LUẬN PHÂN BIỆT CÔNG ĐỨC
Hán dịch: Mất tên người dịch – dựa theo sự sao chép đời Hậu Hán
Việt dịch: Linh Sơn Pháp Bảo Đại Tạng Kinh
Hội Văn Hóa Giáo Dục Linh Sơn Đài Bắc Xuất Bản

 

QUYỂN 2

Bồ-tát Di-lặc khen ngợi về thiện: Vì đã kết tập pháp lớn sáu độ ấy làm một phần, đấy tức là Bồ-tát tạng.

Đoạn kết: NghĩA-là dứt trừ các kết sử do vọng kiến. Sự việc thành đạo quả Đại thừA-là Nhất thiết trí. Tôn giả A-nan chỉ nói nghe, không nói thấy, chả lẽ không thể thấy Như Lai thuyết pháp sao? Sở dĩ nói thấy là vì chẳng phải vậy, là vì bốn bộ trong vị lai mà không được nói thấy. Giả thiết nói là thấy, thì bốn bộ chúng sau nầy, lại vâng mạng A-nan, nói thấy thì là giả dối. Do vậy, nên chỉ nói là nghe mà không nói thấy là như thế.

Đầu tiên, Phật thuyết pháp, hóa độ năm người như A-nhã-câu-lân v.v.. Ở nước Ma-kiệt-đà, thu phục ba anh em Ca-diếp. Thích Sí tức Catỳ-la-vệ. Nếu không được nêu nơi chốn nói kinh thì chỉ xưng tại Xá-vệ vì Phật ở Xá-vệ trải hơn hai mươi lăm năm. So sánh với các nước, thì Phật ở đấy rất lâu. Sở dĩ ở lâu, là vì nước ấy tươi đẹp, với nhiều loại châu báu, dân chúng đông đúc thịnh vượng, rất có nghĩa lý.

Tinh- xá Kỳ Thọ, có thần nghiệm khác thường. Ngay khi chúng Tăng đang tụ tập ở giảng đường, các khỉ vượn, có đến vài ngàn con tụ tập ở bên trái, phải để xem, nghe. Cảnh trí tịch mịch, không có tiếng động, các loài chim khắp mọi nơi đều tụ tập về đây. Đúng giờ nghỉ, chúng Tăng đều trở lại chỗ nghỉ của mình, khi có tiếng kiền chùy thì lại đến tập họp.

Ở đây, do đất nước có nhiều người nhân từ, nên đủ các loài đến nương tựa Phật, hoặc là nơi tạm dừng để thọ thỉnh, hoặc là chỗ ở gốc, để từ đấy dùng thần lực đến các nơi khác hóa độ, rồi có chỗ trở về. Do vậy chỉ xưng Xá-vệ, là đủ biết sự quan trọng của chỗ nầy. Tại trú xứ này

có tên của hai người: Kỳ Hoàn và Cô Độc, được gọi rất riêng biệt vì hai người ấy, nay đang ở trên cõi trời; trước khi mất cũng tập họp chư Thiên, thuyết pháp, giáo hóa. Bấy giờ, có tâm niệm: “Chúng ta vốn là đàn- việt đầu tiên của chúng Tăng, tên gọi của chúng ta lẽ đâu không được khen ngợi ư? Vì muốn thích hợp với tâm niệm kia, nên mới gọi riêng tên hai người.

Nói sẽ tu một pháp… Nghĩa là cũng chẳng phải thuyết pháp theo trình tự. Xét về việc Phật thuyết pháp, khi đầu tiên thành đạo, phải từ vườn Lộc Dã, ở thành Ba-la-nại, nói bốn đế là bắt đầu. Tiếp theo, đến Ma-kiệt, thâu phục ba anh em Ca-diếp, nhân đó mà gọi tên của chủ tinh xá kia, lại nói sẽ tu một pháp, nghĩa là dùng một pháp nầy cùng với bốn pháp, thì nghĩa vị ấy cũng không khác, vì một pháp cũng đoạn kết, bốn pháp cũng đoạn kết, tất cả đều cùng tiến đến Niết-bàn, nẻo đường thì khác mà vẫn quy về một chỗ.

Tổng số kết là hai mươi mốt, diễn nói thành ba mươi sáu, về số dù có đầy-vơi, nhưng đều là kết. Thông thường thì sự có một trăm, một khi mở ra, lại là tám vạn bốn ngàn, là vì một pháp thì dù với ngàn- vạn cũng đều thẳng tiến tới đạo mà thôi; cũng như sư tử giết voi, voi giết thỏ, đều cùng là cái chết. Do nghĩa lý không khác biệt, cho nên đều khởi đầu từ một pháp. Không phóng dật, là tôn chỉ của một pháp.

Hoặc có ý hỏi: “Giới lẽ ra phải ở trước, vì trước hết là phải vâng giữ giới, sau đó mới nhớ nghĩ đến ba Tôn”?

Hoặc có ý nói: “Đấy chỉ là người mới học; trước nghĩ đến ba ngôi, tức ba tự quy, vận dụng ý ở Phật- Pháp- Chúng, để tiếp theo thọ giới, do đấy mà nói đến giới. Giới nên ở sau dứt niệm thứ tư, giải thích: “Nghĩ đến nỗi khổ của thân nhàn tĩnh, nghĩa là quán thân với ba mươi sáu vật bất tịnh mà phát lồ việc xấu ác của mình, để tự giác ngộ, có thể nhờ vậy mà thành đạo”.

Lấy gì để chứng minh?

Xưa, có Tỳ-kheo ở A-luyện-nhã, đi khất thực, gặp con gái của một trưởng giả cùng khất thực. Người nữ và Tỳ-kheo, thảy đều đoan nghiêm. Người con gái khi thấy Tỳ-kheo, bèn khởi tưởng dục. Tỳ-kheo trông thấy cô gái, cũng khởi ý dục, ý động mà tay run, nên trút cơm vào bát, làm rơi vãi xuống đất, cô gái tự cười tinh quái. Tỳ-kheo thấy răng cô gái trắng quá, liền tự giác ngộ: “Trong miệng cô gái chỉ là xương thô xấu, như lời Phật đã nói: “Trong thân người có ba trăm hai mươi xương, có sáu trăm lóng, bảy mươi vạn mạch, chín mươi vạn lỗ lông, một lỗ vào, chín lỗ xuất, tiết ra những thứ nhơ, không có một thứ nào đáng tham. Quán sát kỹ thật đúng thân cô gái có ba sáu vật thảm thương mà rùng mình, chuyển sự suy xét nầy tự biết thân Không, liền được đạo Tu-đà hoàn”. Lại tự cảm thấy: “Ta nhân có cô gái mà thấy pháp, như vậy cô tA-là thiện tri thức của ta, nay ta phải trả ơn. Liền vì cô gái mà giải thích pháp thân. Tâm cô gái lập tức được mở và cũng được đạo Tu-đà-hoàn. Do đấy, mới nói niệm thân là trội hơn”.

Niệm tử. Nghĩa là nghĩ đến phước của người chết. Khi mạng chung, thấy điềm địa ngục, kinh sợ quá, té phân. Hoặc thấy ngạ qủy, hoặc thấy súc sinh, tùy thuộc vào hành vi bị đọa mà thấy, đều sợ hãi, với ý muốn bỏ đi. Hoặc vì bị đối tượng lôi kéo, hoặc sẽ sinh trong cõi người, duyên vào sự giao hợp của cha mẹ. Nếu tiếp nhận thai nam, thì sẽ yêu người nữ kia, nếu thọ thai nữ, thì sẽ yêu người nam kia, trừ người nữ kia bệnh, ba việc khó không sai khác, ấy là được vào thai. Đã thọ thai, lại nhìn nhận cho là cái mình có. Cứ bảy ngày, một lần biến đổi khéo léo, gió cắt từng khắc, đến ba tháng, mười bảy, mười tám ngày, thai mới hình thành.

Nếu sinh nơi cõi Trời, thì có nhạc trời đến đón, nỗi vui mừng không gì hơn, tức thì mất tiểu tiện. Điềm lành của năm đạo nầy đều có chỗ để trông thấy.

Cái chết nầy ứng với người tu hành, dùng nó như sự răn dạy sáng suốt- sâu xa, chỉ sự vô thường, mạng chuyển mau chóng như ánh chớp, như vầng mây bay qua nóc nhà. Lão- bệnh- tử đến, đều không tránh khỏi. Thường xuyên nghĩ đến trạng thái biến đổi nầy để tự giác ngộ, nên nói là nghĩ đến cái chết. Mười niệm trước, đức Phật tự nói vì chưa có người nào hỏi, nên Phật không giải thích. Mười niệm sau, Tỳ-kheo hỏi, Phật lại vì họ mà diễn nói, mỗi mỗi đều giải thích rõ ràng.

Đệ tử của Thế Tôn, nghĩa là năm trăm A-la-hán, mỗi vị đều có phương tiện, hoặc trí tuệ bậc nhất, hoặc thần túc, hoặc biện tài, hoặc phước đức, hoặc giữ giới, hoặc tri túc, hoặc thuyết pháp, mỗi vị đều chiếm lấy vị trí thứ nhất.

Muốn luận bàn trước là anh, sau là em, thì A-nhã-câu-lân, lớn hơn hết, vì Tu-bạt là nhỏ nhất. Đây chủ yếu lớn nhất là chỉ ra bậc thềm trình tự của Phật pháp. Nếu dựa vào thông minh- hiền trí- rộng suốt, để làm bậc đứng đầu, thì đấy chính là pháp của Bà-la-môn.

Nói một ngàn hai trăm năm chục người, là đơn cử con số những người thường xuyên theo hầu Phật. Hoặc nói: “Năm trăm người, ấy là khi đức Phật tiếp nhận lời thỉnh cầu của A-nậu-đạt, nói gọn là năm trăm người có thể cùng đi theo Phật đến cung Long Vương”. Vì sao? Vì suối A-nậu-đạt nầy chẳng phải mang hình dáng kẻ hữu lậu mà có thể vượt qua an toàn.

Khi A-nan xuất kinh, đã tập họp tám vạn bốn ngàn La-hán. Do đấy, nói không thể kể đếm là vậy.

Kinh nầy, lúc mới xuất, có một trăm người, đứng đầu về sự thông suốt bốn bộ. Mỗi vị đứng đầu lại có hai trăm hai mươi vị. Ngoài ra, há có thể kể?! Có người lại nói: “Kinh nầy vốn có trăm sự, A-nan pho thác Ưu-đa-la, mười hai năm sau, kinh Tăng- Nhất A- hàm xuất hiện, là thời điểm A-nan đã vui Niết-bàn. Các Tỳ-kheo đều lo tập ngồi thiền, không tụng, tập. Lại còn nói: Phật có ba nghiệp mà tọa thiền là thứ nhất, thế là các Tỳ-kheo đều bỏ dở đọc tụng kinh suốt mười hai năm”.

Tỳ-kheo Ưu đà- lA-lại bát Niết-bàn. Đó là lý do kinh nầy mất đi chín mươi sự.

Pháp sư nước ngoài lại tương truyền, vì chỉ truyền trao miệng, pho thác cho nhau, không cho biên chép thành văn. Bấy giờ, họ đã truyền khẩu đến mười một sự là hết, và kể từ thời điểm ấy, các sư chính thức lần lượt kế thừa nhau, nên mới có văn hiện nay. Tuy nhiên, nhà Tát-bàđa không có đề tựa. Về sau, mười một sự nầy, được lưu truyền lần lượt, trải qua thời gian lâu, vì truyền đi nhiều, nên bị sót mất gần hết. Sở dĩ sự phó chúc nghiêng về đệ tử Tăng nhất nầy, vì người ấy từ đó đến nay đã theo bảy vị Phật, và đã tập họp tất cả lại thành bộ Tăng Nhất A hàm. Các Thánh, trước cũng đã phó chúc đến kinh nầy, thời kỳ đấng Năng Nhân chuyển pháp luân, cũng thường khuyên và đề cập đến Tỳ-kheo ấy.

Bấy giờ, đệ tử của Ưu-đa-la tên là Thiện Giác, theo thầy thọ lãnh, tụng Tăng Nhất, đúng là có mười một sự. Sau đó, Ưu-đa-la bát Niếtbàn.

Các luận sư nước ngoài đều cho rằng, ba tạng hiện nay, tất cả được truyền thừa do Thiện Giác, và thầy trò đã truyền trao nhau cho đến nay, không ai thay thế. Sở dĩ Ca-diếp thường cho A-nan là trẻ con, nên nhiều đời đến nay, cứ tương gia ý của cha. Lúc ấy, em gái của A-nan là Tỳkheo- ni, nghe Tôn giả Ca-diếp nói lời như vậy, nên tỏ vẻ hờn dỗi không thích, nói: “A-nan, anh tôi rất thông minh, hoạt bát, thông đạt, mọi người ai cũng ngưỡng mộ, trọng vọng, mà Tôn giả lại cho là trẻ con!?”

Tôn giả Ca-diếp nói với Tỳ-kheo ni: “Em cả à! A-nan có hai việc đáng xấu hổ, sao em lại hờn dỗi? Chánh tọa A-nan khuyên Phật độ cho người mẹ, đã khiến cho Phật pháp bị giảm đi ngàn năm, là một. A-nan có tất cả sáu mươi đệ tử. Ngày gần đây, có ba mươi Tỳ-kheo trở lại đời sống thế tục, Phật dạy pháp độ đệ tử, nếu là người tại gia thì phải có niềm tin tự tìm đến cầu đạo, phải thử thách bảy ngày; còn nếu là người ngoại học đến cầu đạo, cần trải qua bốn tháng thử thách. Vì sao không bằng nhau? Vì nhà ngoại đạo, hoặc do lòng dạ xấu ác, muốn tìm tòi sở trường, sở đoản. Chính vì lẽ đó, nên trước hết phải thử thách xem để biết là họ có chí thành hay không? Tuy nhiên, A-nan lại tùy tiện, hễ có ai đến cầu đạo, ấy là độ ngay, là hai việc đáng xấu hổ.

Ba mươi Tỳ-kheo nầy, sở dĩ hoàn tục, là vì nghe nói trong chín mươi sáu đạo, A-nan là Đẳng trí bậc nhất, nên theo A-nan là để cầu độ, nghĩA-là muốn thỉnh thọ Đẳng trí, nhưng A-nan không nói cho Đẳng trí, vì không hợp với bản tâm. Đấy là lý do khiến họ trở lại thế tục. Đã trở lại thì tất nhiên, họ chê bai A-nan, cho A-nan không có Đẳng trí. Độ đệ tử, ví như cá đẻ con, hằng ngàn, ức, vạn, nếu để tâm giáo hóa nối nghiệp thì sẽ thành tựu, ngược lại nếu không để tâm, tức sẽ thoái lùi. Vụ việc nầy lẽ nào không phải đáng xấu hổ ư ?!

Tỳ-kheo- ni nầy, do tâm giận dữ hướng về Ca-diếp, tức thì hiện thân vào địa ngục, còn A-nan do có khuyết điểm ấy, nên Ca-diếp mới cho là trẻ con.

A-nan lại dẫn chuyện xa xưa. Đó là Chuyển Luân Thánh vương, tên là Trường Thọ. Tiếp nhận giáo huấn để lại của Đại Vương cha, lên ngôi cai trị, giáo hóa. Khi sắp xuất gia, lại căn dặn và ủy thác cho thái tử Thiện Quán, phải dùng chánh pháp trị nước, sự trị nước lần lượt truyền trao cho nhau, chưa từng cho ai tạm thay thế. Xưa, do cha con nối tiếp nhau, nay do thầy trò truyền thừa nhau. Xưa, còn không mất giáo hữu lậu, huống chi ngày nay, lẽ nào phải mất đi diệu pháp chí chân hay sao?, cho nên dẫn ra để chứng minh, nhằm chứng tỏ Thiện Quán kia, tất nhiên có khả năng tiếp nhận được ý nghĩa của sự di chúc.

Đối với pháp, phải nghĩ nhớ và cung kính. NghĩA-là trong kệ trên, đã phán quyết Tứ A- hàm là của ba tạng. Trong trường hàng, lại nói: “Trong một kệ là có thể đủ các pháp của ba tạng, huống chi là Tăng Nhất, mà không hội đủ các pháp ư ?

Sở dĩ như vậy là có một đoạn kệ nói: Trong tâm các thiên tử, sinh ý nghĩ: A-nan không có khả năng tác kệ nói pháp. Vậy sao lại tạo ra sự lừa dối làm gì?!

A-nan biết cảm nghĩ trong tâm của các thiên tử, nên nói với các thiên tử: “Giả sử kinh mà tám vạn bốn ngàn con voi đã chở đó, đều là kệ- tụng, thì ta cũng có đủ khả năng trong số kệ tụng như vậy, huống chi với một ít pháp nầy, mà A-nan lại không có khả năng sáng tác hay sao?

Vì muốn làm vừa ý chư thiên, nên A-nan lại dùng kệ tụng các pháp, để khuyến dụ chư thiên và những chúng sinh lanh lợi, nên nghe kệ để được giải thoát!

Pháp, tức chương trên:

“Các ác, chớ làm !
Các thiện, vâng làm !
Tư tịnh ý mình,
Là pháp chư Phật”.

Nói đó là pháp, do nó có công năng hoàn thành ba thừa, dứt trừ ba nẻo ác, đủ các thật quả, tiếp nhận quả báo của hai đời, rồi tùy của tài có hơn, kém, mà thiết lập sự khuyến dụ tu hành tinh tấn.

Tụng nói:

“Trên, duy trì ba tạng,
Tiếp theo, bốn A- hàm,
Hoặc hay thọ luật tạng,
Tức báu của Như Lai”.

Sở dĩ nói báu, vì nghĩa là dụ. Nếu vua có kho báu thì không thể cho người ngoài biết được, chỉ có quan nội, người đồng tâm với vua, mới cho nắm giữ nó mà thôi. Giới, luật cũng như thế. Nếu người nào có khả năng vâng giữ hai trăm năm mươi giới cùng với năm trăm sự, thì mới truyền trao cho người đó, không thể để cho người bộ ngoài, thanh-tín-nữ-sĩ có thể chiêm ngưỡng, hay thưởng ngoạn; nên mới ví dụ là báu của vua. Giả sử sức không theo kịp hai tạng, thì chỉ người vâng giữ A-tỳ-đàm mới có thể hàng phục chín mươi sáu lối hẹp của ngoại đạo, khiến họ không còn quay lại. Vì sao? Vì diệu tuệ nầy là không có sự so sánh, có khả năng quyết định sự trì trệ vi tế nói trên, khiến cho thông suốt như thế, ngang bằng với chân. Tuy năm thông ở kiếp trụ, nhưng chưa khỏi bị chế phục do bốn ngựa chạy nhanh. Thế nên, học ngoại chớ dám dòm ngó. A-nan, người khuyến dụ tốt đẹp, đã xướng lên mười kệ ấy, đúng là vì ba vạn Trời- người nầy.

Khi xưa, lúc Phật mới thành đạo, ở vườn Lộc Dã, thuộc thành Bala-nại, vì năm người A-nhã-câu-lân v.v.., chuyển xe pháp bốn đế. Đức Phật nói: “Câu-lân phải biết khổ đế, khổ tập đế, khổ Tận đế, khổ xuất yếu đế.

Trực tiếp nói về bốn đế nầy, Câu-lân do còn bị trở ngại, nên nghe nói đã lâu mà trí tuệ ý không giác ngộ, bèn phải giảng nói về không. Câu-lân phải biết, bốn tuệ đã ngưng động, tất cả đều không, cũng lại vô thường, ví như trò ảo thuật biến hóa, không phải thật, không phải là có.

Câu-lân liền có được dấu ấn Kiến đạo, còn bốn người chưa hiểu, Như Lai lại quán Bản tâm, có hai người bệnh vướng mắc ở tưởng, lại ưa lo lắng, tự ý đều để ở nhà. Với năm dục tự ý phóng túng, tham luyến, vướng mắc, không bỏ, sinh bệnh phải cần đến thuốc, ấy là phải giảng nói tam-muội Vô tướng. Vì đối tượng mà ông tưởng, đều quy về diệt tận, nên tâm giong ruổi, buông thả ở những chỗ vui. Từ đối tượng tưởng, liền hiểu, hai người lại được dấu ấn đạo. Còn tâm của hai người còn lại, thường nguyện được sinh vào trời Phạm. Ở trời Phạm và được làm vua, nhưng bị ngăn ngại, lại không trừ bỏ đi, trở thành hệ lụy! Như Lai thấy được tâm họ như vậy, liền giảng nói Vô nguyện: “Vì sở nguyện của ông là mong cầu được làm Phạm thiên vương, không thể xuất yếu, nên phải trở về với mài mòn- tiêu diệt- tồn tại- vô thường, đáng bỏ điều đã cầu, lấy xuất yếu làm ưu tiên, tức lại được giải, và đạt được dấu ấn đạo”.

Năm người đều có những trì trệ khác nhau, nên cách làm cho về nơi đối tượng Kiến giải không giống.

Gọi là ba chuyển bốn đế, nghĩa là trong Không, Vô Tướng, Vô Nguyện, đều có bốn đế, đế tức quán, định tức chỉ. Thật hành song song chỉ-quán, nhằm đối trị chứng bệnh si-ái trong ấm-trì-nhập.

Mười hai, nghĩa là phá mười hai nhân duyên.

Xưa, khi còn tại thế, Đức Phật đã vì bốn bộ thuyết pháp. Hoặc hoặc nói về bốn đế, hoặc thuyết giảng về sáu độ, trước hết là tùy thuận chúng sinh có ưng nghe, Phật đều vì họ diễn nói rộng ra, thường không tính số lượng. Hoặc Quốc vương, Trưởng giả, Phạm chí, Cư sĩ; đến thỉnh cúng dường, hoặc đến thỉnh hỏi, phần nhiều họ là những đối tượng để nói pháp. A-nan hỏi: “Sao gọi là phải nói, nghe ư ? Phải nói thấy ư ? »

Phật bảo A-nan: “Ở vị lai về sau, khi thuyết pháp về bốn bộ nầy, phải nói nghe, không được nói là thấy. Nếu nói thấy, thì là giả dối. Vì sao? Vì nghe đã là quá khứ, thấy có nghĩa là hiện tại. Như bảy Phật ở quá khứ, đúng phải nói là nghe, không được nói thấy. Ông đối với vị lai, cũng lại như thế, nên nói: “Nghe như vầy”. Sở dĩ ta ân cần căn dặn A-nan nhiều, là vì chư Phật quá khứ dù có người hầu cận, nhưng không có ai bằng A-nan biết rõ ý Phật. Từ nhiều kiếp xa xưa, A-nan đã từng cúng dường hai mươi ức Phật, thường xuyên làm người hầu, không cầu dứt hết lậu, thường xuyên nguyện được Đẳng trí, biết được ý nghĩ sâu xa của Phật, do vậy nay được quả báo đạt Đẳng trí. Mắt xem, ý vận dụng, không mất quy tắc thích nghi, tinh tấn dũng mãnh ở trong chư Phật, không có vị Phật nào vượt qua Thích-ca-văn. Trong anh em, Di-lặc lẽ ra phải ở trước. Nay trái lại ở sau là sao?

Thuở xa xưa, trước đây ba mươi kiếp, có ba Bồ-tát ở chung trên núi. Khi đi dạo, trông thấy có con cọp đói muốn ăn thịt con mình, một người có cảm nghĩ: “Con cọp nầy đã là súc sinh, lại ăn thịt con của nó, khi chết sẽ chịu mọi thống khổ, vì làm mẹ lại không có lòng lành. Thân hiện nay của ta, do bốn đại hợp thành. Sự hội họp rồi cũng sẽ trở về với cái chết, ấy là phải dùng thân để cứu mạng đứa con kia”. Người thứ hai không chịu vậy, mới định đến chợ mua thịt, dùng thay cho mạng cọp con. Người kia lại nghĩ: “Nếu người nầy đi mua rồi trở lại, thì mạng cọp con sẽ không bảo toàn”. Vả lại, cũng phải gieo mình từ núi xuống, mới cứu vớt được mạng cọp con kia, liền từ núi gieo mình xuống dưới, đúng ngay miệng cọp mẹ. Thân được yên ổn, vì cọp mẹ không dám ăn. Lý do vì sao? Vì luận về người nhập tam-muội từ, thì đối với động vật, khó có thể hại, nên người ấy phải dùng thanh tre đâm mình chảy máu, khiến cho cọp ăn được.

Do sự dũng mãnh nầy, tức đã vượt qua tới chín kiếp. Nay, ta ở trước Bồ-tát Di-lặc là vậy. Đã nói là đạo thì không có trước- sau, ý quyết định làm ưu tiên, thế nên nay ta thành Phật trước. Vì thế, ta để lại những sách nầy, ủy thác cho A-nan: “Ở đương lai, ông sẽ nói là: Nghe như vầy:”.

Vì sao lại nói một thuở nọ?

Vì là số mặt trời, mặt trăng, hay vì là tên người?

– Cũng là số thời tiết, cũng là ở tên con người.

Hoặc nói: “Lại có hai danh; hoặc Sát-đế-lợi; hoặc Bà-la-môn”. Lại có hai danh: Hoặc dòng Trưởng giả; hoặc dòng cư sĩ. Hoặc ở trên cõi trời, hoặc ở trong cõi người. Như thế, phần nhiều, hoặc chẳng phải là một xứ, nên nói là một thuở nọ.

Bà-già-phạm, là danh xưng của Thế Tôn. Kết sử đều tận, không ai có thể vượt qua, nên xưng là Tôn. Chư Thiên ba cõi đều quay về kính ngưỡng, tám bộ quỷ thần cũng đều tôn kính, hàng phục các ma, nên gọi Thế Tôn. Danh xưng như thế, không thể tính đếm, đo lường, nên có hiệu Thế Tôn.

Kỳ thọ-vườn Cấp Cô Độc: Thái tử Kỳ-đà là con của vợ cả vua Batư-nặc, có tám mươi thửa vườn, ruộng, đất bằng phẳng, cây cỏ tốt tươi, có đủ các loài cầm thú, ban ngày chúng thường cùng nhau đến tụ tập.

Tâm của Kỳ chỉ có mỗi hình bóng Phật, luôn có ý định xây cất tinh xá cho Phật trên khắp thửa ruộng ấy. Trưởng giả Tu-đạt lại đến xin mua. Kỳ ít thân thiện với Trưởng giả, mỗi khi vui đùa, hay nói chơi là bằng lòng bán.

Tu-đạt được ý quyết định của Kỳ, nên rất hài lòng, hớn hở, lập tức nói với người hầu cận: “Ngươi hãy nhanh chóng trang bị cỗ xe voi, để ta chở vàng ròng đến trải dưới đất; tức thì vác vàng ra, tập họp trải trên mặt đất, chỉ trong khoảng chốc lát, vàng ròng đã được lót đầy bốn mươi thửa”. Kỳ lại nói: “Thôi thôi! Ta nói chơi với nhau thế, đừng trải vàng khắp nữa! Lập tức Tu-đạt với Thái tử cùng đến chỗ vua, tâu lên ý nầy. Vua nói: “Pháp không có hai lời nói. Đã hứa quyết tâm rồi, thì nhất định về lý, không chấp nhận có sự ăn năn!” Kỳ nói: “Ta nhận lấy phần cây, còn khanh lấy đất. Hai người hợp tác, có thể lập chung tinh xá, gồm có bảy mươi hai giảng đường, một ngàn hai trăm năm chục phòng nhà, trong đó đất bằng phẳng, với rừng cây ăn quả sum sê- tươi tốt, suối chảy róc rách; ao tắm được điều hòa lạnh-ấm, bốn phía trong sạch, sáng sủa, mùa Đông, mùa Hạ không thay đổi”.

Trang nghiêm xong, cùng cung thỉnh Đức Thế Tôn đến xem. Đức Thế Tôn cùng với một ngàn hai trăm năm chục Tỳ-kheo đi dạo và nghỉ ngơi trong khu vườn đó. Đàn- việt cúng dường bốn thứ cần dùng không thiếu. Các phủ của vương hầu, các quan cựu trào, cao niên, được nhường ở trước. Thế nên, các kinh thường xưng Kỳ là người đứng hàng đầu, vì lẽ công đức liên tục nhau, cho nên tên gọi cũng không được rời nhau, phải thường xuyên kết hợp dùng làm danh xưng.

Phật bảo các Tỳ-kheo: “Vì sao không bảo thanh tín sĩ-nữ, mà chỉ bảo với Tỳ-kheo? Vì lẽ chúng Tỳ-kheo ở bốn bộ đều là người đứng đầu. Hơn nữa, lại là chủ phá ác, dùng pháp Vô-lậu để đoạn trừ các hữu lậu. Vì lý do nầy, nên trước hết, bảo Tỳ-kheo, cũng gọi Sa-môn. Sa-môn, tâm được thôi dứt, chấm dứt sự dời đổi, dục cũng lặng bặt, không có vướng mắc, cũng gọi là Trừ cận. Người đời đói khát về sắc dục, người Tỳ-kheo loại trừ tưởng đói của sự đói khát về ái ấy”.

Đức Thế Tôn thuyết pháp, Tỳ-kheo có khả năng tiếp nhận, đoạn trừ sinh tử, tiến đến cổng Niết-bàn, thế nên, Phật bảo Tỳ-kheo mà thôi.

Phải tu hành một pháp. Nghĩa là niệm Phật. Niệm sự nào của Phật? Thân kim cang của Phật, không có các lậu. Nếu bước đi, chân Phật rời khỏi mặt đất bốn tấc, dấu vết về tướng hoa văn như ngàn căm xe hiện trên mặt đất. Các trùng, kiến dưới chân Phật đều được yên ổn suốt bảy ngày, nếu đến lúc mạng chung, đều được sinh lên cõi Trời.

Xưa, có một Tỳ-kheo ác, vốn là ngoại đạo, muốn giả trang phục để chê bai, đuổi theo Như Lai đang đi, giết nhiều trùng bay, đem nhét dính chỗ dấu chân Phật, rồi nói là Đức Phật đạp, sát hại trùng. Nhưng dù trùng đã chết mà gặp ngay chỗ dấu chân Phật, lập tức được sống lại. Nếu Như Lai đi vào thành- ấp, chân đạp lên ngưỡng cửa, là trời đất sẽ chấn động, hằng trăm thứ nhạc cụ không vỗ đánh mà tự kêu, các người mù, khiếm thính, câm, ngọng, lưng gù, tàn tật, một trăm bệnh tật đều tự nhiên khỏi hẳn.

Với ba mươi hai tướng tốt, tám mươi vẻ đẹp của Phật, nếu có người nào trông thấy, rồi đi theo, đều được Phật độ, công đức của Như Lai đã cứu giúp, thật sự không thể tính kể. Tuệ sáng suốt của Phật đã soi rọi, lẽ đâu có thể chê bai được ư ?!

Phật, chủ của các pháp, đều hội đủ vạn hạnh, lấy sự hóa độ làm ưu tiên. Gọi là niệm Phật, nghĩa ấy là như vậy. Còn niệm Pháp là thế nào?

– Pháp, nghĩa là gồm pháp Vô-lậu, pháp không có dục, pháp đạo, pháp vô vi, từ dục cho đến không có dục.

Phật là chủ của các pháp. Pháp là chủ của Kết, sử. Hoặc có người hỏi: “Phật ở trước hay pháp ở trước?” Đáp: Pháp ở trước.

Vì sao biết thế?

– Vì kinh nói: “Pháp sinh ra chư Phật, pháp sinh đạo Phật. Do đây mà nói, thì pháp ở trước”. Lại nói: “Nếu như vậy thì vì lẽ gì không niệm pháp trước, mà niệm Phật trước?”

Đáp: “Pháp dù vi diệu mà không có mấy ai có thể biết, cũng như ngọc báu chôn giấu trong đất, không có chỗ nào không có, mà người nghèo thì vẫn khốn khổ, thiếu thốn về vật dụng-tiền của, phải nhờ người có thần thông, chỉ cho họ biết chỗ chôn giấu của báu, để họ được dùng, để tự họ cung cấp, hoặc để cứu giúp kẻ nghèo thiếu”.

Hoặc hỏi: “Vậy quý báu là trội hơn hay con người là trội hơn ư?

– Đáp: “Con người vượt trội hơn”.

Vì lẽ gì mà nói trội hơn?

– Sự chôn giấu vật quý báu dù có nhiều, nhưng nếu không phải người có thần thông thì sẽ không xem thấy. Chỉ con người mới cần tiền củA-làm vật riêng tư. Chả lẽ kho báu tự nó quý ở trong đất ư ? Pháp cũng như thế. Về lý, Pháp dù huyền diệu, nhưng không phải Như Lai thì không có biện minh, không phải Đức Thế Tôn thì không có sự thông suốt; vì thế, nên niệm Phật ở trước, lấy pháp làm thứ yếu.

Niệm Tăng là sao?

Tăng, nghĩa là bốn hướng-bốn quả-mười hai Hiền sĩ, từ bỏ thói tham lam, thói tranh chấp của đời, triển khai phước làm con đường đầu, đi suốt qua con đường Trời-người, đều do phước nầy.

Lấy gì để minh chứng, Tăng là ruộng phước tốt quý?

– Xưa, có Tỳ-kheo phước mỏng, tên là Phạm-ma-đạt, ở trong chúng gồm một ngàn hai trăm năm mươi vị, khiến cho chúng Tăng không được ăn, mà chẳng biết là lỗi của ai? Do vậy, Đức Phật bèn chia ra hai bộ. Trong một bộ, lại khiến một bộ không được ăn. Lại chia một bộ nầy làm nửa bộ; lại khiến phân nửa bộ nầy không được ăn.

Như thế, lần lượt phân nửa, cho đến hai người, cũng không được ăn, bèn đến độc thân, mới biết là mình không có phước. Đi khất thực tại chỗ, tuần tự đến ở bát, tự nhiên tiêu hóa. Đức Phật thương xót tai ách của họ, nên tự tay trao thức ăn ngay trong bát. Vì bị thần lực ngăn, nên lại không tiêu hóa được, Phật muốn khiến thân nầy được phước, nên cho hai Tỳ-kheo diệt Tận đứng ở bên trái- phải, dùng thức ăn thí cho hai Tỳkheo diệt tận ấy.

Thông thường, hành tam-muội diệt tận, tức thì được phước. Tiếp theo, lại khiến nhập tam-muội Từ, Tỳ-kheo ở bên trái, phải. Tiếp theo, dùng hai bi, tiếp theo, dùng hai hỷ, tiếp theo dùng hai hộ (xả), mỗi pháp đều thay thế khắp, khiến tu được bốn đẳng.

Bấy giờ, Vua Ba-tư-nặc nghe nói Phật xót thương cho Tỳ-kheo phước mỏng về cái ăn, liền nói: “Nay, trẫm cũng vì lập phước, sẽ phân phát sai sứ đem gạo đến cung cấp. Lúc ấy, có một con chim bay tới ngậm một hạt gạo bay đi. Sứ giả quở: “Vua vì Phạm-ma-đạt mà thiết lập phước, sao ngươi lấy đem đi? Con chim vội vàng đem hạt gạo trả lại chỗ cũ”.

Vì sao thế?

– Vì Tỳ-kheo nầy, nhờ sức phước của chúng Tăng, cho nên chim, thú đã không thể xâm hại. Vì dụng là chứng, nên biết được chúng Tăng là ruộng phước tốt quý.

Đã độ mình, lại có khả năng độ người, tiến đến đạo ba thừa. Pháp niệm Chúng, nghĩa ấy là như vậy.

Tiếp theo, niệm Giới: “Nghĩa ấy là thế nào?”

Từ năm giới, mười giới, hai trăm năm chục giới, đến năm trăm giới, đều dùng để cấm, để chế phục thân, miệng, chế phục những nguy hiểm tà quấy. Chế ngự những nguy hiểm của sáu tình (căn), dứt trừ các niệm dục, trong ngoài thanh-tịnh là hợp với tánh giới.

Xưa, có hai Tỳ-kheo, cùng đi đến chỗ Phật. Con đường đi nằm vắt qua đầm rộng, thiếu nước uống. Lúc ấy, có nước uống nơi ao nhỏ, các trùng đầy dẫy trong đó. Một Tỳ-kheo suy nghĩ kỹ về luật cấm, quyết không vi phạm làm hàng đầu. Nếu uống nước nầy, thì sát sinh rất nhiều, thà ta vâng giữ giới hoàn toàn dù mất mạng, chớ không để phải ân hận. Ở đấy mạng chung, người nầy liền sinh lên cõi Trời.

Một Tỳ-kheo tự suy nghĩ: “Cần phải uống nước để bảo toàn mạng sống, mới có thể đến chỗ Phật, đâu biết sau khi chết, sẽ sinh cõi nào? Liền uống nước, tức đã sát hại rất nhiều trùng và đã đến chỗ Phật. Mặc dù được thấy Phật, nhưng lại cách rất xa lời chỉ dạy, khóc lóc hướng về Đức Phật tự nói: “Đồng bạn mạng chung”. Phật liền chỉ lên trời nói: “Ông có biết vị trời nầy không? Đây là bạn ông, do công đức giữ giới hoàn toàn, liền sinh lên cõi trời, nay đến ở đây. Dù ông thấy ta, nhưng cách ta rất xa, còn người kia dù mất mạng, nhưng vẫn thường xuyên ở chỗ ta. Nay ông đến thấy ta, chỉ có thể xem là đã thấy hình sắc của ta thôi, đâu co nhận thức được giới chí chân cao đẹp?”

Do đấy mà nói, vâng giữ giới không vi phạm, thì mong muốn là được. Trong mười niệm, giới ở trước, trong sáu độ thì thí ở trước. Sở dĩ trước, tức đã không bằng nhau. Mười niệm giới, là giới của nhà Thanhvăn. Với đệ tử, trước tiên là dùng pháp kiểm soát thân, cho nên nói ở trước. Pháp của Bồ-tát lấy tuệ Thí-làm trọng. Vì sao? Luận về Bồ-tát, đã sinh trong Trời- người, thì tâm luôn giúp ích. Cốt yếu của sự giúp ích không phải chỉ cho mà không cứu. Luận về chúng sinh, hiện thọ mạng, nghĩA-là phải dùng áo- cơm- tài thí, để trước nhằm cứu giúp hình hài chúng, sau đó sẽ đem pháp để gom thu, chế ngự tâm thức họ, cho nên Bồ-tát dùng Thí-làm trước.

Luận về giới, có hai: Có giới thế tục, giới của đạo. Năm giới, mười thiện là giới thế tục, ba tam-muội là giới đạo. Hai trăm năm chục đến năm trăm giới, cũng là giới thế tục, diệu tuệ bốn đế là giới đạo. Chỉ thực hành giới an, không ra khỏi ba cõi, dùng tuệ chế ngự giới, sao cho trở thành Vô-lậu, mới là hợp với giới đạo. Giới của nhà Thanh-văn, ví như đóa hoa trên đầu gối, hễ cử động thì hoa rã rời tan tát. Giới của Bồ-tát, ví như đóa hoa cài trên đầu, đi, đứng không lay động. Nghĩa là sao? Tiểu thừa kiểm soát hình, hễ lay động thì vượt oai nghi. Bồ-tát lãnh hội tâm, không câu nệ phép tắc bên ngoài. Về mô phạm dù lớn nhỏ mà Bồ-tát, Tiểu thừa đều khác nhau, hình, tâm là điểm khác biệt, trong-ngoài dù đặc thù, nhưng cũng đều cùng tiến đến Niết-bàn, cho nên nói là Niệm giới.

Niệm Thí sở dĩ được đến Niết-bàn, là vì thí có thí của-thí pháp. Có thể từ nhân thí của cải mà đạt được pháp thí, để trở thành bố thí Ba-lamật, được đến Niết-bàn.

Niệm Thiên là từ cõi Dục, cõi Sắc, đến trời cõi Vô sắc. Trời có hai hạng: Có trời thọ hưởng phước, có trời đạo đức. Các trời Tu-đà-hoàn ở cõi dục, ly khai vĩnh viễn ba nẻo ác, tiến lên nhà đạo. Cõi Sắc, cõi Không, có tám Tịnh cư thiên, tăng thêm việc tu chỉ, quán, tiến lên thành Vô-lậu, tức Niết-bàn, không trở lại thế gian.

Trời phàm phu: Nghĩa là tu hành mười thiện-bốn thiền-bốn không, sẽ được sinh vào cõi trời nầy thọ hưởng phước, khi phước hết, sẽ đọa trở lại, lưu chuyển không dứt.

Sở dĩ gọi niệm Thiên, vì những điều đó đều đắc đạo. Họ chuyên tâm, không buông thả, mến mộ những việc mình làm, ý không phân tán, giong ruổi, vì cũng đến Niết-bàn, nên nói là Niệm thiên.

Niệm thôi dứt: Nghĩa là tâm-ý-tưởng dứt, năm dục không khởi, vắng bặt, định vĩnh viễn, nên nói là thôi dứt.

Thông thường dứt cũng có hai thứ: Ngoại đạo, Phạm chí hiện hình để cầu phước, cũng nói là dứt. Bốn quả Sa-môn, tiêu diệt vĩnh viễn các kết, mới chính là dứt đúng nghĩa.

Do đâu biết như thế?

Xưa, có Tỳ-kheo tên là Tu-la-đà, đến thành Xá-vệ, đi giáo hóa khắp nơi. Lúc ấy, ở phía Tây thành này, có xứ Ương- quật- ma, là chỗ có thể giết người. Đất ở đó bằng phẳng rộng rãi có nhiều cây cối. Khi đó, có một Phạm chí đang ngồi thiền dưới tàng cây, ông ta không ăn năm thứ lúa thóc; chỉ ăn quả của loài cỏ, nếu không có quả, thì ăn rau, cỏ, để nối tiếp tinh khí. Thân mặc áo bằng lá cây, hình thể ốm yếu, đi phải chống gậy.

Bấy giờ, Tu-la-đà đi từ xa đã trông thấy, cho là đạo sĩ, liền ngồi thiền xem thử tâm người kia để biết là có định hay không? Nhận thấy tâm người ấy, vốn có mưu cầu lên làm vua nước này, nên suy nghĩ: “Người ấy chính là giặc lớn đấy! Lúc đầu ý định bỏ đi, nhưng sợ về sau, sẽ đọa vào tội, đồng thời cũng muốn giáo hóa, tất nhiên, ông ta sẽ không theo lời ta nói. Cần phải tìm phương tiện để độ ông ta mà thôi”. Tính toán rồi, liền đến bên một cội cây ngồi thiền, cách chỗ người đó không xa. Trải qua bảy ngày không lay động. Sau bảy ngày mới đứng dậy, Tu-la-đà đến trước vị Phạm chí ấy, gảy ngón tay cho biết và nói: “Trong cơ thể ông ban như thế nào?”. Một hồi lâu, Phạm-chí thong thả ngẩng đầu, đáp: “Tôi nghèo, tằn tiện cũng không lấy gì để lại cho nhau, thì làm sao?”.

Tỳ-kheo lại nói:

– Nay ta sẽ để lại cho ông một vật.

Tức thì hóa ra một con gà, và nói: “Ông có thể giết con gà nầy để ăn”. Tỏ vẻ sợ hãi, Phạm-chí nói:

– Ta còn không giết kiến-rận, huống chi là giết gà? Tỳ-kheo nói:

– Bản tâm ông là muốn giết vô số người. Nay giết con gà nầy, đâu đủ để nói.

Phạm-chí lại nói:

– Thế nào là giết vô số người? Tỳ-kheo bảo:

– Ông vốn ngồi thiền ở đây, chính vì mưu cầu được làm vua nước nầy. Vua trị vì, giáo hóa một ngày, có thể giết mấy người? Mà nói không giết? Con gà nầy tức là “con gà thức” trong tâm ông, là có thể được đạo vô vi, đâu dùng đến Quốc vương làm gì?.

Phạm- chí kia liền suy nghĩ: “Tỳ-kheo nầy đã biết rõ ý nghĩ trong tâm ta, tất nhiên là Thánh nhân? Vậy ta phải theo lời giáo hóa của người ấy”.

Tỳ-kheo Tu-la-đà lại vì ông ta mà thuyết pháp, làm cho Phạm chí kia được dấu ấn đạo.

Thân hình Phạm- chí nầy dù tĩnh lặng, nhưng vì tâm không thôi dứt. Về sau sẽ giải thích: “Tâm- ý- tưởng- kiến” dứt.

Niệm Thân. Quán ba mươi sáu vật xấu, biểu lộ sự bất tịnh của thân, nhớ nghĩ chắc chắn, không tán loạn, cũng được Niết-bàn.

Do đâu biết được?

Xưa có Tỳ-kheo ở A-luyện-nhã, thường đi khất thực, ăn bên bờ sông, ăn xong, rửa bát. Lúc ấy, tại gò mả bên bờ sông ở thượng lưu, có thi thể của người nữ mới chết. Gió thổi, tóc thiếu nữ bỗng nhiên rớt ngay vào trong bát. Tỳ-kheo tay cầm mớ tóc nầy, nhìn kỹ thấy rất tốt đẹp, tâm- miệng đều một lời: Không thể là đuôi ngựa, tóc nầy lại rất nhuyễn, không thể là tóc của con trai, vì rất mềm, buộc lại, không chi tách ra, tất nhiên là tóc của thiếu nữ, đúng là trói buộc lại, không thể tách rời ra; bèn nảy sinh ý nghĩ: “Người như thế, với tóc nầy tất nhiên là tuyệt đẹp, gương mặt như sắc hoa đào; mắt như minh châu, mũi như ống trúc cắt; miệng như ngậm hồng đơn, mày như nét ngài. Tư ý diễn tả như thế xong, liền khởi tâm dục, xuôi theo dòng nước, tìm kiếm cái nhan sắc mà mình tưởng tượng ra đó, đeo đuổi tìm kiếm mãi không thôi. Chợt thấy một người nữ bị chồn- sói ăn thịt đã hết một nửa, thân hình thoái rữa, nhưng tóc cô ta vẫn còn. Tỳ-kheo cầm mớ tóc so sánh, giống nhau về dài, ngắn. Từ đó, ý tưởng dục tự nhiên được giải. Lại quán sát, để phân biệt, suy nghĩ về người nữ nầy, lúc còn sống chắc chắn vóc dáng- dung mạo xinh đẹp, nay hư hoại, khiến người ta được chứng kiến. Trước đây đã khởi tưởng dục chỉ vì thân tham ái dục, nên mới nẩy sinh ý nghĩ như thế. Thân người nữ kia đã như vậy, thì thân ta cũng đâu có khác gì!? Như thế chắc chắn thân ta là do bốn đại hợp thành, khi phước hết, duyên lìa thì tự nhiên giải tán. Quán xét tâm biến động xong, tức thì đạt được dấu ấn đạo.

Niệm Thân. Nghĩa là được quả Sa-môn.

Niệm Tử. Nghĩa là nghĩ đến người đang sống, thọ mạng không ngừng bị mất đi nên các căn tan rã, như cây hư mục, cho đến khi mạng căn đoạn tuyệt, phải luôn nhớ nghĩ chẳng có gì là thường còn, để tự giác ngộ.

Xưa, có Tỳ-kheo tên Bà-kết-lê, ngồi thiền- hành đạo, kinh qua nhiều năm, mà hữu lậu không dứt trừ, bệnh hoạn đến với thân mình làm lụy hại thêm lớn, thường nghĩ tới việc tự sát. Sở dĩ con người không được chí đạo, là vì hình dáng có ngồi ngay thẳng, nhưng thân nầy lưu chuyển triền miên, biết đến lúc nào mới có thể dứt, chỉ có thể dùng tay cầm dao tự sát cho xong. Nhưng suy nghĩ lại, nhớ Đức Thế Tôn có răn dạy: Các đệ tử không được tự hại.

– Mặc dù như thế, nhưng nay ta muốn cầu Niết-bàn, trong Niết-bàn đâu cần có thân, thế nên trước hết ta trừ bỏ thân, để nhận lấy chánh vô vi. Liền cầm dao tự hại. Đầu vừa rơi, tâm cũng liền thấu suốt, tức được A-la-hán.

Đức Phật biết là đã được đạo, bèn ra lệnh cho các Tỳ-kheo Xà-duy (thiêu đốt) thi thể ấy. Thế nên, niệm Tử cũng được Niết-bàn là vậy.

Mười niệm, trước kia Phật nói tổng quát, vì chúng sinh căn nhạy bén, về sau Phật lại nói, là vì chúng sinh căn chậm lụt, phải phân tích, giải thích nghĩa các căn ấy.

Danh dự: Về sau, được Chuyển Luân Thánh Vương. Được quả báo lớn, nghĩa là về sau sẽ được Thiên Đế Thích.

Các điều thiện khắp đến. Nghĩa là về sau, sẽ thu được quả báo ở cõi Phạm Thiên.

Được vị cam lồ: Nghĩa là về sau, sẽ được quả Bích-chi-phật. Đến xứ vô vi. Nghĩa là về sau, thu được quả A-la-hán.

Mười niệm nói ở trên, không có năm luận chứng (câu) nầy. Nay, sở dĩ vì lợi ích của quả báo, vì muốn chứng minh về nghĩa của niệm Phật, mà lý ấy thì rất thâm diệu.

Phật nói: “Các đệ tử bát Niết-bàn, đều dùng duyên đời trước, đền bù đối với nhân thọ nhận Niết-bàn…”

Năm trăm đệ tử như thế, mỗi vị đều dùng duyên đời trước, nhận lấy sự diệt độ, chỉ có A-nan là rất khéo trong việc thọ nhận Niết-bàn: Khi sắp muốn Niết-bàn, trước hết thể hiện điềm lành ánh sáng.

Có Phạm- chí theo A-nan để học về thuật toán số, thấy sắc diện của A-nan phát sáng, liền báo với nhà vua: “Sắc diện của Tôn giả A-nan trông có vẻ khác thường, sắp muốn thọ nhận Niết-bàn”. Nhà vua vội sai người tìm và theo dõi A-nan.

A-nan đem theo năm trăm đệ tử, đến giữa đường, trên bờ sông Hằng, đang muốn vượt qua, vừa ra tới giữa sông thì vua cũng đã đến tới bờ. Tỳ-xá-ly vâng mạng A-nan đến, cũng sai năm trăm đồng tử đón tiếp, vì muốn vừa ý của hai nước, nên dùng thần lực ngăn chận chiếc thuyền, khiến cho thuyền dừng lại ngay chính giữa dòng.

Bấy giờ, A-nan độ đệ tử, một là Ma-thiền-đề, hai là Ma-thân-đề; rồi bảo Ma-thiền-đề: “Ông hãy đến Yết-tân, để chấn hưng Phật pháp, vì ở cõi nước đó chưa có Phật, pháp, nên truyền bá cho tốt!”. Bảo Mathân-đề: “Ông hãy đến nước Sư Tử để chấn hưng Phật pháp, sao cho thịnh vượng”.

Phó chúc xong, tạo ra mười tám biến hóa, phát lửa đốt thân. Phân nửa ngọc xá lợi để cho hai nhà, mỗi nhà đều được cúng dường. Đây là do sức của niệm Phật, nên được tự tại.

Pages: 1 2 3 4 5