LUẬN NHIẾP ĐẠI THỪA

Tác Giả: Vô Trước Bồ-tát
Hán dịch: Tam Tạng Pháp Sư Chân Đế
Việt dịch: Linh Sơn Pháp Bảo Đại Tạng Kinh

 

QUYỂN 1

PHẦN I: Y CHỈ THẮNG TƯỚNG

PHẨM 1: CHÚNG DANH

Nhiếp Đại Thừa Luận tức là A-tỳ-đạt-ma giáo và Đại thừa Tuđa-la. Trước Phật Thế Tôn, Bồ-tát Ma-ha-tát khéo nhập cú nghĩa của Đại thừa, vì muốn hiển thị Đại thừa có công đức thù thắng, dựa vào Đại thừa giáo mà nói những lời như vậy. Chư Phật Thế Tôn có mười tướng thù thắng, gọi là không ai bằng, vượt hơn các giáo khác. Mười tướng thù thắng là:

  1. Tướng thù thắng của chổ y chỉ vào tri (Trí) tương ứng.
  2. Tướng thù thắng của tri tương ứng.
  3. Tướng thù thắng của sự hội nhập tri tương ứng.
  4. Tướng thù thắng của sự hội nhập nhân quả.
  5. Nhập tướng thù thắng của sự hội nhập nhân quả và sự tu tập sai biệt.
  6. Tướng thù thắng của sự nương tựa vào giới mà tu tập sai biệt.
  7. Tướng thù thắng của sự nương tựa tâm học.
  8. Tướng thù thắng của sự nương tựa tuệ học.
  9. Tướng thù thắng của quả học tịch diệt.
  10. Tướng thù thắng của trí sai biệt.

Từ mười nghĩa tướng thù thắng này, mà những gì Như Lai nói, vượt hơn các giáo khác. Như vậy giải thích văn cú của Tu-đa-la, làm sáng tỏ lý Đại thừa chính là Phật nói. Lại nữa, trong đây lược giải thích là thế nào? Là nhằm làm sáng lên sự cao vượt của Đại thừa, hơn mọi giáo khác. Hiện tại ở đây sơ lược giải thích mười nghĩa này, chỉ có Đại thừa mới có, Tiểu thừa thì không có. Những gì là mười? A-lê-da thức gọi là tướng y chỉ của tri tương ưng. Nói có ba thứ tự tánh: 1. Tánh y tha. 2. Tánh phân biệt. 3. Tánh chân thật tánh, gọi là tướng của tri tương ứng. Nói Duy thức giáo gọi là tướng hội nhập tri tương ứng. Nói sáu Bala-mật gọi là tướng hội nhập nhân quả. Nói Bồ-tát mười địa gọi là tướng hội nhập nhân quả tu sai biệt. Nói những giới cấm mà Bồ-tát thọ trì là tướng giới học tu sai biệt. Nói các định Thủ-lăng-già-ma, hư không khí v.v…. gọi là tướng tâm học. Nói Vô phân biệt trí gọi là tướng tuệ học. Nói Vô trụ xứ Niết-bàn gọi là tướng quả Học tịch diệt. Nói ba loại Phật thân là Tự tánh thân, Ứng thân và Hóa thân, gọi là tướng quả Vô phân biệt trí.

Như vậy nói mười thứ xứ này chỉ có trong Đại thừa, khác với Tiểu thừa cho nên nói là bậc nhất. Phật Thế Tôn chỉ vì Bồ-tát, nói mười nghĩa này. Nương vào Đại thừa mà chư Phật Thế Tôn có mười tướng thù thắng, mà tướng nói ra ấy không tướng nào sánh bằng, vượt hơn các giáo pháp khác. Lại nữa, tại sao mười tướng thù thắng thắng này được nói ra không tướng nào sánh bằng, là có khả năng làm sáng tỏ lý lên Đại thừa. Bởi chính Như Lai thuyết để ngăn Tiểu thừa quyết định đây không phải Đại thừa, và trong Tiểu thừa chưa hề thấy giải thích một nghĩa nào theo như trong mười nghĩa này mà chỉ thấy giải thích trong Đại thừa. Lại nữa, mười nghĩa này có thể dẫn đến Vô thượng Bồ-đề, thành tựu, tùy thuận và không trái nhau, vì các chúng sinh đắc nhất thiết trí, mà nói kệ rằng:

Y, tướng của ứng tri (trí)
Nhập nhân quả, tu khác
Ba học và quả diệt,
Nhiếp trí vô thượng thừa.
Mười nghĩa chỗ khác không,
Thấy nhân Bồ-đề này,
Đại thừa là Phật nói,
Nên nói mười thắng nghĩa.

Tại sao mười nghĩa nói thứ tự như vậy? Bồ-tát sơ học trước phải quán các pháp nhân duyên như thật. Do quán này nên đối với mười hai duyên sinh phải sinh thông tuệ, sau đó đối với pháp duyên sinh phải hiểu rõ thể tướng của nó. Do trí có thể lìa lỗi nhị biên tăng ích tổn giảm. Chánh tu như vậy, phải thông đạt sở duyên các tướng như thật, sau đó từ các chướng phải giải thoát. Kế đó tâm đã thông phải biết thật tướng, các sáu Ba-la-mật trước kia nay thành tựu thêm, khiến cho thanh tịnh không bị thoái lui. Nương vào ý thanh tịnh bên trong, kế đó thanh tịnh bên trong đã thâu gồm các Ba-la-mật. Nương vào mười địa sai biệt, phải tu tùy một trong ba A-tăng-kỳ kiếp. Kế đó ba học của Bồ-tát phải khiến cho viên mãn. Đã viên mãn rồi tức là quả Học, Niết-bàn và Vô Thượng Bồ-đề, sau đó tương ưng chứng đắc. Tu thứ tự mười nghĩa như đây đã nói thì, tất cả Đại thừa đều được viên mãn.

Đây đầu tiên nói chổ y chỉ của ứng tri (trí) gọi là A-lê-da thức. Dựa vào đâu mà Thế Tôn nói thức này? Và nói thức này vì sao tên là A-lê-da? Dựa trong lược bản kệ A-tỳ-đạt-ma, dức Thế Tôn nói:

Giới nầy thời vô thuỷ,
Chỉ y chỉ của pháp,
Nếu có, các nẻo có
Và có đắc Niết-bàn.

Trong A-tỳ-đạt-ma lại nói kệ:

Giữ, chứa, nương của pháp
Tất cả chủng tử thức
Gọi là A-lê-da,
Ta vì người thù thắng nói.

Hai bài kệ A-hàm nầy làm chứng cho thể và danh của thức. Vì sao Phật nói thức nầy gọi là A-lê-da? Tất cả các phẩm pháp có sinh bất tịnh, ẩn tàng trong đó làm quả, thức nầy thì ẩn tàng trong các pháp làm nhân. Lại nữa, các chúng sinh ẩn tàng trong thức nầy là do chấp ngã tướng, nên gọi là A-lê-da thức. A-hàm nói cũng như kệ của Kinh Giải Tiết nói:

Chấp trì thức thâm tế,
Pháp chủng tử hằng lưu,
Với phàm ta không nói,
Vật kia chấp làm “ngã”.

Vì sao thức nầy còn nói là A-đà-na thức? Vì nó có khả năng nắm giữ tất cả các căn hữu sắc, tất cả sự thọ sinh lấy nó làm y chỉ. Tại sao vậy? Vì các căn hữu sắc là chổ chấp trì của thức, này không hoại, không mất, tương tục cho đến đời sau. Lại nữa, khi chánh thọ sinh, do thứ này có thể sinh thủ ấm, cho nên thân của chúng sinh trong sáu đường đều 502 chấp như vậy. Vì chọn lấy nghĩa chấp trì của sự dụng thức nên gọi là A-đà-na. Hoạc gọi là tâm, như Phật Thế Tôn nói là tâm, ý, thức. Ý có hai thứ: 1. Có thể làm chổ nương tựa thứ đệ duyê cho ý thức sinh, thức diệt trước làm ý, lại vì thức sinh y chỉ làm ý. 2. Ý có nhiễm ô, cùng với bốn phiền não thường tương ưng: 1. Thân kiến. 2. Ngã mạn. 3. Ngã ái. . Vô minh. Thức nầy là y chỉ của các thức phiền não. Phiền não thức nầy do một y chỉ sinh, do nhiễm ô thứ hai, là do duyên trần và lần lượt có thể phân biệt, hai thứ nầy gọi là ý. Làm sao biết được có tâm nhiễm ô? Nếu không có tâm nầy thì độc hành vô minh không thể nói có, cùng với năm thức tương tự thì pháp nầy đáng lẽ không có. Tại sao vậy? Vì năm thức nầy cùng một lúc mà có tự y chỉ, là các căn nhãn v.v… Lại nữa, tên ý đáng lẽ không có nghĩa. Lại nữa, Vô tưởng định và Diệt tâm định đáng lẽ khác nhau. Tại sao vậy? Vì Vô tưởng định có tâm nhiễm ô, Diệt tâm định được nói rõ thì không phải như vậy. Nếu không như thế thì hai định nầy phải không khác nhau. Lại nữa, trong một thời kỳ của trời Vô tưởng, phải trở thành không lưu chuyển, không mất, không nhiễm ô, trong đó hoặc không có ngã kiến và ngã mạn. Lại nữa, trong mọi lúc khởi ngã chấp khắp trong tâm thiện ác và vô ký. Nếu không như vậy thì chỉ có ác tâm tương ưng với ngã chấp. Ngã và ngã sở hoạt động ở đây, còn trong thiện và vô ký thì nó không hoạt động. Nếu lập hai tâm đồng thời sinh thì không có lỗi này. Nếu lập Tương ưng hành của thức sáu, thì có lỗi này.

Không độc hành vô minh,
Và tương tự năm thức,
Hai định không khác nhau,
Tên ý không có nghĩa.
Vô tưởng không ngã chấp,
Một kỳ sinh vô lưu,
Trong thiện ác vô ký,
Ngã chấp không nên khởi.
Lìa tâm nhiễm không có,
Hai và ba trái nhau,
Không tất cả xứ này,
Ngã chấp không được sinh.
Chứng kiến nghĩa chân thật,
Hoặc chướng khiến không khởi,
Luôn hành tất cả xứ,
Là độc hành Vô minh.

Tâm ô nhiễm nầy thuộc tánh vô ký, luôn cùng bốn hoặc tương ưng, ví như hoặc của Sắc giới và Vô sắc giới, là hữu phú vô ký, phiền não của hai cõi nầy là chỗ tàng ẩn của Xa-ma-tha. Tâm nầy hằng sinh không phế bỏ Tầm. Thể thứ ba lìa A-lê-da thức không thể được, cho nên A-lê-da thức thành tựu làm ý. Nương vào ý nầy lấy làm chủng tử thì các thức khác được sinh. Vì sao ý nầy lại nói là tâm? Vì là chổ tụ họp niều loại chủng tử huận tập. Tại sao Thanh-văn thừa không nói tâm tướng nầy và A-lê-da? A-đà-na gọi là vi tế, là chỗ nhiếp của cảnh giới. Tại sao vậy? Vì người Thanh-văn không có địa vị thù thắng để đắc Nhất thiết trí, cho đối với Thanh-văn không nói. Do thành tựu trí, làm cho bản nguyện viên mãn nên không nói đến nó. Chư Bồ-tát tương ưng có Thắng vị để đắc Nhất thiết trí, cho nên Phật vì nói. Tại sao vậy? Vì nếu lìa trí nầy mà đắc Vô thượng Bồ-đề thì không có việc đó. Lại nữa, thức nầy đối với Thanh-văn Thừa do tên gọi khác mà Như Lai đã từng hiển thị. Như Kinh Tăng Nhất A-hàm nói: “Trong thế gian hỷ lạc A-lê-da, ái A-lê-da, tập A-lê-da, trước A-lê-da và diệt A-lê-da! Như Lai nói chánh pháp, thế gian ưa nghe, thuộc nhĩ tác ý muốn biết mà sinh khởi chánh cần, mới được diệt tận A-lê-da, cho đến thọ hành chánh pháp và pháp tương tự của Như Lai. Do Như Lai hiện ở đời là đệ nhất hy hữu bất khả tư nghì pháp, đối với thế gian hiển hiện như Bản thức. Kinh Như Lai Xuất Thế Tứ Chủng Công Đức này, do biệt nghĩa đối với Thanh-văn thừa, mà thức nầy đã hiển hiện. Lại nữa, trong A-hàm Ma-ha Tăng-kỳ Bộ, do biệt danh của căn bản thức mà thức nầy hiển hiện, ví như cây nương vào gốc rễ. Di-sa-tắc Bộ cũng lấy biệt danh để nói thức nầy là cùng sinh tử ấm. Tại sao vậy? Hoặc sắc và tâm có khi thấy tương tục và đoạn, nhưng các chủng tử kia trong tâm nầy thì không có đoạn dứt, nên biết đó là y chỉ. A-đà-na, A-lê-da, Chất-đa, Bản thức, cùng sinh tử ấm… do những danh nầy mà thức trong Tiểu thừa chính là đã nói A-lêda thức, trở thành ví như con đường của vua đi. Lại có các Sư khác chấp tâm, ý, thức ba thứ nầy là tên khác mà nghĩa đồng. Điều nầy không đúng. Ý và thức đã thấy nghĩa khác nhau, nên biết nghĩa của tâm cũng có khác. Lại có các Sư khác chấp rằng Như Lai nói thế gian hỷ lạc A-lêda, như trước đã nói, trong đó có năm thủ ấm gọi là A-lê-da. Lại có các sư khác chấp lạc thọ cùng với dục tương ưng gọi là A-lê-da. Lại có Sư khác chấp thân kiến gọi là A-lê-da. Các Sư như vậy là mê A-lê-da, do A-hàm và tu đắc cho nên khởi chấp như vậy. Do tùy theo giáo và hành của Tiểu thừa, chỗ lập nghĩa của các Sư đó không đúng đạo lý. Nếu có người không mê A-lê-da thức, phỏng theo các tên trong Tiểu thừa mà thành lập thức này, nghĩa của nó tối thắng. Tại sao tối thắng? Nếu chấp thủ ấm gọi là A-lê-da, thì cõi ác tùy trong một đạo hoàn toàn là khổ thọ xứ đối với cõi ác kia mà sinh. Thủ ấm nầy rất là ác nghịch, trong thủ ấm đó hoàn toàn là “phi khả ái”, chúng sinh hỷ lạc trong thủ ấm đó là không xứng đạo lý. Tại sao vậy? Vì chúng sinh trong thủ ấm đó hằng mong thủ ấm đoạn tuyệt không sinh. Nếu là lạc thọ cùng với Dục tương ưng, thì từ định thứ tư cho đến cõi trên đều không có thọ này. Nếu người đã đắc thọ này, do cầu đắc cõi trên thì sinh chán ghét, cho nên chúng sinh hỷ lạc trong đó là không xứng đạo lý. Nếu là thân kiến thì người trong chánh pháp tin ưa vô ngã. Thân kiến không phải là sở ái của họ, trong đó không sinh hỷ lạc, A-lê-da thức nầy tâm chúng sinh chấp làm tự nội ngã. Nếu sinh trong đường khổ thọ hoàn toàn thì nguyện khổ ấm đó vĩnh viễn diệt không khởi. A-lê-da thức bị ngã ái trói buộc, không hề muốn diệt trừ tự ngã. Từng định thứ tự trở lên, chúng sinh thọ sinh tuy không lạc nhưng có thọ dục lạc, thì tự ngã ái trong A-lê-da thức đuổi theo không rời. Lại nữa, người trong chánh pháp tuy nguyện lạc vô ngã trái nghịch với thân kiến, nhưng trong A-lê-da thức cũng có tự ngã ái, lấy tên A-lê-da an lập, thức nầy là tối thắng cho nên thành lập biệt danh của A-lê-da.

 

PHẨM 2: TƯỚNG

Lại nữa, thành lập thức này, tướng nó làm sao thấy được? Tướng nầy lược nói có ba thứ

  1. Lập tự tướng.
  2. Lập tướng nhân.
  3. Lập tướng quả.

1. Lập tự tướng, là nương vào tập khí của tất cả phẩm pháp bất tịnh, làm cho pháp kia được sinh nhiếp trì khí vật nương tựa của chủng tử, nên gọi đó là tự tướng.

2. Lập tướng nhân, là tất cả chủng tử thức nầy làm cho sinh phẩm pháp bất tịnh, hằng khởi làm nhân, nên gọi đó là tướng nhân.

3. Lập tướng quả, là thức nầy nương theo tập khí từ vô thủy của các thứ phẩm pháp bất tịnh mới được sinh, nên gọi đó là tướng quả. Pháp gì gọi là tập khí? Tên tập khí nầy là muốn làm rõ nghĩa gì? Pháp nầy cùng với tập khí kia tương ưng cùng sinh cùng diệt, sau đó biến thành sinh nhân kia, đây tức là chỗ làm rõ nghĩa. Ví như đối với mè, dùng hoa để ướp tập, mè cùng với hoa đồng thời sinh diệt, hoa kia luôn luôn sinh làm sinh nhân mùi hương cho mè, nếu người có các hành hữu dục v.v… thì có tập khí của dục, tâm đó cùng với dục đồng sinh đồng diệt, tập khí kia thường sinh làm sinh nhân của tâm biến dị. Nếu người đa văn thì có tập khí của đa văn. Thường suy tư những gì mình nghe, nó sinh diệt với tâm. Những gì mình nghe đó luôn luôn sinh làm sinh nhân của tâm minh liễu. Do huân tập nầy được kiên trụ, cho nên nói người nầy là Năng trì pháp. Đối với A-lê-da thức phải biết đạo lý như vậy. Sự đồng và khác của nhiễm ô chủng tử nầy cùng với A-lê-da thức như thế nào? Không do các vật thể riêng cho nên khác. Như sự hoà hợp nầy tuy khó phân riêng nhưng không phải không khác. A-lê-da thức như vậy mà sinh. Khi huân tập sinh thì có công năng thù thắng khác nhau, nên gọi là tất cả chủng tử.

Tại sao A-lê-da thức cùng với nhiễm ô đồng thời làm nhân lẫn nhau? Ví như ánh sáng của ngọn đèn và tim đèn, sinh khởi và đốt cháy đồng thời làm nhân lẫn nhau. Lại nữa, ví như bó lau, cùng lúc nương tựa nhau cho nên đứng được. Phải biết Bản thức cùng với năng huân tập làm nhân lẫn nhau, nghĩa đó cũng vậy, như thức làm nhân của pháp nhiễm ô, pháp nhiễm ô làm nhân của thức. Tại sao vậy? Vì lìa hai pháp nầy mà có nhân khác thì không thể có được.

Tại sao huân tập chủng không khác không nhiều mà có thể trở thành có khác loại và nhiều loại? Các pháp làm sinh nhân, ví như có nhiều sợi chỉ may áo, áo không có nhiều màu sắc, nếu ngâm vào chậu nhuộm, sau đó trên áo các thứ tướng mạo mới được hiển hiện. Như vậy, khi các thứ pháp của A-lê-da thức được huân tập thì chỉ có một tánh mà không có nhiều loại. Nếu vật nhuộm sinh kết quả hiện tiền, thì có chủng loại tướng mạo không thể tính đếm. Đối với A-lê-da thức hiển thị duyên sinh này, đối với Đại thừa rất vi tế thậm thâm. Nếu lược nói thì có hai thứ duyên Sinh: 1. Phân biệt tự tánh. 2. Phân biệt ái và phi ái. Y chỉ A-lê-da thức mà các pháp sinh khởi, gọi đó là phân biệt tự tánh duyên sinh. Vì phân biệt tự tánh nhân duyên của chủng chủng các pháp, lại có mười hai duyên sinh, gọi đó là ái và phi ái, là đối với thiện đạo ác đạo khởi phân biệt ái và phi ái mà sinh các thứ nhân khác nhau. Nếu người đối với A-lê-da thức mê duyên sinh thứ nhất, thì họ chấp tự tánh là nhân của sinh tử, hoặc chấp nghiệp đời trước, hoặc chấp biến Hóa tự tại, hoặc chấp tám ngã tự tại, hoặc chấp vô nhân. Nếu mê duyên sinh thứ hai, thì họ chấp ngã, tác giả, thọ giả, ví như nhiều người mù bẩm sinh, có người sai bảo những người mù đó sờ voi để chứng biết. Những người mù đó, hoặc có người sờ vòi nó, hoặc có người sờ ngà nó, hoặc có người sờ tai nó, hoặc có người sờ chân nó, hoặc có người sờ đuôi nó, hoặc có người sờ lưng nó… có người hỏi rằng: Voi là tướng gì? Những người mù đáp: Voi như cái cán cày, hoặc nói như cái chày, hoặc nói như cái ky, hoặc nói như cái cối, hoặc nói như cái chổi, hoặc nói như hòn đá núi. Nếu người không hiểu rõ hai thứ duyên sinh thì vô minh sinh ra mù, hoặc nói tự tánh làm nhân, hoặc nói nghiệp đời trước, hoặc nói biến Hóa tự tại, hoặc nói tám ngã tự tại, hoặc nói vô nhân, hoặc nói tác giả và thọ giả. Không hiểu rõ thể tướng và nhân quả tướng của A-lê-da thức, thì giống như những người mù bẩm sinh kia, tạo ra các thứ dị thuyết, như những người mù bẩm sinh kia, không biết thể của voi mà khởi các thứ dị thuyết, hoặc lược nói thể tướng của A-lê-da thức, là quả báo thức, là tất cả chủng tử, do thức nầy thu giữ tất cả thân trong ba cõi, tất cả tứ sinh trong sáu đạo. Để hiển hết nghĩa nầy cho nên nói kệ:

Ngoại nội không hiểu rõ,
Hai tánh chỉ giả danh,
Và tất cả chân thật.
Chủng tử có sáu thứ,
Niệm niệm diệt, câu hữu,
Cùng theo đến trị tế,
Quyết định, quán nhân duyên,
Như dẫn hiển tự quả.
Kiên vô ký khả huân,
Cùng năng huân tương ưng,
Hoặc dị không thể huân,
Nói là huân thể tướng,
Sáu thức không tương ưng,
Ba sai biệt trái nhau,
Hai niệm không đồng có,
Đời khác lệ cũng vậy,
Chủng tử ngoại nội này,
Hay sinh và dẫn nhân,
Khô chết cũng tương tục,
Sau đó mới diệt hết.
Ví như ngoại chủng tử,
Nội chủng không như vậy.

Nghĩa nầy lấy hai bài kệ để hiển bày:

Ngoại chủng không huân tập,
Nội chủng không như vậy,
Văn (nghe)… không có huân tập,
Quả sinh phi đạo lý.
Đã khởi và chưa khởi,
Được và mất khác nhau,
Do nội ngoại được thành
Cho nên nội có huân.

Các thức còn lại thì khác với A-lê-da thức, là tất cả sinh xứ và cõi của sinh khởi thức, phải biết đó là Thọ dụng thức. Như kệ trong Trung Biên Luận nói:

Một gọi là duyên thức,
Hai gọi là thọ thức,
Liễu thọ là phân biệt,
Khởi hành các tâm pháp”.

Hai thức nầy làm nhân lẫn nhau, như kệ trong Đại thừa A-tỳ-đạt-ma nói:

Chư pháp trong Tàng thức,
Thức trong pháp cũng vậy,
Chúng làm nhân cho nhau,
Cũng làm quả lẫn nhau.

Nếu trong duyên sinh thứ nhất, các pháp và thức làm nhân duyên lẫn nhau, thì trong duyên sinh thứ hai các pháp là duyên gì? Là Tăng Thượng duyên. Lại nữa, mấy duyên có thể sinh ra sáu thức? Có ba duyên, là Tăng thượng duyên, sở duyên duyên và Thứ đệ duyên. Như vậy ba duyên sinh, một là cùng sinh tử duyên sinh, hai là ái tắng đạo duyên sinh và ba là thọ dụng duyên sinh, đều có đủ bốn duyên.

 

 

PHẨM 3: DẪN CHỨNG

A-lê-da thức nầy đã thành lập, do nhiều tên gọi và thể tướng. Làm sao biết được A-lê-da thức? Vì “nhiều tên gọi” như vậy, cho nên Như Lai nói thể tướng cũng vậy, không nói sinh Khởi thức, nếu lìa danh tướng nầy thì sự lập phẩm bất tịnh và phẩm tịnh của A-lê-da thức đều không thành tựu, phẩm phiền não bất tịnh và phẩm nghiệp bất tịnh, phẩm sinh bất tịnh, phẩm thế gian tịnh, phẩm xuất thế gian tịnh đều không thành tựu. Tại sao phẩm phiền não bất tịnh không thành tựu? Chỗ khởi huân tập chủng tử của căn bản phiền não và thiểu phần phiền não, đối với sáu thức không được thành tựu. Tại sao vậy? Vì hai hoặc lớn và nhỏ của nhãn và dục cùng khởi cùng diệt. Nhãn thức nầy là chỗ huân tập của hoặc thành lập chủng tử, các thức khác thì không như thế, tức nhãn thức đã diệt rồi, hoặc là các thức khác gián đoạn khởi, huân tập và y chỉ huân tập đều không thể có được, nhãn thức đã diệt mất trước đó, hiện tại không có “thể”, hoặc các thức khác chỗ khoảng giữa từ khi đã diệt không có pháp, nên có dục cùng sinh không được thành tựu. Ví như các nghiệp quả báo từ quá khứ đã diệt hết không sinh được. Lại nữa, nhãn thức và dục hoặc đồng thời sinh khởi huân tập thì không thành. Tại sao vậy? Chủng tử nầy không được trụ trong dục, vì dục y chỉ thức. Lại nữa, vì dục tương tục không kiên trụ, nên dục nầy đối với các thức khác cũng không có huân tập. Vì y chỉ riêng khác cho nên chỗ các thức còn lại không cùng lúc khởi đồng thời diệt. Đồng loại với đồng loại không được huân tập lẫn nhau, vì không cùng lúc mà sinh diệt, cho nên nhãn thức không làm chỗ huân tập cho Hoặc lớn và Hoặc nhỏ của dục, cũng không làm chỗ huân tập cho đồng loại thức. Tư lương nhãn thức như vậy, các thức khác cũng phải tư lương như vậy. Lại nữa, nếu chúng sinh từ cõi trời Vô tưởng trở lên bị thoái đọa, thọ sinh xuống cõi dưới, thì có chỗ nhiễm thức ban đầu của Hoặc lớn và Hoặc nhỏ, thức nầy khi sinh thì pháp không có chủng tử. Tại sao vậy? Vì Hoặc nầy huân tập cùng với y chỉ đã diệt mất trong quá khứ không còn sót. Lại nữa, hoặc đối trị thức đã sinh, thì chỗ còn lại là các thức của thế gian đều đã diệt hết. Nếu không có A-lê-da thức thì thức đối trị nầy tồn tại cùng chủng tử của Hoặc lớn và Hoặc nhỏ, nghĩa nầy không thành. Tại sao vậy? Vì tự tánh giải thoát, tâm vô lưu và Hoặc, không thể cùng khởi cùng diệt. Lại nữa, sau khi xuất quán chính khởi tâm thế gian, thì các hoặc huân tập lâu đã lui mất. Ý thức hữu lưu không có chủng tử sinh đáng lẽ được thành. Cho nên, lìa A-lê-da thức thì phiền não nhiễm ô không được thành. Lại nữa, nghiệp nhiễm ô tại sao không được thành? Vì nghĩa duyên hành sinh thức phần không được thành. Nếu không có nghĩa nầy thì duyên “thủ” sinh “hữu” cũng không thành, cho nên nghiệp nhiễm ô không được thành. Lại nữa, tại sao nghĩa sinh nhiễm ô nầy không được thành? Vì sự kết sinh không thành. Nếu người đối với địa bất tịnh thoái đọa, tâm chính tại trung ấm khởi thì ý thức nhiễm ô mới được thọ sinh, lúc nầy có thức nhiễm ô diệt trong thức trung ấm, thức nầy gá vào Khala-la, trong thai mẹ biến hợp thọ sinh. Nếu chỉ có ý thức biến thành y chỉ của Kha-la-la thì ý thức nầy trong thai mẹ có riêng ý thức khởi. Không có nghĩa như đây tức hai thứ ý thức trong thai mẹ nhất thời cùng khởi. Vì không có nghĩa này nên ý thức đã biến dị thì không thể thành lập, vì ý thức y chỉ việc không thanh tịnh, duyên cảnh lâu dài nên cảnh sở duyên đó không thể biết. Nếu ý thức đã biến dị, thì lúc đó, ý thức thành Khala-la, vì thức nầy làm nương tựa cho chủng tử của tất cả pháp, thức nầy sinh các thức khác, làm chủng tử của tất cả pháp. Nếu ông chấp thức đã biến dị là tất cả chủng tử thức, tức là A-lê-da thức, là ông tự lấy một tên khác thành lập làm ý thức. Nếu ông chấp Năng y chỉ thức là tất cả chủng tử thức, thì thức nầy do y chỉ mà thành nhân của thức khác. Thức được y chỉ này, nếu không phải năng y chỉ của tất cả chủng tử thức, gọi là tất cả chủng tử thức, thì nghĩa không thành. Cho nên thức nầy gởi sinh vào sự biến dị thành Kha-la-la, không phải là ý thức, chỉ là quả báo, cũng là tất cả chủng tử, nghĩa nầy được thành. Lại nữa, nếu chúng sinh đã gởi sinh, có thể chấp trì các sắc căn khác, lìa quả báo thức thì không thể được. Tại sao vậy? Vì các thức khác quyết định riêng có y chỉ không kiên trụ lâu dài, nếu sắc căn nầy không có chấp trì thức, thì cũng không được thành. Lại nữa, thức nầy và danh sắc nương tựa lẫn nhau. Như bó lau nương nhau mà đứng, thì thức nầy không thành. Lại nữa, nếu lìa quả báo thức, tất cả cầu sinh (Trung ấm) đã sinh thì thức thực của chúng sinh ( Trung ấm) không thành. Tại sao vậy? Nếu lìa thức quả báo thì trong nhãn thức chỉ tùy có một thức, chúng sinh thọ sinh trong tam giới, khởi các sự ăn uống mà không thấy có khả năng. Nếu người từ địa nầy xả mạng, sinh địa tĩnh lự ở trên do ý thức tán động nhiễm ô, thì nơi thọ sinh kia là thức nhiễm ô tán động. Trong địa tĩnh lự lìa quả báo thức có các chủng tử khác, thì nghĩa nầy không thành. Lại nữa, nếu chúng sinh sinh Vô sắc giới lìa tất cả chủng tử quả báo thức, nếu sinh tâm nhiễm ô và thiện tâm thì không có chủng tử, vì hai thức cùng y chỉ nhiễm ô và thiện đều không được thành. Ở Vô sắc giới, nếu khởi tâm Vô lưu, tâm thế gian khác đã diệt hết, thì phải vứt bỏ đối với đạo này. Nếu chúng sinh sinh trong Phi tưởng phi phi tưởng mà khởi bất dụng xứ tâm và vô lưu tâm, tức là xả bỏ hai xứ. Tại sao vậy? Vì vô lưu tâm là xuất thế tâm, phi tưởng phi phi tưởng đạo không phải là nơi nương tựa của nó, bất dụng xứ đạo cũng không phải nơi nương tựa, thẳng đến Niết-bàn cũng không phải nơi nương tựa. Lại nữa, nếu người đã khởi thiện nghiệp, chính lúc xả thọ mạng lìa A-lê-da thức, hoặc trên đầu hoặc dưới chân thứ tự y chỉ lãnh xúc cảm giác lạnh không nên được thành, cho nên sinh nhiễm ô lìa tất cả chủng tử quả báo thức không thể được lập. Tại sao thế gian tịnh phẩm không thành? Nếu chúng sinh chưa lìa dục của cõi dục, chưa được tâm cõi Sắc thì trước đã khởi thiện tâm cõi dục. Cầu lìa dục của cõi dục, tu hành quán tâm, gia hạnh tâm của cõi dục nầy cùng với tâm cõi sắc không cùng khởi diệt, cho nên không phải sở huân, do đó thiện tâm cõi dục không phải là chủng tử thiện tâm của cõi Sắc. Tâm cõi Sắc, bị ngăn cách vô lượng đời khác và tâm khác, sau đó không thể lập làm chủng tử, thức của tĩnh lự vì đã không có, cho nên nghĩa nầy được thành. Nghĩa là tất cả chủng tử quả báo thức của tâm tĩnh lự, nơi sắc giới, thứ tự tuyền lại lập làm nhân duyên, gia hạnh thiện tâm nầy lập làm Tăng thượng duyên, như vậy trong tất cả địa Ly dục, nghĩa đó phải biết.

Như vậy nghĩa tịnh phẩm của thế gian là lìa tất cả chủng tử quả báo thức thì không thể lập. Tại sao phẩm tịnh xuất thế lìa A-lê-da thức không thể lập? Phật Thế Tôn nói: “Từ chỗ nghe âm thanh của người khác và tự mình tư duy, nhờ hai nhân nầy mà chánh kiến được sinh”. Đây là nghe âm thanh của người khác và chánh tư duy, không thể huân tập nhĩ thức và ý thức, hoặc cả hai thức. Tại sao vậy? Nếu người như nghe mà hiểu và chánh tư duy pháp, thì lúc đó nhĩ thức không được sinh, ý thức cũng không được sinh, vì chỗ nghe của các thức tán động phân biệt khác, cho nên cùng với chánh tư duy tương sinh. Ý thức nầy lui diệt đã lâu. Sở huân tập và cộng huân tập của nghe đã không có, tại sao sau khi lấy thức trước làm chủng tử thì thức sau được sinh? Lại nữa, tâm của thế gian cùng với chánh tư duy tương ưng; tâm tịn xuất thế gian cùng với chánh kiến tương ưng, do không cùng lúc sinh diệt với nhau, cho nên tâm thế gian nầy không quan hệ với sở huân của tâm tịnh. Đã không có huân tập thì không nên được thành chủng tử xuất thế. Do đó nếu lìa tất cả thức chủng tử quả báo thì tâm xuất thế thanh tịnh cũng không được thành. Tại sao vậy? Huân tập của văn, tư trong đây không có nghĩa. Có thể nhiếp sự huân tập chủng tử xuất thế, tại sao tất cả chủng tử quả báo thức trở thành nhân của phẩm bất tịnh? Nếu có thể làm nhân của sự nhiễm trược đối trị tâm tịnh xuất thế, thì tâm tịnh xuất thế nầy từ trước đến nay chưa từng sinh huân tập. Cho nên quyết định không có huân tập. Nếu không có huân tập thì tâm xuất thế nầy từ nhân nào sinh ra? Nay ông phải đáp rằng, chánh văn huân tập do pháp giới tối thanh tịnh đẳng lưu làm chủng tử nên tâm xuất thế được sinh.

Văn tuệ huân tập nầy cùng với A-lê-da thức là đồng tánh hay không đồng tánh? Nếu là đồng tánh thì tại sao A-lê-da thức trở thành thức đối trị chủng tử? Nếu không đồng tánh thì văn, tuệ chủng tử nầy lấy pháp gì làm y chỉ? Đến vô thượng Bồ-đề vị của chư Phật là văn tuệ huân tập sinh tùy tại một y chỉ xứ. Trong đây cộng quả báo thức cùng sinh, ví như nước và sữa, văn huân tập nầy tức không phải bản thức. Đã thành thức đối trị chủng tử nầy, do đó trong đây nương vào hạ phẩm huân tập mà trung phẩm huân tập sinh. Nương vào trung phẩm huân tập mà thượng phẩm huân tập sinh. Tại sao vậy? Vì niệm niệm gia hạnh văn tư, tu là văn huân tập. Nếu hạ trung thượng phẩm thì phải biết là chủng tử của Pháp thân, do đối trị A-lê-da thức sinh, cho nên không nhập vào tánh gồm thâu của A-lê-da. Vì xuất thế tối thanh tịnh pháp giới lưu xuất nên tuy pháp thế gian lại thành tâm xuất thế. Tại sao? Vì tâm thanh tịnh xuất thế của chủng tử nầy khi chưa khởi tất cả thượng tâm, thì hoặc đối trị tất cả ác đạo sinh, đối trị tất cả ác hạnh hủ hoại, đối trị năng dẫn tương tục khiến cho sinh, là xứ tùy thuận gặp và phụng sự chư Phật Bồ-tát. Văn tuệ huân tập nầy tuy là pháp thế gian nhưng là sở đắc của Bồ-tát mới tu quán, phải biết pháp nầy thuộc về pháp thân, còn sở đắc của Thanh-văn Độc giác thì thuộc sự thu nhiếp của thân giải thoát. Văn huân tập nầy không phải A-lê-da thức nhiếp, mà thuộc Pháp thân và Giải thoát thân nhiếp. Như vậy, như vậy, từ hạ trung thượng thứ tự dần tăng. Như vậy, như vậy, quả báo thức thứ tự dần giảm thì y chỉ liền chuyển, nếu y chỉ hoàn toàn chuyển thì có chủng tử thì quả báo thức, tức là không có chủng tử tất cả đều diệt hết. Nếu bản thức cùng với không phải bản thức cùng khởi diệt như nước sữa hoà hợp thì tại sao bản thức diệt mà không phải bản thức không diệt? Như việc uống sữa trong nước của loài ngỗng, cũng như thế gian khi lìa dục, thì huân tập của địa không tĩnh bị diệt, huân tập địa tĩnh tăng, nghĩa chuyển y của thế gian được thành, chuyển y của xuất thế gian cũng vậy. Nếu người nhập Diệt tâm định, do nói thức chẳng lìa thân, cho nên quả báo thức trong định phải trở thành chẳng lìa thân. Tại sao? Vi Diệt tâm định không phải thức đối trị này. Làm sao biết như thế? Nếu từ định nầy mà xuất thì thức lẽ ra không phải sinh lại nữa. Tại sao? Vì quả báo thức nầy tương tục đã đoạn. Nếu khi lìa thân thác sinh thì không sinh lại được. Hoặc có người nói diệt tâm định có tâm, thì điều mà người ấy nói không thành được tâm. Vì sao? Vì nghĩa của định không thành, giải thích tướng và cảnh không thể được, cùng với thiện căn có lỗi tương ưng, cùng với ác và vô ký không tương ưng, có lỗi tưởng và thọ sinh khởi. Đối với ba thứ hoà hợp chắc chắn có xúc. Đối với các định khác thì có công năng, chỉ có định Diệt tưởng là tội lỗi, thiện căn của tác ý, tín… sinh khởi lỗi, bạt trừ năng y lìa sở y không thể được. Có thí dụ, như không phải tất cả hạnh, vì tất cả hạnh không thể như thế. Nếu có ai chấp tâm sắc thứ tự sinh là chủng tử của các pháp, thì chấp nầy không đúng, tại sao, vì đã có lỗi trước, lại có lỗi khác. Lỗi khác, là nếu người từ cõi trời Vô tưởng thoái đọa và ra khỏi định diệt tâm thì, mọi sở chấp trong đây không thành, tối hậu tâm của A-la-hán cũng không thành. Nếu lìa thứ đệ duyên thì chấp nầy không thành. Như vậy nếu lìa tất cả thức chủng tử quả báo thì phẩm tịnh và phẩm bất tịnh đều được thành. Cho nên tâm nầy có nghĩa thành tựu, phải tin hiểu dựa vào những gì đã nói ở trước. Lại làm kệ nói:

Bồ-tát trong thiện thức,
Phải lìa năm thức khác,
Vô dư tâm chuyển y,
Làm với phương tiện nào.
Nếu đối trị chuyển y,
Phi diệt nên không thành,
Nhân quả không sai biệt,
Trong diệt thì có lỗi.
Không chủng tử, không pháp,
Nếu nhận làm chuyển y,
Đối với hai không có
Nghĩa chuyển y không thành.

 

 

PHẨM 4: SAI BIỆT

Sai biệt của A-lê-da thức như thế nào? Nếu lược nói thì ba thứ hoặc có bốn thứ khác nhau. Ba thứ, là do ba thứ huân tập khác nhau, là các sai biệt của ngôn thuyết, ngã kiến và hữu phần huân tập. Bốn thứ, là các sai biệt của dẫn sinh, quả báo, duyên tướng, tướng mạo. Dẫn sinh sai biệt, là huân tập mới sinh. Nếu không có dẫn sinh thì duyên hành sinh thức, duyên thủ sinh hữu, nghĩa ấy không thành. Quả báo sai biệt, là nương vào hành trong sáu nẻo thì pháp nầy thành thục. Nếu không thế, thì thọ sinh đời sau vốn có các pháp sinh khởi, nghĩa nầy không thành. Duyên tướng sai biệt là trong duyên nầy có tướng có khả năng khởi ngã chấp. Nếu không có tâm nầy thì trong các tâm khác chấp tướng cảnh của ngã, nghĩa nầy không thành. Tướng mạo sai biệt, thức nầy cũng có cộng tướng, có bất cộng tướng, không có chủng tử thọ sinh có chủng tử thọ sinh. Cộng tướng là chủng tử của khí thế giới. Bất cộng tướng là chủng tử nội nhập riêng khác. Lại nữa, cộng tướng, là không có chủng tử thọ sinh. Bất cộng tướng là có chủng tử thọ sinh. Nếu khi đối trị khởi thì cả hai không cùng chung đối trị diệt. Đối với nhận thức của chủng tử cộng tướng thì người khác phân là chánh kiến thanh tịnh mà chấp giữ. Ví như người tu quán hạnh, đối với một vật mà có các thứ nguyện lạc, quán sát đều tùy tâm thành lập. Trong đây nói kệ:

Khó diệt và khó hiểu,
Nói tên là cộng kết,
Người quán hạnh tâm khác
Do tướng đại thành ngoài.
Người thanh tịnh chưa diệt,
Trong đây thấy thanh tịnh,
Thành tựu tịnh Phật độ,
Do Phật thấy thanh tịnh.

Lại có kệ khác:

Mọi thứ nguyện và kiến,
Quán hạnh có thể thành,
Chỉ trong một loại vật,
Mà thành tùy ý kia,
Các thứ kiến lập thành,
Sở thủ chỉ có thức.

Sư sai biệt của Bản thức không cùng chung này còn là: Đối với chủng tử thọ sinh có giác (biết) nếu thì chúng sinh thế giới sinh duyên không thành; đối với chủng tử không có thọ sinh của A-lê-da thức cùng chung này, nếu không có thì khí thế giới sinh duyên không thành. Lại nữa, còn tướng thô trọng của thức, và tướng vi tế nhẹ nhàng của thức. Tướng thô trong của thức là chủng tử, hoặc (phiền não) lớn hoặc nhỏ. Tướng vi tế nhẹ nhàng của thức là chủng tử của tất cả pháp thiện hữu lưu. Nếu không có hai tướng nầy thì quả do nghiệp đời trước có các sự y chỉ sai biệt công năng thù thắng và không có công năng thù thắng của nghiệp quả trước, thì sự y chỉ sai biệt của vô năng thắng không được thành.

Lại nữa, nay nói đến hai thứ tướng tho và không tho của bản thức. Tướng thọ nhận tức là quả báo đã thành thục chủng tử của thiện ác. Tướng không thọ, là sự huân tập chủng tử hý luận của danh và ngôn thuyết trải qua thời gian vô lượng, sinh khởi chủng tử. Nếu không có hai tướng nầy thì nghĩa có tạo tác khởi và không tạo tác khởi nghiệp thiện và ác cho quả báo, được thọ dụng hết không thành và danh và ngôn mới huân tập sinh được sinh khởi cũng không được thành. Lại nữa, có tướng thí dụ, các thí dụ thức như việc huyễn, nai khát nước, mộng tưởng, mờ tối… thức thứ nhất tương tự như sự này. Nếu không có chủng tử hư vọng phân biệt, thì thức nầy không thành nhân duyên điên đảo. Lại có tướng đầy đủ và tướng không đầy đủ. Nếu đầy đủ trói buộc thì chúng sinh có tướng đủ. Nếu được ly dục thế gian thì có tướng tổn hại, hoặc hàng hữu học Thanh-văn và chư Bồ-tát thì có một phần tướng diệt ly, hoặc A-lahán, Độc Giác, Như Lai thì có đủ phần tướng diệt ly. Tại sao vậy? Vì A-la-hán và Độc giác thì chỉ diệt hoặc chướng, Như Lai thì diệt hoặc chướng và trí chướng, một cách toàn diện. Nếu không cóhai tướng này thì phiền não thứ tự diệt tận không được thành. Nhân duyên gì quả báo của hai pháp thiện và ác mà Báo thức chỉ là vô phú vô ký? Vì tánh vô ký nầy cùng với hai pháp thiện, ác cùng sinh trái nhau, hai pháp thiện, ác tự trái lẫn nhau. Nếu quả báo thành tánh thiện và ác thì không có phương tiện để giải thoát phiền não, cũng không có phương tiện được khởi thiện và phiền não, đồng thời không có giải thoát và trói buộc. Vì không có hai nghĩa nầy cho nên quả báo thức quyết định là tánh vô phú vô ký.

 

PHẦN II: TƯỚNG THÙ THẮNG NÊN BIẾT (Phần 1)

Như vậy đã nói về tướng y chỉ thù thắng, vậy thế nào là tướng thù thắng của trí (ứng tri)? Tướng thù thắng, đây là tướng phải biết, tướng nầy có ba thứ: 1. Tánh tướng y tha. 2. Tánh tướng phân biệt. 3. Tánh tướng chân thật. Tánh tướng y tha là lấy bản thức làm chủng tử, chỗ gồm thâu phân biệt, hư vọng của các thức khác nhau. Những gì là khác nhau? Là thân thức, thân giả thức, thọ giả thức, ứng thọ thức, chánh thọ thức, thế thức, số thức, xứ thức, ngôn thuyết thức, tự tha sai biệt thức, hai nẻo thiện và ác sinh tử thức. Thân thức, thân giả thức, thọ giả thức, ứng thọ thức, chánh thọ thức, thế thức, số thức, xứ thức, ngôn thuyết thức… các thức như vậy do sự huân tập chủng tử ngôn thuyết mà sinh. Tự tha sai biệt thức, là do huân tập chủng tử ngã kiến mà sinh. Hai nẻo thiện và ác sinh tử thức, là do huân tập chủng tử của hữu phần mà sinh. Do các thức như vậy gồm thâu y tha tánh làm tướng của tất cả giới đạo và phiền não nên hư vọng phân biệt liền được hiển hiện. Sự gồm thâu của các thức hư vọng phân biệt như vậy, thì duy thức làm thể, là không phải có, hư vọng trần hiển hiện làm nơi tựa, đó là tánh tướng y tha.

Tánh tướng phân biệt là thật không có trần mà chỉ có thể của thức hiển hiện làm trần, nên nói đó là tánh tướng phân biệt.

Tánh tướng chân thật là tánh y tha, do tướng của pháp trần nầy vĩnh viễn không có nên tánh nầy thật có chẳng phải không, nên gọi đó là chân thật tánh tướng. Do thân thức, thân giả thức, thọ giả thức,tức là phải biết thâu nhiếp sáu nội giới như nhãn v.v… vì ứng thọ thức nên biết là thâu nhiếp sáu ngoại giới như sắc v.v… Đối với chánh thọ thức phải biết là thâu nhiếp sáu thức giới của nhãn v.v… Do các thức như vậy làm gốc cho các thức khác là thức sai biệt này. Như vậy nhiều thức chỉ có thức. Không có pháp trần, thì ví như các mộng trong mộng. Lìa ngoại trần thì hoàn toàn chỉ có thức. Nên biết các thứ sắc, thanh, hương, vị, xúc, nhà, rừng, đất, núi… các pháp trần như thật hiển hiện trong mộng đó không có một pháp trần nào là thật có. Do thí dụ như vậy, tất cả trần phải biết chỉ có thức. Do những lời này, phải biết các thí dụ về việc huyễn, nai khát nước, mờ tối… nếu người thức tỉnh thấy thì trần tất cả xứ chỉ có thức. Ví như mộng pháp trần, như người mộng thức tỉnh hiểu rõ mộng pháp trần chỉ có thức. Trong thức tỉnh thì tại sao không như vậy? Không phải không có nghĩa này. Nếu người đã đắc chân như trí giác, thì không phải không có giác này, như người còn trong mộng chưa thức dậy thì cái giác nầy không sinh. Nếu người đã tỉnh giác thì mới có giác ngộ này. Như vậy nếu người chưa đắc trí giác chân như thì cũng không có giác ngộ này. Nếu đã đắc trí giác chân như thì chắc chắn có giác ngộ này. Nếu người chưa đắc trí giác chân như thì trong Duy thức vì sao được khởi trí này? Do Thánh giáo và chân lý có thể được so sánh suy lường. Thánh giáo thì như trong Kinh Thập Địa, Phật Thế Tôn nói: “Này Phật Tử! Ba cõi chỉ có thức”. Lại như trong Kinh Giải Tiết nói: “Lúc đó Di-lặc Bồ-tát Ma-ha-tát hỏi Phật Thế Tôn: Bạch Thế Tôn! Sắc tướng nầy là cảnh sở duyên của tâm định tĩnh, cùng với tâm khác nhau hay là cùng với tâm không khác nhau? Phật Thế Tôn nói: Nầy Di-lặc! Cùng với tâm không khác nhau. Tại sao vậy? Ta nói chỉ có thức, vì cảnh giới sắc tướng nầy là chỗ hiển hiện của thức. Di-lặc Bồ-tát nói: Bạch Thế Tôn! Nếu quyết định cảnh giới sắc tướng cùng với tâm không khác, thì tại sao thức nầy lấy thức nầy làm cảnh? Phật Thế Tôn nói: Nầy Dilặc! Không có pháp nào có thể nắm lấy các pháp khác. Tuy không thể nắm lấy, nhưng thức nầy như vậy biến sinh hiển hiện như pháp trần”. Ví như nương vào mặt mà thấy mặt, là ta thấy ảnh của ta, ảnh nầy hiển hiện tương tự một mặt khác. Định tâm cũng vậy, hiển hiện tương tự pháp trần tức là định tâm khác. Do A-hàm nầy và nương vào đạo lý nên nghĩa “Duy thức” hiển hiện. Tại sao như vậy? Lúc đó người quán hạnh, tâm đang trong quán, hoặc thấy màu xanh vàng… nhập vào khắp sắc tướng, tức là thấy tâm mình mà không thấy cảnh sắc xanh vàng. Do đạo lý nầy nên trong tất cả thức, Bồ-tát đối với Duy thức phải khởi như vậy suy lường và so sánh mà biết. Đối với thức xanh vàng không phải là thức nhớ nghĩ và duy trì, vì thấy cảnh đang hiện tiền, và lấy hai thứ Văn và Tư để ý thức nhớ nghĩ, giữ gìn. Thức nầy duyên cảnh quá khứ, tương tự cảnh quá khứ khởi, cho nên được thành nghĩa Duy thức. Do đây so sánh biết Bồ-tát nếu chưa đắc trí giác chân như, đối với nghĩa Duy thức được sinh hiểu biết nhờ so sánh. Điều nầy là nhiều loại thức trước đã có nói. Ví như về việc huyễn, mộng… trong đó nghĩa Duy thức của nhãn thức có thể thành. Thức của nhãn, sắc… có sắc, nghĩa Duy thức làm sao thấy được? Các thức nầy do A-hàm và đạo lý như trước phải biết. Nếu Sắc là thức, tại sao hiển hiện tương tự sắc? Tại sao tương tục kiên trụ trước sau tương tự? Ấy là do các điên đảo y chỉ vào phiền não. Nếu không như thế thì đối với phi nghĩa, nghĩa điên đảo không được thành. Nếu không có nghĩa điên đảo thì hai thứ hoặc chướng và trí chướng không được thành. Nếu không có hai chướng thì phẩm thanh tịnh cũng không được thành, cho nên các thức như vậy sinh khởi đáng tin là thật. Trong đây kệ nói:

Loạn nhân và loạn thể,
Sắc thức, Vô sắc thức,
Nếu thức trước không có,
Thức sau không được sinh.

Tại sao thân thức, thân giả thức, thọ giả thức, ứng thọ thức, chánh thọ thức, đối với tất cả sinh xứ lẫn nhau mật hợp sinh? Vì chỗ hiển thọ sinh đầy đủ. Tại sao thế thức… như trước nói, có các thứ sai biệt sinh? Vô thủy sinh tử tương tục không đoạn dứt, là sự gồm thâu của vô lượng thế giới chúng sinh, chỗ nhiếp của vô lượng khí thế giới, chỗ nhiếp của vô lượng sự tạo tác lẫn nhau hiển thị, chỗ nhiếp của vô lượng nhiếp và thọ dụng sai biệt, chỗ nhiếp của vô lượng thọ dụng nghiệp quả báo yêu, ghét chỗ nhiếp của vô lượng sinh và tử chứng đắc sai biệt. Tại sao chánh biện các thức như vậy? Vì khiến cho thành nghĩa Duy thức. Lược nói có ba tướng, các thức thì thành Duy thức, chỉ có thức lượng, ngoại pháp trần thì không có tất cả cho nên chỉ có hai thứ là tướng và kiến là chỗ nhiếp của thức. Do đó chỗ nhiếp của các thứ sinh tướng, nghĩa nầy thế nào? Đây là tất cả thức đều không có pháp trần, thành Duy thức thì có tướng và có kiến. Các thức của nhãn… lấy sắc làm tướng, các thức của nhãn… lấy thức làm kiến. Ýthức lấy tất cả nhãn thức cho đến pháp thức làm tướng. Ý thức lấy ý thức làm kiến. Tại sao ý thức như vậy có thể phân biệt? Tương tự tất cả thức pháp trần phân sinh. Trong đây nói Kệ:

Nhập duy lượng, duy nhị,
Mọi người quán nhiều thứ,
Khi thông đạt Duy thức,
Và phục lìa thức vị.

Các luận sư nói: Ý thức nầy tùy các thứ y chỉ sinh khởi mà được các thứ tên, ví như nghiệp tác ý được tên nghiệp của thân, khẩu. Thức nầy đối với tất cả y chỉ sinh khởi các thứ tướng mạo tựa hai thứ pháp hiển hiện: 1. Tự pháp trần hiển hiện. 2. Tư phân biệt hiển hiện. Tất cả xứ tự xúc hiển hiện. Nếu tại cõi hữu sắc thì ý thức nương vào thân mà sinh, ví như hữu sắc thì các căn dựa vào thân mà sinh. Trong đây nói kệ nói:

Viễn hành và độc hành,
Không thân, ở hang trống,
Điều phục, khó điều phục,
Thì giải thoát ma trói.

Như Kinh nói: “Cảnh giới là đối tượng của nhãn… năm căn này, mỗi mỗi cảnh giới, ý thức có thể nắm lấy, ý thức phân biệt làm sinh nhân của nó”. Lại có thuyết khác phân biệt nói: “Trong mười hai nhập, thì sáu tụ thức gọi là ý nhập, là xứ an lập bản thức làm nghĩa thức. Trong đây tất cả thức gọi là tướng thức. Ý thức và y chỉ thức phải biết gọi là kiến thức. Tại sao vậy? Vì tướng thức nầy do kiến sinh nhân hiển hiện tự pháp trần tác khởi kiến sinh ra sự y chỉ. Như vậy mà các thức thành lập Duy thức. Tại sao các pháp trần hiện tiền hiển hiện biết chính là không có. Như Phật Thế Tôn nói: “Nếu Bồ-tát tương ưng với bốn pháp, thì có thể tầm có thể nhập tất cả thức không có pháp trần”. Những gì là bốn:

1. Biết trái với thức tướng, ví như ngạ quỷ, súc sinh, nhân, thiên, cảnh giới thì đồng nhưng kiến thức có khác.

2. Do thấy không có cảnh giới thức, ví như trong mộng ảnh pháp trần quá khứ, vị lai.

3. Do biết lìa công dụng không có điên đảo phải thành, ví như trong thật có pháp trần, duyên pháp trần khởi thức, không thành điên đảo, không do công dụng, biết như thật.

4. Do biết nghĩa tùy thuận ba tuệ. Tại sao tất cả Thánh nhân nhập quán đắc tâm tự tại? Do nguyện lạc tự tại, như nguyện lạc về pháp trần các thứ hiển hiện. Nếu người quán hạnh đã đắc Xa-ma-tha, tu pháp quán gia hạnh, thì tùy thuận nghĩa tư duy hiển hiện. Nếu người đắc Vô phân biệt trí mà chưa xuất Vô phân biệt quán thì tất cả pháp trần không hiển hiện. Do cảnh giới tùy thuận ba thứ tuệ, do dẫn chứng ở trước mà thành tựu nghĩa Duy thức tức biết chỉ có thức không có pháp trần. Trong đây có sáu bài kệ làm sáng tỏ lại một lần nữa nghĩa trước, kệ nầy sau đến nương vào trí sẽ phân biệt nói rộng, nói về ngạ quỷ, súc sinh, nhân, như vậy…

Pages: 1 2 3