LUẬN NHIẾP ĐẠI THỪA

Tác Giả: Vô Trước Bồ-tát
Hán dịch: Tam Tạng Pháp Sư Chân Đế
Việt dịch: Linh Sơn Pháp Bảo Đại Tạng Kinh

 

QUYỂN 2

PHẦN II: TƯỚNG THÙ THẮNG NÊN BIẾT (Tiếp Theo)

Nếu y chỉ Duy thức tương tự pháp trần hiển hiện thì gọi là y tha tánh. Vậy tại sao thành y tha, nhân duyên gì gọi là y tha? Do từ chủng tử tự huân tập sinh, hệ thuộc nhân duyên không được tự tại. Nếu sinh không có công năng vượt hơn một sát-na được tự trụ thì gọi là y tha. Nếu y tha của phân biệt tánh thật không có tự pháp trần hiển hiện thì tại sao thành phân biệt, nhân duyên gì gọi là phân biệt? Vô lượng tướng mạo ý thức phân biệt, điên đảo sinh nhân cho nên thành phân biệt, không có tự tướng mà chỉ thấy phân biệt, gọi là phân biệt. Nếu tánh chân thật và tánh phân biệt vĩnh viễn không có sở hữu làm tướng, thì tại sao thành chân thật, nhân duyên gì gọi là chân thật? Do như, đều như cho nên thành chân thật, do thành tựu cảnh giới thanh tịnh, do tối thắng trong tất cả thiện pháp, đối với thắng nghiệp thành tựu cho nên gọi là chân thật. Lại nữa, nếu có phân biệt và sở phân biệt, thì tánh phân biệt được thành. Trong đây pháp gì gọi là phân biệt, pháp gì gọi là sở phân biệt, pháp gì gọi là phân biệt tánh? Ý thức là phân biệt, gồm có đủ ba thứ phân biệt. Tại sao vậy? Thức nầy do huân tập tự ngôn làm chủng tử, và tất cả sự huân tập thức ngôn làm chủng tử, do đó thức nầy sinh. Do vô biên phân biệt, tất cả xứ phân biệt chỉ gọi là phân biệt, nói là phân biệt, vì y tha nầy chỉ là sở phân biệt, là nhân có thể thành y tha tánh làm sở phân biệt. Trong đây gọi là tánh phân biệt. Tại sao phân biệt có thể tính toán? Y tha tánh nầy chỉ giống như tướng của vạn vật, duyên cảnh giới gì, chấp tướng mạo gì, như thế nào quán thấy, như thế nào duyên khởi, như thế nào nói năng, như thế nào tăng ích? Do cảnh giới của danh trong y tha tánh, do chấp vướng tướng, do phán quyết khởi kiến, do giác quán ngôn thuyết duyên khởi, do bốn thứ ngôn thuyết của kiến v.v… thật không có pháp trần mà kế chấp thật có làm tăng ích, do những nhân nầy mà có thể phân biệt. Ba loại tánh nầy như thế nào, cùng với tha là

khác không khác? Phi dị, phi bất dị, phải nói như vậy, vì có biệt nghĩa y tha tánh gọi là y tha, có biệt nghĩa đây là thành phân biệt, có biệt nghĩa đây là thành chân thật. Thế nào là biệt nghĩa nói đây là y tha? Từ huân tập chủng tử hệ thuộc vào tha. Lại có nghĩa gì nói đây là thành phân biệt? Tánh y tha nầy làm nhân phân biệt, là sở phân biệt cho nên thành phân biệt. Lại có nghĩa gì nói đây là thành chân thật? Y tha tánh nầy hoặc là thành chân thật, như sở phân biệt thật ra không có như vậy. Lại có nghĩa gì mà nói do một thức nầy trở thành tướng mạo của tất cả loại thức, bản thức, thực và các khác thức khác sinh khởi chủng chủng tướng mạo của thức.

Lại nhân theo tướng mạo nầy sinh, y tha tánh có mấy thứ? Nếu lược nói thì có hai thứ: 1. Hệ thuộc huân tập chủng tử. 2. Hệ thuộc tịnh phẩm và phẩm bất tịnh của tánh không thành tựu. Cho nên do hai thứ hệ thuộc nầy mà gọi là y tha.

Tánh phân biệt cũng có hai thứ: 1. Do phân biệt tự tánh. 2. Do phân biệt sai biệt.

Tánh chân thật cũng có hai thứ: 1. Tự tánh thành tựu. 2. Thanh tịnh thành tựu.

Lại có phân biệt phân thành bốn thứ: 1. Phân biệt tự tánh. 2. Phân biệt sai biệt. 3. Hữu giác. . Vô giác. Hữu giác là có thể phân biệt rõ danh ngôn chúng sinh phân biệt. Vô giác là không thể phân biệt rõ danh ngôn chúng sinh phân biệt.

Lại nữa, phân biệt có năm thứ: 1. Nương vào danh để phân biệt nghĩa tự tánh, ví dụ danh nầy làm đề mục cho nghĩa này. 2. Nương vào nghĩa để phân biệt danh tự tánh, ví dụ nghĩa nầy thuộc danh này. 3. Nương vào danh để phân biệt danh tự tánh, ví dụ phân biệt mà chưa nhận ra nghĩa danh. . Nương vào nghĩa để phân biệt nghĩa tự tánh, ví dụ phân biệt mà chưa nhận ra danh nghĩa. 5. Nương vào hai phép để phân biệt hai thứ tự tánh, ví dụ danh nầy thì nghĩa này.

Nghĩa nào hoặc danh nào gồm thâu tất cả phân biệt?

Lại có mười thứ:

1. Căn bản phân biệt là căn bản thức.

2. Tướng phân biệt là thức của sắc…

3. Y hiển thị phân biệt là có thức y chỉ thức của nhãn…

4. Tướng biến dị phân biệt là biến dị của lão…, thọ của khổ lạc, hoặc và tà uổng của dục, biến dị của thời tiết, biến dị của địa ngục… Trong cõi dục.

5. Y hiển thị biến dị phân biệt là như điều nói biến dị ở trên mà khởi biến dị phân biệt.

6. Tha dẫn phân biệt là phân biệt nghe loại phi chánh pháp và hai chánh pháp.

7. Bất như lý phân biệt là người ngoại đạo không hai loại chánh pháp.

8. Như lý phân biệt là chánh nội nhân văn chánh pháp loại phân biệt.

9. Quyết phán chấp phân biệt là bất như lý tư duy, chủng loại thân kiến làm căn bản, cùng với sáu mươi hai thứ kiến tương ưng phân biệt.

10. Tán động phân biệt là mười thứ phân biệt của Bồ-tát: 1. Vô hữu tướng tán động. 2. Hữu tướng tán động. 3. Tăng ích tán động. . Tổn giảm tán động. 5. Nhất chấp tán động. 6. Dị chấp tán động. . Thông tán động. 8. Biệt tán động. . Như danh khởi nghĩa tán động. 10. Như nghĩa khởi danh tán động. Để đối trị mười thứ tán động phân biệt này, trong tất cả Bát-nhã Ba-la-mật giáo, Phật Thế Tôn nói: “Vô phân biệt trí có khả năng đối trị mười thứ tán động này, phải biết đầy đủ nghĩa của Kinh Bát-nhã Ba-la-mật”.

Như Kinh Bát-nhã Ba-la-mật nói: “Bồ-tát hành Bát-nhã Ba-lamật như thế nào? Xá-lợi-phất! Bồ-tát đó thật có Bồ-tát, là không thấy có Bồ-tát, không thấy danh Bồ-tát, không thấy Bát-nhã Ba-la-mật, không thấy hành, không thấy bất hành, không thấy sắc, không thấy thọ, tưởng, hành, thức. Tại sao? Vì do tự tánh của sắc là không, không do không không mà thấy sắc không, cũng không phải sắc, khác vô sắc thành không. Sắc tức là không, không tức là sắc. Tại sao? Xá-lợi-phất! Đây chỉ là hữu danh, điều gọi là Sắc là tự tánh, không sinh, không diệt, không nhiễm, không tịnh. Đối với cái giả, đặt tên để phân biệt các pháp, do giả lập khách danh để tùy nói các pháp như như, tùy nói như vậy như vậy sinh khởi chấp trước, như vậy tất cả danh Bồ-tát không thấy. Nếu không thấy thì không sinh chấp trước. Như quán sắc cho đến quán thức, cũng nên quán như vậy. Từ văn cú của Kinh Bát-nhã Ba-la-mật này, phải tùy thuận tư duy mười thứ nghĩa phân biệt này. Nếu do biệt ý nầy thì y tha tánh trở thành có ba tánh. Ba tánh đó như thế nào? Tánh có ba thứ khác nhau, không thành xen tạp và không có nghĩa xen tạp, do đạo lý nầy mà tánh nầy thành y tha. Nếu không do đây, thì thành phân biệt và chân thật. Do đạo lý nầy mà tánh nầy thành phân biệt, không do đây mà thành y tha và chân thật. Do đạo lý nầy mà tánh nầy thành chân thật. Nếu không do đây thì thành y tha và phân biệt. Làm sao biết được y tha tánh này? Do tánh phân biệt hiển hiện tợ pháp, không cùng với tánh phân biệt đồng thể, chưa đắc danh trước thì đối với nghĩa không nên sinh trí, pháp thể cùng với danh là một thì nghĩa nầy trái nhau. Do danh là nhiều, nếu danh cùng với nghĩa là một thì danh đã là nhiều thì nghĩa phải thành nhiều, thể của nghĩa nầy trái nhau. Do danh bất định, thể tương tạp thì nghĩa nầy trái nhau. Trong đây nói kệ rằng:

Trước danh không có trí,
Nhiều danh và bất định,
Nghĩa thành do đồng thể,
Thể đa tạp trái nhau.
Pháp không hiển tợ hữu,
Vô nhiễm mà hữu tịnh,
Cho nên ví về việc huyễn,
Cũng ví như hư không.

Tại sao hiển hiện như vậy mà thật không có? Nhất thiết chủng của y tha tánh không phải không có, nếu không có y tha tánh thì chân thật tánh cũng không, tất cả không có thì không thành. Nếu không có y tha tánh và chân thật tánh thì có lỗi không có nhiễm và thanh tịnh phẩm. Hai phẩm nầy có thể biết chẳng phải không có, cho nên không phải tất cả đều không có. Trong đây nói kệ rằng:

Nếu không y tha tánh,
Chân thật tánh cũng không,
Thì hằng không hai phẩm:
Nhiễm ô và thanh tịnh.

Chư Phật Thế Tôn trong Đại thừa nói Kinh Tỳ Phật Lược, trong Kinh nầy nói: “Làm sao phải biết tánh phân biệt? Do nói không có phẩm loại mà tánh nầy phải biết. Tại sao phải biết y tha tánh? Do nói về việc huyễn, nai khát nước, mộng tướng, bóng ảnh, tiếng vang trong hang, trăng dưới nước, biến Hóa, các thí dụ như vậy phải biết tánh của nó. Tại sao phải biết chân thật tánh? Do nói bốn thứ pháp thanh tịnh, phải nên biết tánh này.

Bốn thứ pháp thanh tịnh là:

1. Pháp nầy xưa nay tự tánh thanh tịnh, là Như như, Không, Thật tế, Vô tướng, Chân thật Pháp giới.

2. Vô cấu thanh tịnh là pháp xuất ly tất cả khách pháp trần chướng bẩn.

3. Chí đắc đạo thanh tịnh là tất cả trợ đạo pháp và các Ba-lamật.

4. Đạo sinh cảnh giới thanh tịnh là chánh thuyết pháp Đại thừa.

Tại sao vậy ? Thuyết nầy là nhân thanh tịnh cho nên không phải phân biệt, pháp giới lưu thanh tịnh cho nên không phải y tha. Do bốn thứ pháp thanh tịnh nầy mà nhiếp hết tất cả pháp thanh tịnh. Trong đây nói kệ rằng:

Các huyễn hiển y tha,
Thuyết không hiển phân biệt,
Nếu thuyết bốn thanh tịnh,
Thuyết nầy thuộc chân thật.
Thanh tịnh do bản tánh.
Vô cấu đạo duyên duyên,
Tất cả thanh tịnh pháp,
Đều nhiếp các phẩm loại.

Nhân gì, duyên gì là Y tha tánh? Như kinh nói mọi việc huyễn, lấy thí dụ làm rõ nó. Đối với Y tha tánh thì trừ hư vọng nghi hoặc của nó. Tại sao tha trong tha tánh sinh hư vọng nghi hoặc? Các thuyết trong y tha tánh có tâm hư vọng nghi hoặc như vậy. Nếu thật không có vật thì tạ sao thành cảnh giới? Để giải quyết cái nghi này, cho nên nói thí dụ về việc huyễn. Nếu không có cảnh giới thì tâm và tâm sở làm sao được sinh? Để giải quyết nghi này, cho nên nói thí dụ nai khát nước. Nếu thật không có pháp trần thì thọ dụng của ái và phi ái làm sao được thành? Để giải quyết nghi nầy, cho nên nói thí dụ tướng trong mộng. Nếu thật không có pháp, thì hai nghiệp thiện và ác, ái quả và phi ái quả làm sao được sinh? Để giải quyết nghi nầy, cho nên nói thí dụ hình ảnh. Nếu thật không có pháp thì tại sao chủng chủng trí được sinh? Để giải quyết nghi nầy, cho nên nói thí dụ ánh sáng và bóng. Nếu thật không có pháp thì tại sao chủng chủng ngôn thuyết khởi? Để giải quyết nghi nầy, cho nên nói thí dụ tiếng vang trong hang động. Nếu thật không có pháp thì làm sao thành duyên cảnh giới định tâm của chân thật pháp? Để giải quyết nghi nầy, cho nên nói thí dụ trăng trong nước. Nếu thật không có pháp thì tại sao chư Bồ-tát do đó mà khởi tâm không điên đảo, vì người khác mà làm sự lợi ích đối với sáu đạo thọ sinh? Để giải quyết nghi này, cho nên nói thí dụ biến Hóa. Trong Kinh Bà-la-môn Vấn nói: “Bạch Thế Tôn! Nương vào nghĩa gì mà nói những lời như vậy? Như Lai không thấy sinh tử, không thấy Niết-bàn, trong y tha tánh thì nương tánh phân biệt và nương chân thật tánh. sinh tử làm Niết-bàn nương vào nghĩa vô sai biệt”. Tại sao vậy? Vì y tha tánh nầy do một phần phân biệt mà thành sinh tử, do một phần chân thật mà thành Niết-bàn. Trong A-tỳ-đạt-ma Tu-đa-la, Thế Tôn nói pháp có ba phần:

1. Nhiễm ô phần. 2. Thanh tịnh phần. 3. Nhiễm ô và thanh tịnh phần.

Nương vào nghĩa gì mà nói ba phần này? Trong y tha tánh thì tánh phân biệt là nhiễm ô phần, Chân thật tánh là thanh tịnh phần, y tha tánh là nhiễm ô và thanh tịnh phần. Nương vào nghĩa như vậy mà nói ba phần. Trong ba nghĩa nầy lấy gì làm thí dụ? Lấy vàng ẩn trong đất là thí dụ, ví như vàng ẩn trong đất, thấy có ba pháp: 1. Địa giới. 2. Vàng. 3. Đất. Đất trong địa giới là chẳng phải có, nhưng hiển hiện vàng là thật có mà không hiển hiện đất nầy. Nếu dùng lửa để thiêu luyện đất thì đất không hiện mà tướng vàng tự hiện, đất của đất giới nầy khi hiển hiện là do tướng hư vọng hiển hiện, khi vàng hiển hiện thì do chân thật tướng hiển hiện, cho nên địa giới có hai phần. Như vậy bản thức, khi nó chưa được thiêu luyện bởi lửa Vô phân biệt trí thì thức nầy do hư vọng tánh phân biệt hiển hiện, không do chân thật tánh hiển hiện. Nếu khi nó bị thiêu luyện bởi lửa của Vô phân biệt trí, thì bản thức nầy do thành tựu tánh chân thật hiển hiện, không do hư vọng tánh phân biệt hiển hiện. Do đó hư vọng tánh phân biệt thức tức là y tha tánh. Điều nầy có hai phần. Ví dụ như vàng ẩn trong tất cả đất. Lại nữa, có chỗ Thế Tôn nói: “Tất cả pháp thường trụ”, có chỗ thì nói: “Tất cả pháp vô thường”, có chỗ nói: “phi thường, phi vô thường”. lấy nghĩa gì mà nói là thường ? Y tha tánh nầy là do chân thật tánh phân ra thường trụ, do tánh phân biệt phân ra vô thường, do nhị tánh phân ra phi thường và phi vô thường. Như nương vào nghĩa nầy mà nói thường và vô thường không hai. Như vậy nói khổ và lạc không hai, thiện và ác không hai. Không và bất không không hai, hữu ngã và vô ngã không hai, tịnh và bất tịnh không hai, hữu tánh và vô tánh không hai, hữu sinh và vô sinh không hai, hữu diệt và vô diệt không hai, xưa nay tịch tĩnh và bất tịch tịnh không hai, xưa nay Niết-bàn và phi Niết-bàn không hai, sinh tử và Niết-bàn không hai. Do sai biệt như vậy, chư Phật Như Lai y theo nghĩa mà nói lời bí mật, do ba tánh nầy phải tùy theo sự quyết định rõ ràng, thường và vô thường… nên chính là nói giải thích như trước. Trong đây kệ nói:

Như pháp thật không có,
Như kia chủng chủng hiện,
Pháp nầy và phi pháp,
Mà nói nghĩa không hai.
Nương một phần ngôn thuyết,
Hoặc hữu hoặc phi hữu,
Nương hai phần ngôn thuyết,
Phi hữu, phi phi hữu.
Như hiển hiện không có,
Cho nên nói vĩnh vô,
Như hiển hiện thật có,
Cho nên nói phi vô.
Do tự thể chẳng có,
Vì tự thể không trụ,
Nếu như lấy không có,
Ba tánh thành vô tánh.
Do vô tánh mà thành,
Tánh sau y chỉ trước,
Bản tịnh vô sinh diệt,
Và tự tánh Niết-bàn.

Lại nữa, có bốn ý và bốn y, chư Phật Thế Tôn dạy phải tùy theo đó mà quyết liễu, bốn ý là:

1. Ý bình đẳng, ví như có nói: “Ngày xưa trong thời gian đó, ta là Tỳ-bà-thi, thành Phật đã lâu”.

2. Ý khác thời, ví như có nói: “Nếu người tụng trì danh hiệu của Phật Đa Bảo, thì quyết định đối với Vô Thượng Bồ-đề không còn thoái chuyển”. Lại có nói: “Do chỉ phát nguyện đối với cõi Phật an lạc thì được sinh qua cõi đó”.

3. Ý nghĩa riêng biệt, ví như có nói: “Phụng sự chư Phật như vậy, nhiều như số cát hết thảy sông Hằng, thì đối với nghĩa của pháp Đại thừa được sinh hiểu rõ”.

4. Ý muốn chúng sinh được an vui, ví như Như Lai trước kia làm một người khen ngợi bố thí sau lại huỷ báng, như thí giới và các hạnh tu khác cũng vậy. Đó gọi là bốn loại ý.

Bốn y chỉ là:

1. Linh nhập y, ví như trong Đại thừa và Tiểu thừa chư Phật Thế Tôn nói chỗ nhiếp tục đế của hai thứ nhân và pháp. Hai tướng có chung và riêng.

2. Tướng y, ví như tùy trong chỗ thuyết pháp tướng chắc chắn có ba tánh.

3. Đối trị y, trong đây tám vạn bốn ngàn phiền não của chúng sinh nên hạnh đối trị hiển hiện.

4. Phiên y, trong đó do nói biệt nghĩa của ngôn từ để hiển thí dụ biệt nghĩa. Như kệ nói:

A-sa Ly-sa-la Ma-đa-da,
Tỳ-bạt-da Tư-giả Tu-hy-la,
Ly-thí-na-giả Tăng-kha-lý-đa,
La-bát-để Bồ-đề Vật-đa-ma.

Nếu người muốn giải thích rộng pháp Đại thừa, thì lược nói do ba tướng và phải nên giải thích như vầy:

  1. Rộng giải thích thể tướng của duyên sinh.
  2. Rộng giải thích nương vào nhân duyên đã sinh thật tướng của các pháp.
  3. Rộng giải thích thành lập chỗ thuyết các nghĩa.

Rộng giải thích thể tướng của duyên sinh là như ý nghĩa của bài kệ trên muốn nói:

Chỗ sinh các pháp của huân tập,
Như vậy đây tùng theo kia,
Quả báo thức và sinh khởi thức,
Do nương lẫn nhau mà sinh.

Rộng giải thích nương vào nhân duyên đã sinh thật tướng của các pháp, các pháp lấy sinh khởi thức làm tướng, và lấy tướng và kiến thức làm tự tánh. Lại nữa, các pháp lấy y chỉ làm tướng, lấy phân biệt làm tướng và pháp gốc làm tướng. Do ngôn thuyết nầy nên thể tướng của các pháp trong ba tánh được hiển hiện. Như kệ nói rằng:

Từ hữu tướng, hữu kiến,
Phải biết ba tướng pháp.

Tại sao được giải thích pháp tướng nầy là tánh phân biệt? Đối với tánh y tha thật ra không có sở hữu, nhưng tánh đối với tánh chân thật thì trong đó thật có. Do hai nghĩa không có và có, chẳng chứng đắc và chứng đắc. Chưa thấy và đã thấy nầy mà chân như đồng thời tự nhiên thành. Tánh phân biệt trong tánh y tha thì không có, tánh chân thật thì có. Hoặc thấy kia không thấy đây, hoặc không thấy kia tức là thấy đây.

Như kệ nói:

Phân biệt trong y tha,
Không những chân thật có,
Nên đắc và không đắc,
Trong đó đều bình đẳng.

Ở đây, giải thích rộng sự thành lập các nghĩa đã được nói, ví như văn cú được nói trong phần thứ nhất, do những câu còn lại hiển thị phân biệt, hoặc do công đức y chỉ, hoặc do sự nghĩa y chỉ. Công đức y chỉ là rộng nói công đức của Phật Thế Tôn, thật có trí tuệ tối thanh tịnh, không hề có hai hành, lấy pháp vô tướng làm nơi nương tựa thù thắng và ý hành trụ nơi Phật trụ, chí chứng đạt hành vô ngại bình đẳng của chư Phật, cho nên, vô đối chuyển pháp không thể phá, cảnh không thể biến dị không thể tư duy, chỗ thành lập pháp đến ba đời bình đẳng, hiện thân trong tất cả thế giới, trí tuệ vô ngại trong tất cả pháp, tất cả hạnh cùng với trí tuệ tương ưng, đối với trí tuệ vô ngại, không thể phân biệt thân. Trí tuệ mà tất cả Bồ-tát đã thọ, đến vô nhị Phật trụ Ba-la-mật, đến vô sai biệt Như Lai giải thoát, trí cứu cánh đã đắc vô biên Phật địa, lấy bình đẳng pháp giới làm hư không giới thù thắng, tức là tuệ sau cùng thật tối thanh tịnh. Như vậy, câu thứ nhất do các câu khác, thứ tự phải biết phân biệt giải thích. Nếu chánh thuyết pháp nghĩa như vậy thì được thành tuệ tối thanh tịnh, trí tuệ của chư Phật Như Lai, đối với tất cả pháp thanh tịnh thì không có pháp nào mà không hiểu rõ. Bản nghĩa như vậy phải biết do công đức hai mươi mốt vị Phật gồm thâu. Đối với sở tri thì khởi tất cả công đức của vô chướng hạnh, đối với hữu, vô, vô nhị tướng và chân như tối thanh tịnh khiến cho nhập công đức, không do công dụng, không xả Như Lai sự và công đức Phật trụ. Đối với pháp thân y chỉ và công đức ý sự vô sai biệt, tu tập tất cả công đức đối trị chướng, công đức hàng phục tất cả ngoại đạo, công đức sống trong thế gian phi thế gian pháp đã nhiễm ô, công đức an lập Chánh pháp đó là bốn thứ thiện xảo để đáp câu hỏi công đức.

Công đức hiển hiện Ứng Hóa thân trong tất cả thế giới, công đức có khả năng quyết nghi cho người khác, công đức do các thứ hạnh khiến người khác nhập vào, công đức đối với đời vị lai pháp sinh trí, công đức tùy an lạc của chúng sinh mà hiển hiện, công đức có thể hành vô lượng y chỉ Chánh giáo Hóa sự của chúng sinh, công đức bình đẳng pháp thân Ba-la-mật thành tựu, công đức tùy ý chúng sinh mà hiển hiện thuần tịnh Phật độ, đó là công đức của ba thứ Phật thân không lìa và không riêng xứ.

Tận cùng của sinh tử có thể sinh tất cả công đức lợi ích an lạc cho chúng sinh. Do công đức vô tận, nương theo sự nghĩa y chỉ. Như trong Kinh nói: “Nếu Bồ-tát cùng với ba mươi hai tướng tương ưng thì gọi là Bồ-tát”. Đối với tất cả chúng sinh đem lợi ích an lạc ý tương ưng thì khiến họ nhập ý của Nhất thiết trí trí. Ta nay trong xứ nào mà tương ưng thích hợp với trí như vậy? Do xả tâm kiêu mạn, ý thiện kiên cố, không phải giả bộ xót thương, ý không tham báo ân, đối với người thân hoặc không thân, mà ý bình đẳng thì vĩnh viễn làm bạn tốt, cho đến Vô dư Niết-bàn xứng với lượng nói bàn cười vui sung sướng, trước hết nói đối với các chúng sinh từ bi không khác, với việc mình làm, không có tâm thoái lui, không có tâm chán mệt nghe nghĩa không đầy đủ. Đối với tự mình làm tội thì có thể hiển lỗi của mình. Đối với người khác làm tội thì không trách mắng họ. Trong tất cả oai nghi thì hằng trì tâm Bồ-tát, không cầu quả báo mà hành bố thí, không dính mắc tất cả sự kinh sợ và đạo sinh thọ trì cấm giới. Đối với tất cả chúng sinh nhẫn nhục vô ngại, nhằm dắt dẫn tất cả thiện pháp hành tinh tấn, tu Tam-ma-đề diệt lìa Vô sắc định, cùng với phương tiện tương ưng trí, bốn nhiếp tương ưng phương tiện trong trì giới và phá giới, bạn tốt không hai, tâm cung kính phụng sự thiện tri thức, tâm cung kính nghe pháp, thích trụ nơi A-lannhã, đối với hy hữu của thế gian không sinh tâm an lạc, đối với thừa của hạ phẩm không sinh tâm hỷ lạc, đối với Đại thừa giáo thì quán thật công đức, xa lìa bạn ác kính thờ bạn tốt, hằng sửa theo bốn thứ phạm trụ, sửa theo vô lượng tâm thanh tịnh, hằng vận dụng tự tại năm thần thông, hằng y theo trí tuệ. Đối với chúng sinh trụ chánh hạnh và không trụ chánh hạnh, không xả bỏ tâm dẫn dắt đại chúng, hoàn toàn quyết định ngôn thuyết cung kính thật sự thì trước hết là cung kính hạnh, Bồtát tâm cùng với các pháp tương ưng như vậy gọi là Bồ-tát. Do văn cú như vậy, nên trước đã nói câu thứ nhất. Giải thích câu thứ nhất, là đối với tất cả chúng sinh luôn có ý lợi ích an lạc, câu văn ý lợi ích an lạc nầy riêng có mười sáu câu văn đã làm rõ nên phải biết.

Giải thích mười sáu nghiệp:

1. Phụ phụ hạnh nghiệp hạnh.

2. Vô đảo nghiệp.

3. Tự hành nghiệp không do tha sự.

4. Nghiệp bất khả hoại.

5. Nghiệp vô cầu dục. Nghiệp nầy phải biết có ba câu giải thích: 1. Không tham báo ân. 2. Và 3. Chúng sinh có ân hay vô ân đều không sinh tâm ưa ghét.

6. Nghiệp tùy thuận hành cho đến đời khác mà tùy xứ tương ưng ngôn thuyết. Nghiệp nầy phải biết có hai câu giải thích: Có khổ có vui không hai.

7. Nghiệp chúng sinh bình đẳng.

8. Nghiệp không hèn mọn.

9. Nghiệp không thể khiến cho thoái chuyển.

10. Nghiệp thu nhiếp phương tiện.

11. Nghiệp đối trị chán ghét. Nghiệp nầy phải biết có hai câu giải thích.

12. Nghiệp tư lương vô gián.

13. Nghiệp hạnh tiến thắng vị. Nghiệp nầy phải biết có bảy câu giải thích: Chánh tu gia hạnh và sáu Ba-la-mật.

14. Nghiệp cung kính hành tứ nhiếp pháp thành tựu phương tiện. Nghiệp nầy phải biết có sáu câu giải thích: 1. Thờ thiện tri thức. 2. Nghe chánh pháp. 3. Trụ A-lan-nhã. . Xa lìa giác quán tà. 5. Công đức chánh tư duy, có hai câu giải thích. 6. Hiển kính thờ công đức của bạn tốt, có hai câu giải thích.

15. Nghiệp hiển thành tựu. Nghiệp nầy có ba câu giải thích: 1. Trị vô lượng tâm. 2. Đắc thanh tịnh. 3. Oai đức.

16. Nghiệp chứng đắc công đức an lập. Nghiệp nầy phải biết có bốn câu giải thích: 1. Dẫn dắt đại chúng không có tâm nghi ngờ. 2. Lập chánh giáo học xứ. 3. Pháp nhiếp và tài nhiếp. . Không có tâm nhiễm ô.

Những câu như vậy, phải biết giải thích văn cú của nói thứ nhất.

Trong đây nói kệ rằng:

Chấp như câu nói trước,
Tùy đức cú sai biệt,
Chấp như câu nói trước,
Do nghĩa biệt, cú biệt.

 

PHẦN III: TƯỚNG THÙ THẮNG CỦA NHẬP NÊN BIẾT

Như vậy đã nói về tướng thù thắng của trí, thế nào là hội nhập vào tướng thù thắng của trí? Sự y chỉ của đa văn đã huân tập, không phải thuộc về của A-lê-da thức, mà như A-lê-da thức thành chủng tử thuộc về chánh tư duy. Cái tướng hiển hiện của nghĩa và pháp tương tự được sinh ra, thì ý ngôn phân biệt có kiến phần đã tương tự nắm giữ lấy chủng loại. Người nào có thể hội nhập tướng ưng tri? Sự huân tập đa văn của Đại thừa tương tục đã được thừa sự vô lượng chư Phật ra đời, đã nhập chánh vị của quyết định tin ưa, do khéo thành thục tu tập tăng trưởng thiện căn, cho nên khéo được hai thứ tư lương phước đức trí tuệ. Chư Bồ-tát đối với xứ nào nhập Duy thức quán? Đối với tướng hiển hiện của pháp nghĩa tương tự có kiến phần ý ngôn phân biệt là chỗ sinh của pháp tướng Đại thừa, đối với địa nguyện hạnh mà nhập, là tùy theo văn (nghe) mà tín nhạo (tin ưa), vì kiến đạo là như lý mà thông đạt, tu đạo là có khả năng đối trị tất cả chướng. Trong đạo cứu cánh, là lìa khỏi chướng cấu tối thanh tịnh. Tất cả pháp thật ra chỉ có thức. Như nói, tùy nghe mà tin ưa, như lý mà thông đạt, có khả năng đối trị tất cả chướng. Khi lìa khỏi chướng cấu thì được tối thanh tịnh. Làm thế nào được nhập? Do sự gia trì tĩnh lự của thiện căn và do có ba tướng mài dũa luyện tâm. Do diệt trừ bốn xứ chướng, duyên pháp nghĩa làm cảnh, vô gián tu, cung kính tu, Xa-ma-tha Tỳ-bát-xá-na, không phóng dật, mười phương thế giới không có số lượng, không thể tính đếm suy lường chúng sinh trong cõi người, từng sát-na chứng đắc Vô Thượng Bồ-đề, gọi đó là mài dũa luyện tâm thứ nhất. Từ chánh ý nầy mà bố thí… nên các Ba-la-mật chắc chắn được sinh trưởng, là sự tin ưa của ta đã được kiên trụ. Do chánh ý nầy mà ta tu tập bố thí… các Ba-la-mật tiến tới đắc viên mãn không khó, nên gọi đó là mài dũa luyện tâm thứ hai. Nếu người tương ưng với nhiều thiện pháp, sau khi xả mạng trong tất cả sự thọ sinh thì giàu vui khả ái tự nhiên mà thành. Người đó đắc thiện pháp có ngăn ngại, nghĩa nầy cũng phải thành tựu. Làm thế nào ta được viên mãn thiện và vô ngại thiện? Tất cả giàu vui như ý khả ái không thành, gọi đó là mài dũa luyện tâm thứ ba. Trong đây kệ nói:

Chúng sinh trong cõi người,
Niệm niệm chứng Bồ-đề,
Xứ sở quá số lượng,
Không có tâm hèn kém.
Người thiện tâm tin ưa,
Giỏi sinh các độ thí
Bồ-tát đắc ý này,
Cho nên tu độ thí
Nếu khi người thiện chết,
Liền được vui giàu lớn,
Diệt vị viên tịnh thiện,
Nghĩa nầy là phải có!

Do diệt trừ bốn xứ chướng, do từ bỏ lối suy nghĩ của Thanh-văn và Độc Giác, nên tà tư duy đã diệt mà sinh lòng tin và biết chắc Đại thừa và tâm quyết định. Diệt tất cả tà ý và nghi là bởi nghe, nghĩ các pháp. Do từ bỏ tà chấp của ngã và ngã sở cho nên diệt trừ được pháp chấp. Do an lập hiện tiền trụ tất cả Tướng tư duy đều không phân biệt, cho nên có khả năng diệt trừ phân biệt. Trong đó nói kệ rằng:

Hiện tại và an trụ,
Tất cả tướng tư duy,
Người trí không phân biệt,
Liền đắc Vô thượng giác.

Duyên pháp và nghĩa làm cảnh, vậy nhân gì, phương tiện gì được nhập? Do huân tập chủng loại nghe, thuộc chánh tư duy, hiển hiện tư pháp và nghĩa, ý ngôn phân biệt có kiến phần. Do bốn thứ tầm tư, gọi là danh nghĩa tự tánh sai biệt giả lập tầm tư.

Do bốn thứ Như thật trí, gọi là danh nghĩa tự tánh sai biệt, nên bốn thứ như thật trí bất khả đắc. Nếu Bồ-tát đã nhập đã hiểu các nghĩa như vậy, thì tu gia hạnh để nhập Duy thức quán. Trong quán này, ý ngôn phân biệt tựa tự ngôn (chữ và lời) và nghĩa hiển hiện. Trong đây là tự ngôn (chữ và lời) tướng, chỉ có ý ngôn phân biệt mới được thông đạt như vậy. Nghĩa nầy nương vào danh ngôn thì chỉ có ý ngôn phân biệt. Cũng như thông đạt này, danh, nghĩa tự tánh, sai biệt nầy chỉ giả thuyết làm lượng cũng như thông đạt nầy. Kế đó trong vị nầy chỉ chứng đắc duy ý ngôn phân biệt, nên người quán hạnh không thấy danh và nghĩa, không thấy giả thuyết tự tánh sai biệt. Do thật tướng chẳng có được mà có nghĩa tự tánh sai biệt. Đã do bốn thứ tầm tư và bốn thứ Như thật trí, đối với ý ngôn phân biệt hiển hiện tựa danh và nghĩa thì được nhập vào Duy thức quán. Trong Duy thức quán thì được nhập pháp gì, pháp như thế nào được nhập? Chỉ nhập hai pháp duy lượng tướng và duy lượng kiến. Mọi thứ tướng mạo danh nghĩa, tự tánh sai biệt giả thuyết là tự tánh sai biệt nghĩa, sáu thứ tướng không có nghĩa, do đây năng thủ và sở thủ không phải nghĩa hữu vi, đồng thời hiển hiện tựa mọi thứ tướng mạo và sinh, ví như sợi dây trong tối hiện rõ giống như con rắn, cũng như con rắn trong sợi dây ấy chỉ hư vọng không thật có. Nếu người đã phân biệt rõ nghĩa sợi dây nầy thì con rắn thấy trí loạn lúc trước, không duyên cảnh khởi, thì con rắn ấy đã mất, chỉ còn biết sợi dây tồn tại. Trí biết sợi dây nầy nó do vi tế phân tích như hư không không thật cảnh, tại sao vậy? Vì chỉ là tướng của Sắc hương vị xúc, nếu tâm duyên cảnh nầy thì cái biết sợi dây cũng có thể diệt mất. Nếu thấy như vậy đã ẩn mất thì sáu tướng hiển hiện tựa danh và nghĩa, pháp trần trí của ý ngôn phân biệt không sinh. Ví như cái biết của con rắn trong nghĩa của sáu tướng ẩn mất, thì Duy thức Trí cũng phải có thể ẩn mất, ví như cái biết sợi dây. Do nương vào chân như trí, như vậy Bồ-tát do nhập tựa nghĩa mà hiển hiện ý ngôn phân biệt tướng, được nhập tánh phân biệt, do nhập nghĩa Duy thức mà được nhập tánh y tha, và làm thế nào được nhập tánh chân thật? Nếu bỏ Duy thức tưởng rồi, thì lúc đó ý ngôn phân biệt trước hết đã nghe pháp huân tập chủng loại Bồ-tát đã liễu biệt và chế phục pháp trần tưởng, tương tự tất cả nghĩa hiển hiện, không sinh duyên lại nữa cho nên không được sinh, do đó ý ngôn phân biệt tự Duy thức cũng không được sinh. Do nghĩa này, Bồ-tát chỉ trụ vô phân biệt. Trong tất cả nghĩa danh do Vô phân biệt trí được chứng được trụ Chân như pháp giới, lúc đó Bồ-tát bình đẳng và bình đẳng, năng duyên sở duyên và Vô phân biệt trí sinh khởi. Do nghĩa nầy Bồ-tát được nhập tánh chân thật.

Trong đây nói kệ:

Pháp nhân và pháp nghĩa,
Tánh sơ lược, rộng danh,
Bất tịnh tịnh cứu cánh,
Mười tên cảnh sai biệt.

Như vậy Bồ-tát do nhập Duy thức quán, được nhập tướng thù thắng của ứng tri, do nhập tướng nầy mà được nhập sơ Hoan Hỷ địa, khéo thông đạt pháp giới, được sinh vào nhà của mười phương chư Phật Như Lai, được tâm bình đẳng đối với tất cả chúng sinh, được tâm bình đẳng của tất cả Bồ-tát, được tâm bình đẳng của tất cả chư Phật Như Lai, quán nầy gọi là Bồ-tát kiến Đạo.

Lại nữa, làm thế nào Bồ-tát nhập Duy thức quán? Do duyên cực thông với pháp làm cảnh xuất thế Xa-ma-tha Tỳ-bát-xá-na, do Vô phân biệt trí hậu sở đắc mọi thứ tướng thức làm tướng trí để diệt trừ các pháp chủng tử của tất cả hữu nhân trong cộng bản A-lê-da thức để sinh trưởng các pháp chủng tử của năng xúc pháp thân, để chuyển y, để đắc tất cả chánh pháp của Như Lai, để đắc Nhất thiết trí. Nhập Duy

53 thức quán thì Vô phân biệt trí hậu sở đắc trí, đối với bản thức, chỗ sinh Nhất thiết thức và trong tướng của thức tướng do quán tương tự các thí dụ huyễn Hóa… mà tự tánh không điên đảo. Do nghĩa này, Bồ-tát như huyễn sư đối với tất cả việc huyễn tự hiểu rõ không điên đảo, trong tất cả tướng nhân duyên và quả, nếu khi chánh thuyết thì thường không có thiên lệch điên đảo.

Lúc đó chánh nhập trong Duy thức quán vị, thì có bốn thứ Tamma-đề, là bốn thứ thông đạt phần thiện căn y chỉ, Bồ-tát tại sao phải thấy? Do bốn thứ tầm tư, đối với hạ phẩm vô pháp trần quán Nhẫn quang đắc Tam-ma-đề, là Noãn hạnh thông đạt phần thiện căn, y chỉ đối với tối thượng phẩm vô pháp trần quán nhẫn quang tăng Tam-mađề, là Đảnh hạnh thông đạt phần thiện căn. Y chỉ đối với bốn thứ Như thật trí, Bồ-tát đã nhập Duy thức quán liễu biệt không có pháp trần, chánh nhập chân nghĩa một phần thông hành Tam-ma-đề, là tùy theo phi an lập đế nhẫn, y chỉ sát-na sau của Tam-ma-đề nầy là chế phục xong Duy thức tưởng, chuyển lại gọi là vô gián Tam-ma-đề. Phải biết thế đệ nhất pháp đó y chỉ với bốn thứ Tam-ma-đề, là Bồ-tát nhập phi an lập đế quán phương tiện trước. Nếu Bồ-tát nhập sơ địa như vậy rồi mới đắc kiến đạo, đắc thông đạt nhập Duy thức. Tại sao Bồ-tát tu tập quán hạnh để nhập tu đạo? Như Phật nói rộng, chỗ an lập pháp tướng đối với Bồ-tát mười địa, do gồm thâu tất cả Đại thừa mười hai bộ Kinh của Như Lai đã nói cho nên được hiện tiền, do sửa theo điều đã nói hai cảnh thông và biệt, do sinh khởi duyên cực thông cảnh xuất thế Vô phân biệt trí và Vô phân biệt trí hậu sở đắc Xa-ma-tha Tỳ-bát-xá-na trí, do trong vô lượng vô số trăm ngàn câu-chi đại kiếp nương vào niệm niệm tu tập, do từ trước đến nay chỗ đắc chuyển y, vì đắc tam thân Phật mà tu thêm gia hạnh, là kiến đạo của Thanh-văn và kiến đạo của Bồ-tát. Hai kiến đạo nầy sai biệt như thế nào? Kiến đạo của Thanh-văn và Bồ-tát phải biết có mười một thứ sai biệt, những gì là mười một?

1. Do cảnh giới sai biệt là duyên Đại thừa pháp làm cảnh.

2. Do y chỉ sai biệt là nương vào Đại phước đức trí tuệ tư lương làm y chỉ.

3. Do thông đạt sai biệt là thông đạt hai thứ nhân vô ngã và pháp Vô ngã.

4. Do Niết-bàn sai biệt là nhiếp vô trụ xứ Niết-bàn lấy làm trụ xứ.

5. Do địa sai biệt là nương vào mười địa làm sự xuất ly.

6. Và

7. Do thanh tịnh sai biệt là diệt tập khí của phiền não, và trị tịnh độ làm thanh tịnh.

8. Do đối với tất cả chúng sinh được tâm bình đẳng sai biệt là làm cho thành thục chúng sinh mà không bỏ công đức thiện căn của gia hạnh.

9. Do Thọ sinh sai biệt là sinh vào nhà Như Lai là sinh.

10. Do hiển hiện sai biệt là đối với Phật Tử trong Đại Tập Luận, thường có thể hiển hiện để nhiếp thọ chánh pháp.

11. Do quả sai biệt là pháp mười lực, vô uý, bất cộng của Như Lai và vô lượng công đức sinh làm quả. Trong đây nói hai bài kệ:

Danh nghĩa khách lẫn nhau,
Bồ-tát phải tầm, tư,
Phải quán hai duy lượng,
Và hai giả thuyết kia.
Từ đây sinh thật trí,
Lìa (pháp) trần ba phân biệt,
Nếu thấy nó phi hữu,
Được nhập ba vô tánh.

Lại nữa, hai bài kệ của chánh giáo, như Luận Phân biệt quán nói:

Bồ-tát tại tĩnh vị,
Quán tâm chỉ là ảnh,
Bỏ lìa ngoại trần tướng,
Chỉ định, quán, tự tưởng.
Bồ-tát trụ nội tâm,
Nhập sở thủ phi hữu,
Kế quán năng thủ không,
Sau xúc hai vô đắc.
 
Lại có Đại thừa Trang nghiêm Kinh Luận đã nói năm bài kệ, làm rõ đạo này:

Bồ-tát sinh trưởng phước và tuệ,
Hai thứ tư lương vô lượng tế,
Nơi pháp tư duy tâm quyết định,
Giỏi hiểu nghĩa loại, phân biệt nhân.
Đã biết nghĩa loại chỉ phân biệt,
Được trụ tựa nghĩa trong Duy thức,
Nên người quán hạnh chứng pháp giới,
Giỏi lìa hai tướng và không hai.
Nếu lìa nơi tâm biết vô dư,
Do đây liền thấy tâm chẳng có,
Người trí thấy không hai pháp này,
Được trụ không hai chân pháp giới.
Do người Vô phân biệt trí tuệ,
Hằng bình đẳng đi khắp tất cả,
Nhuộm áo dầy đặc hơn tụ tánh,
Khiến diệt như thuốc hay trừ độc.
Phật nói chánh pháp khéo thành lập,
An tâm có tướng nơi pháp giới,
Đã biết ức niệm chỉ phân biệt,
Bờ biển công đức người trí đến.

 

PHẦN IV: TƯỚNG THÙ THẮNG TIẾN VÀO NHÂN QUẢ

Như vậy đã nói nhập tướng thù thắng, của ứng tri, thế nào là nhập tướng thù thắng nhân quả của ứng tri? Do sáu Ba-la-mật, là Đà-na, Thila, Sằn-đề, Tỳ-lê-da, Trì-ha-na, Bát-la-nhã Ba-la-mật. Tại sao do sáu Ba-la-mật được nhập Duy thức? Lại tại sao sáu Ba-la-mật thành nhập Duy thức quả? Chánh pháp này, bên trong có các Bồ-tát tâm không bị nhiễm vui giàu có, đối với giới luật không có tâm phạm lỗi, đối với khổ thì không có tâm chịu thua, đối với thiện thì tu tâm không lười biếng. Trong nhân tán loạn nầy không trụ dính mắc, thường hành nhất tâm, như lý chọn lựa các pháp được vào Duy thức quán, do y chỉ sáu Bala-mật mà Bồ-tát đã nhập Duy thức địa. Kế đó đắc thanh tịnh tin ưa ý thu lấy sáu Ba-la-mật. Cho nên trung gian nầy nếu lìa công dụng gia hạnh của sáu Ba-la-mật thì do tin ưa chánh thuyết nên mến trọng tùy hỷ nguyện được tư duy, hằng thực hành không ngơi nghỉ, mà tu tập sáu Ba-la-mật cứu cánh viên mãn. Trong đây nói kệ:

Tu tập tròn pháp thiện,
Giỏi đắc lợi nhẫn lẹ,
Bồ-tát nơi tự thừa,
Thậm thâm nói rộng khắp.
Giác chỉ có phân biệt,
Đắc trí không vướng đắm,
Là tin, ưa thanh tịnh,
Gọi thanh tịnh ý địa.
Bồ-tát tại pháp lưu,
Trước sau thấy chư Phật,
Đã biết cận Bồ-đề,
Không khó mà dễ đắc.

Tại sao Ba-la-mật chỉ có sáu số để an lập? Vì có thể đối trị sáu thứ hoặc chướng. Nó làm căn cứ sinh khởi tất cả Phật pháp, làm nơi tựa tùy thuận thành thục cho tất cả chúng sinh, làm nhân để đối trị tâm không phát hành mà lập hai Ba-la-mật thí và giới. Nhân của tâm không phát khởi thực hiện, là tham nhiễm tài vật và vì gia thất. Nếu đã phát tâm tu hành rồi, vì để đối trị nhân của tâm thoái chuyển và yếu kém mà lập hai Ba-la-mật nhẫn và tinh tấn. Nhân của tâm thoái chuyển và yếu kém là sinh tử với chúng sinh trái nghịch, nếu sự lâu dài thì để trợ giúp cho sự mỏi mệt giải đãi của thiện pháp gia hạnh. Nếu tâm đã khởi phát hành và không lui gót hèn yếu, thì để đối trị nhân của tâm chịu thua tiêu mất mà lập hai Ba-la-mật định tuệ. Nhân của tâm chịu thua tiêu mất là trí tán loạn. Cho nên để đối trị sáu thứ hoặc chướng mà lập Ba-la-mật có sáu pháp để làm căn cứ cho tất cả Phật pháp sinh khởi. Bốn Ba-la-mật trước là nhân không tán loạn, một Ba-la-mật kế đó là thể của không tán loạn, do tựa vào thể nầy mà không tán loạn, có khả năng như thật hiễu rõ chân lý của các pháp, tất cả chánh pháp của Như Lai đều được sinh khởi, cho nên làm căn cứ sinh khởi của tất cả Phật pháp. Lập Ba-la-mật có sáu số, là tùy thuận chổ nương tựa để thành thục cho tất cả chúng sinh. Do Thí Ba-la-mật lợi ích chúng sinh, do Giới Ba-la-mật không tổn não chúng sinh, do Nhẫn Ba-la-mật có thể an nhẫn thọ lãnh sự huỷ nhục của người khác mà không khởi tâm báo oán, do Tinh tấn Ba-la-mật mà sinh thiện căn diệt ác căn, mà tất cả chúng sinh đều được điều phục. Kế đó tâm kia chưa đắc tịch tĩnh thì khiến cho tịch tĩnh, đã đắc tịch tĩnh thì khiến cho giải thoát, cho nên lập hai Ba-la-mật Định và Tuệ. Do sáu độ nầy mà Bồ-tát khéo giáo Hóa chúng sinh, dễ được thành thục, cho nên làm nơi tựa tùy thuận thành thục cho tất cả chúng sinh mà lập Ba-la-mật có sáu số. Do nghĩa như vậy cho nên phải biết thành lập Ba-la-mật có sáu số.

Tướng của sáu Ba-la-mật nầy làm sao có thể thấy được? Do sáu thứ tối thắng mà tướng chung của sáu Ba-la-mật có sáu thứ:

1. Do y chỉ vô đẳng là y chỉ tâm Vô thượng Bồ-đề mà khởi.

2. Do phẩm loại vô đẳng là mỗi mỗi Ba-la-mật lược nói đều có ba phẩm, Bồ-tát đều tu hành đầy đủ.

3. Do hành sự vô đẳng là sự an lạc, lợi ích tất cả chúng sinh, các độ mà Bồ-tát làm đều vì thành tựu hai sự nầy.

4. Do phương tiện vô đẳng là Vô phân biệt trí mà Bồ-tát làm các độ, đều là thuộc về của Vô phân biệt trí.

5. Do hồi hướng vô đẳng là hồi hướng Vô thượng Bồ-đề, mà Bồtát làm các độ, quyết định chuyển hướng đến quả của Nhất thiết trí.

6. Do thanh tịnh vô đẳng là hoặc chướng và trí chướng đã diệt vĩnh viễn không còn sót, mà Bồ-tát làm các độ, từng phần trừ hai chướng đó cho đến trừ sạch hết.

Thí tức Ba-la-mật, Ba-la-mật tức thí chăng? Có khi thí không phải Ba-la-mật, cũng có khi Ba-la-mật chẳng phải thí, có khi thí cũng là Bala-mật, cũng có khi chẳng phải bố thí cũng chẳng phải Ba-la-mật. Như bốn câu (bốn trường hợp) trong bố thí độ, phải biết trong các độ khác cũng có bốn câu (như vừa nêu trên đây).

Tại sao nói sáu Ba-la-mật thứ tự như vậy? Vì do các Ba-la-mật trước tùy thuận sinh các Ba-la-mật sau. Lại nữa, các Ba-la-mật trước là sự thanh tịnh của các Ba-la-mật sau.

Nương vào nghĩa gì mà lập tên sáu độ? Nghĩa nầy làm sao có thể thấy được? Vì tối thắng, vì trong thiện căn bố thí của tất cả thế gian, Thanh-văn, Độc giác, không sánh bằng. Vì có khả năng đến bờ giác, cho nên gọi chung là Ba-la-mật. Có khả năng phá diệt các khổ tham tiếc, tật đố, bần cùng, hạ tiện, cho nên gọi là Đà. Lại được làm người chủ giàu có lớn và có khả năng dẫn hành trang phước đức, cho nên gọi là Na. Có khả năng tịch tĩnh tà giới và ác đạo cho nên gọi là Thi. Lại có khả năng khiến cho đắc thiện đạo và Tam-ma-đề cho nên gọi là La. Có khả năng diệt trừ tâm giận dữ và phẫn hận cho nên gọi là Sằn. Lại có khả năng sinh các sự bình đẳng giữa mình và người cho nên gọi là Đề. Có khả năng diệt trừ lười biếng và các ác pháp cho nên gọi là Tỳ-lê. Lại hành không phóng dật sinh trưởng vô lượng thiện pháp cho nên gọi là Da. Có khả năng diệt trừ tán loạn cho nên gọi là Trì-ha. Có khả năng dẫn tâm khiến cho trụ nội cảnh cho nên gọi là Na. Có khả năng diệt tất cả kiến hành, có khả năng trừ tà trí cho nên gọi là Bát-la. Có khả năng duyên chân tướng tùy theo phẩm loại của nó mà biết tất cả pháp cho nên gọi là Nhã.

Làm sao phải biết sự tu tập của các Ba-la-mật? Nếu lược nói thì phải biết tu tập có năm pháp:

1. Phương pháp tu gia hạnh. 2. Tin ưa tu. 3. Tư duy tu. . Tu phương tiện thắng trí. 5. Tu đem lợi ích cho người khác.

Trong đây bốn pháp trước phải biết, đã nói như trước. Tu đem lợi ích cho người khác, là tâm vô công dụng của chư Phật, không xả Như Lai sự mà tu tập các Ba-la-mật, đến quả vị viên mãn lại càng tu các Ba-la-mật.

Lại nữa, Tư duy tu tập, là ái trọng tùy hỷ nguyện đắc tư duy, đã tu sáu ý nhiếp (gồm thâu).

Sáu ý là:

1. Ý rộng lớn. 2. Ý liên tục. 3. Ý hoan hỷ. . Ý có ân đức. 5. Ý chí lớn. 6. Ý thiện tốt.

Ý rộng lớn là nếu Bồ-tát bao nhiêu A-tăng-kỳ kiếp có thể đắc Vô thượng Bồ-đề thì lấy thời như vậy làm mỗi một sát-na. Bồ-tát trong từng sát-na sát-na nầy xả bỏ thân mạng và số thế giới bằng số cát sông Hằng đầy bảy báu trong đó phụng thí cúng dường Như Lai. Từ sơ phát tâm cho đến nhập trụ thanh lương cứu cánh Bồ-đề, Bồ-tát đó bố thí cũng còn chưa đầy đủ. Như vậy nhiều thời sát-na sát-na rực lửa đầy khắp ba ngàn đại thiên thế giới, Bồ-tát trong đó đi đứng ngồi nằm hành bốn oai nghi, lìa tất cả vật dụng nuôi sống, tâm trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, Tam-ma-đề và Bát-nhã, Bồ-tát hằng hiện tiền tu tập, cho đến nhập trụ thanh lương cứu cánh Bồ-đề, mà ý giới, ý nhẫn của Bồ-tát cũng chưa đầy đủ. Đây là tâm không chán đủ, gọi đó là Bồ-tát với ý rộng lớn. Nếu Bồ-tát từ sơ phát tâm cho đến thành Phật, không xả bỏ tâm không chán đủ, gọi đó là Bồ-tát có ý liên tục. Nếu Bồ-tát do chỗ làm việc lợi ích cho chúng sinh của sáu Ba-la-mật thì thường sinh tâm hoan hỷ vô song. Khi chúng sinh đắc lợi ích thì tâm hoan hỷ đó không gì sánh bằng, gọi đó là Bồ-tát với ý hoan hỷ. Nếu Bồ-tát hành sáu Ba-la-mật lợi ích chúng sinh rồi, thấy chúng sinh đối với ta có đại ân đức, mà không thấy tự thân đối với chúng sinh kia có ân đức, gọi đó là Bồ-tát có ý ân đức. Nếu Bồ-tát từ sáu Ba-la-mật mà sinh công đức thiện căn, thí cho tất cả chúng sinh dùng tâm không vướng mắc mà hồi hướng, vì khiến cho chúng sinh kia đắc quả báo khả ái lớn, gọi đó là Bồ-tát có ý chí rộng lớn. Nếu Bồ-tát đã hành công đức thiện căn của sáu Ba-la-mật, khiến cho tất cả chúng sinh bình đẳng, đều được vì chúng sinh kia mà hồi hướng Vô thượng Bồđề, thì gọi đó là Bồ-tát có ý tốt. Do thu gom khả ái trân trọng tư duy của sáu ý trên mà Bồ-tát tu tập. Nếu Bồ-tát tùy hỷ vô lượng Bồ-tát tu gia hạnh, sáu ý đã sinh công đức thiện căn, thì gọi đó là Bồ-tát đã gom tùy hỷ công đức tư duy của sáu ý. Nếu Bồ-tát nguyện tất cả chúng sinh tu hành thâu nhiếp sáu Ba-la-mật của sáu ý và nguyện tự thân tu hành đã gom sáu Ba-la-mật của sáu ý, thì từ tu tập gia hạnh cho đến thành Phật gọi đó là Bồ-tát đã gom nguyện đắc tư duy của sáu ý. Nếu người được nghe Bồ-tát đã gom tư duy tu tập của sáu ý, sinh một niệm tín tâm, thì người đó đắc vô lượng vô biên phước đức và các nghiệp chướng ác hoại diệt không còn. Người chỉ nghe mà còn đắc vô lượng vô biên phước đức, huống gì Bồ-tát tận lực tu hành!

Tại sao phải biết sai biệt của các Ba-la-mật? Do mỗi Ba-la-mật đều có ba phẩm, cho nên phải biết sai biệt của nó.

Ba phẩm Bố thí là: 1. Pháp thí. 2. Tài thí. 3. Vô uý thí.

Ba phẩm Giới là: 1. Thủ hộ giới. 2. Nhiếp thiện pháp giới. 3. Nhiếp lợi chúng sinh giới.

Ba phẩm Nhẫn là: 1. Tha hủy nhục nhẫn. 2. An thọ khổ nhẫn. 3. Quán sát pháp nhẫn.

Ba phẩm Tinh tấn là: 1. Cần dũng tinh tấn. 2. Gia hạnh tinh tấn. 3. Bất hạ nan hoại vô túc tinh tấn (không thoái lui, không sờn lòng vì thiếu tinh tấn.

Ba phẩm Định là: 1. An trụ định. 2. Dẫn thần thông định. 3. Tùy lợi tha định.

Ba phẩm Bát-nhã là: 1. Vô phân biệt gia hạnh Bát-nhã. 2. Vô phân biệt Bát-nhã. 3. Vô phân biệt hậu đắc Bát-nhã.

Tại sao phải biết nghĩa thu nhiếp của các Ba-la-mật? Tất cả thiện pháp đều được nhiếp vào sáu Ba-la-mật, lấy làm tánh các pháp. Tánh đó là quả sở lưu của sáu Ba-la-mật, là chỗ tùy thuận thành tựu của tất cả thiện pháp.

Tại sao phải biết chỗ đối trị của các Ba-la-mật? Vì nhiếp tất cả hoặc lấy làm tánh của nó, làm sinh nhân của nó, làm quả sở lưu của nó.

Tại sao phải biết công đức của các Ba-la-mật? Nếu Bồ-tát luân chuyển sinh tử, gồm thâu địa vị giàu có lớn, gồm thâu sự sống lớn, gồm thâu quyến thuộc lớn, gồm thâu nghiệp sống lớn (kế sinh nhai) thành tựu, gồm thâu thiểu dục không có bệnh tật phiền não, gồm thâu thông tuệ của tất cả công xảo minh xứ. Như ý không mất sự lợi ích giàu sang an lạc cho chúng sinh và làm đúng đắn, Bồ-tát tu hành công đức sáu độ cho đến nhập trụ thanh lương cứu cánh Bồ-đề, hằng tại như nhau.

Tại sao phải biết tướng hiển lẫn nhau của các Ba-la-mật? Thế Tôn hoặc dùng tên bố thí mà nói các Ba-la-mật, hoặc lấy tên giới, hoặc lấy tên Nhẫn, hoặc lấy tên tinh tấn, hoặc lấy tên định, hoặc lấy tên Bát-nhã mà nói các Ba-la-mật. Như Lai vì ý gì mà nói như vậy? Trong Ba-la-mật tu hành phương tiện, thì tất cả Ba-la-mật còn lại đều tụ tập trợ thành. Đây là Như Lai nói ý. Trong đây nói kệ Uất-đà-na:

Vị số thứ tự nhau,
Là tu sai biệt nhiếp,
Đối trị và công đức,
Nghĩa các độ hiển nhau.

Pages: 1 2 3