LUẬN TAM GIÁO BÌNH TÂM

Tĩnh trai học sĩ Lưu Mật soạn
Việt dịch: Linh Sơn Pháp Bảo Đại Tạng Kinh
Hội Văn Hóa Giáo Dục Linh Sơn Đài Bắc Xuất Bản

 

BÀI TỰA

Mặt trời mặt trăng và các sao tô điểm bầu trời, vẫn luôn soi sáng từ ngàn xưa. Trăm sông cùng chảy về biển, đều cùng một vị mặn mà mất tên các sông. Sự hưng khởi của Phật giáo, Nho giáo và Đạo giáo cũng đã lâu dài, đồng thời truyền bá ở đời và giáo hóa thành tựu thiên hạ. Bàn về gốc tích thì chưa từng chẳng khác. Suy theo lý thì chưa từng chẳng đồng. Một mà ba, ba mà một. Không thật có nhưng lại thân sơ. Nên Pháp sư Viên ở Cô Sơn nói: “Tam giáo như cái vạc có ba chân, thiếu một không thể được”. Thật là luận cứ xác thực xưa nay vậy. Tiếc thay! Những người chấp gốc tích mà quên Đạo lý, đến nỗi bài bác lẫn nhau. Đạo Vô Vi của bậc Tiên thánh trở thành đầu mối của sự phân chia tranh chấp, thật đáng buồn than! Lý luận do Học sĩ Tỷ Quán Tĩnh Trai soạn thuật, ngôn từ đơn giản, lý lẻ rõ ràng, rất mực tốt đẹp. Suốt thâú nguồn sâu của Nho giáo, Đạo giáo, khai mở sự huyền bí của Phật giáo. Biện luận xóa tan mọi thứ nghi ngờ, chọn phải bỏ quấy, chưa từng chẳng xuất hiện nơi công luận. Thí như ở trên bàn cân, nặng nhẹ không sai. Đứng trước đài gương, đẹp xấu không thể che dấu. Nay luận này được soạn ra, bởi có lý do như vậy, cùng với cư sĩ Ngô Đỉnh Lai ở Thành thật Đường, hiểu biết vượt xa Đồng bạn, rất mực Công bình (Đồng bạn xuất xứ từ sử ký, cho rằng lời ý hợp nhau, nên kết thành bạn lành) bảo thợ khắc thêu để truyền bá, vì muốn cho mọi người xem đọc. Như các vị hiền sĩ ở đời Đường, đời Tống là Bạch Cư Dị, Trương Thương Anh v.v… Xét soi chỗ chí lý mà thẳng đến.

Mé thật đồng thoát trần lụy, đâu phải ít bổ ích!

Thời Lang Tập, thượng tuần tháng 7 mùa Thu năm Giáp Tý.

Kính tựa.

 

QUYỂN THƯỢNG

Thường thấy ở Trung Quốc có ba tôn giáo. Từ thời Phục Hy vẽ hoạ đồ Bát Quái ma Nho giáo bắt đầu có từ đó, từ khi Lão Tử soạn Đạo Đức Kinh thì Đạo giáo bắt đầu có từ đó. Từ khi vua Minh Đế đời nhà Hán nằm mộng thấy người vàng thì Phật giáo bắt đầu có từ đó. Ấy là khởi đầu ở Trung Quốc có tam giáo, đại để, Nho giáo dùng “Chánh” để lập giáo, Đạo giáo lấy “Tôn” để lập giáo và Phật giáo lấy “Đại” để lập giáo. Xét về sự thích sống, ghét chết thì đồng một chữ “Nhân”, xem người như mình đồng là của chung, trừng trị sự giận giữ, lấp bịt dục tình, ngăn ngừa tội lỗi, đồng một tiết tháo tu hành. Sấm sét nổ rền tai kẻ điếc, mặt trời mặt trăng soi sáng những kẻ mù loà nên đồng một phong hóa. Nói về dấu vết thô sơ thì lý thiên hạ không vượt quá hai đường thiện ác. Và ý nguyện của Tam giáo thì không ai chẳng muốn theo về đường lành. Nên vua Lý Tông soạn “Nguyên Đạo biện” có nói: “Dùng Phật giáo để trị tâm, dùng Đạo giáo để trị thân và dùng Nho giáo để trị đời”. Thật biết được tâm, thân và đời, không cho có một thứ không trị nên Tam giáo đâu cho có một chẳng lập. Cư sĩ Vô Tận soạn bộ “Hộ Pháp luận” nói: “Nho giáo trị bệnh ngoài Da, Đạo giáo trị bệnh mạch máu và Phật giáo trị bệnh xương tủy”. Thật biết được ngoài da, mạch máu, và xương tủy không cho có một không chữa trị, như vậy thì trong Tam giáo đâu cho có một không thực hành?

Nho giáo ở Trung Quốc dùng cang thường để hợp chánh, dùng Nhân luân để soi sáng, Lễ, nhạc, hình, chính bốn thứ đều thành đạt không traí ngược. Trời đất muôn vật an bài đúng vị trí mà dưỡng thành, nê Nho giáo có công rất lớn đối với Thiên hạ. Vì vậy mà Tần Thỉ Hoàng muốn phế bỏ Nho giáo nhưng Nho giáo không bao giờ bị phế bỏ.

Đạo giáo ở Trung Quốc khiến người trong sạch, tự giữ mình thấp hèn, yếu kém. Rửa sạch thói quen lăng xăng lộn xộn mà trở về cảnh giới vắng lặng vô vi, Đạo giáo giúp ích cho thế giáo cũng rất lớn. Vì vậy Vua Lương Võ đế muốn dẹp bỏ Đạo giáo mà Đạo giáo không bao giờ bị phế bỏ.

Phật giáo ở Trung Quốc khiến người bỏ hoa mà trở về với trái, trái ngụy trở về với chân, do lực hành mà tạo được an lạc, do tự lợi mà đạt đến lợi tha.Phật giáo là nơi nương tựa của Nhân sinh, không gì bằng được, nên ba vua họ Võ muốn dẹp bỏ Phật giáo mà Phật giáo không bao giờ bị phế bỏ.

Lý Sĩ Khiêm đời Tùy luận về Tam giáo, nói rằng: “Phật giáo như mặt trời, Đạo giáo như mặt trăng và Nho giáo như năm sao sáng. Đâu khác gì ba thứ ánh sáng ấy giữa bầu trời, thiếu một cũng không thể được. Tuy ba tôn giáo đó có sự hơn kém bất đồng, nhưng cốt yếu không nên nghiêng lệch một phía nào mà phế bỏ. Nhưng vì người đời có tâm khác, tâm có thấy khác, những người mến mộ Đạo giáo thì cho rằng Đạo giáo không tôn quý bằng Phật giáo. Những người theo Phật thì cho rằng Đạo giáo không lớn bằng Phật giáo. Các nhà Nho sống trong cái chánh, bài bác cả Phật giáo lẫn Đạo giáo, cho đó là dị đoan, đâu phải kia quấy, hơn một ngàn một trăm năm trở lại đây đã vậy. Tôi lấy sự sáng suốt để bàn luận vấn đề ấy. Thiết nghĩ không thể bàn luận theo tâm riêng tư, không thể bàn luận theo tâm thương ghét. Chỉ có tâm niệm bình đẳng, cứu xét công đức cùng cực của các tôn giáo thì có thể vỡ lẽ rõ ràng. Bởi vì Công đức cùng cực là chỗ thâu nhân kết quả vậy, mọi sự vật trong thiên hạ đều có công đức cùng cực. Chân lấm tay bùn là việc của Nông phu cày cấy, đến lúc kho lẫm lúa thóc tràn đầy là công đức cùng cực của kẻ nông phu. Ăn ngủ dọc đường là việc của kẻ buôn bán, đến lúc vàng bạc đầy rương thì đó là công đức cùng cực của người buôn bán. Đối với Tam giáo giáo cũng như thế, Nho giáo có công đức cùng cực của Nho giáo, Đạo giáo có công đức cùng cực của Nho giáo, và Phật giáo có công đức cùng cực của Đạo giáo, từ công đức cùng cực này mà xét về sự hơn kém thì không đợi phải bàn luận mà tự rõ.

Từ đó mà xem xét thì giáo lý của Nho giáo là từ một cá nhân đến một gia đình, từ một gia đình đến một quốc gia, từ một quốc gia đến khắp bốn biển và đầy khắp sáu hợp. Có thể gọi là Nho giáo giữ gìn phép tắc mà thực thi rộng ra. Nếu như ngoài bốn biển sáu hợp thì như thế nào: “Nho giáo nói: Từ Đông dần dần đến Tây, và dừng lại ở bốn biển, sự rất xa này không quá đến bốn biển thì dừng lại ở đó, không còn xa hơn nữa”. Giáo lý nhà Nho thì như vậy, nên các nhà học Nho là Tồn tâm dưỡng tánh, hành nhân giữ Nghĩa, thuần tuý là một kẻ sĩ đầy đủ đạo đức và hoàn toàn tốt đẹp. Thế mà có những người bỏ cả sự nghệp 2 để phò vua, thấm nhuần muôn dân, giữ yên quốc gia mà lập nên xã tắc. Có thể giúp cho thế giáo mà đạt đến thái bình. Khi công danh thành đạt thì thân già suy, tên tuổi được ghi vào trang sử xanh. Công đức cao tốt của đạo Nho chỉ thế thôi. Tăng Tử nói: Sau khi chết là rất xa, bởi vì đến chết là rốt cùng vậy!

Giáo lý của Đạo giáo là ngay thân ta mà thông suốt cõi tối tăm, từ cõi người mà vượt qua cả cõi trời, từ núi rừng sâu thẳm mà đến các cung điện vàng ròng, xa tít mù khơi. Có thể gọi là vượt Phàm lên Thánh vậy. Song, ngoài trời đất tạo hóa ra thì thế nào? Đạo giáo cho rằng: “Lớn thì cùng khắp cõi trời, nhỏ thì có thể vào trong hạt bụi nhỏ”. Như vậy, cùng cực của lớn không vượt qua cùng khắp cõi trời. Cõi thì hạn cuộc ở đây, mà ngoài hạn lượng ấy phải chỗ dự biết của Đạo giáo, giáo lý của Đạo giáo là như thế, cho nên người học đạo tinh thần chuyên nhất, động hợp với vô hình, an nhiên nơi cảnh giới thanh tịnh ít muốn mà bỏ cũ nhận mới, dành chứa công hành hạnh. Có thể thi giải, có thể bay bổng giữa không trung, có thể sai bảo Quỷ thần và nổi gió. Có thể ca ngợi tạo hóa mà lập huyền công, sống lâu vô cùng, vui sướng tự tại. Công đức cao tột quả của Đạo giáo như vậy mà thôi. Trong Huỳnh Đình kinh nói: “Có sống lâu mới được bay đi”. Bởi vì đạt đến sống lâu là cùng cực vậy.

Giáo lý của nhà Phật là khi một Đức Phật ra đời thì Tam thiên đại thiên thề giới đều là cõi nước y báo. Nếu nói theo một thế giới thì trong một thế giới có núi Tu-di từ giữa biển lớn đứng trơ trọi lên thẳng chín tầng trời xanh. Mặt trời, mặt trăng vòng quanh lưng chừng núi mà chia ra ngày đêm. Ở bốn phía núi Tu-di là bốn Biển lớn, phía Đông gọi là Phất-vu-đãi, phía Tây là Cù-da-ni, phía Nam là Diêm-phù-đề và phía bắc là Uất-đơn-việt. Trong bốn châu lớn, mỗi mỗi châu đều có ba ngàn châu nhỏ, thế giới này là Diêm-phù-đề. Nay, Trung hoa ở đây là một trong ba ngàn châu của Diêm-phù-đề ở phía Nam. Đức Thích-ca hạ sinh ở Ấn Độ là chính giữa của Nam châu. Ở phía trên núi Tu-di chỗ gần mặt trời, mặt trăng, gọi đó là Trời Đế Thích, lại lên trên khoảng hư không an trụ trong sáng, mây phủ bốn tầng, tất cả gọi đó là Cõi Dục. Từ lớp mây ấy trở lên có mười tám tầng trời nữa, gọi đó là Cõi Sắc, từ khoảng không ấy lên trên thêm bốn tầng nữa, gọi là cõi Vô Sắc. Tất cả chúng sinh ra trong ba cõi đó đều bị sinh già bệnh chết. Đó là một Thế giới, một ngàn thế giới như vậy gọi là một Tiểu thiên thế giới, một ngàn tiểu thiên Thế giới như vậy gọi là một Trung thiên, tức một trăm muôn. Và một ngàn Trung Thiên thế giới như vậy gọi là một Đại thiên, tức một trăm ức. Vì ba lần một Ngàn, nên gọi là ba ngàn Đại thiên, kỳ thật chỉ một Đại thiên. Trong một Đại thiên có trăm ức núi Tu-di, trăm ức mặt trời, mặt trăng và trăm ức tứ thiên hạ. Như có một trăm muôn đồng tiền nhỏ, cứ mỗi thế giới đặt một tiền, đến hết trăm muôn đồng tiền ấy mới là một Đại thiên thế giới. Đó là cõi nước y báo của một Đức Phật vậy. Khi một Đức Phật xuất hiện thì trong trăm ức thế giới có trăm ức thân đồng thời xuất hiện. Nên trong Kinh Phạm Võng nói:

“Mỗi Hoa trăm ức nước, mỗi nước một Thích-ca
Đều ngồi cội Bồ-đề, cùng lúc thành Phật đạo
Ngàn trăm ức như vậy, Lô-xá-na bản thân
Ngàn trăm ức Thích-ca, đều có chúng bụi nhỏ”

Đó gọi là ngàn trăm ức Hóa thân vậy. Dùng trăm ngàn ức hóa thân mà hóa độ tất cả các loài chúng sinh từ noãn sinh, thai sinh, thấp sinh, hóa sinh, loài hai chân, bốn chân, nhiều chân, có sắc, không sắc, có tưởng, khôngbtưởng cho đến chẳng phải có tưởng chẳng phải không tưởng trong ngàn trăm ức thế giới đều khiến được độ. Đó là giáo lý của Phật giáo vậy.

Nên người học Phật rõ biết năm uẩn đều không, gạn lọc thanh tịnh sáu căn, xa lìa mười điều ác, tu hành mười điều thiện, quán bốn niệm xứ, thực hành bốn pháp chánh cần, dứt bỏ sáu mươi hai kiến chấp và tà ngụy không chỗ dung chứa, dứt bỏ chín mươi tám kiết sử, phiền não chẳng thể làm rối loạn. Ba ngàn oai nghi, tám muôn hạnh nhỏ đều giữ gìn cẩn thận, bốn thân vô lượng, sáu Ba-la-mật thường dùng để huân tu. Trong suốt thời gian tu hành đó, có người vì Pháp quên mình, như lột da chích máu chép kinh, chặt tay, gieo mình xuống vực để tham hỏi mà chẳng khiếp sợ chẳng nghi ngờ. Vì chúng sinh quên mình thì như chịu khổ cắt thịt mình cho chim ưng ăn, bỏ mạng để cứu hổ đói mà không sợ hãi. Tiền tài của báu nước thành vợ con, vất bỏ như giày rách. Chi tiết chân tay đầu mắt tủy não, xả bỏ như cởi áo. Từ đời này đến đời khác, trải qua trăm ngàn muôn ức đời mà tâm này không lui sụt, từ kiếp nọ sang kiếp kia trải qua trăm ngàn muôn ức kiếp nhưng tâm này càng tinh tấn. Do đó, qua ba A-tăng-kỳ kiếp, hạnh quả viên mãn, công đức viên mãn, lià bốn câu, bốn câu nghĩa là các Pháp chẳng tự sinh, cũng chẳng từ tha sinh, chẳng chung cùng, chẳng phải vô nhân, cho nên nói vô sinh dứt bách phi. Thông đạt vô lượng vô biên Pháp môn, khéo vào được vô lượng vô biện tam-muội, thành tựu năm căn năm lực, đầy đủ ba đạt ba minh, hiển bày bốn trí ba thân, vượt chướng sáu thông năm nhãn. Được bốn biện tài vô ngại, giảng nói vô cùng, vào bốn như ý phần, thần thông tự tại. Tám thắng xứ, tám giải thoát thường được hiện tiền, bốn món vô uý, bốn pháp nhiếp thọ dụng không cùng, tám chi thánh đạo, mười tám pháp bất cọng, không đồng với ba thừa, ba mươi hai tướng tốt, tám mươi vẻ đẹp, pháp thân trang nghiêm nhiệm mầu, kiếp số như bụi nhỏ đời Quá Khứ, kiếp số như bụi nhỏ đời vị lai, không đời kiếp nào không thấy rõ. Hiện tại, chúng sinh trong các thế giới nhiều như cát bụi, tâm như cát bụi thảy đều biết rõ. Viên minh mười hiệu tôn qúy, vượt ngoài ba cõi. Đó là Nhất thiết chủng trí, đó là trời trong các trời, là Pháp vương vô thượng, là bậc Chánh đẳng Chánh giác. Vượt khỏi các thứ phương tiện, đầy đủ mười lực, trở lại cứu độ chúng sinh trong khắp Pháp giới. Đó là công đức cao tột của Phật, đến như thế.

Kinh Pháp Hoa chép: “Đức Như Lai vì một việc lớn Nhân duyên mà xuất hiện ở đời, muốn khiến cho tất cả chúng sinh đều thành Phật Đạo”. Bởi vì Đại nguyện, Đại lực ấy thệ nguyện cùng tất cả chúng sinh đều chứng Diệu quả Niết-bàn Vô thượng. Cho nên, bàn luận về Tam giáo, không thể dùng tâm riêng tự để bàn luận, không thể dùng tâm ưa thích hay oán ghét để bàn luận, chỉ có tâm niệm hoàn toàn bình đẳng nghiên cứu đến công đức cao tột của Tam giáo, thì biết những người học Nho ở đời thành đạt kết quả, bất quá là rủ bỏ công danh vậy. Người học theo Đạo ở đời, thành đạt kết quả, bất quá là đạt được sống lâu vậy. Và người học Phật ở đời có thể thành đạt kết quả có thể chấm dứt được sinh tử, rốt ráo Niết-bàn, độ khắp chúng sinh đều thành Chánh giác. Nên sự hơn kém ở Tam giáo hẳn đã hiển bày thấy rõ. Vì vậy, từng thí dụ như sở hành của Nho giáo là trong một nước, sở hành của Đạo giáo là khắp trên trời và ở nhân gian. Sở hành của Phật giáo là khắp cùng hư không khắp Pháp giới. Nho giáo, giống như bình trị một nhà, chỉ trong phạm vi bốn bức tường, những gì ngoài bốn bức tường đều không được kêu gọi. Đạo giáo như đứng đầu một thôn ấp cho đến bốn phía địa vức của thôn ấp, ngoài phạm vi bốn phía ấy thì bị khống chế, không được tư do. Phật giáo thì bao la, có cả bốn biển, là vua của thiên hạ, khắp cả trời đất, không ai chẳng là Thần dân, lễ nhạc, chinh phạt thảy đều do tự mình phát ra. Đó là bàn luận về sự rộng hẹp của Tam giáo. Người học Nho sau khi chết rồi, mọi việc chỉ trong một utră, năm, người học Đạo giáo, mục đích là cầu sống lâu đến ngàn muôn dặm. Người học Phật muốn dứt bỏ sinh tử, trạm nhiên thường trú, bởi vì trải qua kiếp số như bụi nhỏ, không có cùng tận. Nho giáo như một ngọn đèn chiếu sáng một đêm, đến lúc canh tàn chuông điểm thì dầu khô đèn tắt. Đạo giáo thì như ngọn đèn đốt sáng được trăm năm của vua A-xà-thế làm để cúng dường xá-lợi Phật, được trăm năm rồi, đèn ấy cũng sẽ tắt mất, Phật giáo thì như ánh sáng mặt trời chiếu soi, từ ngàn xưa vẫn thường soi sáng, lặn ở phía Tây, mọc ở phía Đông mãi tuần hoàn không dứt. Đó là sự bàn luận về thời gian lâu mau của Tam giáo.

Từ đó mà biết rằng có Pháp thế gian và Pháp xuất thế gian. Nho giáo và Đạo giáo là Pháp thế gian, còn Phật giáo thì khởi đầu là Pháp thế gian mà cuối cùng là để hiển bày Pháp xuất thế gian. Vì sao gọi đó là thế gian? Kinh Hoa Nghiêm nói: “Có thiên thế gian, có nhân thế gian, có Diêm-ma vương thế gian. Trong ba cõi đều gọi là thế gian vậy. Có Pháp đây khiến người luân hồi tuần hoàn không thôi, không ra khỏi ba cõi, gọi đó là Pháp thế gian. Giác tánh nhất chân khắp cùng trong mười phương, ba cõi không thể ràng buộc được, gọi đó là Pháp xuất thế gian.

Đức Phật dùng năm thừa để lập giáo, hai thừa đầu gọi là Nhân thừa và Thiên thừa và đó là Pháp thế gian. Ba thừa sau là Thanh văn thừa, Duyên giác thừa và Bồ tát thừa là Pháp xuất thế gian.

– Pháp của nhân thừa là năm giới:

1. Không giết hại, nghiã là phải tôn trọng sự sống, không được hung bạo đối với mọi vật, không chỉ không ăn thịt nó.

2. Không trộm cướp, nghĩa là vật phi nghĩa chẳng lấy, không chỉ không trộm cướp vật của người khác.

3. Không tà dâm, nghĩa là không loạn dâm với những người chẳng phải là chồng hay vợ mình.

4. Không nói dối, nghĩa là không dùng lời nói khinh người.

5. Không uống rượu, nghĩa là không say sưa, mà tu tâm, giữ được năm giới này tức là gây nhân làm người. Ngũ thường của Nho giáo cũng chính là ý nghĩa này vậy.

– Pháp của Thiên thừa tức là mười điều lành:

1, 2, 3,4 , bốn Pháp này ý nghĩa đồng như bốn giới đầu trong năm giới.

5. Không nói thêu dệt, nghĩa là không trau chuốt những lời nói sai sự thật.

6. Không nói lưỡi đôi chiều, nghĩa là nói việc người khác sau lưng họ.

7. Không nói lời thô ác, nghĩa là không mắng chửi, cũng là lời nói không Đạo đức, không nhân nghĩa.

8. Không ganh ghét, nghĩa là không ganh tỵ.

9. Không tức giận, nghĩa là không có tâm sân hận.

10. Không ngu si, nghĩa là phải biết rõ đối với mọi việc thiện ác.

Người tu cả mười pháp lành này, thì kết thành quả báo sẽ samh lên cõi trời. Chín chân Diệu giới của Đạo giáo cũng chính là ý nghĩa này. Nhân thừa tức là nơi gieo nhân con người, Thiên Thừa là nơi gặt hái kết quả của các cõi trời vậy. Đó là Pháp thế gian, Tam giáo đều có được. Còn ba thừa sau dẫn dắt đồ chúng đến chỗ siêu nhiên và xuất thế. Khiến thiện ác đều mất, thẳng đến mé chân, thần và thông ở Thế gian không thật có mà nhìn thấu suốt.

Hoặc có người thấy được “Khúc Học A Thế” của Công tôn Hoằng hay “Ngũ Kinh tảo địa” của Chúc Khâm Minh, hay Diệu lý của Dương Tử Vân Minh Thái Huyền mà ton hót Hán Công. Hứa Kính Tông biết Nghĩa của Đế Khâu mà mất thân nữ chúa, đó đều phát sinh từ Nho giáo. Đạo sĩ Thử nữa đêm vào giờ tý bày huyễn thuật mà khi dối Đông Pha. Lâm Linh Tố dùng thần tiên mà mộng hoặc Huy triều. Thần tiên trên trời có Trịnh Hóa Cơ mà thật là một kẻ ngu hèn, thần tiên dưới đất có Hà đắc Nhất, nhưng thật là một thường dân. Đó đều phát xuất từ Đạo giáo. Hồ Tăng chú thuật mà không thể giết chết Phó Dịch. Phật đá phát sáng mà không thể xem thường Trình Hạo. Răng Phật tuy linh mà vẫn bị bể dưới sừng dê của Phó Dịch. Răng Phật tuy thần nhưng vẫn tan hoại bởi lưỡi búa của Triệu Phụng. Đó đều phát xuất từ Phật giáo. Nói chung thì Tam giáo ở Trung Quốc đều chưa thể thuần túy hiển bày cái chánh chơn, làm sao mãi khư khư biện luận sự hơn kém ư? Hay là chẳng cần suy nghĩ lời tôi? Nho giáo dùng Cương Đại chánh trực để dạy người. Vì việc làm của Nho giáo phần nhiều trái với Đạo, đó đều là người tội của nhà Nho. Đạo giáo lấy thanh tịnh vô vi để dạy người. Vì phụng đạo mà cam tâm chịu theo tà thuật, đó đều là người tội của đạo giáo. Phật giáo lấy sự mến chuộng mạng sống làm Tâm, không cho dẫm đạp lên cỏ tươi, mà cho rằng nói ngữ chú đề giết người được sao? Phật dùng vô tướng làm Tông, không thể căn cứ vào thân tướng mà thấy được Như Lai, mà cho rằng nương vào hòn Đá xanh để mê hoặc mọi người được chăng? Răng mà có thể bể nát, đá chẳng phải răng vậy. Răng mà có thể tan hoại, ngụy chẳng phải chân vậy. Phàm nương cậy vào giáo môn để bày ra yêu dị hư ngụy, đều là người tội trong nhà Phật vậy. Kẻ ngu hèn có thể chấp vào đó để bàn luận về Tam giáo ư?

Hoặc có Người lại thấy Đạo giáo có “Hóa Hồ Kinh”, lại cho rằng Thích-ca và Văn-thù là do Lão Tử Y Hỷ hóa ra. Thấy Phật giáo có “Luận Phá Tà”, bèn cho rằng Phật sai ba đệ tử đến Trung Quốc để giáo hóa, trong đó, Khổng Tử là Bồ-tát Nhu Đồng. Nhan hồi là Bồ-tát Tịnh Quang và Lão Tử là Ma-ha Ca-diếp. Xét như vậy thì sự hơn kém trong tam giáo đâu dể dùng lập luận để luận bàn ư? Khổ nỗi không biết, những người viết hai sách ấy mỗi mỗi đều tự tôn mình mà đè nén kẻ khác, cho nên chỉ dựa vào không mà mất đi sự thật.

Vương Phù soạn thuật “Hóa Hồ Kinh”, nói Lão tử và Y Hỷ muốn giáo hóa người nước Hồ để thành Phật, bèn biến thân thành Phật Thíchca và Bồ-tát Văn-thù, mà sau đó, người Hồ (Ấn Độ) được giáo hóa. Vương Phù không nghĩ đến năm Phật ra đời là năm thứ 2 thời vua Chu Chiêu Vương và diệt độ ở năm thứ 52 thời vua Chu Mục Vương. Sau Phật diệt độ ba trăm bốn mươi hai năm mới đến thời Định Vương, Lão tử mới sinh ở tại huyện Sở Hỗ, làm quan dưới thời Chu Trụ Vương, khi đến ải Hàm Cốc mới gặp Y Hỷ, lúc ấy Phật đã diệt độ hơn bốn trăm năm. Đạo giáo ở đời sau mà biến thân thành Phật ở đời trước. Đó là Đạo giáo không đủ để giáo hóa người Hồ, phải mượn Phật để hóa độ người Hồ, Quan Bộc Xạ Dương Tố đời Tùy nói rằng: nghe Lão quân đến giáo hóa người Hồ, người Hồ sẽ không tin nhận, bèn cùng Y Hỷ biến thân thành Phật, người Hồ mới tin nhận. Xét vậy thì Lão tử không thể giáo hóa người Hồ. Người Hồ phụng thờ Phật Tố Minh. Dương Minh lại thường nói cùng Đaọ Lưu rằng: “Sao Lão tử không giáo hóa người Hồ vì Đạo mà hóa người Hồ rồi thành Phật?”. Há chẳng phải Đạo hóa không bằng Phật hóa sao?. Cho nên luận thuyết cưa Vương Phù là muốn khinh miệt Phật mà không dè rằng chính là đưa cao Phật lên.

Pháp Lâm soạn thuật “luận Phá tà”, đại khái cho rằng Phật giáo thấu suốt cội nguồn của muôn Pháp mà Khổng tử, Lão tử là riêng bình trị trong một khu vực, cho rằng có thể dùng để ngăn dứt Tà thuyết mà khai sáng kẻ tối tăm, hay Pháp Lâm không nghĩ Khổng Tử và Nhan Hồi nhất định không phải Bồ-tát, Lão tử chẳng phải là Ca-diếp. Muốn mình là chánh, nên vu báng người khác, đâu có thể tự mình ra khỏi sự vu khống ấy ư? Nên cho rằng Khổng tử và Nhạn hồi là Bồ-tát, còn chưa quá lắm, còn chỉ cho Lão tử là Ca-diếp thì thật rất sai lầm vậy! Ca-diếp được truyền riêng giáo pháp, làm tổ kế đức Phật Thích-ca. Bấy giờ, sự Huyền diệu tối thượng nhất thừa không thể truyền nói, trăm vạn trời người từ xưa đều mê lầm, chỉ một mình Ca-diếp đạt ý Pháp ấy thôi. Lão tử đâu phải là Ca-diếp biến hóa? Nên Ca-diếp truyền Pháp cho A-nan rồi liền nhập định ở núi Kê túc, đợi đến lúc Đức Di-lặc ra đời, Ca-diếp vẫn chưa xuất định. Cho nên nhục thân của Ca-diếp hiện nay vẫn còn ở trong định. Đó đủ chứng minh Ca-diếp không xuất định biến thành Lão tử vậy. Nều cho rằng Ca-diếp là Lão tử thì Lão tử là tổ sư của Thiền tông, chẳng là sai lầm sao? Vì vậy, luận thuyết của Pháp Lâm là muốn 29 khinh miệt Đạo giáo mà không dè rằng đó lại là tôn vinh Đạo giáo. Uổng lời soạn thuật, rất là giả dối vu khống. Người trí đâu dám nhận lấy ư?

Hoặc có người thấy Nguyên thánh tiên sinh nói: “Lời nói của Phật và Khổng tử làm trước sau lẫn nhau. Khổng tử và Phật vốn là một, chỉ vì môn đình thi thiết khác nhau”. Đó là Phật giáo và Nho giáo không hề chẳng hợp nhau vậy. Cư sĩ Khuê Đường nói: “Phật là sự cao tột của Tánh Đạo, là sự cao tột của Mạng, hai bên đối lập để giao tiếp thì sự nhiệm mầu của tánh mạng tiểu thiên mới hoàn toàn”. Đó là Phật giáo và Đạo giáo không hề chẳng đồng nhau. Thơ của phó Đại sĩ chép: Đội mũ Đạo giáo, mang giày Nho giáo, mặc ca-sa Phật giáo, hòa hợp ba nhà thành một nhà, Ba giáo này không hề không hợp thành một. Nay chỉ trưng bày ưu việt của Phật giáo mà chỉ trích khuyết của Nho giáo và Đạo giáo thì đâu hợp với ý của các bậc tiền hiền? Chỉ khổ nổi không biết lời nói của các bậc tiền hiền là phương tiện của các Ngài vậy.

Các nhà Nho được thời hành Đạo, nhậm chức ở quan, quyền hành ban cho hay chiếm đoạt, không gì chẳng từ trong tay họ. Nếu chúng ta tôn trọng Phật giáo mà khinh miệt Nho giáo, thì họ sẽ cậy vào Nho giáo mà đè ép Phật giáo. Lý Đức Dụ là tướng của Võ Tông phá hủy hơn bốn mươi ngàn ngôi chùa, ai là kẻ thật sự chủ mưu việc đó? Đạo gia nói Đạo là Đạo của họ, Đức là Đức của họ, trong tâm suy nghĩ, không khiến người được mà đè ép mình. Nếu chúng ta tôn trọng Phật giáo mà xem thường Đạo giáo, thì họ sẽ tôn trọng Đạo giáo mà Phế bỏ Phật giáo. Thôi Hạo tin theo Khấu Khiêm Chi mà giết Sa-môn, đốt bỏ kinh sách. Các việc ấy ai thật sự gấy ra? Nên nhớ như dùng Tâm Phương tiện mà nói Phương tiện. Cho rằng Phật giáo hợp với Nho giáo thì ngõ hầu không kích động sự tức giận của Nho giáo. Cho rằng Phật giáo đồng với Đạo giáo thì ngõ hầu không khơi dậy sự tranh chấp của Đạo giáo. Cho rằng Tam giáo đều có thể hợp thành một, thì như Nho giáo, Đạo giáo đều có thể dẫn dụ mà đến với Đạo Phật, nên cho rằng lời nói của các bậc tiền hiền là phương tiện của các bậc tiền hiền. Nhưng những kẻ ưa thích bàn luận ở đời, trong tâm mỗi người đều có chủ tâm nhiều tranh chấp, Nho giáo yếu kém thì bàn luận về Nho giáo, Đạo giáo yếu kém thì bàn luận về Đạo giáo, Phật giáo yếu kém thì bàn luận về Phật giáo. Tam giáo tuy bất đồng mà dự vào bàn luận thì chỉ có một. Tôi đem tâm bình đẳng để bình luận, thiết nghĩ cho sự bàn luận đó thật là đáng tội, thì họ nói không dung thứ đối với kẻ không khuất phục. Bàn luận với sự thật thì đã nói có khi tự khuất phục. Đó chẳng phải là đắc thất chí lý mà thôi và thiên hạ đời sau cũng không thể vu cáo vậy.

Nay xem xét sự bàn luận về Nho giáo thì Kiểu Mã Thiên nói: “Nho giáo tuy rộng rãi mà ít quan trọng. Vì vậy, lao nhọc mà vô công.” Chỉ nỗi không suy nghĩ không biết vật là điều xấu hổ của bậc Quân tử, mà Đạo lý trung thứ dùng để xuyên suốt tất cả, nên gọi đó là ít quan trọng. Chăm lo nướng mình suốt năm có thể gọi là lao nhọc, nhưng mà tu thân cho đến bình gia khắp cả thiên hạ, gọi đó là vô công được sao? Bởi vì sở học của Kiều Mã Thiên không phải là Nho học nên Kiều Mã Thiên không đủ để biết về Nho.

Trình Di là một nhà Nho, ông luận bàn về Phật giáo thì cho là Tà vạy yêu dị ngăn che tai mắt mọi người. Bởi vì Pháp Phật nói thì không bờ bến mà sự hiểu biết của Trình Di thì có giới hạn. Đối với Hê Dục mà bàn về kiếp sống, nên dùng Tà vạy yêu dị làm mờ mắt nó vậy. Nhưng Trình Di cũng thường trở lại suy nghĩ điều đó, Tà vạy yêu dị đối với Nho giáo thì có vậy. Kinh Dịch nói: “Thấy lợn vác bùn, một xe chở quỷ”. Kinh Thi nói: “Mạng Trời huyền diệu, chim bay lại mà sinh nhà Thương”. Sử nói: “Đến năm Giáp thân, ất dậu thì Cá, Dê ăn thịt người.” Truyện nói: “Tề Hầu thấy người đứng lên như heo mà khóc, đến lúc thần giáng vào Tân thạch thì nói đến thời nhà Tấn. Ngụy Khỏa thấy người già, Chồn Cáo chợt gặp Khỉ sinh”, gọi là Tà cũng được, gọi là yêu cũng được, là dị cũng được. Kinh Thi nói: “Đế Bảo Văn Vương rằng: Ta ôn hoài Minh Đức, trời chẳng nói từ lâu, bỗng nhiên có nói, người sao được mà nghe? Nay ta giữ mãi lời nói đó.” Nếu thấy được sự tiếp xúc nhau giữa tai và miệng ấy, thì không nói đó là tà vạy chăng? Vì Trình Di bài báng tà vạy yêu dị mà tìm cầu cái tà vạy yêu dị của các nhà Nho. Bởi vì cái không thể được mà ngăn cản đó.

Nay xem xét sự bàn luận về Phật giáo, thì đời Đường, có Phó Dịch là người tinh thông các sách thuật số, giữ chức Chưởng ty Thiên. Trước sau có đến bảy lần dâng sớ phế bỏ Phật giáo. Thời đó, có Lý Sư Chính soạn bộ “Nội Đức Luận” để biện luận. Luận ấy nói: “Phó Dịch cho rằng Phật giáo vốn xuất phát từ Tây Hồ (Ấn Độ), không nên phụng thờ ở tại Trung Quốc”. Thật không đúng vậy, Phù do Dư đến Tây Nhung giúp Tần Mục để khai có nghiệp, nói: Đạn sinh ở bắc Địch, hầu Hán võ mà trừ ách hại, đâu cần lấy đồng tục ấy mà lại bỏ sự khác nơi chốn kia? Ngựa giỏi nhất đàn, chẳng phải sinh ở trong thôn ấp, vật quý báu ở đời chẳng phải vật của các loài hoa, vì thế nên nhà Hán tìm Ngựa giỏi ở Tây vực, vua Ngụy thâu nhặt ngọc báu ở biển nam. Vật sinh ở xa còn quý trọng như thế, Đạo phát xuất từ nơi xa, làm sao mà có thể phế bỏ?

Nếu các phương thuốc xuất phát ở Nhung Di, Cấm chú Khởi ở Hồ Việt, có thể trừ bệnh trừ tà, đâu thể bảo nó từ xa lại mà không dùng? Phàm dứt trừ tám khổ, nếu dùng đến thuốc thường, đó là trừ bệnh đã lâu dài vậy, diệt ba độc để chứng Vô Vi thì đó là trừ Tà càng thành đạt vậy. sao phải câu nệ xa gần mà tính chuyện thân sơ? Phó Dịch nói: “Trong Kinh thi không nói đến”, vì là Tu-đa-la không đủ, cũng lại không nên. Vả lại, vật mà Chu Công Đán và Khổng Tử chưa nói thì nhiều vô cùng, và việc kinh Thi chưa chép lại lai láng vô hạn. Sao có thể câu nệ bó buộc trong lục kinh mà đặc biệt yếu chỉ chung của Tam thừa ư?

Đức Phật chưa hưng khởi ở thời thượng cổ, hàng Thánh nhân khai nghiệp ở hậu lai, cho nên Đống Vũ dời đổi chuồng ổ mà ở, đó là chế độ bó buộc ở thời đại văn tự. Tập tục ăn lông uống máu, tuy trước kia dùng, nhưng không phải quý. Công phu tạo lửa để nấu nướng thức ăn tuy có sau nhưng chẳng phải là xấu tệ. Đâu có thể lấy Kinh thi truyền bá trước mà đáng tôn sùng. Tu-đa-la có đến sau đáng xem thường ư? Phó Dịch nói: “Phật là khí của Yêu mị, chùa là nơi cúng tế dâm tà”. Đó cũng thật không biết suy nghĩ! Xưa kia, từ thời Đông Hán đến thời Đại Đường, đời đời đều cấm lời yêu, nơi nơi thảy dứt cúng tế tà vạy. Lẽ nào nhân xả bỏ của cải sức lực mà xây dựng điện đường của Ly mỵ, thả hàng sĩ Dân vào làm Đồ chúng của Vọng lượng? Huống gì các hàng tể bổ quan Cái, nhân luân đạo đức, hàng Vua chúa suy lượng; bọn Đới Đạt Hứa Tuần đều để tâm mà kính tin, và vâng theo lời dạy mà quy y. Lẽ nào là tôn sùng yêu mị mà tự khuất phục sao? Chỉ bởi những hạng người ấy thấy được chỗ huyền diệu biết được điều Chơn nên khiến họ nhu vậy. Phó Dịch nói: “Đời nhà Triệu, nhà Lương đều có hạng tăng phản nghịch”. Đó lại là lời nói không suy nghĩ. Nếu dùng việc ngày xưa có hạng tăng phản nghịch mà phá bỏ các Pháp ngày nay. Đâu có thể vì xưa có thần phản nghịch mà nay chẳng dùng Dân sĩ thông minh, đâu thể vì xưa có dân loạn mà nay không nuôi dưỡng Dân đen? Học trò có tội đâu phải lỗi của thầy giáo. Tăng sĩ làm sai đâu phải lỗicủa Đức Phật. Tăng can triều hiến ni phạm tục hình thí như tụng luật mà khoét vách, như đọc sách Lễ mà làm kẻ ở đậu. Chỉ nên răn cấm điều sai trái để mở mang Đạo Pháp, không thể vì người mà phá hoại Đạo. Phó Dịch nói: “Đạo Nhân đều là giống chim kiêu ác độc tham nghịch”. Đó cũng là lời nói không suy nghĩ. Phàm người bỏ tục tu Đạo, nên gọi là Đạo Nhân, đối với các loài bò bay máy cựa cũng không có tâm hại nó, huống gì hành động giống như chim kiêu chim kính ư? Lễ cưới xin còn bỏ không làm, huống là làm tâm loài cầm thú? Sao lại dẫn trích hàng thượng nhân ly dục mà sánh với loài vật thấp kém lấm trần? Hủy mọi hạnh lành của Đại bi mà so với loài chim xấu bất tường? Lấy Đạo Nhân làm giống nghịch, so hàng Phạm hạnh với loài tâm dã thú. Phá hại sự tốt lành có gì hơn vậy ư? Phó dịch nói: “Người Hồ ở phương Tây nhân bùn mà sinh, do đó nên phụng thờ bùn ngói”. Đó cũng là lời nói không suy nghĩ. Vả lại, các miếu ở Trung Quốc thì xây dựng bằng gỗ là chính, đâu thể cho rằng chế lễ quân tử đều từ gỗ mà dưỡng thành ư? Đối với người thân không thể quên cho nên làm vị thần đứng đầu để biểu lộ lòng biết ơn vô cùng. Không thể quên Phật nên lập hình tượng để kính thờ như Ngài còn tại thế, khâm kính bậc thánh đức có gì mất mát ư? Phó Dịch nói: “Đế Vương không Phật thì nước bình trị lâu dài. Từ sau khi có Phật thì chánh sách bạo ngược, vận may ngắn ngủi”. Không nghĩ rằng Đức Phật thiết giáo, đâu lấp bít những việc bạo ngược loạn dâm. Bồ-tát mở lời đâu mở mang những việc của vua Trụ, vua Kiệt. Cái Đức của Phục Hy, Hiên Viên, Đế Thuấn, Hạ Võ đều bao gồm trong sáu độ. Cái tổi của Nghệ (? ), Trác (? ), Tân (? ), Quý (? ), tất cả đều là mười ác để giữ phòng giới cấm. Xoay về khiến vua Kiệt tuân theo giác lý mà ít muốn, vua Trụ thuận với Đại Đạo từ bi thì Y Doãn và Lữ Thượng không thể dùng mưu của họ. Và Vua Thang vua Võ làm sao thực hành được kế của họ. Phó Dịch nói: “Trước lúc chưa có Phật thì mọi người thuần hòa, ở đời không bạo ngược”. Chẳng nghĩ rằng Cửu lê loạn đức chẳng phải là thời kỳ chưa có Phật, Tam Miêu (? ) nghịch mạng chẳng phải sau khi đã có Phật. Cuối đời nhà Hạ nhà Ân làm gì có thuần hòa? Thời Xuân thu đâu phải không có việc bạo ngược! Giáo lý nhà Phật là khuyên thần trung tín, khuyên con hiếu hạnh, khuyến khích Quốc gia bìmh trị, gia đình hòa thuân. Mở rộng điều lành thì chỉ bày sự vui ở cõi trời, làm điều sai quấy thì chỉ bày cho thấy cái khổ ở chốn địa ngục. Ấy vậy mới đáng gọi là tổn thương hòa thuận mà thêm nhiều loạn lạc, đâu phải vu báng lắm thay! Và thương tổn gì đến Phật pháp ư? Chỉ tự đắm chìm trong biển khổ. Phàm đem những lời của Phó Dịch mà tha hồ phỉ báng hay đem luận lý của Sư Chính mà soạn thuật biện luận sai lầm, phải trái quanh co, đều rất rõ ràng, thiên hạ muôn đời đều có thể thấy.

Sau đó, có Hàn Dũ, người này bái bác Phật giáo cũng như Phó Dịch. Nguyên nói về cốt Phật, Hàn Dũ diễn giải chương sớ của Phó Dịch. Phó Dịch phỉ báng Phật giáo, trước kia có Sư Chính biện luận sự mê lầm của Phó Dịch. Còn Hàn Dũ phỉ báng Phật sau này, không một ai bàn luận đến lời quấy rối của Hàn Dũ cả. bởi vì Phó Dịch là quan Thái sư lệnh, là nghề nghiệp riêng biệt của ông ta. Hàn Dũ dùng văn chương để diễn giải, hơn nữa, Hàn Dũ là một nhà Nho. Nói về nghề nghiệp thì có người khác cùng biện luận phải trái. Còn nhà Nho luận bàn thì thế tục thường không dám nói tới điều ấy ư? Theo tôi thì lời nói đúng lý tuy không phải là nhà Nho cũng phải tuân theo. Còn lời nói sai lầm vu khống, tuy của nhà Nho cũng có thể không theo. Hàn Dũ không rõ Đạo Phật mà lại luận bàn khiến ông ta nói ra dẫn đến sai lầm đời sau vậy.

Hàn Dũ nói: “Phật là một trong các Pháp của Di Địch”. Ong thấy

Phật pháp từ Tây Vực truyền đến Trung Quốc, bèn theo đó mà phá hoại. Thật là không biết Phật sinh ở Thiên Trúc mà Ngũ Ấn là cùng đất chính giữa của Diêm-phù-đề ở phía Nam nên Phật giáo lấy đó làm trung tâm vậy. trong “Hậu Hán Thư” viết: “Phật đạo thần hóa phát xuất từ nước Thân Độc, nước đó thạnh vượng phong nhiêu hòa khí nên các nhà Nho cũng cho đó là chính giữa vậy. Vì thế mà biết đây có một Trung Quốc và kia cũng là một Trung Quốc, vậy mà gọi kia mọi rợ được chăng? Sự rộng lớn của trời đất thật không cùng tận vậy. Liệt Tử nói: “Vô cực lại vô cực, cô tận lại vô tận”, nên biết nó vô cực vô tận nhưng không biết nó có cực có tận. Vua A-dục cất giữ xá-lợi-Phật ở cõi Diêm-phù-đề có đến tám mươi bốn ngàn nơi, mà hiện nay ở Trung Quốc chỉ thấy một trăm mười chín chỗ, thì Trung Quốc đối với cõi Diêm-phù-đề đâu khác gì hạt gạo giữa trời xanh. Làm sao biết được đây thật là trung tâm mà kia chẳng phải là trung tâm ư? Cái thấy của Hàn Dũ thì chỉ biết trong phạm vi bốn biển chín châu là Trung Quốc. Ngoài bốn biển chín châu là bốn thứ mọi rợ. Ngoài ra, không còn biết có gì nữa, đâu biết ngoài bốn thứ mọi rợ ra còn có cái chẳng phải là mọi rợ! Cái thấy của Hàn Dũ như ếch ngồi đáy giếng mà nhìn trời. Trái lại, không phải vậy, trong Bắc sử viết về nước Đại Tần, cách Châu u mấy muôn dặm, ở ngoài các nước mọi rợ, ở nước đó, các thứ lễ nhạc áo mão, chế độ văn chương, đều hưng thạch như ở Trung Quốc, nên gọi là Đại Tần, và cùng như Đại Hán Xỉ. Do đó mà quán sát thì ngoài bốn thứ mọi rợ còn có Trung Quốc, mà” Hậu Hán thư” gọi” Thân Độc” là Trung Quốc vậy. Người tin được, hẳn không bài bác vậy. Ếch ngồi đáy giếng không đủ sức để nói về việc biển cả. Nên Phật giáo chẳng phải là chỗ mà Hàn Dũ có thể biết được vậy.

Hàn Dũ nói: “Vua Thuấn, vua Võ làm vua trăm năm, lúc đó tại Trung Quốc không có Phật, đến thời Hán Minh Đế mới có Phật pháp. Vua ở ngôi chỉ được mười tám năm”. Thật là không biết! Số hạn ngắn dài tùy thuộc nghiệp thiện ác, mà Quả báo thiện ác chung cho cả ba đời, nên nói” muốn biết nhân đời trước cứ xem sự hưởng thọ ở đời nay, muốn biết quả ở đời sau hãy xem nhân gây ra ở Hiện tại”. Vì vậy mà biết sự ngắn dài ở đời này là do nghiệp thiện ác ở đời trước, và nghiệp thiện ác ở đời này lại làm nền tảng cho sự dài ngắn ở đời sau. Hưởng thọ ngôi vị Đế Vương lâu dài là do đời trước khéo làm việc lành nên vận may dẫn dắt đến thế. Còn đời trước làm ác, đâu thể theo đó mà lấy việc trước mắt để luận bàn. Lại nữa, đâu phải vì có Phật hay không Phật mà gây ra như thế ư? Đức Khổng Tử nói” Người có đức Nhân thì thọ”. Vậy có đức Nhân thì chắc chắn sống lâu, người không có đức Nhân chắc chắn chết yểu. Vậy, khắc kỷ giữ lễ, đoái lại, có thể gọi là đức Nhân, mà đoái lại trái ngược chết yểu, sự can đảm của Quan đầu bếp có thể gọi là Bất nhân vậy. Đâu thể cho rằng lời nói của Đức Khổng tử không có kiểm nghiệm mà không theo sự chỉ dạy của Ông ư? Bộ” Hồng Phạm” lấy năm Phước sáu Cực để dạy người. Hợp với Cực thì Phước mà thọ, trái lại với Cực thì Họa và Hung. Ngắn ngủi như vua Văn Đế và Cảnh Đế nhà Hán là vị chúa rất có đạo, chỉ có Hoàng Tác Cực, hai vua nên không hổ thẹn vậy. Mà Hiếu Văn Đế ở ngôi hai mươi ba năm, chỉ bốn mươi bảy tuổi, còn Hiếu Cảnh Đế ở ngôi chỉ mười sáu năm, bốn mươi tám tuổi. Tính theo lịch số đều chưa đến một đời, và sống ở đời chưa đến tuổi Hạ thọ. Đâu có thể nói thuyết trong” Hồng Phạm” vu cáo mà đốt bỏ sách ấy đi. Chỉ có thể chứng minh bằng thuyết nhân quả mà kê cứu cả ba đời lâu dài, thì mới có thể rõ ràng không ngại vậy. Còn như Hàn Dũ cương quyết nói không có Phật mà hưởng thọ lâu dài thì vua Thuấn vua Võ làm vua cố nhiên đều đến trăm năm cả, nhưng Võ Tông đời Đường phá Phật, sao làm vua chỉ được sáu năm và chỉ ba mươi ba tuổi ư? Nếu nói có Phật mà chết yểu, thì Hán Minh Đế làm vua mới mười tám năm vậy, sao Lương Võ Đế kính thờ Phật mà làm vua bốn mươi tám năm và thọ đến tám mươi sáu tuổi ư?

Hàn Dũ còn nói: “Tôn giáo ngày xưa chỉ có một, ngày nay có đến ba, từ thời thượng cổ đến nay chỉ có Nho giáo, còn Phật giáo ngày nay tợ như bám víu vậy”. Thật là không biết, Phật giáo lập giáo đâu có trái với Nho giáo, nên Phật giáo dạy người cũng không khác Nho giáo vậy. Các nhà Nho mở mang giáo lý trong kinh thi, kinh thư, lễ, nhạc mà phụ vào đó bằng uy phước hình chính. Chẳng qua là muốn thiên hạ tìm đến hiền thiện mà lánh xa tội lỗi, cố nhiên có thưởng mà chẳng khuyến khích và trị phạt. Ấy là đề xướng Diện mạng mà không bao giờ đem dạy người, đến khi nghe Phật nói làm lành được Phước làm ác có tội, thì mọi người đều bỏ ác để làm thiện. Đó là Giáo lý của Phật giáo, đâu khác gì Giáo lý của Nho giáo ư?

Tống Văn Đế nói với Hà Thượng Chi: “Thích thấy Nhan Diên Tống Bình soạn luận phát minh Phật Pháp, rất là có lý, nếu khắp nơi đều thấm nhuần sự giáo hóa ấy thì Trẫm có thể ngồi khoanh tay đến khi thái bình vậy”. Hà Thượng Chi nói: “Một thôn; trăm nhà có mười người giữ năm giới thì mười người thuần cẩn, một ấp ngàn nhà có một trăm người tu theo mười điều lành, thì có trăm người hoà mục. Đem phong hóa ấy dạy khắp mọi nơi cùng cả ngàn ức thì người lành có đến trăm vạn. Nếu hay thực hành một việc thiện thì bỏ đi một việc ác, bỏ đi một việc ác thì dứt một hình phạt. Một hình phạt chấm dứt ở một nhà, thì muôn hình phạt chấm dứt ở trong nước, đó là điều mà Bệ hạ nói đạt đến thái bình vậy”.

Trong lời tựa bài Sớ Tống Sa-môn của Lý Tiết đời Đường nói: “Giáo lý Phật giáo lấy thanh tịnh hoạt hư làm thiền định, lấy nhu khiêm thối nhượng làm nhẫn nhục, nên oán tranh có thể dứt trừ. Lấy đạm bạc cần khổ mà tu hành, lấy cùng đạt thọ yêu làm nhân quả nên ít sai lầm mà được an vậy. Khắp luân thường thế tục, không có Phật giáo để cải hoà tâm người, thì kẻ mạnh phấn chấn tính nghĩ việc đấu tranh, người trí lắng lặng mà suy lường mưu kế, người ở nam bắc tương phân mà đồng khởi vậy”. Lữ Hạ Liêu được vào kinh đô nói: “Hàng tiểu nhân không sợ hình ngục, chỉ sợ Địa ngục. Nếu người trong thiên hạ đối với mọi việc lớn nhỏ đều có nhân quả thì đâu dám tự khinh tâm mình. Không có việc xâm lăng tranh đoạt thì đâu không xếp đặt mà khổ nhọc trị đời ư?” Do đó mà quán xét thì Phật giáo có sự giúp sức trong việc giáo hóa thế gian rất lớn vậy. Và đâu xấu ác gì trong tam giáo ư?

Hàn Dũ còn nói: “Một người làm nông mà sáu người ăn, như vậy làm sao dân không nghèo khổ và tệ hại trộn cắp được”. Ấy chính là cho hàng Tăng sĩ Phật giáo không cày cấy mà ăn, gây ra sự nghèo khổ cho dân và sinh tệ hại trộm cắp vậy. Hay không nghĩ ở đời hạng người không cày cấy mà ăn, đâu chỉ riêng hàng Tăng sĩ Phật giáo ư? Công Tôn Sửu hỏi Mạnh Tử rằng: “Kinh Thi nói: Chẳng ngồi không mà ăn vậy. Quân tử không cày cấy mà ăn là sao?” Mạnh tử nói: “Quân tử đứng đầu Quốc gia, nên Quân tử mà sử dụng thì đất nước được an ổn, giàu có tôn vinh, và con em Họ theo Anh hiếu để trung tín”, không ăn chay, giữ gìn việc đó. Nay tôn Phật làm thầy, chẳng ngồi không mà ăn, im lặng thì thành thật, nói năng thì hiền thiện, dẫn đến khuyên người bỏ ác hướng đến tốt lành, mọi người lấy đó khuyến hóa nhau khắc kỷ, giữ gìn trai giới, mến thích sợ sống, ngăn dứt sự giết hại, tụng Kinh niệm Phật, sửa tâm đổi hành vi làm nhân từ, làm hiếu hạnh, làm cung kính. Như người hằng ngày có điều lành mà chẳng tự biết thì không ăn chay. Có gì lớn hơn việc ấy ư! Vậy sự khốn khổ và tệ hại trộm cắp trong Dân có quan hệ gì với Phật giáo chăng? Kinh Thi nói: “Tiểu Đông đại đông, then chốt ở Hản”. Truyện nói: “Dân có hiện tượng Đói kém, ngoài Đồng có kể chết đói. Đó là sự khốn cùng của Dân vậy”. Thời ấy ở Trung Quốc không có Phật. Kinh Thư nói: “Trộm muông sinh của thần kỳ, dùng thuần muông để mong cầu”. Phó Dịch lại nói: “Trộm cắp không thể gạn hỏi và dứt tuyệt, lại cũng không thể ngăn cấm sự trộm cắp trong dân”, thời đó ở Trung Quốc không có Phật vậy. Khoảng niên hiệu Trinh Quán thời vua Thái Tông, Phật giáo rất thạnh hành, tăng ni nhiều không thể tính kể, thực dụng rất rộng rãi mà ngoài dân chẳng đóng cửa hiệu, chẳng than lo lương thực. Sao thời ấy Dân không khốn cùng không trộm cắp? Khoảng niên hiệu Khai Nguyên thời Vua Minh Hoàng, tăng sĩ Phật giáo càng đông nhiều. Tăng ni không giảm bớt so với thời Trinh Quán và sự thực dụng cũng không giảm đi so với thời Trinh Quán. Trong thời ấy ở thiên hạ mọi việc tham lam, phá hoại, trộm cắp đều dứt tuyệt, sao bấy giờ dân không khốn cùng, không trộm cắp ư? Vậy biết rằng dân khốn khổ và trộm cắp quyết chẳng phải do Phật giáo gây ra. Nếu hẳn nói có Phật mà dân khốn cùng, sao như thời vua Thành thang không có Phật mà cũng có nạn khốn cùng? Nếu như nói có Phật mà Dân sinh trộm cắp, thì thời Lý Khương tử không có Phật mà vẫn có nạn trộm cắp ư?. Khổng tử chẳng muốn thưởng ban kẻ chẳng trộm cắp. Vì sao lại nhiều người xuất gia ư?

Hàn Dũ lại nói:”Bỏ cả Vua tôi, bỏ cả cha con”. Ấy là chỉ cho người xuất gia mà nói vậy, tiếc rằng không nghĩ Tử Lăng xấc láo với Quang võ mà cày cấy ở Phú Xuân, Âu Dương Công ca ngợi đó là sự thanh bạch của bậc thánh, còn chưa từng nói là Vua tôi. Thái bá bỏ Thái Vương mà trốn đến Hình Man, Khổng tử khen là đức cao thật, mà chưa từng nói là bỏ cả cha con. Lấy đó để so sánh thì Phật đâu có gì quá lắm ư? Huống gì cát ái xuất gia, không phải chỉ riêng làm cho bản thân mình được tốt. Khi thành Đạo chứng quả, sẽ hóa độ khắp tất cả chúng sinh. Trong kinh Pháp Hoa nói rằng: “Ta và tất cả chúng sinh đều cùng thành Phật đạo”, huống gì đối với Vua tôi cha con ư? Nên đối với Vua của người thường chẳng qua hết mực cung kính và tin thuận mà trong Phật giáo đối với Vua, với cha thì có thể dùng Chánh Pháp để khuyến hóa. Đối với Con em của người thường chẳng qua là rất mực mến thương còn con em trong Phật giáo thì có thể dùng chánh Đạo để chỉ dạy cho. Vua Diệu trang nghiêm là Vua cha của Bồ-tát Dược Vương, nhờ Dược Vương xuất gia nên Vua Diệu Trang Nghiêm cũng xuất gia, nhân đó mà được đoán trước là sẽ thành Phật đạo. La-hầu-la là Trưởng tử trong dòng họ Thích, từ sự Đức Thế tôn Thích Ca xuất gia mà La-hầu-la cũng xuất gia, nhân chứng đắc mật hạnh mà được đoán trước sẽ là thành Chánh giác. Từ đó mà quán xét thì người xuất gia đâu cô phụ Vua tôi cha con ư? Huống gì tâm của người thì có thân sơ mà Tâm Phật thì không thân sơ, tâm của người thường có hạn lượng mà Tâm Phật thì không hạn lượng. Người thường biết có Vuacha của chính mình mà Phật thì không khác vậy, nên trong Kinh Viên Giác nói: “Xem kẻ oan gia như cha mẹ mình”. Người thường chỉ biết có con cháu của mình, mà Phật thì không phân biệt vậy, nên trong Kinh Hoa nghiêm nói: “Xem tất cả chúng sinh bình đẳng như con một”. Tâm lượng như vậy, Hàn Dũ làm sao hiểu thấu nổi!

Hàn Dũ lại nói: “Đạo Phật cấm tương sinh dưỡng”. Há chẳng nói cưới vợ gả chồng do đó sinh ra dưỡng nuôi con cháu. Phật răn cấm nữ sắc, do đó mà cấm sự sinh ra và nuôi dưỡng. Thật là không biết, Phật giáo chế giới tự có đốn tiệm, đâu từng khiến mọi nguời là người trượng phu rộng lượng, mọi người là những người nữ oán thù. Nếu vì người xuất gia mà nói Giới Bồ-tát thì gọi là “Lìa phi phạm hạnh”. Vì người tại gia mà nói giới Ưu-bà-tắc thì gọi là “Lìa tà dâm”. Lìa phi phạm hạnh tức là dứt hẳn dâm dục, lìa tà dâm tức chẳng xâm phạm đến vợ người. Trong kinh Bát-nhã nói: “Bồ-tát dứt bỏ dục, xuất gia tu hành phạm hạnh chứng được Bồ-đề”. Kinh Lăng-nghiêm chép: “Tâm dâm chẳng dứt bỏ thì không thể ra khỏi trần lao”. Nếu người không dứt bỏ dâm dục mà tu hành thiền định thì như nấu cát đá mà mong thành cơm, dù trải qua nhiều kiếp cũng chỉ gọi đó là nấu cát. Đó là vì người tu giới Bồ-tát mà nói vậy. Trong Kinh Sinh Thiên Thập thiện nói: “Trọn đời không tà dâm, cho nên được sinh lên cõi trời”. Luận Tỳ-bà-sa chép: “Nếu chế phục vợ mình thì các hàng Vua chúa, tể quan, trưởng giả không thể xả bỏ vợ con của chính mình. Phật chỉ răn dạy không xúc phạm vợ người khác”. Đó là vì người giữ giới ưu-bà-tắc mà nói vậy. Chỉ ở Nho giáo lập giáo răn cấm đối với sắc, cũng do đó mà răn cấm nữ sắc, chứ chẳng răn người cưới vợ, thật khế hợp với quan Tư Đồ giáo dục nhân luân, thì gọi là “chồng vợ có sự riêng biệt”, nhà nhà vẽ họa treo nghĩa khí ấy ở trong nhà, thì gọi là “chồng chồng vợ vợ”. Tốt lành thay! Sống Hán thì hàng Hảo Hán đi qua, còn người nữ thì không thể mong cầu suy nghĩ. Nhìn cửa nên theo dấu chân Lân thì hàng Công tử ở thời đại suy bại không phạm phi lễ. Đó đều gọi là không xúc phạm đến vợ người khác vậy. Đó tức là sự răn cấm không tà dâm của Phật giáo vậy. Nên Cư Sĩ Duy-ma-cật cũng có vợ con nhưng thường có tâm xa lìa. Trong Kinh Lăng-nghiêm chép: “Người đối với vợ con mình mà chưa thể xa lìa, thì được Phước sinh lên các cõi trời. Đâu từng cấm ngăn đạo sinh ra và nuôi dưỡng.

Hàn Dũ lại nói: “Sao có việc xả bỏ đạo thánh nhân, bỏ pháp của Tiên Vương mà theo giáo lý của bọn mọi rợ để cầu phước lợi”. Xem xét lời của Hàn Dũ thì Hàn Dũ rất không biết gì về Phật giáo. Bởi vì Phật dạy người, cho người học Phật. Phật giáo đâu nhọc lòng khư khư đối với nơi Phước lợi? Phật vì một việc nhân duyên lớn nên xuất hiện ở đời, chúng ta cũng vì một việc nhân duyên lớn nên quy hướng về Phật. Điều gì Phật khen ngợi thì nương theo đó mà thực hành. Điều gì Phật răn cấm thì tuân theo mà gìn giữ. Từ quyền mà đến thật, từ tiệm mà đến đốn, mong để rõ tâm thấy tánh, vượt thoát sinh tử, đạt đến Phật quả, vậy phước lợi gì ư? Nên nói về năm thừa Phật giáo thì: Nhân thừa nghĩa là giữ được năm giới thì phước báo sẽ được làm người. Thiên thừa nghĩa là tu được mười điều lành thì phước báo được sinh lên cõi trời. Hai thừa này, có thể nói là phước lợi vậy. Còn ba thừa sau thì phải dùng lý quán, không thể nói là phước lợi. Lý của ba thừa cố nhiên không dễ nói. Nói về dấu tích thô phù thì địa vị của Thanh Văn Duyên Giác chẳng qua là giai vị dừng nghỉ, phải đạt đến giai vị Phật Bồ-tát, sau đó mới là chỗ cao tột của lý. Người xưa nói: Phật là quả vị cùng cực, nghĩa là muôn thiện muôn lý trong thiên hạ, thì đạt đến Phật quả là cùng cực vậy. Người học Phật ngày nay là mong đạt đến cái cùng cực ấy, vậy phước lợi là gì ư? Chu Mẫn Yêm khi nói về Phật giáo cũng cho rằng: “Vì Phật giáo có thuyết không tịch, cho nên chẳng hệ lụy đối với vật dục, thì mọi hiền sĩ ở đời đều ham thích vậy. Vì Phật giáo có thuyết huyền diệu nên chẳng dính mắc nơi hình tướng, thì những người trí ở đời đều vui thích. Vì Phật giáo có thuyết sinh tử luân hồi nên tự cho rằng có thể không trầm luân trong tội khổ, thì bao kẻ tôi tớ xăm mình, cắt tóc, trộm cướp cũng khúm núm mà nương theo. Như cái gọi là phước lợi mà Hàn Dũ nói chính là điều mà Chu Mẫn Yêm nói là tôi tớ tội xâm mình, cắt tóc, trộm cướp cũng nương theo như vậy. Hàn Dũ không biết Phật là như vậy mà ngang nhiên phỉ báng Phật, chính như con chó của đất Việt không biết tuyết và con chó của đất thục không biết mặt trời mà cứ sủa cũng vậy.

 

QUYỂN HẠ

Hàn Dũ lại nói: “Thân Phật chết đã lâu, xương cốt khô mục là vật dư thừa sót lại của sự dơ bẩn, đâu nên đem vào cung cấm,” Hàn Dũ so sánh Xá-lợi của thân Phật với xương khô của người thường, sao không biết sợ hãi đến thế ư? Trong kinh Đại Bát Niết-bàn nói: Bấy giờ, Đức Thế tôn dùng năng lực Đại bi, từ trong tâm não phát lửa ra ngoài kim quan, từ từ thiêu đốt thân vàng thành mạt Xá-lợi. Do đó mà biết xương Phật tức là Xá-lợi Phật vậy.

Niên hiệu Xích Ô thứ tư (21) thời Ngô Tôn Quyền, Tam tạng Khương Tăng Hội người nước Khương Cư đến Kim Lăng. Tôn Quyền mời đến hỏi về tình hình, Khương Tăng Hội nói: “Đức Như Lai Đại Sư diệt độ đã ngàn năm nhưng linh cốt Xá-lợi thần ứng không gì bằng.” Từ đó, chay tịnh khẩn cầu đến ngày thứ 21, bỗng nghe trong vạc có tiếng động, đứng dậy nhìn trong bình thấy có năm màu biểu hiện. Tôn Quyền cùng với Công Khanh dân chúng đều cùng nhau xem, nói: “Thật là điềm lành hiếm có ở đời vậy.” Bảo lực sĩ đập vào đó, chày đá bị vỡ vụn, ánh sáng vẫn tự nhiên, bèn xây tháp phụng thờ tại đó và chỗ đất ấy tôn xưng làng Phật-đà. Lại nữa, tại Viện Tinh Nghiêm ở Tú Châu có một Xá-lợi, cứ một ngày hành đạo, một ngày nhập định, hành đạo tức xoay chuyển không ngừng, nhập định là vắng lặng bất động. Thiền Sư Tung soạn “Hành Đạo Xá-lợi ký” để nói về sự linh nghiệm của đạo ấy vậy. Các học giả trong chín học thuyết thời Tam Quốc đều phân vân, cho rằng Đạo ấy cùng với Phật không hề có khác nhưng xét sự linh nghiệm ấy thì không có trong thiên hạ, đua nhau tôn xưng là Thầy. Và cho rằng Phật không đủ để so sánh với Thánh Hiền đó. Đến khi Thiền Sư Tung qua đời chưa được mấy ngày mà thân hình thối rửa và chưa được trăm năm thì xương mục nát. Thần ấy chẳng thế đâu có gì hoảng hốt, há đạo ấy cũng có kịp với Phật ư? Nhưng người thấy Xá-lợi ở trong thiên hạ xưa nay có nhiều, hoặc xổm vẩn theo hư không mà liệng quanh, hoặc chẳng đầu mối mà đến, hoặc phát sáng đồng như mặt trời, mặt trăng, không thể nghe, không thể phá vỡ. Nếu hành đạo ngày đêm như vậy mà không dừng nghỉ, trong thiên hạ không hề có vậy, nâng tháp mà kính thờ thì chuông vàng càng chuyển. Nếu cùng với ý người và tương ứng khác thì tốt, nhưng thần kỳ của Xá-lợi là như vậy mà đem sánh ví với xương cốt của người thường được ư? Liệt Tử nói: “Sống thì vua Nghiêu vua Thuấn, chết thì xương thịt thối nát.” Nên tuy khen ngợi tốt lành cho là lớn và hóa thánh mà không thể biết thì đều chưa khỏi ư? Thịt sống hôi thối cùng mục nát như cỏ cây, nó có thể như xương cốt Phật cả mấy ngàn năm mà thần kỳ lạ lùng, cùng làm tốt lành phước đức cho đời sau?

Hàn Dũ lại nói: “Hãy vất bỏ xương ấy trong nước lửa.” Nhưng sau đó biết được việc làm của bậc đại thánh nhân vượt hẳn người bình thường cả muôn muôn lần. Há không biết Phật là bậc đại thánh, sao Hàn Dũ điên đảo sai lầm loạn lạc đến thế ư? Trương Vô Tận hỏi Thiền Sư Đại Huệ rằng: “Các vua Nghiêu, Thuấn, Võ thang đều là thánh nhân, sao Phật chẳng hề nói đến?” Đại Huệ hỏi: “Các vua Nghiêu, Thuấn, Võ, Thang so với trời Phạm Vương Đế Thích có hơn kém nhau chăng?” Trương Vô Tận thưa: “Các vua ấy đâu có thể sánh với trời Phạm Vương Đế Thích”. Đại Huệ nói: “Phật cho Phạm Vương, Đế Thích là hàng phàm phu, ngoài các vị ấy thì có thể hiểu. Ông là người đánh nhịp lấy làm lý luận cao siêu.” Do đó mà quán xét thì các vua Nghiêu, Thuấn, Võ, Thang còn cách xa so với Trời Phạm Vương Đế Thích, mà trời Phạm Vương Đế Thích vẫn còn là Phàm Phu. Tự các vua Nghiêu, Thuấn, Võ, Thang cho đến Văn Vương, Võ Đế, Chu Công Đán, Khổng Tử, các nhà Nho đều được tôn xưng là Thánh. Ở đó, những người như Bá Di, Y Doãn, Liễu Hạ Huệ, mỗi vị đều nhờ một hạnh lành mà được mọi người biết tiếng, cũng tôn xưng là Thánh, mà trong các Thánh chắc chắn có bậc Đại Thánh. Tể Ngã nói: “Với sự nhìn nhận của tôi về Khổng Tử, thì các bậc hiền như vua Nghiêu, vua Thuấn cách xa vậy”. Từ lúc có sinh Dân trở lại, chưa lúc nào thạnh như thời Khổng Tử, nên Khổng Tử là bậc đại Thánh nhân của các nhà Nho vậy”. Nhưng Phật lại là Thánh trong các bậc Thánh, nghĩa là nếu Ông không tin thì hãy tìm thỉnh những sách sử ghi chép về công đức cao tột của Phật giáo để đọc xem. Phật thì tự tu nhân trong ức kiếp mà chứng quả ở đời nay, sáu độ muôn hạnh không gồm tu, công đức nhiều như cát sông Hằng thảy đều viên mãn. Liệt Tử Viện dẫn lời của Khổng Tử nói: “Khâu tôi nghe ở phương Tây có bậc Đại thánh, không trị mà chẳng loạn”. Phạm Úy Tông soạn Tây Vực Luận, nói: “Chỗ Linh Thánh nhóm họp là nơi bậc Hiền ý đản sinh”. Có người hỏi Phật về Văn Trung Tử, đáp rằng là bậc Thánh. Ngài Huyền Trang dịch kinh, vua Thái Tông đời Đường gọi đó là Thánh giáo. Bản triều Thái Tông Hoàng Đế ban lời tựa cho “Thiên Trúc Tam Tạng Pháp sư Thiên tức tai dịch kinh” là: “Bài tựa Tam tạng Thánh giáo”. Có người nói: “Phiên dịch chân thuyên bới diệp là tiếp nối thánh giáo của trời người”, nên Vua chân Tông ban lời tựa cho “Thiên trúc Minh giáo Đại sư Pháp Hiền dịch kinh” là “Bài tựa Tục Thánh giáo”. Có người nói: “Bậc Thánh ở Long cung mới mẻ, ngưỡng trông Tỳ-kheo ở Linh thứu mà khen ngợi. Tiêu Vũ nói: “Phật là bậc Thánh, nếu chẳng phải bậc Thánh thì không có giáo pháp”. Bùi Hưu nói: “Phật là bậc Đại Thánh, Giáo Pháp của Ngài có những việc không thể suy nghĩ bàn luận. Sắp xếp lại mà xem xét thì những người ở đời gọi là bậc Thánh. Có đâu ai hơn Phật? Hàn Dũ không tin Phật mà phỉ báng Phật, sống thì làm người ngu, chết thì làm quỷ ngu bỏ thân này thọ thân khác, càng thúc giục thì càng thối lùi. Người khéo chọn lựa quả nhiên như vậy ư? Hàn Dũ lại nói: “Thần tuy rất ngu, nhưng chắc chắn biết bệ hạ không mê lầm đối với Phật”. Lại nói: “Giữ gìn mà truyền bá ở ngoài, không để cho mê hoặc mọi người”. Bởi vua Hiếu Tông bị Phật mê hoặc, lại do đó mê hoặc mọi người. Hàn Dũ lại chẳng nghĩ rất lắm! Đức Khổng Tử nói: “Người hiểu biết thì không bị mê hoặc”. Nghĩa là người có thể bị mê hoặc trong thiên hạ đều là người ngu. Người hiểu biết đã sáng tỏ lại khôn ngoan, thấu suốt mọi chuyện phải trái. Phàm mọi hành vi tạo tác hẳn đã thấy rõ lý lẽ có thể làm sau đó mới làm, tuyệt đối chẳng bị sự vật mê hoặc, nên cho người ngu mà kính thờ Phật thì đó gọi là bị mê hoặc, song, mình chưa kính thờ Phật mà cho đó là nhận chịu sự mê hoặc thì không thể được vậy. Như vua Hiến Tông thông minh quả quyết, có được Thiên tánh thì đâu phải là người ngu, đâu phải là kẻ dễ mê hoặc? Không riêng gì vua Hiến Tông như vậy mà thông minh anh võ, dân chủ như vua Thái Tông đời Đường, kể từ thời nhà Hán về sau không hề có. Vua dốc lòng kính tin Phật giáo, trước sau như một. Xem vua xây dựng chùa Hoằng Phước, thì nói: “Chuyện vì Sùng Mục Thái hậu mà làm phước.” Lời vừa nói, lệ lưng tròng, tự soạn lời sớ, xưng là “Hoàng Đế Bồ-tát giới đệ tử.” Đến khi Pháp sư Huyền Trang dịch kinh, thì vì đó mà viết lời tựa và gọi là “Ngự chế Tam Tạng thánh giáo tự.” Xem tạng kinh Bồ-tát ham thích ý chỉ nhiệm mầu cho nên ban chiếu cho Hoàng Thái tử soạn lời tựa cho tạng kinh Bồ-tát. Ngu Thế Nam đã chết mà mộng thấy đến nói giống như lúc còn sống, thì nhà ấy liền trai tăng tạo tượng để tạo phước thầm. Nhớ nghĩ các nghĩa binh từ trước trở lại bỏ mình đánh trận chẳng gì bằng vậy, cho nên khắp vì các nghĩa binh cũng như bọn người hung dữ mà xây dựng chùa miếu. Sau khi hưởng thái bình, nhớ nghĩ dưới tay mình đã giết hơn ngàn người, cũng như những kẻ không thấy biết thì dâng áo vua cúng dường chư tăng mà cầu dâng cúng. Bởi vì sự thông minh của vua Thái Tông vượt xa so với vua Hiến Tông, và sự kính thờ Phật của vua Thái Tông không chỉ như sự cung nghinh cốt Phật của vua Hiến Tông vậy. Đó đâu phải là bị Phật mê hoặc ư? Nếu vua Thái Tông quả thật là người ngu mà bị sự mê hoặc thì bấy giờ Phòng Lương Công Huyền Linh và Đổ Lai Công như Mẫn Vương Ngụy nói thẳng không che dấu, cớ sao chẳng cản ngăn vua kính thờ Phật ư? Chẳng những không cản ngăn vua kính thờ Phật mà Phòng Lương Công Huyền Linh còn vâng mạng Huyền Trang dịch kinh. Đỗ Lai Công Như Mẫn thì dùng pháp tôn thờ Kinh Triệu Huyền Uyển. Tâm tôn kính quy hướng, vua tôi đồng một đức hạnh. Lại nữa, không chỉ hai ông Phòng Lương và Đỗ Lai là như vậy. Tống cảnh cương giới là bậc nhất đời Đường, cho nên nhờ Pháp mà làm thầy Đàm Nhất. Bùi Tấn Công dùng thân ràng buộc sự an nguy của thiên hạ, cho nên bắt đệ tử lễ kính ngài Kính Sơn Pháp Châm. Ôm giữ trung tiết đối với quốc gia chết vẫn không thay đổi, ai như Nhan Lỗ Công vì giới pháp xin làm đệ tử ngài Huệ Minh ở Hồ Châu, hỏi đạo với ngài Nghiêm Tuấn ở Giang Tây. Khinh thường danh lợi, ít duyên sức, thuần hiếu hạnh và liêm chính thì ai như Thiên Lỗ Sơn, khi mẹ chết thì chích máu viết kinh Phật khoảng vài ngàn lời. Còn như Trương Vô Tận nói soạn: lời tựa “Tâm kinh”, Mạnh Giản kết giao với Trần Ngoại, Đỗ Hồng tạm tham Thiền với Vô Trụ. Quyền Đức Dư soạn lời ký “ Thảo Y”. Các bậc Hiền Thánh ấy đều là mẫu mực nhưng chẳng xuất đầu lộ diện. Nếu Phật giáo quả thật mê hoặc người, thì cũng mê hoặc được những Thánh Hiền như thế ư? Do đó mà biết vua tôi đời Đường đều chẳng bị mê lầm, Hàn Dũ quả thật mê quả lầm lắm. Tuy nhiên, sự mê lầm của Hàn Dũ thì không đáng luận bàn, nhưng việc Hàn Dũ mê hoặc Thiên hạ đời sau thì đó không phải việc nhỏ vậy. Bởi vì Hàn Dũ nương vào Nho giáo mà tự phụ, học sĩ Kinh Sinh xem Hàn Dũ là bậc tài giỏi, hễ cái gì Hàn Dũ cho là đúng thì Kinh Sinh cho là đúng, cái gì Hàn Dũ cho là sai thì Kinh Sinh cho là sai. Có mấy ai xem xét lại một cách rõ ràng tường tận và tìm hiểu về dấu tích của Hàn Dũ nó như thế nào? Tôi từng nhận những văn bản của Hàn Dũ để lại mà tìm hiểu về dấu vết của Hàn Dũ có ba sách nổi tiếng mẫu mực, đem bán cho quan tể tướng thời bấy giờ, làm sao ông không bỗng chốc trở thành giàu sang ư? Khổng Tử nói: “Nhà Nho có vật báu trên chiếu để đợi hiến dâng, sớm tối cố gắng học đợi hỏi han, ôm giữ trung tín để đợi tiến cử, gắng sức làm việc nhân để đợi thâu nhận.” Các nhà Nho chỉ đợi mà chẳng mong cầu cũng như thế. Bởi vì Đạo nghĩa tự trọng vậy. Mạnh Tử nói: “Nghịch đón rất mực cung kính để có lời nói phép tắc, sắp nói lời ấy thì liền đến ngay, phép tắc suy bại thì bỏ đi ngay. Việc ấy khó tiến mà dễ lui sụt cũng như vậy.” Bởi vì đạo nghĩa tự cao vậy. Sự ham thích của Hàn Dũ đạt đến như thế, tức là đạo nghĩa quét rác vậy. Sách của Hàn Dũ muốn triều đình nhân vào tước lộc của mình để dùng tài năng của mình ra dụ dỗ thiên hạ. Thật là không biết kẻ sĩ trong thiên hạ cố nhiên có người không coi thường sự nghèo hèn, không coi trọng sự giàu sang, rất hay giữ gìn đạo nghĩa như các học trò của Doãn Phó, chẳng dâng lụa xấu để mong cầu hình tượng vẽ vời, chẳng xem thường thân mình để được lời trọng dụng. Người xưa không hề chẳng muốn làm quan vậy, cái xấu đó chẳng do nơi Đạo, chẳng do nơi Đạo mà đến thì giống như loài khoét tường vậy. Như vậy thì dấu vết của Hàn Dũ có thể thấy rõ rồi.

Khi đến tướng Tử Định, Hàn Dũ dâng sách để dua nịnh. Khảo cứu về sách sử đời Đường thì Tử Địch Khuất Cường phạm mạng có nghịch khéo giữ Đặng Châu, chiêu mộ chiến sỹ, có tâm muôn chuyên quyền chiếm cứ Hán Nam, dạy múa theo lễ phép, thanh thái hùng xỉ có ý dòm ngó ngầm cướp trộm. Vua gọi đó là ôm giữ mưu gian. Vương Nhan uy gọi đó đạt được yếu lãnh là may, vậy thì Tử Địch là con cháu của Thiếu Thành Nguyên Tế. Hàn Dũ mới ca tụng ngợi khen, xưng tăng. Đó là ngôn hạnh của thánh hiền, khen đó là có đức. Và có mở lời thì nghĩ dùng cái mênh mông của sách Thương và cái nghiêm túc của sách Chu. Vậy Hàn Dũ ton hót dua nịnh chẳng quá lắm ư? Thuở xưa, Vũ Văn Sỹ khen ngợi Thái Tông bị Thái Tông chê trách đó là dua nịnh, Sơn Nhân Phạm Tri Tuyền khen ngợi Tống Cảnh mà Tống Cảnh trách đó là ton hót. Vì sự thông minh anh võ của Thái Tông và sự ngay thẳng cương chính của Tống Cảnh mà hai người ấy khen ngợi chưa lấy làm quá lắm, còn chưa thể tránh khỏi sự cười chê là ton hót dua nịnh. Huống là sự ngầm chứa khác của Tử Địch gần gũi giúp đỡ triều đình mà Hàn Dũ hết lời khen ngợi, thì sự dua nịnh và ton hót của Hàn Dũ đến như vậy. Lời nói khôn khéo khiến bóng dáng Khổng Tử xấu hổ điều đó, và dèm pha thì ton hót Mạnh Tử răn giữ điều ấy. Như vậy, vết tích của Hàn Dũ lại càng rõ biết đó.

Triều Dương một lần bác bỏ. Chu Chương khiếp sợ, vội tôn sùng thờ sách của vua mà tụng đọc Phong Thiền, ý muốn tiến dâng ton hót triều đình, mong thoát khỏi giáng chức và đổi chỗ. Chỉ nổi không suy nghĩ Thuyết Phong thiền không ra ngoài sách của Nhị Đế Tam Vương mà chỉ sáng lập ở đời Tần Hoàng Hán Võ, nên Nghê Khoan Phong Thiền bàn luận rằng: “Lễ nghi dâng cúng không ghi ở kinh, thì không có kinh của Phong Thiền, không đợi ghi nhớ rồi sau đó mới biết vậy.” Hàn Dũ lúc sinh thời tự phụ, cho rằng có khả năng chuyên rành sự dẫn dắt của hai đế ba vua mà khéo bác bỏ thuyết không có kinh của các nhà tu tưởng, nên dèm pha phế truất, vội tự suy bại sai lầm, tức lấy việc của Tần Hoàng Hán Võ không có kinh mà ton hót nhà vua vậy. Đương lúc thái bình thạnh trị, mà có cầu xin Phong Thiền cũng không thể được, huống gì sau khi phiên trấn mới bình yên, chính là lúc phải cẩn thận tằn tiện tiết dụng, không rảnh rỗi mà có thể dẫn dắt xa xỉ thái quá ư? Trong hàng Đô Hội Du Ca mà có lời thỉnh của Phong Thiền còn không nên, huống gì ngay lúc đã bị trách phạt, đúng là lúc nên đóng mà không chịu tội huống hồ ra mặt mở lời ư? Thầy ta Mao Tiên Ông dựa điều bất chánh để phá loạn chánh thể, Hàn Dũ mới trông ngóng hơi hám để phá dẹp mà Tiên Ông nắm lấy cho đó là điềm tốt, bấy giờ soạn lời tựa cho Mao Tiên Ông Thập Bát Huynh, và nói: Huynh nói quả thật có trừng phạt, đến nỗi nói ngay quét nhà khổ nhọc, huống hồ một ngày vui cười… mà chẳng biết vận mạng thì chẳng cho là quân tử, Hàn Dũ sao dễ bị lay động như thế ư? Hàn Dũ dèm pha Phật là Dị đoan mà lại cúi đầu hạ tâm tự mình nén khí vì bạn mà kính thờ Tiên Ông dị nhân. Thật là con người không giữ gìn được định hướng vậy.

Miếu Hoàng Lăng Nhị phi chẳng phải là thần trong sách cúng tế, Hàn Dũ bài xích Triều Dương còn hơn Động Đình, bèn cầu nguyện với Nhị phi để được thoát họa, đến lúc được trở về liền xuất tiền của để sửa sang ngôi miếu ấy, sắm đủ lễ nghi để cúng tế, soạn sách ghi chép việc đó. Em Vua Cầu Phước không quay lại, sao Hàn Dũ lại theo Tà Cầu phước như vậy ư? Hàn Dũ dèm pha Phật là Quỷ rợ Di mà rúm ró, lo sợ kêu cầu sự thương tưởng nơi Quỷ của phu nhân, thật không biết xấu hổ. Kẻ sĩ Quân tử vốn bị hoạn nạn thì an bài cúng hoạn nạn, vốn bị nghèo khổ thì an bài cúng nghèo khổ. Hàn Dũ vừa mới bị dời đổi phế truất, liền phát điên cuồng nhiễu loạn uất ức buồn thảm. Đã dùng phong thiền để ngợi ca thiên tử, lại do dùng Cát Hung để cầu Tiên Ông, lại họa loạn mà cầu đảo Nhị phi. Vậy Hàn Dũ đâu phải là Người giữ đạo bất biến ư? Nên lúc bấy giờ Thiền sư Đại Điên nói với Hàn Dũ rằng: “Ta biết sống chết họa phước là bởi tại trời, Hoàng Lăng Nhị phi kia đâu thể ban phước cho ngươi, Chúa thượng sau khi kế vị ngôi báu, gian thần phụ nước mà bỏ đi. Thuế khóa khắc nghiệt, nạn giết người đầy đồng, chỉ nên khắc phục được chăng? Vết thương chưa khỏi, mà ông bèn muốn dùng phong thiền kể công để khích động thiên hạ, đó là do ý ông muốn Đàn bà. Ông làm sao chịu đựng vậy ấy ư? Vả lại, vì khốn cùng tự loạn mà cúng tế nữ quỷ, đó là không biết vận mạng vậy. Khuấy động thiên hạ mà chẳng ngó ngàng để tiện cho mình, đó là chẳng biết Nhân vậy. Gượng nói là điên đảo. “Thấy ở các sách truyện khác ghi chép như vậy, thì dấu tích củ Hàn Dũ lại có thể biết rõ hơn.

Khổng Tử nói: “Người thấp hèn có thể kính thờ vua được chăng?” Ông chưa được thế mà lo được thế. Ba sách nổi tiếng mẫu mực của Hàn Dũ tự bán như vậy, đã được việc đó lại lo mất đi nên Hàn Dũ lập kế kính thờ Tử Địch để giữ gìn tư cách ấy vậy. Nếu như lo mất thì không chỗ nào không đến, sự mong cầu phong thiền, cầu Tiên Ông, khấn đảo Nhị phi Của Hàn Dũ như thế, dấu tích của Hàn Dũ như vậy, tuy văn chương của Ông cao hơn thiên hạ nhưng đâu đáng nói ư? Trong “Chu Tử thông thư” nói: “Không biết mục đích là Đạo Đức mà dùng văn từ làm hay, ấy chỉ là nghề nghiệp mà thôi”. Do đó mà nói thì Hàn Dũ và Phó Dịch đều là những người theo nghề nghiệp vậy. Ai có thể cho rằng Hàn Dũ xứng đáng là nhà Nho? Huống hồ Hàn Dũ vì văn chương rất không đáng bàn luận. Tác phẩm của Nguyên Đạo nói rằng: “Bác ái, ấy gọi là Nhân, thực hành đúng như vậy, gọi là xoa. Do đó mà đạt đến, ấy gọi là Đạo. Thật là không suy nghĩ, vô cực và thái cực ấy gọi là Đạo. Khi ấy vốn có cái gọi là thương yêu khắp cùng và thực hành hợp nghi không gì chẳng phải là sự lưu hành phát hiện của Đạo ấy mà Hàn Dũ cho rằng Đạo từ bác ái hành nghi mà có ra, vốn rất điên đảo vậy. Hàn Dũ không biết Đạo cũng như thế.

Các nơi làm bia miếu Khổng Tử, nói rằng: “Xã tắc không oan khuất mà lập đàn cúng tế, đâu như Khổng Tử ngồi trên tòa an nhiên.” Thật là không suy nghĩ, xã tắc sử dụng khí thông suốt thiên địa, ngay vì không nhà mà lập đàn cúng tế là tôn quý. Chỉ có đền thờ táng quốc là nhà, nói lên ý nghĩa bày tuyệt dương mà thông âm, thật là nhục vậy. Hàn Dũ mới lấy xã tắc không nhà, chẳng như Khổng tử vinh hạnh có nhà. Vốn rất là trái lý. Hàn Dũ không biết kinh cũng như thế.

Nguyên Đạo nói rằng: “Vua Nghiêu, Thuấn, Võ, Thang lấy đạo truyền trao như thế.” Vua Võ mất đã bốn trăm năm vua Thang mới sinh, cho rằng vua Thang tiếp nối vua Võ, Hàn Dũ nói: “Vua Võ lấy đó truyền cho vua Thang.” Vua Thang mất sáu trăm năm vua Văn, vua Vũ mới sinh, nghĩa là vua Văn, vua Vũ tiếp nối sự truyền thừa của vua Thang. Hàn Dũ nói: “Vua Thang lấy đó truyền cho vua Văn, vua Vũ.” Đâu có thể đã chết mấy trăm năm mà có thể lấy Đạo để truyền cho người ư?” Nói rằng: “Có thể chết không được sự truyền thừa ấy.” Hàn Dũ cũng biết chết thì không thể truyền Đạo. Sao vua Võ, Vua Thang đã chết mà có thể truyền Đạo cho đời sau ư? Hàn Dũ không biết Đạo cũng lại như thế.

Cùng với Phùng Tú Thư, từ khi Bắc Dương Tử làm Thái Huyền, đồng thời cho rằng hơn hẳn Lão Tử, lại dẫn luận của Hầu Ba, nói rằng: “Thái Huyền hơn hẳn Chu Dịch.” Phàm năm ngàn lời của Lão Tử, cố nhiên chẳng phải Dương Tử bằng được, còn như Kinh Dịch thì nên. Có một số vị thánh về sau làm thành toàn kinh. Tuy Thánh như Khổng Tử mà còn nói: “Năm mươi tuổi mới học Dịch.” Có thể lấy không làm quá lắm mà Hàn Dũ lại nói rằng: Chu Dịch không bằng Thái Huyền của Dương Tử. Sao ông sai lầm đến thế? Dương Tử soạn Thái Huyền vì phỏng theo Dịch. Người xưa nói đó là như Ngô Sở giả mạo để xưng vương. Phỏng theo Dịch còn chưa khỏi giả mạo như thế, mà cho rằng Thái Huyền hơn hẳn Chu Dịch được sao? Hàn Dũ không biết kinh cũng lại như thế.

Hoàng Phác, đời Đường bàn luận về Âu Dương Đảm, nói rằng: “Ông vì qúa thương một con hát mà chết.” Và chê cười đó là bất hiếu. Hàn Dũ làm ai từ viếng Âu Dương Đảm, ca ngợi rằng: “Âu Dương Đảm kính thờ cha mẹ thật trọn đạo hiếu, nhân từ đối với vợ con.” Hễ ca ngợi điều người ta chê bai, thì ấy là lời nói, vu báng rất lắm vậy. Soạn thuật “Gián thần luận”, cười chê Dương Thành chẳng phải bậc có đạo. Và Thành trấn giữ Đạo Châu mà Hàn Dũ đưa Thái học sinh Hà Kiên trở về Đạo Châu. Lại nữa, nơi Hiền Thành cai trị là bậc có Đạo, có thể sánh với Hoàng Đá cai trị Dĩnh Châu. Phàm trước là hủy hoại mà sao lại có thể khen ngợi thì theo tôi nói đó là cũng phản phúc lắm vậy.

Nguyên Đạo nói: “Lão Tử nói về đạo của mình, không phải điều tôi nói gọi là Đạo.” Sư ấy cho rằng thầy của Khổng Tử là Lão Đam. Xét như thế thì Đạo của Khổng Tử xuất xứ từ Đạo của Lão Tử, cũng có thể gọi Đạo ấy là Đạo vậy. Cùng với Sách Mạnh Giản nói: đạo của các Thánh hoại diệt hoàn toàn, họa ấy xuất phát từ Dương Mặc. Hàn Dũ đọc sách Mặc Tử bèn cho rằng: Khổng Tử và và Mặc có thể dùng lẫn nhau. Xét như thế thì Đạo của Khổng Tử vốn đồng với đạo của Dương Mặc, cũng có thể gọi đó là phá hoại đạo của các Thánh vậy. Phàm Lão Tử và Mặc Tử đều là Đạo dị đoan, Hàn Dũ đã dèm pha bài bác như thế, mà lại cho đạo của Khổng Tử là Lão Tử, Khổng Tử là Mặc Tử. Chẳng là phản lại Khổng Tử lắm ư? Học Khổng Tử mà phản lại Khổng Tử, giống như Trần tướng phản thầy, phùng mông xạ nghệ vậy. Đời sau có học sĩ Kinh Sinh bắt chước sự dèm pha Phật của Hàn Dũ, còn sự phản lại Khổng Tử của Hàn Dũ cũng có thể bắt chước được sao? Chỉ nỗi, Hàn Dũ dèm pha Phật mà lại tiếp nhận Phật, bởi vì Hàn Dũ giao thiệp với Thiền sư Đại Điên vậy. Và tiếp nhận cái thông minh và hiểu biết Đạo lý. Hàn Dũ đưa tiễn Cao Nhàn thì nhận thức được sinh tử. Hàn Dũ soạn thuật hành trạng của Mã Vị thì tiếp nhận cái cắt máu để viết kinh Phật. Hàn Dũ dèm pha kích bác mà lại tiếp nhận. Có thể nói rằng Hàn Dũ là người bất thường, vì trong tâm Hàn Dũ vốn không định kiến. Phải quấy, lấy bỏ chẳng biết thuận theo. Nên buông miệng mở lời, tùy thời mà sửa đổi, trước chẳng nhìn sau, sau chẳng ngó trước và chẳng nghĩ lại đó là để lại tiếng xấu cho muôn vạn đời sau. Người hiểu biết đối với vấn đề ấy, không thể bàn luận bằng tâm riêng tư, không thể bàn luận bằng tâm thương ghét, thử bình lặng tâm thức để bàn luận thì Hàn Dũ là con người quả thật là quân tử hay tiểu nhân, quả thật là nhà Nho hay chẳng thật là nhà Nho ư?

Thời bấy giờ, Hàn Dũ và Liễu đều nhờ văn chương mà nổi tiếng. Hàn Dũ thì dèm pha kích bác Phật giáo, còn Liễu thì học Phật. Xem ông hậu tặng Pháp sư Trọng Tốn bài văn, viết: “Tôi học Phật từ nhỏ, tìm cầu Đạo ấy, suốt ba mươi năm, lại nhờ Nho giáo mà được thông hiểu như Trịnh Trung Thư, Mạnh Thường Châu và Liên Trung Thừa. Do sự biện bác của Liên Trung Thừa, sự mẫn đạt của Trịnh Trung Thư, mà còn tôn sùng kính trọng Phật giáo. Huống gì tôi là kẻ ngu tối?”

Ông tặng bài văn cho Văn Sướng Thượng nhân, viết rằng: “Từ đời Tấn, đời Tống về sau, cả các Pháp sư Đạo lâm, Đạo an, Huệ Viễn và Hưu thượng nhân, cùng giao du với các vị đó thì có Tạ An Thạch, Vương Dật, Thiếu Tập, Tập Tạc Sỹ, Tạ Linh Vân, Bão Chiêu v.v… đều là sự chọn lọc thời bấy giờ, do đó mà chân Thừa pháp ấn và kinh sách Nho giáo đều trọng dụng, và người ta biết được phương hướng”. Còn bài tựa tặng Sâm Thượng Nhân, bài tựa tặng Cử Thượng Nhân, bài tựa tặng Hạo Thượng Nhân, soạn thuật văn bia luật sư Đại Minh ở Nam Nhạc, soạn văn bia Lục tổ Tứ Ích, soạn văn bia Hòa-thượng chùa Di-đà ở Nam Nhạc, soạn bia tháp luật sư Pháp Chứng, soạn bài ký viện Tịnh độ ở

Vĩnh Châu, soạn bài ký ở chùa Liễu Đại Vân, đâu đâu cũng mở mang Phật pháp, chỉ bày cho người ngu tối, nên Tô Đông Pha đến Tào Khê mà đề rằng: “Phật giáo phiên dịch ở Trung Quốc, chắc chắn dựa vào những người nói hay của Nho giáo, nhưng sau đó lan truyền rộng rãi, Tử Hậu dời về Phương Nam soạn các văn bia ở Tào Khê, Nam Nhạc, tuyệt diệu xưa nay. Bởi vì tìm hiểu lời ông nói hợp với Mạnh Kha kia, có thể chẳng khiến hàng học giả hằng ngày nhìn thấy mà đọc. Tuy văn bia của Tử Hậu đối với Phật giáo như vậy, thích hợp với Tô Đông Pha khen ngợi và ưa thích đạo ấy vậy, nhưng các nhà Nho bất mãn Tử Hậu, bởi vì ông thất tiết với Vương Thúc Văn. Đó hẳn nhiên là mất mác của Tử Hậu, mà lại tìm sâu tâm của Tử Hậu, cũng là ý của Liễu Hạ Huệ không xấu hổ ô nhục vua, vì ban đầu chẳng phải nương vào quyền thế mà ham giàu sang vậy. Xem ông bài xích Vĩnh Châu, an nhiên tự đắc, cái gọi là mong cầu Phong Thiền, cầu Tiên Ong, khấn đảo Nhị Phi, không hề có, vậy thì đó là an nhiên xử thuận cũng có thể thấy vậy. Đến lúc làm thứ sử Liễu Châu và người bạn là Lưu Võ Tích được Bá Châu, Tử Hậu nói Bá Châu chẳng phải chỗ người ở, Lưu Võ Tích đích thân ở trong nhà. Ta không chịu đựng được sự khốn cùng ấy, liền soạn biểu xin Liễu đổi Bá Châu. Tuy Lưu Võ Tích được đổi Liên Châu, không đợi để Liễu Châu và Bá Châu đổi nhau, nhưng ngay một niệm ấy của người hiền thiện đối với sự lo mất của Hàn Dũ đâu không như Bá Di đối với Đạo Chích ư? Thâm ý cầu làm người của Hàn Dũ và Liễu, đại khái là Hàn Dũ thích tiến tới, còn Liễu thì an tĩnh, Hàn Dũ thì bôn ba đua đòi còn Liễu thì điềm nhiên lùi bước. Nên trong bài tựa tặng tiễn chân Hoạt Sơ thượng nhân, Tử Hậu viết: “Nhà Nho Hàn Dũ lùi bước vì thường bệnh, tôi ham thích Phù-Đồ (Phật). Tôi cho rằng phàm người làm Đạo, chẳng thích quan quyền, chẳng tranh tài năng, người hiền đối với ham thích đua đòi như thế, chỉ ấn tổ là mục đích cũng phải xa lìa”. Hay thay, lời nói của Tử Hậu, thấm sâu trong tim gan của Hàn Dũ vậy. Lại nói: “Phù-đồ thật có điều không thế phá hoại, thường hay hợp với Dịch, Luận ngữ, chẳng khác đạo với Khổng Tử dị Đạo, tuy bậc thánh còn sinh lại cũng không thể được mà phá hoại vậy”. Lại nói: “Lui lại chỗ tội lỗi, đó là dấu vết vậy”. Bảo rằng cạo tóc, mặc áo thâm, không chồng vợ, cha con, không làm việc cày cấy dệt thêu. Tức giận bên ngoài mà để lại bên trong, đó là biết đá mà không biết ngọc vậy”. Lại nói rằng: “Nếu như chẳng tin Đạo mà bài bác cho đó là mọi rợ thì sẽ có bạn ác đến cướp trộm, mà khinh rẻ Lý Trác do tôi ư?”. Xét rõ lời nói của Tử Hậu, thì cái thấy của Hàn Dũ và Liễu, há chẳng phải cách xa như trời vực đó sao? Đời sau có học sĩ Kinh Sinh, không tìm hiểu rõ ràng chỗ đúng sai của Hàn Dũ mà luống bắt chước sự dèm pha phá hoại Phật của Hàn Dũ, Âu Dương, Văn Trung Công ngày nay là Hàn Dũ vậy. Cựu Đường thư cho rằng: Hàn Dũ tánh tình ngang bướng bạo ngược, lúc bấy giờ được làm quan đều 31 bị mọi người khinh bạc, mà ông thì ưa thích bài xích dẹp bỏ Phật giáo, Lão giáo. Đó là che dấu cái xấu và nêu bày cái tốt, mà khen ngợi ông giúp đỡ sáu kinh vậy.

Vua Thái Tông giúp đời an dân, ông thì oán ghét việc xây dựng Phù-đồ, ông bèn che dấu sở trường chê trách sở đoản mà chỉ vì trung tài là chủ yếu. Phàm người đời Đường quy hướng Phật giáo Đại thừa, kính tin theo về thì ông cực lực bài xích. Các vị khanh hiền đại phu, phần nhiều giao thiệp với Chư tăng, đều có sự duyên sự tích, thì ông tức giận xoá đi và chẳng hề ghi chép. Đồng thời, còn nói: “Gặp Đời không có Phật, lời tao nhã của kinh thi, kinh thư khiến người dân được phước”. Thật là không suy nghĩ, cẩn thận, dè dặt trong việc lập giáo. Và thực chất là thịt dê, mà da cọp, tiếng chim phụng mà lông chim thứu, đầy dẫy đều như vậy, đến khi nghe làm lành hưởng quả báo thiên đường thì tâm lành chẳng mong mà tự sinh. Đàm luận lễ nhạc để đào luyện dân, và miệng nói bút chép sửa trị thâm tâm, bó buộc bàn luận luôn luôn đều như vậy. Đến khi nghe làm ác sẽ chịu khổ địa ngục thì tâm, ác chẳng mong mà tự sửa đổi. Thời vua Hiếu Tông, có bộ “Nguyên Đạo Biện” nói: Phật lập năm giới là: không giết hại, không trộm cướp, không tà dâm, không nói dối và không uống rượu. Phàm không giết hại là nhân, không trộm cướp là nghĩa, không tà dâm là lễ, không uống rượu là trí và không luống dối là tín. Đạo lý của Trọng Ni (Khổng Tử) đâu có gì xa lạ. Do đó mà nói rằng đạo lý của Phật giáo chẳng thua kém so với Kinh thi, Kinh Thư, Nhã, tụng vậy.

Lại nói rằng: “Lời nói ấy man mác dễ nghe, biến hiện di huyễn, khéo tìm hiểu điều không kiểm nghiệm đều là việc chẳng thật”. Chỉ nỗi không suy nghĩ, nói về sự lâu dài của kiếp số là cái thấy của Phật, thông đạt cả quá khứ lẫn vị lai, không bị hạn ngại, chẳng như các nhà Nho chỉ căn cứ sự ghi chép của các thư khế chỉ biết được việc trong vài trăm ngàn trăm mà thôi. Nói về sự rộng lớn của thế giới, là cái thấy của Phật, rỗng suốt cả hư không pháp giới, không có ngằn mé, chẳng như các nhà Nho căn cứ vào địa phương chức phận mà khảo xét, chỉ biết được những việc của bốn thứ dân mọi rợ chung quanh Trung Quốc mà thôi”. Trong Hộ Pháp luận của Trương Vô Tận chép: “Con người, có kẻ rất thông minh, có kẻ rất ngu ngốc vụng về. Người thông minh đối với mọi dấu tích húng thạnh hay suy vong từ thượng cổ, mọi Luận lý của lục kinh tử sử đều biết rõ. Còn kẻ ngu ngốc kia, thật là chẳng biết. Há có thể lấy cái biết của họ mà cho là chẳng biết. Há có thể lấy cái biết của họ cho là rộng lớn hay sao?” Do đó mà nói rằng thuyết của Phật giáo, đâu có thể gọi là không kiểm nghiệm, không phải sự thật ư?

Lại nói rằng: “Vua Hiến Tông mong cầu phúc mà bị họa”. Thật là không suy nghĩ, điều chẳng làm mà làm thì gọi là thiên vậy, điều chẳng nên gây ra mà gây ra là mạng vậy. Nho giáo nói Thiên mạng, Phật giáo gọi là định nghiệp, bởi vì số phận không thể trốn lánh vậy. Đâu phải mọi việc thiện ác trước mắt gây ra? Kẻ trộm cướp chết rồi mà ông ướp thịt, chẳng phải là sự không kiểm nghiệm của Nho giáo vậy. Lại nói rằng: “Phật là mối họa lớn của Trung Quốc”. Thật là chẳng suy nghĩ, Nho giáo cố nhiên dùng điều lành để cảm hóa Trung Quốc, Phật đâu có dạy người Trung Quốc điều ác? Việc làm lành tuy chẳng đồng nhưng đều là sửa đổi, đều không lý lẽ gì có thể vu khống vậy. Giả sử như có đại hoạn gì, mà trời người đều quy hướng và quỷ thần khâm phục thì chắc chắn có lợi ích lớn đối với họ vậy. Đại khái như công dèm pha phỉ báng Phật chính bởi Hàn Dũ và công dẫm giày cũng bởi chính Hàn Dũ. Triều vương xướng đệ, cao tiếng cầu ân, tức sự dâng ba sách của Hàn Dũ. Đứng đầu xướng bàn mọi việc, rêu rao luận vật, tức là sự cầu xin phong thiền của Hàn Dũ vậy. Lão tử buồn thương, nhìn lại âu sầu. Trương Vô Tận nói: “Xem sửa các sách, lo lắng vì già bệnh mà tự buồn, tuy ở địa vị giàu sang nhưng lo lắng không chỗ dung. Nhìn Hàn Dũ không đạt Thiên mạng, cầu Tiên khấn Thần, đồng một chỗ thấy”. Sửa chữa đường thư, vừa tốt vừa xấu, Trương Vô Tận cho rằng: “Đó là nói phỏng khen chê mà làm lụa Ngô, sam bện hơn hai trăm điều. Xem sự múa bút thành văn của Hàn Dũ, rất nhiều sam luận đồng một ý thức vậy. Khẳng khái mạnh mẽ bài xích Phật giáo, mãi đến tuổi già mới lấy hiệu là cư sĩ. Sau đó, thấy Hàn Dũ biệt truyện của Hàn Dũ mới làm lời bạt: “Tôi làm quan ở Lang Da có biệt truyện của Thối Chi để chỉ bày, xem xét cẩn thận lại luận tụng, mới biết thiền sư Đại Điên là người phi thường. Tôi thường lo sự thạnh hành của Phù-đồ, mà vui mừng thuyết của Thối Chi và quán xét lời của Thiền sư Đại Điên mới biết Tử Hậu chẳng phải là quá”. Phàm đã bài xích Phật giáo mà lại tiếp nhận Phật giáo, thấy Hàn Dũ giao thiệp với Thiền Sư Đại Điên, tiễn chân Cao Nhàn, ca ngợi Mã Vị cùng một xu hướng vậy. Đạo đồng chí hợp, có như vậy, gọi đó là Hàn Dũ ngày nay kính tin vậy.

Tự công sư Hàn Dũ, mà các nhà Nho đua tranh cùng Hàn Dũ như Trình Minh Đạo nói: “Phật giáo chỉ có mục đích là mong thượng đạt, không có hạ học”. Thật là không suy nghĩ, sáu pháp Ba-la-mật của Phật giáo đều là thuyết hạ học thương đạt, trong đó: Thiền Ba-la-mật, nghĩa là nhờ Thiền định mà đạt đến bờ kia. Thiền định là hạ học, đạt đến bờ kia là thượng đạt. Đàn Ba-la-mật, nghĩa là do bố thí để đạt đến bờ kia, bố thí là hạ học, đạt đến bờ kia là thượng đạt vậy. Ngoài ra, như trinh tấn, giữ giới, nhẫn nhục, trí tuệ, mà đạt đến bờ kia tức là thượng đạt. Nên trong kinh giải thoát liễu nghĩa nói: “Học có sáu việc, đó là sáu Ba-la-mật, bố thí, giữ giới, nhẫn nhục là tăng thượng giới học, thiền định là tăng thượng tâm học, bát nhã là tăng thượng tuệ học”. Thêm nữa, trong bốn thệ nguyện sâu rộng có nói rằng: “Pháp môn vô lượng thệ nguyện học, Phật đạo vô thượng thệ nguyện thành”. Không gì chẳng từ hạ học mà đến thượng đạt. Vậy mà cho rằng Phật giáo không có hạ học được ư?

Chu Hối Yêm nói rằng: “Phật giáo tự cho rằng chỉ thẳng tâm người, thấy tánh thành Phật mà kỳ thật không biết được tâm tánh”. Thật là chẳng suy nghĩ, kinh Thủ-lăng-nghiêm là một bộ kinh mang tính học vấn thâm sâu về tâm tánh. Trong kinh nói: “Tiền trần hư vọng là mê mờ chân tánh của ông”. Lại nói: “Để mất đi bản tâm vốn tròn sáng nhiệm mầu, bản tánh vi diệu quý báu, do đó mà phá vọng tâm vậy”. Lại nói: “Nếu lìa tiền trần mà có tính phân biệt, thì đó chính là tâm của ông”. Lại nói: “Con thấy tay Đức Phật Như Lai tự mở tự nắm, chẳng phải tánh thấy của con có mở có nắm, do đó mà làm sáng tỏ được chân tâm”. Lại nói: “Không biết ngoài sắc thân, cho đến núi sông mặt đất đều là vật trong chân tâm mầu sáng, vì vậy tỏ rõ tâm này trùm khắp, không gì ngoài nó”. Lại nói: “Mỗi mỗi tự biết tâm trùm khắp mười phương, tất cả các vật trong thế gian đều là bản tâm Bồ-đề mầu sáng. Rõ ràng tự biết được tâm vốn nhiệm mầu thường trú bất diệt, do đó mà chứng được tâm nhiệm mầu như hư không, mà vào cảnh giới Phật vậy”. Thế mà gọi Phật giáo không biết tâm tánh được sao?

Trương Hoành Cừ không tin thuyết luân hồi, cho rằng: “Phật nói có thức chết đi thọ sinh luân hồi”. Vì chưa suy nghĩ, đó tức là quan điểm của Trang Tử dứt ngã để chết. Ý nói là, chết tức ngừng dứt, không còn việc gì khác. Thật là không biết, sinh tử không bờ mé, luân hồi không ngừng dứt. Bốn loài chúng sinh trong sáu đường phải chịu quả báo theo nghiệp mình đã gây ra. Vậy mà cho rằng không có luân hồi được sao? Trong bộ “Nam sử” chép: “Vua Lương Võ Đế mộng thấy một vị tăng mù mắt, tay bưng thủ lư vào trong cung muốn thác sinh vào cung Vua. Khi tỉnh giấc thì ở hậu cung sinh Tử Thích, từ nhỏ đã bị bệnh mắt, các danh y đều không chữa trị được, cuối cùng chịu mù một mắt. Đó là vua Nguyên Đế”. Trong bộ “Danh thần ngôn hành lục” chép: “Khi sinh võ tướng Phạm Tổ, người mẹ mộng thấy có một vị trượng phu cao lớn đứng bên cạnh, bảo “Ta là tướng quân Trịnh Võ nhà Hán”. Khi thức giấc thì sinh con, nên bèn đặt tên là Tổ Võ. Do Trịnh Võ nội hành thuần thục đầy đủ, nên đặt tên tự là Thuần Phu để làm chứng điều đó”. Vậy thì sách của nhà Nho, vốn đã có thuyết luân hồi, vậy mà cho rằng thuyết luân hồi của Phật giáo là chẳng phải thật, sao không quán xét điều ấy vậy? Trình Minh Đạo không tin thuyết địa ngục, cho rằng Phật vì hàng hạ căn mà lập ra ngụy giáo ấy để làm cho người sợ mà làm lành. Đó chính là quan điểm của kẻ tiểu nhân cho là việc ác nhỏ không tổn hại gì vậy. Ý cho rằng khi sống làm ác, chết rồi, ai theo cùng để trị? Thật là không biết, trời đất thần minh chiếu soi khắp cùng, thưởng thiện phạt ác, như bóng theo hình. Vậy mà cho rằng không có địa ngục được sao? Trong bộ “Tuỳ sử” chép: trong niên hiệu Khai Hoàng, quan Đại phủ thừa Triệu Văn Xương, chết rồi sống lại, nói rằng đến cõi âm thấy Chu Võ Đế chịu tội. Chu Võ Đế nói với Triệu Văn Xương rằng khi đã trở lại cõi dương nên vì tôi mà nói với vua Hoàng Đế nhà Tùy là tôi phá diệt Phật pháp bị trọng tội, nên làm các công đức hồi hướng cho tôi để giúp tôi được ra khỏi địa ngục. Triệu Văn Xương tấu trình việc ấy, vua Văn Đế bèn ban sắc cho tất cả tăng ni trong nước tụng Kinh Kim Cương kỳ siêu vua Chu Võ Đế. Trong bộ “Danh thần ngôn hành lục” chép: con của Vương kinh công tên là Phu, gây ra nhiều điều bất thiện. Phàm những việc mà Vương Kinh Công trái ngược tổn thương đạo lý, phần nhiều đều phát xuất từ Phu. Đến sau khi Phu chết, Vương Kinh Công thỉnh thoảng thấy Phu mang gông sắt đứng ở cạnh cửa. Từ đó bỏ chỗ ở, đến lưng chừng núi xây dựng chùa Chung Sơn, tạo phước thầm hồi hướng cho Phu. Lấy đó mà chứng minh thì trong sách của các nhà Nho rõ ràng có thuyết địa ngục, vậy mà cho rằng Thuyết địa ngục của Phật giáo là không có. Sao không suy nghĩ đến điều đó ư?

Trương Hoành Cừ nói: “Đó là sai lầm vậy, trần giới sáu hợp, nó che lấp những cái nhỏ vậy, đời người mộng huyễn”. Chỉ nổi không suy nghĩ, Trang Tử nói: “Bốn biển nằm trong khoảng trời đất, giống như đá lăn trong đầm lớn, đất nước ở trong biển như hạt gạo giữa hư không, chẳng phải là trần giới là gì? Bạch Lạc Thiên nói:

Hôm qua đầu nhà ham nướng thịt,
Sáng nay ngoài cửa, lưới nhăn ra,
Chớ cười nghèo khó, khoe giàu có
Đều thành nắm cốt, ấy sao nà.

Chẳng phải mộng huyễn là gì? Mắt Trương Hoành Cừ chưa tỏ rõ điều đó, đâu thể nói ông tỏ rõ được đúng sai ư? Trình Minh Đạo nói:
“Phật giáo cần nói bỏ căn trần, nhưng không lý đó, cần có lý đó, trừ là chết vậy”. Chỉ nỗi không suy nghĩ, thiền sư Đại Huệ nói: “Sự chướng đạo của tâm ý thức, hơn cả rắn độc hổ dữ, với hổ dữ còn có thể tránh né, tâm ý thức không có chỗ để tránh né. Vậy người học đạo, có thể an nhiên ràng buộc nơi căn trần ư?” Đại sư Huệ Năng nói:

Bồ-đề vốn không cây
Gương sáng chẳng phải Đài
Xưa nay không một vật
Nơi nào bám bụi nhỏ.

Vậy người ngộ đạo sao lại hệ lụy nơi căn trần ư? Trình Minh Đạo tự chẳng rõ như vậy, đâu có thể gọi thiên hạ không có lý ấy ư?

Trương Hoành Cừ nói: “Phật giáo nói thật tế mới biết đạo, đó gọi là thành thật vậy, giúp cho đạt được, mới là thật làm sáng tỏ điều ác”. Phàm Trương Hoành Cừ lấy thật tế là thành thật có thể được vậy, nhưng gọi thành thật ấy là làm sáng tỏ điều ác, thì chưa thật suy nghĩ vậy. Kinh Lăng-nghiêm chép: “Minh Cực tức Như Lai, Tịnh Cực tức Quang Thông Đạt”. Kinh pháp Hoa nói: “Chiếu sáng khắp thế gian”. Tâm quyết định rõ ràng, làm sáng tỏ điều ác có thể như thế ư? Ôn Công nói: “Điều nhiệm mầu ấy không xuất phát từ Tông ta, hư vọng ấy ta không tin, chỗ nhiệm mầu ấy chính là Vô ngã. Ông ta nói thiên đường, địa ngục không đáng tin”. Phàm Ông Công cho vô ngã là nhiệm mầu thì có thể được vậy, còn không tin thiên đường địa ngục, thì thật chưa suy nghĩa vậy.

Lưu Nguyên Thành nói: “Cái mà mắt tai của người không thấy, không nghe đến thì phải biết cái đó là không có”. Liệt Ngự Khấu nói: “Hoàng tử quả thật tự tin. Nếu như đối với lừa dối lý chẳng tin, vậy thật là biết lý ư?”

Trương Hoàng Cừ nói: “Phật giáo lừa dối trời đất, cho là huyễn vọng”. Sao không xem bài phú Xích Bích nói: “Tự nó biến mà quán sát, tuy trời đất không thể trong một nháy mắt, thì chung cùng của trời đất”. Cuối cùng, hẳn nhiên đã xuất phát từ thuyết của Tô Đông Pha, đâu riêng gì chỉ Phật giáo có lời ấy ư?

Trình Minh Đạo nói: “Phật giáo thật là mến tiếc thân mạng không thể xả bỏ”. Sao không xem trong “Ngũ Đại Sử” nói: “Phật đối với đầu mắt tay chân, đều bố thí cho người”. Vậy Phật đâu mến tiếc thân mạng, và điều đó đã xuất hiện nơi ngòi bút của Âu Dương Công, đâu riêng gì sách Phật nói điều đó.

Y Xuyên nói: “Ngày xưa mê hoặc người là đè cởi trên kẻ ngu dốt, ngày nay mê hoặc người nhân vì họ cao minh”. Chỉ nỗi không suy nghĩ, người hiểu biết quán sát sự chưa thành, kẻ ngu mờ mịt đối với việc đã thành. Đã gọi là Cao Minh, mà lại nói họ chịu sự mê hoặc được ư?

Trình Minh Đạo nói: “Phật giáo, Lão giáo lời nói gần với lý, lại chẳng thể so sánh với Dương Mặc; do đó, gây nên tai hoạ quá hơn tai họa của Dương Mặc”. Chỉ nỗi không suy nghĩ, muôn hình đều có sự tệ hại, chỉ riêng có chẳng hư hoại. Đã nói là gần với lý mà lại nói nó là hại được sao?

Tạ Hiển Đạo lần lượt nêu lời Phật những chỗ đồng với Nho giáo để hỏi Y Xuyên. Y Xuyên đáp rằng: “Tùy chỗ đồng ấy, tuy phần nhiều chỉ là bản lảnh chẳng đúng, nhất loạt sai bỏ”. Y Xuyên không thể rõ để chỉ đâu là sai, là không đúng, đâu phải là công luận của thiên hạ ư? Hễ không thể chỉ nó sai chỗ nào thì không bao giờ thấy nó có chỗ sai, không thể chỉ nó chẳng đúng chỗ nào, lại cũng không bao giờ thấy nó có chỗ chẳng đúng vậy. Ngay như, muốn dùng tâm thương ghét mà vu khống nó là sai, vu khống nó là chẳng đúng, thì thiên hạ đời sau, há lời không căn cứ mà có thể lừa dối được ư? Đến như Chu Hối Yêm chỉ cái sai mà ông thấy thật thấy, cho rằng: “Cái học của Phật giáo chính là chán ghét sự đầy khắp không chỗ trống của lý này, khiến đã không được mảnh đất của chiếc chiếu vô lý để tự an. Nhàm chán lý này lưu hành không dứt, khiến cho lúc không được vô lý để tự do”. Thật là không biết, Phật giáo chẳng phải chán ghét lý này mà muốn không lý này vậy. Chính vì ở đời có hai thứ chướng, đó là sự chướng và lý chướng. Không riêng sự làm chướng ngại tâm ta, mà lý cũng làm chướng ngại tâm ta. Trong Kinh Viên Giác nói: “Nếu các chúng sinh trước đã dứt bỏ được sự chướng mà chưa dứt bỏ được lý chướng, thì chỉ có thể ngộ nhập Thanh văn Duyên giác, chưa thể hiển bày được việc trụ vào cảnh giới Bồ-tát”, chỉnh là ý này vậy. Nên người học Phật không rõ lý này cố nhiên không biết cái chân chánh của tâm tánh, mà chấp trệ lý này cũng chưa khỏi bị chướng ngại tâm tánh. Do vậy, trước nên khuyên gắng sức thực hành, phải nên nghiên cứu cùng tận lý này, sau khi đã dung thông Trung đạo thì không thể chấp trệ ở lý này. Nên nói: “Qua sông phải dùng bè, đến bờ chẳng dùng nữa”. Không chỉ Phật giáo mới như thế mà Nho giáo cũng như thế. Chỉ như Chu Văn Vương, không lớn tiếng, chẳng lo dài, thì dứt bỏ được sự chướng, đến khi không hay không biết, thì lý chướng dứt bỏ vậy. Nhan thị không đổi giận, chẳng ngờ sai, thì đó là dứt bỏ được sự chướng vậy, đến khi như người ngu ngồi quên, thì lý chướng dứt bỏ vậy. Chu Văn Vương là bậc Thánh, Nhan Tử là thánh gì vậy. Hẳn có thể chẳng bị Lý làm chướng, nếu phân lượng chưa đến bậc thánh thì chỉ có thể bỏ ác làm lành để dứt bỏ sự chướng, vậy có thể không nghĩ không cố gắng để dứt bỏ lý chướng ư? Chu Hối Yêm phân lượng còn xa chưa thể đến thế, do vậy, nhọc muốn chấp trệ lý này, mà cho rằng Phật giáo không nên chán ghét lý này. Vả lại chỉ vì cái sai thật thấy, nên người hiểu biết quán xét thì biết sai chẳng tại nơi Phật giáo mà bởi Chu Hối Yêm vậy. Than ôi: nhìn núi thì núi cao xanh thẩm, ngóng ra biển thì biển rộng mênh mông. Nhấc giày bước lên, xanh thẩm cao xa, vỗ chèo bơi tới, mênh mông xa mù! Và sau đó đi đến chỗ không cùng tận. Chỗ thấy không cùng tận mà khinh bàn luận. Lời cùng lý cạn thì dứt bặt không tiếng. Trình Minh Đạo nói: “Thuyết của Phật giáo, nếu muốn rõ cùng thuyết ấy mà lấy bỏ thì thuyết ấy chưa thể cùng tận, cố nhiên đã biến hóa mà thành Phật vậy. Đến đây, Trình Minh Đạo mới biết thuyết của Phật giáo chẳng phải chỗ mà Nho giáo biết được. Chu Hối Yêm nói: “Nếu như thuyết ấy có thật thì thuyết của Nho giáo ta cũng không sánh bằng. Đó là quá đỗi trung chánh và cùng với sự không sánh bằng chẳng có gì khác”. Đến đó, Chu Hối Yêm mới biết thuyết của Phật giáo thì Nho giáo chẳng sánh bằng.

Thuyết của Phật giáo, thì Nho giáo không thể biết cùng tận, Nho giáo cũng chẳng thể sánh kịp. Vậy ai bảo Phật giáo có thể phá hủy ư? Hàn Dũ phá Phật, vì không biết Phật. Các tiên Nho phá Phật, vì bắt chước theo Hàn Dũ vậy. Thử đọc biệt truyện của Hàn Dũ, thấy ông cùng với thiền sư Đại Điên hỏi đáp rất rõ ràng. Hàn Dũ nói: “Người mà ông gọi là Phật, miệng chẳng nói pháp luật của Tiên Vương, sao có thể để yên mà không phá dẹp?” Đại Điên nói: Phàm ông đã từng đọc sách Phật, ông nghi khác với Tiên Vương điểm nào, có thể nói chăng? Hàn Dũ nói: “Tôi đâu có rảnh để đọc sách ấy?” Đại Điên nói: “Ông chưa từng đọc sách ấy sao biết sách ấy không nói pháp luật của Tiên Vương? Vả lại, ông chưa từng thường đọc sách của Khổng Tử, mà nghi Phật giáo sai lầm ư? Chỉ nghe người nói là sai lầm, mà bèn cho là sai lầm ư? Nếu tự vì thường đọc sách của Khổng Tử mà bèn nghi sai lầm của Phật giáo, thì đó là con chó của vua Thuấn vậy. Nghe người cho là sai lầm mà bèn sai lầm, ấy là kẻ thê thiếp vậy. Ngày xưa, nhà của vua Thuấn có một con chó, sớm tối nó chỉ được thấy một mình vua Thuấn. Ngày nọ, vua Nghiêu đến nhà vua Thuấn, nó bèn sủa rân. Chẳng phải mến vua Thuấn ghét vu Nghiêu mà nó sủa, bởi vì nó thường thấy chỉ là vua Thuấn mà chưa từng thấy vua Nghiêu vậy. Nay ông thường học Khổng Tử, song, chưa thường đọc sách Phật, bèn lấy làm lạ. Đó là cái thấy của con chó nhà vua Thuấn. Người con gái lúc lấy chồng, người mẹ đưa đi và răn dè, về đến nhà chồng phải kính, phải răn. Nên người con gái ở nhà mình thì theo cha mẹ, lúc gã rồi thì theo chồng, chồng chết thì theo con, trọn đời như thế, chỉ người khác là theo, đó là đạo lý của người vợ vậy. Nay ông nghe lời người cho là sai lầm, bèn hùa theo nói là sai lầm. Ấy là cái thấy của người vợ vậy”. Do đó, mà nói sự phá Phật của Hàn Dũ giống như con chó của vua Thuấn, những kẻ bắt chước Hàn Dũ mà phá Phật, chẳng phải là hạng vợ con ư? Làm chó nhà vua Thuấn làm người vợ, không gì thấy nghe sâu rộng như thế.

Đời nhà Hán, có Mâu Tử, có viết sách để biện minh Phật giáo, có bộ sách tên là “Lý Hoặc Luận”. Trong đó nói: “Tôi (Mâu Tử) chẳng phải là biện bác, chỉ do thấy rộng nên chẳng bị mê hoặc. Khi tôi chưa hiểu kinh Phật, thì tụng đọc ngũ kinh, cho rằng lý trong thiên hạ đều nằm trong đó. Khi đã đọc được thuyết của kinh Phật, xem lại Ngũ Kinh, thì giống như vào trong giếng trời mà nhòm khe hang, lên núi Thái mà nhìn gò đồi vậy”. Lại nói: “Thấy biết ít thì lấy làm lạ nhiều, thấy lạc đà mà nói ngựa bị sưng lưng”. Nhu vậy, sự phá hủy Phật giáo ngày nay, đâu khác gì thấy lạc đà mà nói ngựa bị sưng lưng ư? Người hiểu biết đối với sự việc này cũng xét xem kỹ lưỡng, so ngắn lường dài mà suy nghĩ đó. Nói rằng giáo lý của ta quả thật là ưu việt hơn so với họ ư? Hay kém hơn so với họ ư? Đạo quả của họ là kém hơn của ta ư? Thần thông diệu dụng của Phật là chỗ không thể luận bàn. Ban đầu xét việc đệ tử Phật đến Trung Quốc thì Minh Hoàng hỏi Nhất Hạnh về vận nước rằng: “Xe Loan có đi cả muôn dặm, xã tắc rốt cùng là tốt lành”. Sau đó, vua Đường Minh Hoàng vì sự biến loạn của An Lộc Sơn mà đến đất Thục, vận nhà Đường chấm dứt ở đời vua Chiêu Tông mà Chiêu Tông lúc đầu được phong là Cát Vương, đều như lời của Nhất Hạnh. Các nhà Nho cho thông minh duệ trí là Chí Thánh, vậy có thể thấy biết trước được như thế chăng? Nêu bày thuyết ấy cùng với lời của Nho giáo, chắc chắn họ sẽ nói: “Nhà Nho tôi không quý điều ấy, thật là không suy nghĩ. Lời ký chép: Đạo chí thành có thể biết trước, chẳng phải không quý việc ấy, riêng miệng hay nói như thế, mà thấy thì chưa đến thế, Tam tạng Pháp sư Đại Nhĩ chứng được tha tâm thông, Quốc Sư Trung thử hỏi rằng: “Ngài hãy nói xem, Lão tăng hiện giờ đang ở đâu?” Đại Nhĩ đáp: “Ở trên cầu Thiên Tân xem khỉ làm xiếc”. Trung lại hỏi: “Lão Tăng hiện giờ ở đâu?” Đại Nhĩ đáp: “Ở tại Tây Xuyên xem thì bơi lội”. Các nhà Nho từ thời vua Thuấn, vua Nghiêu, cho đến Khổng Tử, Mạnh Tử quả thật có thể có được chút biết ấy ư? Nêu bày thuyết ấy cùng với lời của Nho giáo, chắc chắn họ sẽ nói: “Nhà Nho tôi không chuộng điều đó”. Chỉ nỗi không suy nghĩ, trong kinh Thi nói: “Người kia có tâm, ta nghĩ đạt được vậy”. Không phải chẳng chuộng điều ấy, chỉ nói bằng miệng vậy, mà biết chưa đến được thế.

Đến như, Đại Sư Đạt-ma sau khi an táng thì nhục thân trở về Tây Trúc. Đại Sĩ Vạn Hồi chỉ trong một ngày mà đi lại muôn dặm. Kỳ Vực dùng một thân mà đồng thời thọ nhận sự cúng dường của trăm nhà. Viên Trạch trong một đời mà có thể biết được việc của ba đời. La-hán đảnh lễ ngài Ngưỡng Sơn Tuệ Tịch, thần núi thọ giới với ngài Khuê Phong ở núi Tung. Đàm Thỉ dao kiếm không thể làm thương tổn. Hàn Sơn ẩn vào trong vách đá, sinh tử đến đi, tùy theo ý thích, thần thông biến hóa không thể suy lường. Đó tuy chỉ là cặn bã của Phật giáo, ban đầu chẳng phải là chỗ mến chuộng của Tông môn, những từ các Tông giáo khác mà quán sát thì chưa hề có dấu tích kỳ lạ như thế. Cái thấy đã chưa thể kịp như vậy mà muốn khinh bàn Phật pháp, không biết họ sẽ nói thế nào? Nếu nói thuyết nhân quả không đáng tin thì làm việc lành có trăm điều tốt, làm việc chẳng lành thì bị trăm sự tai ương. Người làm điều lành chắc chắn có phúc thừa, kẻ làm điều chẳng lành chắc chắn có ương họa. Các nhà Nho chắc chắn đã dùng nhân quả để dạy người. Há cho rằng không đáng thực hành, hung bạo là chẳng tổn hại và trái lại là biết đạo ư? Nếu nói thuyết ăn chay không đáng giữ, cho nên người không ăn mặn, như Khổng Tử lấy sự chay lạt để cúng tế, nhưng chỉ ăn chay ba ngày. Trong lễ ký lấy làm cái đức của thanh minh. Các nhà Nho đều lấy sự chay lạt thanh khiết để dạy người, há rủ thịt làm ngày tụ hội ăn muôn tiền. Trái lại là việc tốt lành ư? Nếu nói giới không giết hại chẳng phải đúng, thì sự chúc võng của vua Thành Thang, việc phóng sinh của Triệu Giản Tử, đều là ý ấy, Tề Tuyên Vương không nỡ giết một con bò. Mạnh Tử gọi đó là Nhân Thuật. Tống Tường cứu các loài dế kiến. Người quân tử lấy đó bàn việc tốt lành. Các nhà Nho chẳng thường lấy việc hộ sinh để làm việc phát sinh thạnh đức ư? Nếu nói giới không uống rượu chẳng phải đúng thì ác như Đại Võ còn ban chỉ không uống rượu, do đó can phạm sự trách phạt của Tiên Vương, say mà gào khóc rầm rỉ, do đó, dẫn đến sự giết hại của Tân Diên. Sao các nhà Nho không cho việc say sưa là cội gốc để chuốc họa ư? Nếu nói giới trộm cướp chẳng phải là điều mến chuộng của các nhà Nho, thì chỗ mà Y Doãn gọi đó là phi đạo phi nghĩa vậy, một hạt cải cũng không lấy của mọi người. Tô Đông Pha nói: “Mọi vật trong khoảng không gian của trời đất, mỗi mỗi đều có chủ, nếu chẳng phải là sở hữu của ta, tuy chỉ mảy may cũng chớ lấy, ấy là nói gì vậy? Nếu nói giới không nói dối chẳng phải là điều cần thiết của nhà Nho thì sự học chí thành của Tư Mã Ôn là tự không nói uống dối, ban đầu ông làm tư trị thông giám, nói: “Tần Hiếu Công chẳng phí bỏ vật thưởng của Di Mộc, Tề Oai Công chẳng trái lời thề của Tào Mạc, Tấn Văn Công chẳng tham lợi của Phạt Nguyên. Ấy, quả thật là ý gì? Nếu cho rằng giới không tà dâm là nói phỏng, thì mỹ phản chánh thứ dâm dật thấy nói tiếng, là điều ngâm vịnh của kinh Thi. Đó là các nhà Nho không hề dung túng cho người tà dâm vậy. Nếu cho rằng thuyết bố thí là nói cuồng, thì cho người nghèo khó, giúp kẻ thiếu thốn, thấy ghi chép trong Đới Lễ. Vậy thì các nhà Nho không hề cấm người bố thí. Nếu cho rằng thiền định không phải là đường lành, thì biết chỉ và sau có định, có sách Đại Học ghi nhận vậy. Nếu nói nhẫn nhục không phải là việc tốt thì điều nhỏ không nhẫn chắc chắn sẽ loạn mưu lớn, cớ sao trong Luận Ngữ răn dè như vậy. Nếu cho rằng lời nói xấu ác không cần răn cấm thì sao sách Lễ Ký chép: lời nói ác không tuôn ra ở cửa miệng”. Nếu nói tức giận không cần phải cấm ngăn, sao trong Kinh Thư lại ghi “Chẳng những không dám ôm lòng tức giận”. Nếu cho rằng giới không nói lời đôi chiều chẳng phải là việc phải mau làm thì người không có mặt đừng nói sau lưng, sao khắn khít với mệnh lệnh của Đế Thuấn vậy. Nếu cho rằng giới không nói lời thêu dệt là xa vời không thiết thực, thì “Nói khéo như Hoàng Nhan thật sâu sắc vậy” sao lại thấy viết ở chương Tiểu Nhã? Nếu nói tham dục không thương tổn mọi sự, thì “Người tham là hạng người hư hủy”, cớ sao thi nhân viết vậy? Nếu nói Tà kiến không có hại cho đạo, thì tà thuyết lừa dối người, sao Mạnh Tử lại bài bác? Nếu cho rằng không màng đến thân thể, ăn mặc thô sơ, chẳng phải là trung đạo của Thiên hạ, thì Thái Bá cắt tóc vẽ mình, sao tôn xưng là có Chí đức. Nếu cho rằng không cưới gả, không dưỡng nuôi là cắt đứt thường Đạo của nhân luân, thì Lỗ Sơn trọn đời không cưới vợ, cớ sao giúp ông dùng văn thực hành đạo lý cao xa của Phật, hẳn chưa dễ nói với người đời. Tạm dùng dấu tích cạn cợt để luận bàn, thì không biết thế nào là sai trái, thế nào là bị chê bai? Thấy nghe không được rộng rãi mà vọng cho là sai trái, chê bai thì chưa khỏi thuộc hạng chó của vua Thuấn và chỉ là người vợ mà thôi vậy.

Mâu Tử nói: “Điều tôi khen chỉ như lấy bụi đất đắp lên núi Thái, lấy sương mai để thêm vào sông hồ. Điều ông phỉ báng chỉ như dùng một bàn tay để che ánh sáng mặt trời, vốc đất hòn để lấp bờ sông. Điều tôi khen, không thể khiến Phật cao hơn, điều ông phỉ báng, không thể khiến Phật thấp xuống. Giờ đây chẳng hủy báng cũng đâu thương tổn 32 đến Phật giáo? Chỉ tự mau đến Quyết cung vậy”. Trương Vô Tận nói: “Hàn Dũ cho rằng người làm sử, không có họa do người gây ra thì có trời phạt, đâu thể không sợ mà khinh thường được. Phàm người viết sử trích chọn sự thật của người, giả sử khen chê không công bằng, thì còn có hình phạt, tai họa, huống gì vô cớ khinh bạc để phỉ báng bậc Đại Thánh ư. Tất cả các tội nặng đều có thể sám hối, nhưng tội phỉ báng Phật pháp không thể sám hối. Nên trong kinh Pháp Hoa nói: “Tội phỉ báng Pháp rất nặng nề”. Nay, người chỉ phỉ báng Phật, tức đã gieo vô lượng nhân tội lỗi. Huống gì Phật dùng đạo lý tốt lành giáo hóa người, người tin Phật sẽ làm việc lành, người không tin Phật sẽ làm việc ác. Chứa nhóm điều ác thì bị mất thân, sau khi chết tội báo càng nặng. Trời gây tai vạ, có thể lánh né, tự mình gây tai vạ không thể trốn tránh. Đó là nói ý vậy. Nếu cho rằng chết là mất hẳn không còn biết gì, cho nên trong Hệ Từ nói: “Hồn đi tức là biến”. Trong Hiếu kinh nói: “Cho quỷ hưởng đó”. Tả Truyện nói: “Quỷ vẫn xin ăn”. Trương Huy Dương nói: “Chết phải làm quỷ dữ để giết giặc”. Cho nên sau khi chết chắc chắn có tánh thấy, nghe, hay, biết vậy. Nếu cho rằng chết tuy có biết nhưng không còn tội, thì trong kinh Thư nói: “Đạo trời phước thiện họa dâm”. Trong kinh Dịch nói: “Quỷ thần hại đầy phước khiêm”. Trong Tả truyện nói: “Có đổi lời thề này, minh thần giết chết”. Trang Tử nói: “Ở nơi chỗ vắng vẻ làm những điều bất thiện, thì bị quỷ giết”. Vậy thì trong chỗ tối tăm, hẳn có việc thưởng thiện phạt ác. Ở đời có khơi móc cho ra tình gian, phát hiện cho ra việc bí mật như thần linh, chắc chắn không dung túng cho kẻ có tội mãi làm gian ác. Huống gì quyền hành mâu đoạt thực để thần minh xem xét ư? Kẻ kia thông minh ngay thẳng, không thể ngăn che, không thể khi dối vậy, không thuận theo tình riêng của người đời, không khiếp sợ quyền thế ở dương gian, thì người có tội làm sao trốn tránh khỏi hình phạt ư?

Thuyết địa ngục trước đã có nói, đến lúc chết biến thành loài súc sinh, thấy sự ghi chép trong các nhà Nho chẳng phải một. Cổn sinh làm gấu vàng, Bành Tổ sinh làm heo, có nói trong tả truyện. Bao Quân làm rồng, có ghi trong sử ký. Triệu Vương Như ý làm chó, có ghi trong Tiền Hán thư. Vậy ở Trung Quốc trước khi chưa có Phật giáo, trong sách của Nho giáo đã ghi chép những việc ấy, chẳng phải Phật giáo sáng lập ra thuyết ấy vậy. Cổ Tuyên nói: “Bỗng nhiên thành người, đâu đủ để khống chế, hóa thành vật khác cũng đâu đáng lo? Tin được lời ấy thì biết người có thân này không thể giữ mãi được, bỏ lành theo ác, không khỏi sinh làm các loài vật khác. Thông minh không thể thắng nghiệp, giàu sang đâu khỏi luân hồi. Ngày nay béo phì gấm vóc, lúc khác ngậm sắt mang yên. Đời nay vung tay múa bút, kiếp khác mang lông đội sừng. Đó là lý tất nhiên vậy, nên Phật dùng tâm rộng lớn, chỉ bày giáo lý năm thừa: nhân thừa tức là dạy người giữ năm giới, thường được làm thân người, không rơi vào các loài vật khác. Thiên thừa tức là dạy người tu hành mười điều lành, được quả báo làm trời, chứ không chỉ làm người vậy. Còn ba thừa sau là dạy người từ Thanh văn, Duyên giác đến thành Phật đạo, dứt hẳn sinh tử, thường trú bất diệt, chứng Vô Thượng giác, trở lại cứu độ chúng sinh. Đại đạo cao xa trong thiên hạ, ai có thể vượt qua như vậy ư? Ở đời có Đại đạo cao xa, mà u mê không biết, mới cậy ỷ mình thông minh, cậy mình có thanh thế, báng bổ thánh giáo, chứa nhiều tội lỗi oan khiên mà tự hướng đến đường ác. Đó cũng rất đáng thương vậy. Nói chung, con người có được thân này, sống rất khó, còn chết thì rất dễ. Đức Thế Tôn cầm nắm đất để chỉ dạy các đệ tử, cho rằng chúng sinh luân hồi trong bốn loài sáu đường, được làm thân người, chỉ như nắm đất trong lòng bàn tay, còn bỏ mất thân người, như đất trong cõi Diêm-phù. Bởi vì thời gian làm điều lành thì rất ít mà làm điều không lành thì rất nhiều, do vậy thời gian làm được thân người thì ít mà thời gian bỏ mất thân người thì rất nhiều. Vậy thì sự sống chẳng phải rất khó ư?

Bạch Lạc Thiên tự răn mình rằng: “Đời người trăm tuổi, sống đến bảy mươi tuổi là ít có”. Giả sử cho ông sống được bảy mươi thì ông nay đã bốn mươi bốn tuổi, chỉ còn hai mươi sáu năm, thời gian có là bao nhiêu. O^ng không nghĩ việc trong hai mươi lăm – hai mươi sáu năm trở lại, thoáng vụt qua mau như một giấc ngủ. Vậy thì sự chết há chẳng rất dễ ư? Vì sống khó được mà sự chết dễ đến, hãy đau đáu sợ hãi ngày sợ đêm lo, để mưu tính giải thoát ư? Phật chỉ bày cho thiên hạ pháp môn giải thoát, hễ có tánh của huyết khí tâm trí đều có thể hướng đến mà vào. Và chỉ căn khí chẳng hèn, trí thức vượt hơn người thường, được thấy biết chân chánh, mới không rơi vào tà kiến, có thể biết đó chăng? Thấy đủ trong nguyên bản, ngoài ra không ghi chép.