LUẬN NGŨ SỰ TỲ BÀ SA
Tác giả: Tôn giả Pháp Cứu
Hán dịch: Tam Tạng Pháp sư Huyền Tráng, Đời Đường vâng chiếu dịch
Việt dịch: Linh Sơn Pháp Bảo Đại Tạng Kinh
Hội Văn Hóa Giáo Dục Linh Sơn Đài Bắc Xuất Bản

 

QUYỂN HẠ

Phẩm 1: PHÂN BIỆT SẮC (Phần cuối)

Hỏi: Sắc được tạo thuộc về căn bên trong, tôi đã biết rõ. Nay tôi lại muốn nghe sắc không phải thuộc về căn, xưa ông giải thích cho.

Đáp: Sắc, thanh, hương, vị thuộc tiếp xúc thuộc về vô biểu. Sắc trong đấy là khéo hiển sắc v.v… Nếu xanh, vàng, v.v… là sắc không đổi thay, hư hoại gọi là hiển sắc đẹp. Nếu sắc này hư hoại, đổi thay gọi là hiển sắc xấu. Nếu bình đẳng gọi là hai trung gian giống như sắc xứ hiển bày

Hỏi: Sắc xứ có hai thứ:

  1. Hiển.
  2. Hình.

Vậy sao trong đây chỉ phân tích hiển sắc?

Đáp: Nay ở trong đây nên nói thế này: Sắc có hai thứ:

  1. Hiển.
  2. Hình.

Hiển sắc: Là màu xanh, vàng, v.v… Hình sắc là dài, ngắn v.v… Nhưng không nói là có ý gì? Nghĩa là hiển sắc thô sơ và dễ biết. Như vậy các sắc là đối tượng nhận thức của hai thức trong sáu thức. Nghĩa là mắt và ý, trước dùng nhãn thức chỉ phân biệt về tự tướng, sau dùng ý thức để phân biệt rõ cả cộng tướng và tự tướng. Nghĩa là các sắc kia lúc an trụ trong hiện tại, nhãn thức chỉ có thể hiểu rõ tự tướng của sắc đó. Nhãn thức không gián đoạn phát sinh ý thức phân biệt, lại phân biệt rõ về tự tướng hoặc cộng tướng của sắc trước. Tuy nhiên, ý thức phát sinh phân biệt này đã dựa vào nhãn thức trước, duyên cảnh của sắc trước. Như vậy lúc ý thức đang trong hiện tại, thì đối tượng nương dựa và đối tượng duyên đều ở quá khứ, do năm cảnh này lúc trụ trong hiện tại, ý thức không thể phân biệt tự tướng của năm cảnh đó, cho nên cảnh của sắc là đối tượng nhận thức của hai thức. Nghĩa là lúc các nhãn thức hiện

khởi ở trước mặt chỉ phân biệt rõ về tự tướng ở hiện tại, chứ không phải cộng tướng. Nếu khi các ý thức hiện ở trước thì phân biệt chung các tự tướng và cộng tướng của ba đời vì các cảnh giới của ý thức đều hiện bày cùng khắp, vì có sự phân biệt. Nhãn thức không gián đoạn, không nhất định khởi ý thức, vì đối với sáu thức thân, chỉ chấp nhận tùy khởi một thứ nào đó. Nếu nhãn thức không gián đoạn, nhất định sinh khởi ý thức, thì khổ căn lẽ ra không phải khổ v.v… mà không gián đoạn, khổ căn chỉ có ở năm thức thân. Nếu vậy thì trái với phần Uẩn căn đã nói: Khổ căn làm nhân đẳng vô gián tăng thượng cho khổ căn. Nhưng dựa vào nhãn thức phân biệt sắc rồi, dẫn khởi không gián đoạn ý thức phân biệt, nên nói như vậy: Nhãn thức nhận biết trước, nhãn thức thọ nhận rồi ý thức mới nhận thức theo. Thanh có hai thứ, cho đến nói rộng.

Có chấp thọ đại chủng, nghĩa là các đại chủng trong sát-na hiện tại thuộc về số hữu tình.

Không chấp thọ đại chủng, nghĩa là các đại chủng quá khứ, vị lai, thuộc số hữu tình và ba đời không phải thuộc số hữu tình. Trong đây, âm thanh có chấp thọ đại chủng phát sinh, gọi là có chấp thọ đại chủng làm nhân. Có chấp thọ đại chủng với âm thanh đã sinh này là năm thứ nhân trước sinh ra, v.v… Không chấp thọ đại chủng làm nhân phát sinh âm thanh cũng như thế. Nếu từ miệng phát ra, tay v.v… cùng kết hợp sinh, gọi là âm thanh có chấp thọ đại chủng làm nhân. Nếu từ rừng, nước, gió v.v… mà phát sinh gọi là âm thanh không có chấp thọ đại chủng làm nhân, ngoài ra như trước đã giải thích.

Tất cả các mùi hương, cho đến nói rộng, vừa ý gọi là mùi hương tốt, không vừa gọi là mùi hương xấu. Theo xả thọ xứ, gọi là mùi hương bình đẳng.

Đối tượng ngửi các mũi, nghĩa là cảnh của tỷ căn, ngoài ra như trước đã giải thích. Tất cả các vị cho đến nói rộng. Có thích ý gọi là vị vừa ý. Không thích ý gọi là vị không vừa ý, trái với hai thứ này gọi là vị thuận xả xứ.

Đối tượng nếm của lưỡi, nghĩa là cảnh của thiệt căn, ngoài ra như trước đã giải thích.

Hỏi: Nếu lúc nếm vị, là khởi thiệt thức trước hay khởi thân thức trước?

Đáp: Nếu đối tượng nếm là chất lạnh, ấm, v.v… tăng, thì khởi thân trước thức. Nếu đối tượng nếm là chất mặn, chua, v.v… tăng thì khởi thiệt thức trước. Nếu vị xúc bình đẳng thì cũng khởi thiệt thức trước, vì vị dục mạnh hơn, một phần được tiếp xúc cho đến nói rộng.

Tánh trơn láng là mềm mỏng, tính chất nhám rít là khô nặng. Tánh nhẹ là không thể cân lường. Tánh nặng là có thể cân lường.

Lạnh, nghĩa là có thôi thúc muốn ấm, đói là muốn ăn. Khát là muốn uống, bảy thứ như vậy là thuộc xúc xứ, do sắc được tạo làm tự tánh. Bốn đại chủng trước dù thuộc xúc xứ, nhưng không phải do sắc được tạo làm tự tánh. Thế nên, xúc xứ có mười một thứ, nay vì có bảy thứ được tạo nên gọi là một phần.

Đối tượng tiếp xúc của thân, nghĩa là cảnh của thân căn, ngoài ra như trước đã giải thích.

Hỏi: Tăng thêm đại chủng nào nên có tính chất trơn, cho đến tăng thêm đại chủng nào mà có tính chất khát?

Đáp: Có thuyết nói: Không sự thêm bên nào, nhưng tánh của bốn đại chủng, theo loại có khác nhau có thể tạo nên tánh trơn láng. Nói rộng cho đến có thể tạo nên tính chất khát.

Lại có thuyết nói: Vì giới nước, lửa tăng thêm, nên có thể tạo ra tính chất trơn láng. Vì giới đất và gió thêm, nên có thể tạo ra tánh nhám rít. Vì giới lửa, gió thêm nên có công năng tạo ra tính chất nhẹ. Vì giới đất, nước tăng thêm nên có thể tạo ra tính chất nặng. Vì giới nước, gió tăng thêm nên có thể tạo ra tính chất lạnh. Vì chỉ thêm giới gió nên có khả năng tạo ra tính chất đói.

Chỉ thêm giới lửa nên có thể tạo ra tính chất khát. Đấy là nói sự tăng thêm, nghĩa là nghiệp dụng tăng thêm, không phải sự thể tăng thêm.

Như tâm, tâm sở, vô biểu là thế nào? Cho đến nói rộng.

Rơi vào sắc pháp xứ, rơi (đọa) có sáu thứ:

  1. Giới đọa.
  2. Thú đọa.
  3. Bổ-đặc-già-la đọa.
  4. Xứ đọa.
  5. Hữu lậu đọa.
  6. Tự thể đọa.

Giới đọa như trong phần Kiết uẩn nói: Các kiết đọa cõi Dục, kiết đó ở cõi Dục, v.v…

Thú đọa, nghĩa là nếu thuộc về thú đường như vậy, gọi là thú.

Bổ-đặc-già-la đọa: Như Tỳ-nại-da nói: Có hai Bổ-đặc-già-la, rơi trong tăng số, khiến tăng hòa hợp.

Xứ đọa: Như trong đây nói: Vô biểu sắc là thế nào? Nghĩa là sắc rơi vào pháp xứ.

Hữu lậu đọa: Như luận này nói: Thế nào là đọa pháp? Đó là pháp hữu lậu.

Tự thể đọa: Như Đại chủng uẩn nói: Có chấp thọ nghĩa là gì? Đây là tăng ngữ đã làm sáng tỏ pháp của tự thể đọa.

Sắc vô biểu: Giới thiện, ác nối tiếp nhau không dứt. Sắc vô biểu này do một thức nhận biết trong tất cả thời, đó là ý thức. Nghĩa là vì không có đối, năm cảnh như sắc, v.v… ngay trong lúc hiện tại, là đối tượng nhận biết của năm thức, đối tượng nhận biết của ý thức trong ba đời, đó là lúc nào ý thức cũng biết năm căn như nhãn, v.v… cũng là đối tượng nhận biết của ý thức trong tất cả thời.

Sắc vô biểu này gồm có hai thứ: thiện, bất thiện, không có vô ký. Nghĩa là do sức mạnh, tâm có thể phát sinh vô biểu. Tâm vô ký yếu kém, không phát sinh vô biểu. Các vô biểu thiện gồm có hai thứ:

  1. Thuộc về luật nghi.
  2. Không thuộc về luật nghi.

Vô biểu bất thiện cũng có hai thứ:

  1. Thuộc về bất luật nghi.
  2. Không thuộc về bất luật nghi.

Vô biểu thuộc về luật nghi lại có bốn thứ:

  1. Luật nghi biệt giải thoát.
  2. Luật nghi tĩnh lự.
  3. Luật nghi vô lậu.
  4. Luật nghi đoạn.

Luật nghi biệt giải thoát, nghĩa là giới của bảy chúng. Luật nghi tĩnh lự là giới của cõi Sắc. Luật nghi vô lậu là giới của bậc Hữu học, Vô học. Luật nghi đoạn, nghĩa là dựa vào một phần của hai luật nghi để kiến lập, đó là luật nghi tĩnh lự và luật nghi vô lậu.

Lìa nhiễm cõi Dục thuộc về tùy chuyển của chín đạo Vô gián gọi là luật nghi đoạn. Vì có thể đối trị hết thảy giới ác và có thể đối trị phiền não do giới ác khởi, nên gọi là đoạn. Thuộc về phần tùy chuyển của tám đạo Vô gián trước, nghĩa là chỉ có thể đối trị sự khởi lên phiền não của giới ác. Thuộc về phần tùy chuyển của đạo Vô gián thứ chín có thể đối trị giới ác khởi lên và có thể đối trị phiền não của giới ác ấy dấy khởi.

Hỏi: Luật nghi biệt giải thoát do đâu mà được, do đâu mà xả?

Đáp: Do sự giáo hóa của ngưới khác nên được, do bốn duyên nên xả. Bốn duyên là:

  1. Xả giới đã học.
  2. Sinh ra hai hình.
  3. Căn thiện bị cắt đứt.
  4. Làm mất chúng đồng phần.

Hỏi: Luật nghi tĩnh lự do đâu mà được, do đâu mà xả?

Đáp: Tâm thiện cõi Sắc nếu được liền được, nếu xả liền xả. Luật nghi này lại có hai thứ:

  1. Do thối lui.
  2. Do giới, địa có sự chuyển dời.

Hỏi: Luật nghi vô lậu do đâu mà được, do đâu mà xả?

Đáp: Cùng được với đạo, không hoàn toàn xả. Nếu tùy phần xả thì do ba duyên:

  1. Do thối lui.
  2. Do được quả.
  3. Do chuyển căn.

Hỏi: Luật nghi đoạn do đâu mà được, do đâu mà xả?

Đáp: Vì thuộc về luật nghi tĩnh lự, nghĩa là nói như luật nghi tĩnh lự. Thuộc về luật nghi vô lậu, nghĩa là nói như luật nghi vô lậu. Như nói về luật nghi vô lậu, thuộc về luật nghi thiện vô biểu, nếu tâm sở thanh tịnh, mạnh mẽ sẽ phát sinh việc thiện, sẽ biểu hiện được vô biểu này. Nếu tâm sở thanh tịnh yếu kém phát khởi thiện biểu, thì không được vô biểu này.

Xả vô biểu này do ba duyên:

  1. Ý lạc dứt.
  2. Xả gia hạnh.
  3. Lỗi thế lực bị hạn chế.

Thuộc về bất luật nghi bất thiện vô biểu, nghĩa là các bất luật nghi như giết mổ dê, v.v… Bất luật nghi này do hai duyên mà được:

  1. Do tạo nghiệp.
  2. Do nhận việc.

Bất luật nghi này do bốn duyên xả:

  1. Do thọ giới biệt giải thoát.
  2. Do được luật nghi tĩnh lự.
  3. Do sinh hai hình.
  4. Do mất chúng đồng phần.

Nhưng tất cả sắc lược có bốn thứ:

  1. Dị thục.
  2. Nuôi lớn.
  3. Đẳng lưu.
  4. Sát-na.

Nhãn xứ trong đây chỉ có hai thứ:

  1. Dị thục.
  2. Nuôi lớn. Không có đẳng lưu riêng, vì lìa hai thứ trước, không có tánh đẳng lưu riêng ba. Xứ của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, nên biết cũng vậy. Xứ của sắc chỉ có thứ: dị thục, nuôi lớn và đẳng lưu. Xứ hương, vị, xúc, nên biết cũng vậy.

Thanh xứ chỉ có hai thứ: Tức ở ba thứ trước, trừ dị thục. Sắc thuộc pháp xứ chỉ có hai thứ: Tâm vô lậu đầu tiên đi chung thuộc về sát-na. Những thứ khác thuộc về đẳng lưu.

 

Phẩm 2: PHÂN BIỆT TÂM

Hỏi: Đã biết sự mê lầm lừa dối của sắc tướng, người ngu không thể nắm bắt, tiếp xúc được, cũng như chùm bọt nước, muốn được nghe tâm pháp thì tướng ấy thế nào?

Đáp: Tâm, ý, thức, không nên nói là tâm đó là câu hỏi.

Hỏi: Tâm, ý, thức, có gì khác nhau không?

Đáp: Tâm, ý, thức này không khác gì nhau, như việc thế gian.

Một nói là nhiều, nhiều nói là một.

Một nói là nhiều. Như nói: Sĩ phu là người, Nho đồng, v.v…

Nhiều nói là một. Như nói: Con chim, hạt đậu, v.v… đồng gọi là tái sinh, nên biết trong đây cùng dựa vào một việc mà nói. Tâm, ý, thức cũng giống như vậy.

Lại có thuyết nói: Cũng có khác nhau: Quá khứ gọi là ý, vị lai gọi là tâm, hiện tại gọi là thức.

Lại nữa, giới đặt ra tâm, xứ đặt là ý, Uẩn đặt ra thức.

Có thuyết nói: Dựa vào hành nghiệp xa, nói là tâm. Dựa vào hành nghiệp trước, nói là ý. Dựa vào nghiệp nối tiếp sinh gọi là thức.

Lại nữa, do nghĩa gom góp lại là tâm, do nghĩa dựa vào đường, cõi gọi là ý, do nghĩa phân biệt, gọi là thức, việc này thế nào? Nghĩa là sáu thức thân

Hỏi: Tại sao chỉ có sáu mà không bớt, không thêm?

Đáp: Vì là chỗ nương dựa bằng nhau, v.v… Nghĩa là chỗ nương dựa của thức chỉ có sáu thứ. Nếu bớt thức đến năm thì sẽ có một chỗ nương dựa không có thức. Nếu thêm thức đến bảy là sẽ có một thức không có chỗ nương dựa, v.v… Sáu đối tượng duyên nên biết cũng vậy. Nhưng nói thức khác là chỉ y cứ vào chỗ dựa của thức là thân. Nghĩa là một thức có nhiều, không phải một nhãn thức gọi là nhãn thức thân, cần phải có nhiều nhãn thức, gọi là nhãn thức thân. Như không phải một con voi mà có thể gọi là thân voi, cần phải có nhiều voi mới gọi là thân voi, thức này cũng như vậy.

Thế nào là nhãn thức? Nghĩa là dựa vào nhãn căn, làm sáng tỏ chỗ dựa của nhãn thức. Đều liễu biệt sắc, nghĩa là làm sáng tỏ đối tượng duyên của nhãn thức. Lại nữa, nói nương nhãn căn, là nói nhân của nhãn thức.sắc là nói duyên của nhãn thức. Như Đức Thế Tôn nói: Bí-sô nên biết, nhân mắt duyên sắc, nhãn thức mới được sinh.

Hỏi: Nhãn và nhãn thức là những nhân nào?

Đáp: Nhãn và nhãn thức này là những nhân gì? Đáp: Đây là y nhân, ví như đại chủng và sắc được tạo là nghĩa y nhân.

Đều liễu biệt: Nghĩa là nói tướng của nhãn thức, vì thức lấy sự phân biệt rõ làm tướng. Ý trong đây nói, dựa vào mắt duyên sắc, có tướng liễu biệt gọi là nhãn thức. Nói rộng, cho đến dựa vào ý, duyên nơi pháp có tướng liễu biệt gọi là ý thức.

Hỏi: Vì sao không chỉ nói là dựa vào nhãn căn, v.v… hoặc không chỉ nói đều liễu biệt sắc, v.v…?

Đáp: Vì nói biết cứ một nghĩa nào cũng không thành, nghĩa là nếu chỉ nói dựa vào nhãn căn, v.v… thì các pháp như thọ, v.v… được tương ứng với nhãn thức kia cũng dựa vào nhãn căn, v.v… lẽ ra gọi là thức như nhãn, v.v… Nếu lại chỉ có đều liễu biệt sắc, v.v… đã có ý thức cũng liễu biệt sắc, v.v… thì ý thức cũng nên gọi là thức như nhãn, v.v… Tuy nhiên, trong đây nói dựa vào nhãn căn, v.v… là nhằm ngăn ngừa ý thức có thể liễu biệt sắc, v.v…

Lại nói đều có khả năng liễu biệt sắc, v.v… là để ngăn ngừa thọ, v.v… tương ưng với thức như nhãn, v.v…

Hỏi: Nhãn, sắc làm rõ tác ý làm duyên sinh nhãn thức, vì sao chỉ nói nhãn thức, không phải thức khác?

Đáp: Vì nhãn căn tốt đẹp hơn, như sách Vũ nhiễm, vì mắt không chung. Như mầm giống nào đó, là chỗ nương dựa của mắt, như tiếng trống, v.v… Vì mắt rất gần gũi, như nói giác chi. Nhãn thức, nhĩ thức, thân thức, đều có bốn thứ: thiện, bất thiện, hữu phú vô ký, vô phú vô ký.

Bất thiện: Chỉ có ở cõi Dục. Hữu phú vô ký, chỉ ở cõi Phạm thế, thiện, vô phú vô ký chung cho Phạm thế, cõi Dục, không có ở địa trên, vì có tầm, tứ.

Hai thức tỷ, thiệt đều có ba thứ, trừ hữu phú vô ký, chỉ ở cõi Dục, vì duyên theo đoàn thực. Ý thức có bốn thứ chung cả ba cõi, không lệ thuộc.

Hỏi: Nếu sơ tĩnh lự trở lên, các địa không có ba thức thân, thì lúc sinh lên cõi đó, làm sao có được sự thấy, nghe, và xúc?

Đáp: Vì do sức tu, nên ba thức của địa sơ tĩnh lự hiện ở trước, khiến ba căn của thức có được sự thấy, nghe, xúc.

Dựa vào nghĩa như vậy, nên có người hỏi: Từng có thân của địa khác, mắt của địa khác, sắc của địa khác và nhãn thức của địa khác có sinh thức chăng?

Đáp: Có. Nghĩa là người sinh địa tĩnh lự thứ hai, vận dụng mắt của địa tĩnh lự thứ tư để thấy sắc của tĩnh lự thứ ba. Thân của địa tĩnh lự thứ hai kia, với mắt của địa tĩnh lự thứ tư để thấy sắc của địa tĩnh lự thứ ba.

Nhãn thức của địa Sơ tĩnh lự sinh thức, trong tĩnh lự thứ hai này.

Năm thức thân đều có hai thứ:

  1. Dị thục.
  2. Đẳng lưu.

Thân ý thức có ba thứ:

  1. Dị thục.
  2. Đẳng lưu.
  3. Sát-na.

Trong sát-na này, ý thức tương ưng với khổ pháp trí nhẫn.

Hỏi: Từng có một nhân, đạo hiện ở trước, đã xả tâm trong một sát-na. Hoặc có nhân đồng loại này, tự tính không phải có nhân đồng loại. Hoặc có khi nào có nhân đồng loại, không phải là tự tánh của nhân đồng loại, hoặc có bao giờ là tự tánh của nhân đồng loại, cũng có nhân đồng loại. Hoặc có trường hợp không phải tự tánh của nhân đồng loại, cũng không phải nhân đồng loại?

Đáp: Lúc đạo loại trí nhẫn nên chia làm bốn trường hợp:

1. Khổ, pháp, trí, nhẫn đã sinh tương ưng với tâm.

2. Nghĩa là tâm tương ưng với kiến đạo ở vị lai.

3. Nghĩa là trừ tâm tương ưng với khổ pháp trí nhẫn đã sinh, các tâm tương ưng với kiến đạo đã sinh.

4. Trừ các thuyết trước.

Hỏi: Từng có một nhân, đạo hiện ở trước, đã xả tâm trong một khoảng sát-na. Hoặc có khi hữu lậu này duyên hữu lậu. Hoặc có khi hữu lậu này duyên vô lậu. Hoặc có khi vô lậu này duyên vô lậu. Hoặc có khi vô lậu này duyên hữu lậu chăng?

Đáp: Có, lúc đạo loại trí nhẫn sinh nên chia làm bốn trường hợp:

1. Tâm tương ưng với tùy miên duyên hữu lậu do kiến đạo dứt trừ thuộc cõi Sắc, Vô Sắc.

2. Tâm tương ưng với tùy miên duyên vô lậu do kiến đạo dứt trừ thuộc cõi Sắc, Vô Sắc.

3. Tâm tương ưng diệt đạo nhẫn trí.

4. Tâm tương ưng với khổ tập nhẫn trí.

Hỏi: Từng có vô sự phiền não, đạo đối trị được hiện ra ở trước, đã xả tâm trong một khoảng sát-na. Hoặc có khi duyên vô lậu, chẳng phải duyên với duyên vô lậu. Hoặc có khi duyên với duyên vô lậu không phải là duyên vô lậu. Hoặc có khi duyên vô lậu cũng không duyên với duyên vô lậu. Hoặc có khi không phải duyên vô lậu, cũng không phải duyên với duyên vô lậu?

Đáp: Bốn trường hợp như vậy dựa theo nghĩa nên suy nghĩ.

Hỏi: Từng có tâm đã diệt của tâm sát-na hiện ở trước, hoặc có khi không phải định, không phải định duyên, hoặc có khi không phải định là định duyên, hoặc có khi là định là định duyên, hoặc có khi là định không phải định duyên.

Đáp: Bốn trường hợp như vậy y theo nghĩa nên suy nghĩ.

Hỏi: Từng có tâm đã diệt của tâm sát-na hiện ở trước, hoặc có tâm đã sinh, không phải là đã sinh làm nhân. Hoặc có tâm đã sinh làm nhân không phải đã sinh, hoặc có tâm đã sinh, cũng đã sinh là nhân. Hoặc có khi không phải đã sinh, cũng không phải tâm đã sinh làm nhân. Đáp: Bốn trường hợp như vậy y theo nghĩa nên suy nghĩ.

 

Phẩm 3: PHÂN BIỆT TÂM SỞ PHÁP

Hỏi: Đã biết hành tướng lưu chuyển không phải một chỗ dựa, một một đối tượng duyên giống như huyễn hóa, thật khó điều phục như voi, ngựa dữ, do có tâm tham, v.v… khác nhau.

Hôm nay tôi muốn được nghe nói đến tướng của pháp tâm sở làm sao biết được có tâm sở riêng?

Đáp: Tất cả thọ, v.v… gọi là pháp tâm sở. Vì kinh là lượng, nên biết có tự thể riêng. Như Thế Tôn nói: Do hai duyên là nhãn, sắc nên sinh ra nhãn thức, vì ba sự hòa hợp nên xúc và xúc cùng khởi, có thọ, tưởng, tư, cho đến nói rộng.

Trong kinh Tát-tha-phiệt-để nói: Lại có suy nghĩ: Các pháp tâm sở dựa vào tâm mà khởi, lệ thuộc theo tâm. Lại nữa, Xá-lợi-tử hỏi Câuchi-la: Vì sao tưởng, tư mà gọi là ý hành?

Câu-chi-la nói: Hai pháp tâm sở này đều dựa vào tâm khởi, thuộc về tâm, cho đến nói rộng.

Do vô lượng khế kinh đều nói như vậy, nên biết pháp tâm sở nhất định có tự thể riêng.

Lại nữa, nếu pháp tâm sở không có tự thể riêng thì Xa-ma-tha, Tỳ-bát-xá-na, thức căn thiện, trụ các thực niệm, trụ các uẩn, sáu giác chi, đạo chi, các pháp kiết học, các chi hữu mà Khế kinh nói nên giảm. Vả lại, không nên kiến lập pháp địa đại, v.v… Nhưng kinh đã nói: Pháp môn không giảm, pháp của địa đại, v.v… thật sự có thể kiến lập, nên biết có các pháp tâm sở riêng.

Hỏi: Dựa vào đâu mà biết được tâm sở tương ưng với tâm?

Đáp: Vì dùng kinh để xác định. Như Đức Thế Tôn nói: Kiến là căn tín, tương ưng với chứng trí, nên biết tâm sở có nghĩa tương ưng.

Hỏi: Tương ưng là nghĩa gì?

Đáp: Các Đại Luận sư của A-tỳ-đạt-ma đều nói rằng: Nói tương ưng có nghĩa là bình đẳng.

Hỏi: Có phần vị của tâm sinh khởi pháp tâm sở nhiều, lúc có tâm sinh phát, tâm sở ít, làm sao lại nói bình đẳng là nghĩa tương ưng?

Đáp: Vì dựa vào thể bình đẳng, nên nói như vậy. Nếu có hai thọ, một tưởng trong một tâm thì không phải nghĩa bình đẳng mà là nghĩa tương ưng. Nhưng trong một tâm có một thọ, một tưởng, tư v.v… cũng vậy, nên nói bình đẳng là nghĩa tưong ưng.

Lại nữa, bình đẳng không trái nhau là nghĩa tương ưng, bình đẳng không ly tán là nghĩa tương ưng, bình đẳng vận chuyển là nghĩa tương ưng, như các bộ phận của xe, nên gọi là tương ưng.

Lại nữa, đồng một thời phần, đồng một chỗ dựa, đồng một hành tướng, đồng một đối tượng duyên, đồng một quả, đồng một đẳng lưu, và một đồng vị thục, là nghĩa tương ưng.

Việc này lại thế nào? Nghĩa là thọ, tưởng, tư cho đến nói rộng.

Hỏi: Vì sao trước nói thọ, không nói tưởng trước, v.v…?

Đáp: Vì hành tướng thô. Dù thọ không trở ngại, không trụ ở nơi chốn mà hành tương thô như sắc đặt bày ra, nên thế gian nói: Hôm nay tôi đau tay, đau chân, nhức đầu, cho đến nói rộng. Tưởng, tư, xúc, v.v… thì không có việc như vậy.

Thọ là thế nào? Nghĩa là tánh lãnh nạp. Có dụng lãnh nạp, gọi là tánh lãnh nạp, tức là nghĩa lãnh thọ cảnh của đối tượng duyên.

Thọ này có ba thứ: là lạc thọ, khổ thọ và bất khổ bất lạc thọ. Nếu hay nuôi lớn đại chủng của các căn với tánh bình đẳng thọ nhận gọi là lạc thọ. Nếu có thể gây tổn giảm đại chủng của các căn với tánh chẳng bình đẳng thọ nhận, v.v… gọi là khổ thọ. Với cả hai đều trái nhau, tánh không phải bình đẳng, chẳng phải không bình đẳng, gọi là bất khổ bất lạc thọ.

Lại nữa, nếu thọ này làm sinh ra hai duyên nơi tham tùy miên tùy tăng. Nghĩa là vì đối tượng duyên hoặc là tương ưng, đây gọi là lạc thọ. Nếu ở thọ này, khiến hai duyên ở sân tùy miên tùy tăng, nghĩa là vì đối tượng duyên, hoặc vì tương ưng, gọi là khổ thọ. Nếu đối với thọ này khiến hai duyên nơi si tùy miên tùy tăng, nghĩa là vì đối tượng duyên hoặc vì tương ưng, gọi là bất khổ bất lạc thọ. Tuy tùy miên si, đối với tất cả thọ tùy tăng hai duyên, nhưng chúng không cùng sinh tự dựa mà khởi tự lực mà chuyển, thường đi chung với bất khổ bất lạc thọ. Vì các pháp khác rõ ràng nên không nói về điều này.

Do vừa ý không vừa ý, cảnh thuận hoặc xả, có khác nhau, mà lập ra ba tánh lãnh nạp như vậy. Cho nên chỉ có ba thứ thọ mà thật sự thì tính chất thọ có vô lượng thứ. Ngoài ra là dục khiến không có lạc thọ chân thật và bất khổ bất lạc thọ.

Hỏi: Do duyên nào nói không có lạc thọ thân thật?

Đáp: Vì lấy kinh để xác định. Nghĩa là Khế kinh nói các thọ đều là khổ Lại Khế kinh nói: Ông nên dùng khổ để quán sát lạc thọ. Nếu tánh của lạc thọ là thật có thì tại sao Thế Tôn lại dạy các đệ tử quán vui là khổ?

Lại, Khế kinh nói: Vì đối với khổ mà cho là vui, gọi là điên đảo. Nếu có lạc thọ chân thật thì lẽ ra không có khổ. Nghĩa là vui là tưởng đảo, tâm đảo, kiến đảo.

Lại, Khế kinh nói: Vì các thọ hữu lậu thuộc về khổ đế.

Thuộc về trong đấy là thuộc về tự tánh, không phải lạc thọ chân thật, là tự tánh của khổ. Làm sao có thể nói thuộc về khổ đế? Vì đã nói là thuộc khổ đế nên không có lạc thọ chân thật.

Lại, vì khác nhau, nghĩa là tướng ép ngặt gọi là khổ. Không phải lạc thọ chân thật có tướng ép ngặt, tức có thể nói các thọ hữu lậu đều thuộc về khổ đế.

Lại, vì hiện quán: Nghĩa là quán tất cả hữu lậu đều khổ, gọi là hiện quán. Nếu tính chất của lạc thọ là thật có thì việc quán vui là khổ sẽ trở thành kiến điên đảo, kiến lẽ ra chẳng phải hiện quán. Chính vì vậy, nên biết chắc chắn không có lạc thọ chân thật. Các Luận sư A-tỳđạt-ma đều nói: Thật có lạc thọ, vì lấy kinh để xác định. Nghĩa là Khế kinh nói: Phật bảo Đại Danh: Nếu sắc hoàn toàn là khổ, không phải vui, không phải là niềm vui đã theo, thì hữu tình không nên tham đắm các sắc, cho đến nói rộng.

Lại, Khế kinh nói: Điều lạc cùng vui đối với bốn Thánh đế, ta nói là hiện quán.

Lại, Khế kinh nói: Có ba thứ thọ: lạc thọ, khổ thọ, bất khổ bất lạc thọ.

Lại, Khế kinh nói: Lúc lạc thọ sinh, lúc lạc trụ lạc, do vô thường mà có lỗi. Lúc các khổ thọ sinh, lúc khổ trụ, khổ do vô thường nên có lỗi.

Nếu tánh của lạc thọ không thật có thì lẽ ra không nói khổ là một loại lẽ ra nói lạc thọ là một loại khác. Lý ưng đối với khổ thọ là một loại khác.

Lại, nếu lạc thọ không thực có tánh, thì lẽ ra không có khinh an, vì vô nhân, như khế kinh nói: Vì có hỷ nên thân tâm khinh an. Nếu không có khinh an, thì lẽ ra cũng không có lạc. Lần lượt cho đến, nếu không có Niết-bàn thì sẽ không có thứ lớp nhân quả, vì lần lượt vì không phải có, các sư kia tra cứu về nghĩa này, nói: Như trong địa trên dù không có hỷ mà chẳng phải không có thân tâm khinh an, nên họ dẫn chứng: Không phải là quyết định.

Sự tra cứu của các sư đó là phi lý. Vì sao? Vì trong địa trên đều không có hỷ. Ta nên quán nghĩa này như kiền-đạt-phược do ba sự hòa hợp: Thức ăn, danh sắc, thức. Như Khế kinh nói: Cha mẹ giao hội có kiền-đạt-phược đang hiện ở trước. Mà lúc thấy hữu không có sự giao hội của cha mẹ, kiền-đạt-phược cũng hiện ở trước mặt. Như thọ thấp sinh và hóa sinh, không thọ hai thứ thai sinh, noãn sinh. Loài hữu tình rời ngoài sự giao hợp của cha mẹ, vẫn có nghĩa vào thai.

Lại như khế kinh nói: Ba sự hòa hợp đó là tuổi thọ, hơi ấm và thức. Nhưng cõi Vô Sắc dù không có hơi ấm mà có tuổi thọ và thức, không phải thân cõi Dục, cõi Sắc, vì tuổi thọ, thức lìa hơi ấm.

Lại như khế kinh nói: Thân nương vào thức ăn mà trụ, không phải trụ của hai cõi trên, do ba thứ ăn nơi cõi Dục cũng vậy, không phải trụ trong cõi Dục, do bốn thứ ăn cõi trên cũng vậy.

Lại như kinh nói: Danh sắc duyên thức, thức duyên danh sắc, không phải cõi Vô Sắc. Dù không có sắc mà danh và thức lần lượt duyên nhau, khiến trong cõi Dục, cõi Sắc cũng có nghĩa này. Trong đây cũng vậy, nếu có hỷ xứ, vì có hỷ nên có được khinh an. Nếu ở xứ có hỷ không có khinh an, cũng có khi do duyên khác, không nên tránh nạn.

Duyên khác là sao? Nghĩa là trước hết, cõi Dục có hỷ thọ vượt hơn dẫn đến khiến cho, định Vị chí khinh an sinh khởi. Tĩnh lự thứ hai có hỷ thọ vượt hơn, dẫn đến khinh an trong địa trên, khiến cho sinh khởi.

Nếu khiến không có hỷ thì không có khinh an, do đó chứng biết chắc chắn có lạc thọ.

Lại như Sơ quả ở hai cõi trên, dù không thể được, mà người kia có thể được quả A-la-hán, do sức trước dẫn dắt, ở đây lẽ ra cũng như vậy, không nên trách cứ.

Lại như dùng cây, gậy, trước quay bánh xe, sau đó, lúc quăng gậy đi, bánh xe nọ vẫn còn quay. Thọ này lẽ ra cũng như vậy. Do sức của hỷ trước dẫn đến cảm giác khinh an về sau. Thế nên, sự khinh an nhất định là do có hỷ, hỷ chính là hỷ thọ thuộc về lạc thọ, cho nên, nhất định biết thật có lạc thọ.

Lại, do lạc thọ, vì có hy vọng. Như khế kinh nói: Nếu người có niềm vui là đối với pháp có hy vọng. Nếu không có lạc thọ, thì lẽ ra đối với pháp không có hy vọng. Thế nên, biết chắc chắn thật có lạc thọ.

Lại vì nghiệp đáng yêu, lẽ ra không có quả. Nếu không có lạc thọ, thì các nghiệp đáng yêu lẽ ra là không, chẳng có quả. Vì các nghiệp đáng yêu nhất định do lạc thọ, là quả của nghiệp đó. Cũng không nên nói các nghiệp đáng yêu đều lấy lạc cụ để làm quả dị thục, vì lạc cụ chỉ là quả tăng thượng. Nghĩa là lạc thọ chính là quả tăng thượng, không phải quả dị thục. Vì sao? Vì tất cả nhạc cụ thọ dụng chung với người khác, vì sau khi mình chết rồi, chúng không hư mất. Nghĩa là mọi nhạc cụ đều có thể cùng thọ dụng chung với hữu tình khác, còn các quả dị thục thì nhất định không có nghĩa thọ dụng chung với người khác được.

Vì như thế sẽ rơi vào sự tự nối tiếp, vì không chung với người khác.

Lại nữa, các nhạc cụ từ khi chết rồi, như voi, ngựa, v.v… hãy còn không hư mất, các quả dị thục đều có với thân mạng. Nếu thân mạng đã không thì quả dị thục kia nhất định sẽ hư hoại mất. Cho nên, nếu nghiệp đáng yêu không có thì lạc thọ sẽ không có quả. Đó là lẽ quyết định.

Lại, vì bao gồm lợi ích, nên không có lạc thọ, thì đại chủng các căn lẽ ra không bao gồm lợi ích. Nếu cho, việc bao gồm lợi ích là do giới mà hữu tình phân biệt cảnh giới, chứ không phải do lạc thọ, thì lý này cũng không đúng. Nên biết là thuộc về lợi ích, như do khổ thọ, vì có tổn hại. Lại chính gia hạnh, phải có quả. Nếu không có lạc thọ, thì chánh gia hạnh lẽ ra không có quả. Chánh gia hạnh, nghĩa là lấy khổ thọ làm quả dị thục. Vì không có lạc thọ, như tà, như hành, tất nhiên lấy khổ thọ làm quả dị thục. Chánh gia hạnh lẽ ra dùng lạc thọ làm quả dị thục, lại vì trái nhau, như sáng và tối, ảnh và ánh sáng, v.v… Lại, do lạc thọ khởi hành vi ác. Nếu không có lạc thọ thì hành vi ác lẽ ra không có. Vì các hữu tình đều tham đắm lạc thọ, nên khởi hành vi ác sẽ cảm thọ quả khổ. Nếu hành vi ác không có, thì sẽ không có thọ khổ. Khổ thọ đã có thì hành vi ác chẳng phải không có. Đã có hành vi ác rồi, nhất định sẽ có lạc thọ.

Lại, vì pháp thọ, như Khế kinh nói: Có bốn pháp thọ: hoặc có pháp thọ hiện tại vui về sau khổ. Hoặc có pháp thọ hiện tại khổ, về sau vui. Hoặc có pháp thọ hiện vui, sau vui, hoặc có pháp thọ hiện khổ về sau, khổ nếu không có lạc thọ, thì pháp thọ lẽ ra có một, không nên có bốn. Do các nhân duyên như vậy, nên nhất định có lạc thọ.

Hỏi: Nếu có lạc thọ thì lời Đức Thế Tôn nói trái với lạc thọ, vậy, kinh có lý sâu xa gì?

Đáp: Vì có lý thú riêng. Vả lại kinh đầu nói: Tất cả các thọ đều là khổ. Nên biết, kinh ấy nói là dựa vào ba khổ. Ba khổ là:

  1. Khổ khổ.
  2. Khổ hoại. 3. Khổ hành.

Như các khổ thọ thì do khổ khổ, nên gọi là khổ. Nếu lạc thọ do nhiều hoại khổ mà khổ, nên nói là khổ. Như Khế kinh nói: Vì vô thường nên khổ, cho nên biết kinh kia có lý thú này.

Pages: 1 2