, do đó gọi là Như Lai. Điều đó có ý nghĩa gì? Nếu Như Lai có đi-có lại, khác nhau v.v.. thì đó chẳng phải là Như Lai. Vì tánh của Như luôn luôn vậy, không hề thay đổi, biến dời. Còn thí dụ bụi li ti nghiền làm mực, là dụ cho ai, nói rõ về việc gì? Đáp: Nó ở trong pháp giới, không phải là mộtkhông phải khác, nên biết. Nói Như Lai ở trong pháp giới đó thì tánh chẳng phải một cũng chẳng phải khác. Vì ý muốn trình bày về việc này, nên phải nêu ra dụ ấy. Tụng nói: Bụi nhỏ nghiền làm mực là dụ cho pháp giới. Lại nữa, thế giới là mực! Ví dụ nầy chỉ rõ nghĩa gì? Tụng nói:

Đây luận việc tạo mực,

Là nói phiền não hết,

Tánh chẳng tụ chẳng tập,

Là tánh không phải một,

Với tánh tổng tập đó,

Làm rõ tánh chẳng khác.

Thí như việc làm mực. Có nhiều bụi bặm rất nhỏ, nhưng không phải ở chung một chỗ, vật tụ tập đó cũng chẳng phải là một chất, một khối, nhưng cũng chẳng khác (tánh) nhau, mà do chúng họp chung nhau lại, ở đây là không có sự riêng rẽ nhau, theo nghĩa cắt nát ra nhiều mảnh nhỏ. Nên biết như thế.

Chư Phật Thế Tôn ở trong pháp giới, tất cả các chướng phiền não đều dứt hết, tánh chẳng phải ở một chỗ, tánh cũng chẳng phải khác, đây là nói gồm chung cả ba ngàn đại thiên thế giới, không phải là tụ tánh, và nếu là tụ tánh, thì dụ ấy cũng giống nhau. Như Lai nói đó chẳng phải là tụ tánh. Thế nên mới nói là nhóm rất li ti. Đây muốn nói nghĩa gì? Nếu vật tụ tập ấy là một, thì không nên nói đó là nhóm những chất rất nhỏ. Vả lại, nếu đó là một cõi, thì cũng không nên nói là cả ba ngàn đại thiên thế giới. Do đó, nên nói: Đây tức là chấp có tích tụ. Đấy là Như Lai nói chẳng phải chấp, không vì tích tụ mà chấp. Do vọng chấp ấy, nên mới nói là chấp có tích tụ (chấp tụ). Ý muốn nói, là nó khác với những cái không phải là chánh trí Vô thượng. Lại do nhân gì, những kẻ phàm phu ngu kia, đối với cái thật sự không có tụ họp mà lại chấp? Để trả lời câu hỏi này, nên nói: Đó là chấp tụ! Chỉ theo lối suy luận thông thường, thì nói như thế là có. Đây muốn nói rõ điều gì? Tụng nói:

Chẳng hiểu lời tục nói,

Kẻ phàm phu vọng chấp.

Này Diệu Sinh! Có nhiều kẻ nói: Như Lai tuyên nói ngã kiến v.v..

Đây là nghĩa gì? Tụng nói:

Đoạn trừ ngã và pháp,

Chẳng chứng giác là không.

Đã nói, thể hai thứ ngã và pháp là không. Tuy nói đã đoạn hết hai thứ này nhưng cũng chưa chứng được Bồ-đề. Thế thì phải đoạn dứt cái gì mới chứng được? Đáp: Phải đoạn hết hai thấy, tức là phải đoạn dứt hai cái thấy có ngã và có pháp. Tụng nói:

Cho nên thấy không thấy,

Không chấp cảnh hư vọng.

Do đó, phải biết thể của ngã là không. Những ai nói có ngã kiến, Như Lai nói là chẳng phải kiến (thấy), vì không có cảnh để thấy. Ý dạy: Cảnh của ngã xưa nay vốn là không.

Văn nói: Gọi là ngã kiến (thấy có ta), là do phân biệt, giả dối mà có. Như thế đối với lý vô ngã, hiện rõ tánh thấy cái không thấy. Đối với pháp cũng hiện rõ tánh thấy là cái không thấy. Thế nên văn kinh có nói: Đối với tất cả các pháp nên biết như thế v.v.. Nhưng tưởng về pháp kia, cũng chẳng phải là tánh tướng, nó như ngã kiến. Lại có ý gì?

Khi đã cho là có hai cái thấy ngã và pháp, còn nói là chẳng phải tánh thấy? Đáp:

Đó là chướng vi tế,

Biết thế nên phải đoạn.

Nghĩa muốn trình bày ở đây là hai sự thấy ngã và pháp, đó đều là chấp lấy cái thấy, đó nghĩa là chướng vi tế. Do hai cái đó, mà biết đúng được, đó chẳng phải tánh thấy như vậy, nên mới có thể đoạn trừ được. Kinh nói: Nên biết như thế, nên thấy như thế, nên hiểu như thế đó. Văn này là nói. Có bài Tụng:

Do được hai thứ trí,

Và định mới trừ nó.

Nghĩa là dùng lại trí thắng nghĩa của thế tục và định nương nhờ vào hai chỗ đó, mới có thể trừ được chướng vi tế ấy. Luận về chỗ sai khác của phước, là muốn nói điều gì? Tụng đáp: Bày phước nói hoá thân,

Chẳng không-phước vô tận.

Dù mặc tình biến hóa, ứng dụng rộng khắp, nhưng Như Lai khi hóa thân tuyên nói chánh pháp, thì đó là phước vô lậu không có hạn kỳ chấm dứt. Thế nào là nói chánh pháp? Ý nầy chỉ rõ, Như Lai không tự nói: Ta là hóa thân. Tụng nói:

Khi chư Phật nói pháp, Không nói là hoá thân,

Do vì chẳng tự nói, Nên nói pháp chơn thật.

Ở đây muốn trình bày điều gì? Là nói: Tuy thuyết pháp hóa độ chúng sinh, nhưng Như Lai không tự bảo ta là Phật hóa thân. Do không chánh thức nói như thế, nên đó mới gọi là nói chân chánh. Ý dạy: Nếu làm khác điều này thì đám chúng Sinh được hóa độ sẽ không Sinh lòng tôn kính. Có vậy mới làm ích lợi cho chúng sinh. Thật sự không có pháp nào có thể nói. Nếu nói: Như Lai có rất nhiều hóa thân và nói pháp mãi mãi vô tận, thì tại sao Như Lai lại nói là có Niết-bàn? Để giải đáp điều nghi này, nên có kệ nói:

Như Lai chứng Niết-bàn,

Chẳng tạo cũng chẳng hết.

Chẳng phải các Như Lai chứng được sự hoàn toàn vắng lặng là có tạo tác, vì tự tánh của Hữu Vi so với sự tạo tác ấy không khác. Tuy là hiện có Niết-bàn, nhưng đó chỉ là biến hoá, thị hiện với sinh tử, để làm ích lợi cho chúng sinh. Ở đây là muốn hiển bày việc Như Lai không trụ ở Niết-bàn. Sinh Tử cùng Niết-bàn, cả hai đều không trụ. Lại có lý do gì mà thị hiện cùng với Sinh tử, nhưng không trụ vào nhân duyên của Sinh Tử? Tụng đáp:

Hết thảy pháp Hữu Vi

Như sao-màng-đèn-huyễn

Sương-bọt-mộng-chớp-mây,

Nên quán xét như thế.

Tập tạo này có chín,

Lấy chánh trí mà quán.

Đó là chín thứ như sao v.v. . ., cùng làm pháp dụ, lấy chín dụ làm cảnh, dùng chánh trí mà quán cảnh đó. Sao gọi là chín thứ quán sát cần nên biết? Tức là phải nên quán sát chín thứ đó. Quán là thế nào? Tụng nói:

Thấy tướng cùng với thức,

Thân thọ dụng-cư xử,

Quá khứ và hiện tại,

Vị lai đều quán rõ.

Ở đây, nên quán thấy tâm pháp như là các vì sao, còn ánh sáng mặt trời là chánh trí, khi ánh mặt trời xuất hiện, thì ánh sáng của các vì sao đều biến mất. Nên quán các cảnh tướng của đối tượng đó. Như có người bị bệnh đau màng mắt, khi nhìn lên khoảng không, thấy có nhiều vầng tròn và nhiều sợi nhỏ tung tăng. Đó là ảo ảnh thấy lầm. Nên quán cái thức kia giống như ngọn đèn. Sở dĩ có thể nương vào đó để thấy, là do dầu mỡ ái dục sinh ra.

Nên quán cuộc đời chỉ là huyễn ảo, cũng như cõi thế gian đây, có nhiều chất kỳ lạ, nhưng tánh nó không thật. Hãy quán thân này như giọt sương mai, chỉ hiện diện tạm thời trong thoáng chốc. Hãy quán sự thọ dụng cũng như bọt nước, tính chất của thọ dụng là do ba việc họp lại mà sinh ra.

Hãy quán những cái được tập họp, tạo nên trong quá khứ, như là cảnh trong mơ, chỉ có trong trí nhớ, chứ không thực có. Hãy quán các việc trong hiện tại, giống như điện chớp, loé ra đó thì mất ngay. Hãy quán thể của vị lai chưa đến, như đám mây đùn. Thức A-lại-da tồn tại nhờ tạo lập do các hạt giống đối với thể của nó gồm thâu và chứa giữ các hạt giống.

Khi quán sát chín thứ này thì lợi ích gì? Chứng được trí tuệ cao quí nào? Tụng nói:

Do quán sát các tướng,

Thọ dụng và dời đổi,

Ở trong pháp hữu vi,

Được tự tại, vô cấu.

Nghĩa này thế nào? Quán các pháp Hữu Vi có ba thứ:

1. Là do quán thấy thức cảnh, tức là quán sát các tướng, do tập họp tạo nên Hữu vi.

2. Là do quán thân tướng và sự thọ dụng ở cõi đời này, tức là quán sát các thọ dụng ấy, chính những thứ đó cho nó thọ dụng.

3. Là do quán ba đời luôn thay đổi khác nhau, tức là quán cái luôn luôn thay đổi, chẳng ngừng nghỉ.

Do các quán sát này mà đối với các pháp Hữu Vi, không có chướng ngại, luôn được tự tại tùy ý. Khi đó, dù lăn xả vào chốn sinh tử mà vẫn không hề bị phiền não vấy bẩn, vì trí tuệ kia đã chứng được sự viên tịch như lò than xông ngát mùi vị Từ bi. Tụng nói:

Là pháp hiếm có của chư Phật,

Đà-la-ni cú nghĩa sâu dày,

Được nghe Từ Tôn bày nghĩa lớn,

Được phước nhiều khiến mau thanh tịnh.

Pages: 1 2 3