LUẬN KIM CANG BÁT NHÃ (1510a)
Tác giả: Bồ-tát Vô Trước
Hán dịch: Đời Tùy, Tam tạng Đạt Ma Cấp Đa, người Nam Ấn
Việt dịch: Linh Sơn Pháp Bảo Đại Tạng Kinh
Hội Văn Hóa Giáo Dục Linh Sơn Đài Bắc Xuất Bản

 

QUYỂN THƯỢNG

Phật pháp xuất hiện không gì sánh,
Là pháp cao nhất sáng pháp giới,
Kim Cang khó hoại ý nghĩa tụ,
Hết thảy Thánh nhân, không vào được.
Là Tiểu Kim Cang Ba-la-mật,
Tên gọi như vậy rõ thế mạnh,
Giáo và nghĩa bậc Trí đã nói,
Nghe xong chuyển thành lời chúng ta.
Đem thân nương Phật cùng bậc Trí,
Đều dùng chánh tâm mà đảnh lễ,
Nên ta siêng năng lập nghĩa ấy,
Nối nhau giải thích lợi mình, người.

Bát-nhã Ba-la-mật nầy được thành lập do bảy lọai cú nghĩa. Bảy loại cú nghĩa là:

  1. Chủng tánh không đứt.
  2. Phát khởi hành tướng.
  3. Hành nơi trụ xứ.
  4. Đối trị.
  5. Không mất.
  6. Địa.
  7. Đặt tên.

Bảy cu nghĩa trên có sẵn trong kinh Bát-nhã Ba-la-mật, nên gọi là cú nghĩa. Sáu cu nghĩa đầu, nêu rõ việc làm rốt ráo của Bồ-tát, cu nghĩa thứ bảy nêu rõ việc lập pháp môn này, nên biết như thế. Bát-nhã Ba-lamật nầy là hạt giống Phật không hề dứt, luôn được lưu hành trên đời. Đó là làm rõ về nghĩa của hạt giống Phật không bị đứt, nên đầu tiên Thượng tọa Tu-bồ-đề đã nói: “Thật hiếm có thay! Bạch Thế Tôn: Vì sao Như Lai dùng pháp khéo gồm thâu bậc nhất để thâu nhận hết thảy các đại Bồ-tát v.v… Đúng như vậy, ở đây khéo gồm thâu chỉ các Bồ-tát đã thuần thục đối với Phật khi chứng Chánh giác, chuyển xe pháp. Đấy là lấy từ năm loại nghĩa nơi pháp Bồ-tát mà lập nên. Còn phó chúc là chỉ cho Bồ-tát được thâu nhận. Khi Phật sắp vào Niết-bàn, cũng lấy từ năm nghĩa đó mà lập nên như thế.

Hai loại pháp khéo gồm thâu và phó chúc nêu rõ được chủng tính không đứt để phát khởi hành tướng, như Kinh nói: Bồ-tát nên trụ như thế nào v.v…

– Nên trụ là muốn và nguyện.

– Nên tu hành là tương ưng với Tam- ma- bát- đế (Định).

– Nên hàng phục tâm là điều phục sự tán loạn.

Trong đó, muốn là mong cầu chính đáng. Nguyện là tâm luôn nhớ nghĩ đến sự mong cầu ấy.

Tương ưng với Tam-ma-bát-đế là Tam-ma-bát-đế không phân biệt.

Điều phục sự tán loạn là khi tâm Tam-ma-bát-đế bị phân tán, thì phải kìm chế cho nó trụ yên lại. Thứ nhất chỉ rõ phương pháp gom giữ đạo, thứ hai là chỉ rõ phương pháp thành tựu đạo, thứ ba là chỉ rõ phương pháp không để mất đạo.

Hành nơi trụ xứ là làm nơi chốn để phát khởi hành tướng. Ở đây lại có mười tám thứ, nên biết là:

  1. Phát tâm.
  2. Hành tương ưng với Ba-la-mật.
  3. Mong được Sắc thân.
  4. Mong được Pháp thân.
  5. Tu hành đạt thù thắng mà không kiêu mạn.
  6. Không rời Phật khi Phật ra đời.
  7. Nguyện làm thanh tịnh cõi Phật.
  8. Thành thục cho chúng sinh.
  9. Rời bỏ việc chạy theo những luận tán loạn bên ngoài.
  10. Dùng quán tưởng, phá bỏ mối tương ưng trong sự chấp chặt về sắc và thân chúng sinh.
  11. Cúng dường, hầu hạ Như Lai.
  12. Xa lìa những lợi dưỡng, những mệt mỏi, bậc bội, những biếng trễ, lui mất.
  13. Nhẫn chịu khổ não.
  14. Lìa vị ngọt của sự tịch tĩnh.
  15. Lìa sự mừng vui loạn động khi chứng đạo.
  16. Cầu được người dạy trao.
  17. Chứng đạo.
  18. Cầu thành Phật.

Đó là mười tám loại trụ xứ mà Bồ-tát nên trụ, để diệt độ cho hết thảy chúng sinh. Khi phát tâm xong thì tu hành tương ưng với Ba-la-mật, để chứng được Sắc thân và Pháp thân Như Lai. Tham muốn sướng vui nổi lên thì phải gạt bỏ ngay, vì tâm đó làm cản trở việc tu chứng. Khi lìa bỏ tâm kiêu mạn, sự vui mừng loạn động, tất sẽ chứng đạo. Mong cầu được giáo huấn răn nhắc, sau đó mới chứng đạo quả. Từ đây trở về trước, đều là cầu quả Phật. Việc ấy vẫn còn nối tiếp theo thứ lớp. Ở đây:

Nói về phát tâm, kinh nói: Bồ-tát nên sinh tâm như thế v.v…

Về hành tương ưng với Ba-la-mật, kinh nói rõ: Bồ-tát không trụ nơi vật mà hành bố thí v.v…

Về mong được Sắc thân, thì kinh nói: Nầy Tu-bồ-đề! Ý ông thế nào? Có nên lấy tướng cụ túc, mà thấy Như Lai chăng? v.v…

Pháp thân có hai thứ: Pháp thân ngôn thuyết và Pháp thân chứng đắc. Pháp thân chứng đắc này cũng có hai thứ: Trí tướng và Phước tướng. Pháp thân ngôn thuyết là kinh điển.

Vì mong được Pháp thân này kinh nói: Bạch Thế Tôn, từng có chúng sinh ở đời vị lai v.v…

Tưởng nghĩa không điên đảo là nghĩa thật tưởng. Nên biết như nói chấp vào nghĩa đó chẳng phải là thật tưởng.

Vì mong được Pháp thân trí tướng, kinh nói: Có pháp để Như Lai đạt được Chánh Đẳng Chánh Giác Vô Thượng sao? v.v…

Về mong được Pháp thân phước tướng, kinh nói: Nếu ba ngàn đại thiên thế giới nầy v.v…

Về tu đạo đạt thù thắng mà không kiêu mạn, kinh nói: Tu- lư- đa- a- bát- na- phả nghĩ như thế nầy v.v…

Về không rời Phật khi Phật ra đời, kinh nói: Ở chỗ Phật Nhiên Đăng, Như Lai có pháp nào như thế v.v…

Về nguyện làm thanh tịnh cõi Phật, kinh nói: Này Tu- Bo- Đề! Nếu có lời nói như vậy: Ta thành tựu trang nghiêm cõi nước Phật như thế v.v…

Về thành thục chúng sinh, kinh nói: Nầy Tu-bồ-đề! Thí như có kẻ trượng phu như vậy v.v…

Về rời bỏ việc chạy theo những luận tán loạn bên ngoài, kinh nói: Tu- Bồ- Đề! Ý ông thế nào? Như hết thảy cát sông Hằng, lại có bao nhiêu sông Hằng có cát như vậy v.v…

Về dùng quán tưởng phá bỏ mối tương ưng trong sự chấp chặt về sắc và thân chúng sinh, kinh nói: Tu- Bồ- Đề! Có bao nhiêu vi trần, trong ba ngàn đại thiên thế giới nầy v.v…

Về cúng dường, hầu hạ Như Lai, kinh nói: Tu- Bồ- Đề! Ý ông nghĩ sao, có nên lấy ba mươi hai tướng đại trượng phu để thấy Như Lai Ứng Cúng Chánh Biến Giác chăng?

Về xa lìa lợi dưỡng, xa lìa những mệt mỏi, bậc bội biếng trễ, lui, mất, kinh nói: Tu- Bồ- Đề! Nếu có thiện nam thiện nữ, nếu có trượng phu xả bỏ Hằng hà sa thân tướng v.v…

Thân mệt mỏi, tâm bậc bội, do hai thứ nầy mà sự tinh tấn có lên hoặc xuống hoặc không phát.

Về nhẫn chịu khổ não, kinh nói: Nếu Như Lai hành nhẫn Ba-la-mật như vậy v.v…

Về lìa vị ngọt của tịch tĩnh kinh nói: Tu- Bồ- Đề! Nếu có nam, nữ, trượng phu thọ trì pháp môn nầy v.v…

Về lìa xa sự mừng vui loạn động khi chứng đạo, kinh nói: Bạch Thế Tôn, Bồ-tát nên trụ như thế nào? v.v…

Về cầu được người dạy trao, kinh nói: Ở chỗ Phật Nhiên Đăng, Như Lai được pháp nào để thành Chánh Đẳng Chánh Giác Vô Thượng? v.v…

Về chứng đạo, kinh nói: Tu-bồ-đề! Ví như kẻ trượng phu có thân đẹp đẽ, thân to lớn như vậy v.v…

Thân đẹp đẽ là thân chí đắc thân đã thành tựu, thân được chuyển y rốt ráo.

Thân to lớn là thân thâu tóm hết thảy thân chúng sinh.

Từ đây về trước đều là cầu quả Phật. Nên biết quả Phật ấy, có đủ sáu thứ bao gồm chuyển y đầy đủ; đó là:

  1. Cõi nước Phật thanh tịnh đầy đủ.
  2. Kiến trí vô thượng thanh tịnh đầy đủ.
  3. Thân tùy hình đẹp đẽ đầy đủ.
  4. Tướng thân đầy đủ.
  5. Lời nói đầy đủ.
  6. Tâm đầy đủ.

Tâm đầy đủ lại có sáu thứ:

  1. Niệm xứ.
  2. Chánh giác.
  3. Thiết lập pháp đại lợi.
  4. Thâu giữ Pháp thân.
  5. Không trụ sinh tử, Niết-bàn.
  6. Hành trụ thanh tịnh.

Hành trụ thanh tịnh lại có:

  1. Hành trụ oai nghi.
  2. Hành trụ tự tại quán Danh sắc.
  3. Hành trụ không nhiễm.

Hànhh trụ không nhiễm lại có:

  1. Thuyết pháp không nhiễm.
  2. Lưu chuyển không nhiễm.

Về cõi nước Phật thanh tịnh đầy đủ, kinh nói: Tu-bồ-đề! Nếu có Bồ-tát nói như vậy: Ta đã trang nghiêm thành tựu cõi nước v.v…

Về Kiến trí vô thượng thanh tịnh đầy đủ, kinh nói: Tu-bồ-đề! Ý ông nghĩ sao? Như Lai có nhục nhãn không? Cho đến nếu như ba ngàn đại thiên thế giới nầy đồng như vậy v.v…

Về thân tùy hình đẹp đẽ đầy đủ, kinh nói: Tu-bồ-đề! Ông nghĩ sao? Có thể thấy Như Lai bằng sắc thân thành tựu chăng? v.v…

Về tướng thân đầy đủ, kinh nói: Tu-bồ-đề! Ong nghĩ sao? Có thể thấy Như Lai bằng tướng đầy đủ không? v.v…

Về lời nói đầy đủ, như kinh nói: Tu-bồ-đề! Ong nghĩ sao? Như Lai có nghĩ: Ta có nói pháp sao? v.v…

Về tâm đầy đủ, đó là niệm xứ; nên kinh nói: Tu-bồ-đề! Không phải là chúng sinh, không phải không là chúng sinh v.v…

Về Chánh giác, kinh nói: Tu-bồ-đề! Ông nghĩ sao? Lại có pháp gì để Như Lai được Chánh Đẳng Chánh Giác Vô Thượng sao? v.v…

Về thiết lập pháp đại lợi, kinh nói: Lại nữa, Tu-bồ-đề! Có bao nhiêu núi Tu-di trong ba ngàn đại thiên thế giới nầy? v.v…

Về thâu giữ Pháp thân, kinh nói: Tu-bồ-đề! Ông nghĩ sao? Có nên thấy Như Lai bằng tướng đầy đủ không? v.v… Tu-bồ-đề! Ông nghĩ sao? Như Lai có thể dùng tướng đầy đủ, để thành Chánh Đẳng Chánh Giác Vô Thượng chăng? Đừng nghĩ như vậy: Nghĩa nầy trình bày rõ, tướng đầy đủ, thể của nó không phải là Bồ- đề. Cũng không thể lấy tướng đầy đủ đó làm nguyên nhân vậy, vì tướng là tự tính của sắc.

– Về không trụ Niết-bàn, kinh nói: Tu-bồ-đề! Nghĩ như thế là phát khởi hạnh của Thừa Bồ-tát. Có pháp nói đoạn diệt chăng? v.v…

– Không trụ trong lưu chuyển, kinh nói: Nầy Tu-bồ-đề! Bồ-tát không nên nhận hay giữ lấy phước tụ.

Nhận là nói có. Giữ lấy là chấp vào đạo kia. Như phước tụ và trong quả đều không nên nhận và giữ lấy.

– Về hành trụ thanh tịnh là oai nghi đi đứng, kinh nói: Nếu có lời nầy: Như Lai hoặc đi hay đứng lại v.v…

– Về Hành trụ tự tại quán phá Danh sắc, kinh nói: Nầy Tu-bồ-đề! Nếu có thiện nam, thiện nữ, lấy vi trần trong ba ngàn đại thiên thế giới v.v…

– Về hành trụ không nhiễm, là nói pháp không nhiễm, kinh nói: Nầy Tu-bồ-đề! Nếu Bồ-tát lấy vô lượng, vô số thế giới v.v…

Về lưu chuyển không nhiễm, nên nói kệ: Như sao, như màn che mắt, như đèn, như huyễn, như sương, như bọt nước, như mộng, như chớp, như mây. Đối với các pháp hữu vi nên quan sát như vậy. Bài kệ nầy, chỉ rõ bốn thứ tướng hữu vi, đó là tướng của tự tính, tướng chấp vướng vào ý vị nơi chỗ trụ, tướng chạy theo lỗi lầm, tướng thuận theo xuất li.

Về tướng của tự tính, là cùng thấy biết, tướng này như vì sao nên thấy như thế. Tại sao vậy? Vì khi ở trong tối, ngu si thì thấy nó sáng; còn khi ở ngoài sáng, có trí tuệ thì không thấy nó đâu. Nhân, pháp, ngã kiến như màn che, nên thấy như vậy. Tại sao? Do giữ lấy vô nghĩa. Thức như đèn, nên thấy như vậy. Vì sao? Vì khát ái thấm ướt, làm duyên để cho nó cháy bùng lên.

Về tướng chấp vướng vào ý vị nơi chỗ trụ, là chấp trước vào ý vị nơi cảnh giới điên đảo. Chúng như huyễn, nên thấy như vậy. Vì sao? Vì đó là kiến chấp đảo điên.

Về tướng chạy theo lỗi lầm, là chạy theo vô thường, nó ví như hạt sương, chỉ rõ Thể của tướng là không có, vì nó tùy thuộc vào vô thường. Thí dụ như bọt nước kia là chỉ rõ sự tùy thuộc vào Thể khổ, vì thọ như bọt nước, nên nếu có thọ đều là khổ, vì tùy thuộc vào nghiệp, nên biết khổ sinh ra khổ, gọi là khổ khổ. Vì hủy diệt nên là hoại khổ. Không cùng lìa, đó là hành khổ. Lại nữa, ở Tứ thiền và trong Vô sắc, lập không khổ- không lạc thọ là hơn hết.

– Về tướng thuận theo xuất li, là đi theo nhân, pháp vô ngã, nên được xuất ly khi bị duyên dựa. Nói vô ngã, là do xuất li. Đi theo (tùy thuận) là chỉ hành động quá khứ v.v… Lấy chiêm bao để thí dụ, là chỉ rõ các hành động quá khứ v.v…, vì tùy thuộc vào nhớ nghĩ, nên nó như chiêm bao. Còn hiện tại thì không dừng lâu mà chỉ là thoáng chốc, nên xem như ánh chớp. Vào thời vị lai, các hạt giống thô ác tựa như hư không, dẫn tâm xuất hiện như mây.

Như vậy nên biết trong ba đời, các hành nghiệp đã xoay vần như thế, tất nhiên sẽ thông đạt vô ngã, ở đây là thể hiện rõ tùy theo tướng xuất ly. Đó là những trụ xứ, nói gọn có tám thứ, đó là:

  1. Trụ xứ gồm thâu.
  2. Trụ xứ Ba-la-mật tịnh.
  3. Trụ xứ dục.
  4. Trụ xứ lìa chướng ngại.
  5. Trụ xứ tịnh tâm.
  6. Trụ xứ cứu cánh.
  7. Trụ xứ quảng đại.
  8. Trụ xứ thâm diệu.Trong đó:

– Trụ xứ gồm thâu là phát tâm.

– Trụ xứ Ba-la-mật tịnh, là Ba-la-mật tương ưng với hành động.

– Trụ xứ Dục là muốn được Sắc thân, Pháp thân.

– Trụ xứ lìa chướng ngại là mười hai thứ còn lại.

– Trụ xứ tịnh tâm là chứng đạo.

– Trụ xứ cứu cánh, nghĩa là từ đây trở về trước đều mong cầu quả Phật.

– Trụ xứ quảng đại và thâm diệu, là thông hợp hết thảy trụ xứ.

Ở trụ xứ đầu, nếu nói: Bồ-tát nên sinh tâm như vậy: Có bao nhiêu chúng sinh v.v… thì đó là quảng đại. Còn như nói: Nếu Bồ-tát có tưởng về chúng sinh lưu chuyển như vậy v.v… thì đấy là thâm diệu.

Đối với trụ xứ thứ hai, nếu nói: Bồ-tát không trụ nơi sự việc mà thực hành bố thí v.v… thì đấy là thâm diệu. Nếu nói: Phước tụ của bố thí không thể lường v.v… thì đó là quảng đại. Như thế thì thâm diệu và quảng đại ở trong các trụ xứ khác theo chỗ mà tương ưng.

Đã nói xong các trụ xứ. Còn đối trị là sao? Các trụ xứ và hành tướng hoạt động tương ưng nhau như thế, thì có hai cách đối trị. Đó là đối trị hành tà và cùng thấy chánh hành. Ở đây thấy có nghĩa là phân biệt.

Trong trụ xứ đầu, nếu nói: Bồ-tát nên sinh tâm như vậy: Có bao nhiêu chúng sinh v.v… thì đấy là đối trị tà hành, Bồ-tát sinh tâm như vậy là Bồ-tát hành tà. Còn nói: Nếu Bồ-tát có tưởng về chúng sinh lưu chuyển v.v… thì đấy là đối trị cùng thấy chánh hành. Ở đây, Bồ-tát phân biệt chấp, cũng phải cắt đứt. Đó là ý nghĩ: Ta nên diệt độ chúng sinh.

Đối với trụ xứ thứ hai, nếu nói: Nên làm việc bố thí v.v… thì đây là đối trị hành tà. Không phải không bố thí là Bồ-tát hành tà. Nếu lại nói: Trụ vào sự việc v.v… là đối trị cùng thấy chánh hành. Ở đây, Bồ-tát phân biệt rồi chấp, cũng phải cắt đứt. Đó là nên hành bố thí.

Không mất là sao? Là lìa hai bên, đó là bên thêm lên và bên giảm xuống. Nếu căn cứ theo lời nói mà phân biệt chấp có tự tính tức là bên thêm lên. Còn nếu căn cứ vào pháp vô ngã mà chấp là không, thì thuộc bên giảm xuống. Trong đó, nếu nói: Thưa Thế Tôn: Phước tụ nầy chẳng phải là tụ, đây là ngăn bên thêm lên, vì phước ấy không có tự tính phân biệt. Còn nói: Cho nên Như Lai nói phước tụ ấy, thì đấy là ngăn bên giảm xuống, vì dù nó không có tự tính theo cách nói, nhưng vẫn có chuyện để nói, do Như lai nói về phước tụ, điều đó rõ như vậy.

Câu: “Nầy Tu-bồ-đề! Phật Pháp Như Lai nói đó, không phải là Phật Pháp.” Đấy là ngăn bên thêm lên. Còn nói: Ấy là Phật pháp, thì đấy là ngăn bên giảm xuống. Ở đây, Như Lai nói: Không phải là Phật pháp, đấy là chỉ rõ nghĩa không cùng chung. Còn: Ấy là Phật pháp, thì đấy là chỉ rõ nghĩa tương ưng. Tương ưng là sao? Nếu nói Phật Pháp có tự tính thì Như Lai chẳng nói Phật pháp, vì dù không nói cũng tự hiểu được. Cho nên, không có tự tính thì nó là Thế đế, cho nên Như Lai gọi tên là Phật pháp.

Như thế, trong hết thảy trụ xứ, đều chỉ rõ nghĩa không cùng và tương ưng. Lại nữa, Phật pháp thâu gồm cả Ba-la-mật, các niệm xứ, Bồđề phần. Bồ-tát lìa hai biên nầy, nên đối với đối trị, không còn lầm lẫn, mất mát nên gọi là không mất.

Còn về địa thì sao? Địa này có ba thứ:

  1. Địa Tín hành.
  2. Địa Tịnh tâm.
  3. Địa Như Lai.

Trong mười sáu trụ xứ là hiển bày Địa Tín hành. Trụ xứ chứng đạo là Địa Tịnh tâm, còn Trụ xứ Cứu cánh là Địa Như Lai.

– Vì sao đặt tên là Kim Cang năng đoạn? Tên nầy có hai nghĩa tương ưng, đó là nhập hành Chánh kiến và nhập hành Tà kiến.

Kim Cang là tinh tế, cứng chắc. Tinh tế là nhân của trí. Bền chắc thì không bị phá hư. Năng đoạn là trong Bát-nhã Ba-la-mật, dùng Văn Tư Tu để đoạn trừ. Như chỗ cắt đứt của kim cang mà cắt đứt, nên tên là Kim Cang năng đoạn. Lại như hình vẽ Kim Cang thì trước sau rộng, giữa hẹp. Như vậy, Bát-nhã Ba-la-mật ở giữa hẹp, gọi là Địa Tịnh tâm. Còn trước và sau rộng, gọi là Địa Tín hành và Địa Như Lai . Đấy là chỉ rõ nghĩa không chung.

Còn năm thứ nghĩa cú trước, thì nương tựa ở trên hết. Những thứ đó đều nương tựa vào địa cả.

Nói thân Tu-đa-la nối tiếp nhau, nghĩa nầy, sẽ nói sau đây:

– Tại sao đức Thế Tôn dùng sự tịch tĩnh? Là an tọa với tư thế uy nghi. Hiển bày sự duy nhất của lặng yên: Là đối với pháp có thể nhận biết và thuyết giảng.

– Tại sao Thượng tọa Tu-bồ-đề hỏi? Có sáu nhân duyên: Để cắt hết mọi nghi ngờ. Để phát khởi lòng tin, hiểu. Để thâm nhập vào nghĩa sâu xa. Để không thoái chuyển. Để sinh ra hoan hỷ. Để chánh pháp tồn tại lâu dài trên đời này. Đó tức là Bát-nhã Ba-la-mật, khiến cho hạt giống Phật không đứt. Tại sao do đấy mà khiến Phật chủng không đứt. Nếu ai nghi ngờ thì được dứt trừ. Có nhiều cái vui phước đức, mà tâm chưa thànhh thục, do nghe có nhiều phước đức, nên Bồ-tát khởi niềm tin, hiểu Bát-nhã Ba-la-mật. Khi tâm đã thành thục, mới bước vào nghĩa sâu xa. Đã không coi thường mà còn tham mê tu trì, nên có nhiều công đức, do đó không thoái lui. Khi thuận theo chỗ gồm thâu và tâm được thanh tịnh, thì bước vào pháp sẽ tự thấy hoan hỷ: Đó là điều kiện khiến cho Pháp Đại thừa, tồn tại lâu dài cho đến đời vị lai.

Nói gọn là: Nếu ai nghi thì giúp họ thấy rõ để hết nghi. Do vui phước đức và tâm đã thành thục, nên các Bồ-tát thâu nhận giáo hóa. Đã không bị khinh thường, nên tâm càng siêng tu, mà tâm thanh tịnh, nên càng có hoan hỉ.

Bồ-tát có bảy điều lớn, nên chúng sinh nào có những thứ lớn nầy, gọi là Ma- ha Tát- đỏa. Bảy điều lớn là:

  1. Pháp lớn.
  2. Tâm lớn.
  3. Tin, hiểu lớn.
  4. Tâm tịnh lớn.
  5. Tư lương lớn.
  6. Thời lớn.
  7. Quả báo lớn.

Như trong Kinh Bồ-tát Địa Trì nói: Khéo gồm thâu bậc nhất. Khéo gồm thâu: Là đối với Bồ-tát, cái gì là khéo gồm thâu? Cái gì là bậc nhất?

Lợi-lạc tương ưng là khéo gồm thâu. Bậc nhất, nên biết, có sáu loại:

  1. Thời.
  2. Khác nhau.
  3. Cao lớn.
  4. Bền chắc.
  5. Hiện bày khắp.
  6. Tướng khác.

– Thời là pháp hiện thấy và vị lai. Trong khéo gồm thâu của Bồ-tát, thì lạc là pháp hiện thấy, còn lợi là đời vị lai.

– Khác nhau là đối với Tam-ma-bát-đế thế gian và Thánh giả xuất thế gian, hàng Thanh văn, Độc giác v.v… trong sự việc khéo gồm thâu, có khác nhau.

– Cao lớn là pháp khéo gồm thâu nầy không có gì cao hơn.

– Bền chắc là cứu cánh.

– Hiện bày là khéo thu phục thân mình, thân người một cách tự nhiên.

Tướng khác là trong việc khéo gồm thâu các Bồ-tát chưa thanh tịnh nó là hơn hết.

Kinh nói phó chúc bậc nhất, có sáu nhân duyên:

  1. Nhập xứ.
  2. Được pháp như thế.
  3. Mở bày giáo hóa.
  4. Không mất mát.
  5. Lòng thương.
  6. Tôn trọng.

– Nhập xứ là những căn dặn khéo léo cho bạn lành.

– Được pháp như thế là đạt được khéo gồm thâu, với những pháp khác có được, Bồ-tát cũng khéo gồm thâu.

Mở bày giáo pháp là các ông đối với các Bồ-tát khác nên khéo gồm thâu, là giáo hóa, là làm cho họ đổi thay.

Cả ba thứ trên, theo như thứ lớp, tức là không mất mát. Cùng với lòng thương, tôn trọng nên biết.

Tại sao chỉ hỏi về sự phát khởi, hành hóa? Vì hàng Bồ-tát có ba thứ Bồ-đề khác nhau. Do khéo hỏi mà Thượng tọa Tu-bồ-đề được khen là lành thay!

Chúng sinh hiện có và những gì thuộc về chúng sinh, là nói về tổng tướng.

Noãn sinh vân vân: là nói về chỗ khác nhau. Lại nữa, thọ sinh, nơi nương tựa, những gì thuộc về cảnh giới, đều có khác nhau nên biết.

Cho đến các loài hóa sinh: Là thọ sinh cũng khác nhau. Hoặc có sắc, hoặc không có sắc: Là nơi nương tựa khác nhau.

Hoặc có tưởng, hoặc không có tưởng, hoặc chẳng có tưởng, hoặc chẳng phải không tưởng: Là thuộc về cảnh giới khác nhau.

Cõi chúng sinh hiện có được thiết lập và trụ nơi sự thiết lập ấy: Là dựa trên mỗi loại hình tướng, hiện trụ trong cõi chúng sinh, mà Phật thiết lập ra.

“Ta đều khiến nhập Niết-bàn”: Vì sao nguyện nầy không thực hiện được, vì nó tùy thuộc vào chúng sinh. Nguyện kia không lỗi lầm, ma hết thảy là do chúng sinh.

Như đã nói, các loài sinh từ trứng v.v… đã được nhập trong lời nguyện. Nhưng dù có sinh từ trứng, từ ẩm thấp, không tưởng hoặc chẳng phải có tưởng, hoặc chẳng phải không tưởng v.v… tức là chúng không có khả năng làm sao giúp được chúng, tức là hết thảy chúng sinh có thể làm cho bước vào Niết-bàn như thế nào? Có ba nguyên nhân:

1. Những nơi khó sinh, thì phải chờ lúc.

2. Nếu không do nơi khó sinh, nhưng lại chưa thành thục, thì phải giúp cho chúng thành thục.

3. Đã thành thục thì giúp cho chúng giải thoát.

– Tại sao nói cảnh giới vô dư Niết-bàn mà không nói thẳng là Niếtbàn?

– Nếu như vậy thì có thể làm gọn những gì mà Thế Tôn nói, Niếtbàn phương tiện, từ Sơ thiền đến các thiền khác đều giống nhau, họ tự dựa vào sức trượng phu của mình, dù không có Phật, vẫn chứng đắc, nhưng lại không rốt ráo.

– Tại sao không nói cõi Niết-bàn hữu dư?

Ấy là do nghiệp chung hoặc nghiệp riêng của mình nơi đời trước; lại được gặp Phật mà đắc quả, lại không phải duy nhất là thân khổ nầy còn sót lại. Như vậy Niết-bàn và Niết-bàn hữu dư là quả của sức trượng phu, là quả chung chứ không phải là quả rốt ráo, chẳng phải là quả cùng một hướng, cho nên phải nói Vô Dư.

Như thế: Vô lượng chúng sinh bước vào Niết-bàn: là chỉ rõ vô lượng chủng loại, bắt đầu chủng loại sinh từ trứng.

“Không có chúng sinh được vào Niết-bàn, có nghĩa ra sao? Ấy là Bồ-tát, chính mình được Niết-bàn, không khác chúng sinh. Tại sao vậy? Nếu Bồ-tát có ý niệm chuyển đổi chúng sinh thì không gọi là Bồ-tát. Nghĩa nầy là thế nào? Nếu đối với chúng sinh, Bồ-tát nầy có ý chuyển đổi khác với mình thì đó chẳng phải là ý tưởng tự thể, không gọi là Bồ-tát. Tại sao vậy? Vì nếu còn có ý tưởng chúng sinh- mình- người, chuyển đổi lên thì không gọi là Bồ-tát. Nghĩa là sao? Ấy là do tâm phiền não tóm lấy ý tưởng về chúng sinh, về mình, về người, từ đó có ý tưởng về ngã và ý tưởng về chúng sinh. Ý tưởng về chúng sinh có đó, nhưng Bồ-tát không chuyển đổi tưởng ấy. Do ngã kiến đã bị cắt đứt, nên việc làm của Bồ-tát là tự tại, có tướng bình đẳng, tin, hiểu mình và người bình đẳng. Bồ-tát ấy không còn giữ lấy cái thấy về chúng sinh- mình- người. Lại nữa, Kinh nói: Bồ-tát nên sinh tâm như vậy là chỉ rõ Bồ-tát nên ở yên trong dục và nguyện. Còn nếu Bồ-tát khởi lên ý tưởng về ngã, thì không gọi là Bồ-tát là làm sáng tỏ khi tu hành như thế, tương ưng với Tam-ma-bát-đế. Nếu có ý tưởng về chúng sinh, về đời sống, về người, về mình, thì không phải là Bồ-tát: Tức là muốn làm sáng tỏ nên hàng phục tâm như vậy và gom lại khi nó phân tán. Nếu lúc tương ưng với Tam-ma-bát-đế, mà tâm Bồtát bị phân tán, thì ý tưởng về chúng sinh cũng không chuyển đổi, như cảnh giới kia cùng trụ. Cho nên không có chúng sinh được Niết-bàn. Đấy là đã thành được dục và nguyện kia, là hơn hết trong việc tóm thâu các trụ xứ, khi hoạt động tương ưng với các hành tướng, với các trụ xứ khác, thì dục, nguyện nhất định nương tựa được. Nghĩa của dục và nguyện nầy, không cần giải thích lại. Từ đây, trong các trụ xứ sau ấy, có năm thứ tùy theo chỗ chúng tương ưng mà giải thích. Năm thứ đó nên biết là:

  1. Nương vào nghĩa.
  2. Nói về tướng.
  3. Thâu giữ.
  4. An lập.
  5. Làm sáng tỏ.

– Trụ xứ đối trị là nương vào nghĩa, tức trụ xứ đó là nói về tướng. Dục và Nguyện là thâu giữ. Nghĩa thứ nhất của trụ xứ là an lập. Tương ưng với Tam-ma-bát-đế là làm sáng tỏ.

Trong Trụ xứ Ba-la-mật tịnh, như Kinh nói: Bồ-tát không trụ chấp vào vật mà hành bố thí. Đấy là nương vào nghĩa, chỉ rõ đối trị trụ chấp.

Còn kinh nói: Nên làm bố thí: Đấy là nói về tướng. Từ đầu, sáu Bala-mật đã gồm thâu hết thảy thể tánh của bố thí. Bố thí có ba thứ:

1. Bố thí tiền của gọi là Đàn Ba-la-mật.

2. Bố thí sự không sợ hãi gọi là Thi-la Ba-la-mật, Sằng- đề Ba-lamật.

3. Bố thí pháp gọi là Tì- lê- da Ba-la-mật, Thiền-na Ba-la-mật, Bátla-thận-nhương Ba-la-mật.

– Nếu không tinh tấn thì gặp lúc phải nói pháp cho kẻ nghe học, sẽ thấy mỏi mệt. Do vậy, không nói pháp được.

– Nếu không có tâm định tỉnh, thì tham vật của người tin kính, cúng dường, và không thể chịu đựng được nóng lạnh thúc ép, thì sẽ thuyết pháp với tâm đắm nhiễm.

– Nếu không có trí tuệ thì nói pháp sẽ không thuận hợp, tạo nhiều lỗi lầm.

– Nếu không lìa tinh tấn, thiền định, trí tuệ thì việc bố thí pháp mới thành tựu. Các Ba-la-mật ấy, có hai thứ quả: Là quả vị lai, quả hiện tại.

– Quả vị lai, tức là Đàn- na Ba-la-mật được phước báo lớn. Thi- la Ba-la-mật được tự thân đầy đủ, gọi là Đế thích Phạm thiên v.v… Sằng- đề Ba-la-mật, được nhiều bạn bè giúp đỡ, đông quyến thuộc. Tì- lê- da Ba-la-mật thì được các quả báo không dứt. Thiền- na Ba-la-mật được sinh thân không hư hoại. Bát-la-thận-nhương Ba-la-mật, được các căn tỉnh táo, nhạy bén và nhiều vui tươi, được tự tại giữa chúng Bồ-tát.

– Quả hiện tại là được mọi người đều tin tưởng- cung kính- cúng dường, và đạt Niết-bàn trong pháp hiện tại. Nếu cầu quả báo đời vị lai, mà Bồ-tát hành bố thí, thì đó là trụ vào vật đem thí, là đem những gì mình thí để mong được quả báo về những thứ ấy, nên Kinh nói: Bố thí chớ nên trụ vào vật bố thí. Nếu bố thí để mong cầu quả báo Thi- la đời vị lai, là bố thí có chỗ trụ chấp, nên kinh nói: Bố thí chớ nên trụ chấp vào vật bố thí. Quả Thi-la có nhiều thứ, không thể phân biệt, nên gọi chung là có chỗ trụ.

Nếu mong cầu quả báo ngay bây giờ như được kính tin- cúng dường mà hành thí, tức là trụ nơi sắc-thanh-hương-vị-xúc mà hành việc bố thí, nên kinh nói: Không trụ nơi sắc-thanh-hương v.v…

Nếu mong cầu Niết-bàn trong pháp hiện tại mà bố thí, là trụ vào pháp mà bố thí, nên kinh nói: Không trụ ở pháp mà hành bố thí.

Lại nữa, kinh nói: Nên làm việc bố thí, tức là nắm giữ Dục và Nguyện mà bố thí. Kinh nói: Bố thí không trụ, tức là không trụ chấp mà an lập vào nghĩa thứ nhất. Lấy không trụ để làm sáng tỏ nghĩa của các sự việc, nghĩa thứ nhất, không trụ vật thì mọi sự cũng như vậy. Kinh nói: Bồ-tát nên làm như thế, bố thí không chấp vào tưởng và tướng: Việc nầy là làm sáng tỏ sự tương ưng giữa tam muội và thâu tóm tâm tán loạn. Khi làm hai việc nầy, thì không trụ ở tướng và tưởng. Có như thế mới kiến lập được không trụ.

Có Bồ-tát, do tham mê phước đức, nên không đủ sức gánh vác, không đủ thì phải giúp cho họ gánh vác nổi. Do vậy, đức Thế Tôn chỉ rõ: Không nên trụ khi thực hành bố thí, có làm vậy thì phước mới nhiều như hư không. Có ba lí do:

1. Hiện bày khắp mọi nơi: nghĩa là phước đức tràn đầy lên do trụ vào nơi không trụ.

2. Rộng rãi, cao lớn, thù thắng.

3. Đến chỗ rốt ráo không cùng tận: Là muốn được trụ xứ sắc thân.

Kinh nói: Tu-bồ-đề! Ông nghĩ sao? Có nên nhìn Như Lai bằng tướng cụ túc chăng? Đây là nương vào nghĩa để chỉ rõ cách đối trị kiêu mạn về sắc thân Như Lai.

Kinh nói: Tướng cụ túc đấy là nói về tướng, chỉ rõ sắc thân Như Lai. Thượng tọa Tu-bồ-đề thưa: không nên. Ấy là đã làm đầy đủ nghĩa nầy. Đức Thế Tôn bảo Tu-bồ-đề: Hết thảy tướng cụ túc đều là hư giả. Đấy là làm sáng tỏ Dục và Nguyện, cứ theo nghĩa ấy mà nắm giữ, tức là an lập nghĩa thứ nhất. Trong cái nhìn của nghĩa thứ nhất, thì tướng cụ túc là hư vọng, không phải tướng cụ túc mới là chắc thật. Kinh nói: Các tướng như thế là không phải tướng, nên nhìn Như Lai bằng cái nhìn chẳng phải tướng đó. Đấy là sự sáng tỏ. Nghĩa là khi tam muội tương ưng với sự thâu giữ tâm tán loạn, thì đối với những tướng ấy, không còn thấy chúng đâu cả. Ấy là muốn được trụ xứ Pháp thân, trụ xứ ngôn thuyết.

Kinh nói: Ở đời vị lai, lại có chúng sinh đối với các câu nói của kinh nầy v.v…, ở trong những câu nói của kinh nầy, có bao nghĩa cần phải biết là những câu gì? Như ở trên đã nói về bảy loại nghĩa cú.

Tu-bồ-đề nghĩ như vậy: Thật tưởng không có sinh trong đời vị lai:

Đấy là nhằm ngăn chận chuyện ấy. Đức Thế Tôn nói: Khi chánh pháp sắp diệt, nghĩa là sự tu hành cũng dần dần diệt. Kế đó, Thế Tôn chỉ rõ việc tu hành phải như thế, gây tạo nhân phải như thế, chọn lấy bạn lành phải như thế, chứa nhóm công đức tương ưng như thế, và đối với thật tưởng, phải biết thật tưởng như thế.

Kinh nói: Người trì giới mới có công đức, có trí tuệ. Đây là nói về giới tăng thượng trong ba học, làm sáng tỏ công đức tu hành, mà thiểu dục là công đức đầu tiên cho đến Tam-ma-đề.

Kinh nói: Đã được cúng dường vô lượng trăm ngàn chư Phật, cho đến một lòng tịnh tín. Đấy là chỉ rõ chỗ tạo nhân. Chỉ một lòng tịnh tín nhỏ mà được nghiệp tốt như thế, huống chi là sinh thật tưởng.

Kinh nói: Như Lai đều biết hết. Tức là biết về danh thân. Như Lai thấy hết, tức là thấy về sắc thân, nghĩa là mọi việc tạo ra trong hết thảy việc đi đứng, Như Lai đều thấy biết tâm niệm cũng như sự nương tựa của tâm ấy. Đấy là sự chỉ rõ việc thuộc về bạn lành.

Kinh nói: Sinh thủ vô lượng phước tu.Đấy là sự chỉ rõ việc thâu gồm phước đức. Sinh tức là lúc phước đức nổi lên. Thủ tức là lúc phước đức diệt mà cố giữ gìn hạt giống.

Kinh nói: Các Bồ-tát đó, không còn ý tưởng về ngã, về chúng sinh, về tưởng, cho đến nói có ý tưởng về pháp, tức là có sự giữ lấy ngã. Đấy là sự chỉ rõ thật tưởng, đối trị năm thứ tà chấp kia. Năm thứ tà chấp là:

  1. Ngoại đạo.
  2. Nội pháp phàm phu và Thanh văn.
  3. Bồ-tát tăng thượng mạn.
  4. Định thế gian cộng tưởng.
  5. Định Vô tưởng.

– Thứ nhất nổi lên ý tưởng về cái ngã v.v…

– Thứ hai nổi lên ý tưởng về pháp.

– Thứ ba không có ý tưởng về pháp. Đây cũng giống như chấp có pháp, chấp có pháp là giữ lấy cái vô pháp.

– Thứ tư là có ý tưởng nổi lên.

– Thứ năm là không có ý tưởng nổi lên.

Các Bồ-tát đối với những hoạt động ấy, đều không nổi lên ý tưởng. Trong ấy, chỉ rõ có giới, cho đến sẽ sinh phước đức vô lượng.

Kinh nói: Vì sao? Thì lời nói nầy là giữ lấy tà pháp, chẳng phải ý tưởng về pháp, cũng chẳng phải ý tưởng về ngã, vì ý tưởng và nơi nương tựa không chuyển đổi. Tuy nhiên, trong ý tưởng về ngã, thì tùy miên vẫn không bị cắt đứt, do vậy mà có ngã chấp. Cho nên kinh nói: Nếu các Bồtát nầy, nổi lên ý tưởng về pháp, liền có ngã chấp. Nếu không có ý tưởng về pháp thì không có ngã chấp. Trong ý tưởng về ngã nổi lên nầy, chưa nói đến các nghĩa khác.

Kinh nói: “Tức là có ngã chấp”, thì đó là chấp giữ vào tự thể nối nhau, cho là ngã tưởng. Những gì ngã gom lấy là ý tưởng về chúng sinh. Nghĩa là ta sống đến già mà chấp giữ vào đó thì là ý tưởng về mạng. Còn xoay chuyển từ cõi nầy sang cõi khác mà chấp giữ, thì đó là ý tưởng về người. Nên biết như vậy.

Ở đây nói: “Nên sinh thật tưởng”, thì đấy là nương vào nghĩa, để chỉ rõ cách đối trị ý tưởng không thật.

Kinh nói: “Đối với câu nói trong kinh nầy”, thì đấy là nói về tướng, chỉ rõ Pháp thân ngôn thuyết. Câu: “Người ấy nên sinh thật tưởng”, thì nên sinh tức là Dục và Nguyện. Còn thâu giữ là Bồ-tát không có ý tưởng về ngã. Chuyển v.v… là an lập ở nghĩa thứ nhất. Tu-bồ-đề không nên giữ lấy pháp hay chẳng phải pháp là chỉ rõ, nghĩa là sự tương ưng của Tam-ma-bát-đế và khi gồm thâu tâm tán loạn.

– Không nên chấp nơi pháp và phi pháp, là hoàn toàn không phân biệt pháp thể và pháp vô ngã.-

– Yếu nghĩa của “Pháp thân ngôn thuyết” là kinh nói: Do ý nghĩa đó nên Như Lai thường nói pháp môn của mình như là thuyền, bè. Nếu hiểu nghĩa nầy thì: Pháp còn buông bỏ, huống gì là phi pháp!

– Pháp còn nên buông bỏ: Nghĩa là thật tưởng đã phát sinh.

– Huống là phi pháp: Nghĩa là lí thì chẳng nên.

Tóm lại là chỉ rõ cho Bồ-tát, muốn chứng về Pháp thân ngôn thuyết thì không nên nảy sinh ý tưởng hư dối. Vậy mới được trí tướng và trụ xứ Pháp thân.

Kinh nói: Tu-bồ-đề! Ông nghĩ sao? Có pháp nào để trong đó Như Lai chứng vô thượng giác chăng? Đấy là nương vào nghĩa, làm cho sáng tỏ trở lại đối với Chánh Giác Bồ-đề

Nói pháp tức là chứng chánh giác.

Kinh nói: “Có pháp có thể chứng được Chánh Đẳng Chánh Giác Vô Thượng”, ấy là nói về tướng, chỉ rõ về Pháp thân chứng đắc.

Không có pháp nhất định nào: là Tu-bồ-đề dẫn ý của Phật. Do nguyên tắc thế gian nên mới có Bồ-đề và chứng Bồ-đề. Ấy là Dục và Nguyện nắm giữ, là phương tiện, nên cả hai thứ đều có. Nếu nói đúng ý Thế Tôn, thì cả hai đều không. Để chỉ rõ ý trên, nên mới nói: “Như con hiểu nghĩa Thế Tôn nói”.

Kinh nói: Vì sao Như Lai nói: Không nên chấp lấy pháp, không thể nói, chẳng phải là pháp, chẳng phải là phi pháp. Đó là an lập nghĩa thứ nhất. Do có nói pháp, nên biết là có chứng Bồ-đề. Đối với nói pháp là an lập nghĩa thứ nhất, trong đó khi nghe thì không nên chấp lấy. Còn không thể nói, nghĩa là khi diễn nói. Phi pháp là tính phân biệt. Chẳng phải phi pháp là pháp vô ngã.

Kinh nói: Vì sao do pháp Vô Vi nên được gọi là Thánh nhân? Vô Vi là nghĩa không phân biệt, nên Bồ-tát hữu học được gọi là không khởi không tạo tác.

Trong chỗ Như Lai chuyển y, được gọi là thanh tịnh, nên Như Lai được gọi là vô học. Ở đây, nghĩa thứ nhất của Vô Vi, là sự tương ưng của Tam-ma-bát-đế và sự thâu giữ tâm tán loạn; nghĩa nầy đã rõ. Nghĩa thứ hai của Vô Vi là nghĩa duy nhất là Vô thượng giác.

Từ đây trở về sau, trong hết thảy trụ xứ đều làm sáng tỏ nghĩa: Do Vô Vi mà được gọi là Thánh nhân.

Nơi các trụ xứ trước, chưa nói đến Vô Vi mà được tên. Nhưng chính trong Chánh Đẳng Chánh Giác Vô Thượng ấy, là Vô Vi rốt ráo.

Từ phước tướng đến được trụ xứ Pháp thân thì làm sáng tỏ thế nào?

Tức là từ Pháp thân ngôn thuyết sinh ra phước tướng Như Lai, còn về Pháp thân chứng đắc, thậm chí đối với việc nói năng ấy, chỉ cần đọc bốn câu kệ thôi, cũng được nhiều phước, huống chi là Như Lai đã có phước tướng và Pháp thân chứng đắc.

Do đâu mà nói: Đối với kinh nầy, chỉ cần đọc một bài kệ bốn câu mà được nhiều phước đức? Để giải thích ý nghĩa nầy, kinh nói: Từ lý do nào, mà quả của Như Lai có được, từ bốn câu kệ? Do gom hết mười pháp hạnh của A-hàm. Chư Phật, Thế Tôn đều từ đó sinh ta, vì đó là nguyên tắc thế gian.

Kinh nói Phật sinh ra là do có Bồ-đề. Hai thứ nầy chung nhau thì gọi là Phật Pháp, tức là có Bồ-đề và Phật.

Kinh nói: Nầy Tu-bồ-đề, Phật pháp-Phật pháp ấy, tức là không phải Phật pháp. Kinh lại nói: Phước sinh ra ở đây, vượt hơn mọi phước khác tới vô lượng A-tăng-kỳ, là nương vào nghĩa mà làm sáng tỏ cách đối trị phước không sinh. “Phước đó” nói về tướng, là làm sáng tỏ phước tướng nơi Pháp thân. Hơn mọi phước khác, là chỉ cho Dục và Nguyện nắm giữ.

Kinh nói: Thưa Thế Tôn! Phước tụ không phải là phước tụ, nên Như Lai nói là phước tụ.

Kinh lại nói: Nầy Tu-bồ-đề, Phật Pháp, Phật Pháp ấy, tức là chẳng phải Phật Pháp, cho nên gọi là Phật Pháp. Lấy hai nhóm phước nầy và Phật Pháp là gom lấy phước tướng nơi Pháp thân của Như Lai an lập nghĩa thứ nhất. Đó là tùy thuận Vô Vi nên được tên gọi.

Sự tương ưng của Tam-ma-bát-đế và sự chế ngự tâm tán loạn, thì không nói rõ bằng lời được.

Rất nhiều, thưa Đức Thế Tôn! Rất nhiều, thưa Tu- già- đà!” Hai lời thưa nầy, chỉ rõ sự thu tóm tâm, sự giữ vững tâm. Tự thâu phục và giữ vững tâm mới gọi là thọ trì.

Vì người khác mà giảng nói, là giải thích nghĩa vị của câu. Thí dụ cho cái gì, vượt hơn mức thường thì nói là vô lượng; A-tăng-kỳ là làm sáng tỏ lên nhiều.

 

LUẬN KIM CANG BÁT NHÃ (1510a)
Tác giả: Bồ-tát Vô Trước
Hán dịch: Đời Tùy, Tam tạng Đạt Ma Cấp Đa, người Nam Ấn
Việt dịch: Linh Sơn Pháp Bảo Đại Tạng Kinh
Hội Văn Hóa Giáo Dục Linh Sơn Đài Bắc Xuất Bản

 

QUYỂN HẠ

Đã nói xong trụ xứ Dục. Bây giờ, nói đến sự việc lìa khỏi trú xứ chướng ngại. Cần đối trị mười hai thứ chướng ngại là:

  1. Kiêu mạn.
  2. Không kiêu mạn nhưng ít học.
  3. Học rộng nhưng không nương vào duyên để tạo ra niệm tu đạo.
  4. Đã không nương vào duyên để khởi niệm tu đạo mà còn xả bỏ chúng sinh.
  5. Không xả bỏ chúng sinh, nhưng ưa theo luận nghị loạn động của ngoại đạo.
  6. Tuy không loạn động, nhưng không có phương tiện thiện xảo để phá bỏ tướng ảnh tượng.
  7. Tuy có phương tiện thiện xảo để phá bỏ, nhưng không đủ phước đức làm hành trang.
  8. Tuy có đủ vốn phước đức mà vui chứ không biếng nhác và tham cầu lợi dưỡng.
  9. Dù lìa biếng nhác và lợi dưỡng nhưng không có khả năng chịu khổ.
  10. Dù chịu đựng được khổ, nhưng không đủ vốn liếng trí tuệ.
  11. Dù đủ vốn liếng trí tuệ, nhưng không tự thâu giữ.
  12. Dù tự thâu giữ, nhưng không có sự truyền trao.

Trước hết là phải xua tan kiêu mạn. Kinh nói: Người Tu-đà-hoàn từng hay nghĩ: Ta được quả Tu-đà-hoàn v.v… Đấy là dựa vào nghĩa, để làm sáng tỏ việc đối trị ý tưởng kiêu mạn là ta được. Lại nữa “Tu-đàhoàn lại nghĩ như thế nầy”. Câu ấy là nói về tướng, để làm sáng tỏ việc xua tan kiêu mạn, cũng là để nắm giữ Dục và Nguyện.

Kinh nói: “Thưa Thế Tôn! Không hề có chỗ nhập, nên không nhập nơi sắc-thanh-hương-vị-xúc. Đấy là an lập nghĩa thứ nhất. Nếu người Tu-đà-hoàn nghĩ, ta được quả Tu-đà-hoàn, tức là có ý niệm về ngã. Có ngã là đã có kiêu mạn. Như vậy, cho đến A-la-hán cũng thế. Tu-bồ-đề đã làm sáng tỏ bậc nhất, hạnh không tranh cãi, và A-la-hán cũng có công đức, là lấy sự chứng đắc của mình khiến người ta tin tưởng. Do không có pháp nào để đạt quả A-la-hán và không có nơi chốn để hành.

Nói hạnh không tranh cãi, tức là đã an lập nghĩa thứ nhất rồi.

Về lìa bỏ ít học, kinh nói: Ở chỗ Phật Nhiên Đăng, Như Lai Ứng Cúng Chánh Biến Tri, có pháp nào để chứng chăng? Nghĩa là Phật Nhiên Đăng ra đời, khi thờ phụng cúng dường ngài, nếu chấp giữ vào pháp nào thì phải từ bỏ ngay sự phân biệt ấy. Các việc, nương vào nghĩa mà đối trị tùy theo nghĩa mà tương ưng. Nên biết như vậy.

Về lìa bỏ sự ít dựa vào duyên để khởi niệm-tu-đạo kinh nói: Nầy Tu-bồ-đề! Nếu có Bồ-tát nói như vậy: “Ta phải thành tựu sự trang nghiêm thanh tịnh cõi nước Phật” v.v… thì ý niệm trang nghiêm cõi nước thanh tịnh ấy, là đã phân biệt, tham đắm vào sắc-thanh-hương v.v… Để xua tan chướng ngại nầy, kinh nói: Vì thế, Tu-bồ-đề! Bồ-tát nên sinh tâm không trụ, không có cái gì để trụ. Không trụ vào sắc-thanh-hươngvị-xúc-pháp.

Về lìa bỏ chúng sinh, kinh nói: Tu-bồ-đề! Ví như có người, thân lớn như núi chúa Tu-di v.v… Ở đây là muốn làm sáng tỏ điều gì? Đấy là giáo hóa cho thành thục chúng sinh ở cõi Dục. Các vua La- hầu, A-tu-la đều có thân to bằng núi Tu-di, còn không nên nhìn tự thể đó, huống chi là những thứ khác. Thế nên kinh nói: Như Lai nói là không phải Thể. Điều nầy làm sáng tỏ pháp vô ngã.

Thể đó chẳng phải là Thể. Đây là làm sáng tỏ Thể của pháp là không sinh, không làm ra. Làm sáng tỏ thêm tự tính, tướng và những chỗ khác nhau của nó.

Về lìa bỏ sự tham thích Luận nghị tán loạn của ngoại đạo, kinh nói:

Có bốn thứ nhân duyên để làm sáng tỏ pháp nầy hơn hết thảy.

  1. Thâu giữ mọi phước đức.
  2. Chư Thiên cúng dường.
  3. Làm những việc khó làm.
  4. Phát khởi những niệm về Như Lai v.v…

Kinh nói: Do nhân duyên nầy, nên được phước nhiều hơn phước kia. Đó là thâu giữ mọi phước đức.

Kinh nói: Giải thích, giảng nói, truyền trao cho kẻ khác: thì địa phận ấy là tướng Chi-đề (tích tụ phước đức) tức là chư Thiên cúng dường.

Kinh nói: Sẽ được đầy đủ việc tối thượng, hiếm có. Đó là việc khó làm.

Kinh nói: “Địa phận nầy” tức là trú xứ của giáo thọ sư và những người được tôn trọng khác; là phát khởi các niệm về Như Lai, trong ấy người nói là nói thẳng cho kẻ khác. Truyền trao là truyền dạy cho kẻ khác. Điều đó là làm sáng tỏ pháp đối trị đối với kẻ tham mê luận nghị tán loạn của ngoại đạo.

Theo pháp tắc đó, lấy lời- lấy nghĩa làm phương cách đối trị những tội ở đời vị lai.

Kinh nói: Như Lai nói Bát-nhã Ba-la-mật Đa, tức chẳng phải Bátnhã Ba-la-mật-đa. Như Bát-nhã Ba-la-mật chẳng phải Ba-la-mật. Như vậy cũng không có pháp nào khác.

Như Lai nói: là làm sáng tỏ nghĩa ấy. Kinh nói: Lại còn có pháp nào, Như Lai có thể nói không? Đây là làm sáng tỏ pháp môn tự tướng và tướng bình đẳng của nghĩa thứ nhất. Không có phương cách khéo léo để lìa bỏ, trong chỗ tự tại với tướng của ảnh tượng, kinh nói: Tu-bồ-đề! Có bao nhiêu vi trần trong ba ngàn địa thiên thế giới … Đó là nói tác ý duyên dựa theo đối tượng là không hạn lượng. Ở trong đời nầy, Bồ-tát luôn tác ý duyên vào đối tượng mà tu tập. Nói ba ngàn đại thiên thế giới, là nhằm phá trừ tướng ảnh tượng của sắc thân. Ở đây, chỉ rõ hai thứ phương tiện:

1. Tinh tế làm phương tiện, như kinh nói: Có bao nhiêu vi trần trong ba ngàn đại thiên thế giới, có nhiều không?

2. Không nhớ nghĩ làm phương tiện, như kinh nói: Hết thảy vi trần, Như Lai nói không phải vi trần, ấy gọi là vi trần.

Nói vậy là để phá tướng ảnh tượng, gọi là thân của chúng sinh.

Kinh nói: Cả thảy thế giới, Như Lai nói không phải thế giới, cho nên gọi là thế giới.

Thế giới là chỉ cho nơi ở của chúng sinh, chỉ là danh từ nêu đặt là nơi ở của chúng sinh. Khi không còn nghĩ đến danh từ làm phương tiện, thì đã làm sáng tỏ cách phá tướng ảnh tượng của danh từ kia, không cần nói lại cái tinh tế làm phương tiện.

Lìa vốn phước đức không đầy đủ kinh nói: Tu-bồ-đề! Ông nghĩ sao? Có nên nhìn Như Lai bằng ba mươi hai tướng đại trượng phu không?

Điều nầy là chỉ rõ vốn liếng phước đức. Khi thân cận, cúng dường Như Lai, thì không nên nhìn thấy Như Lai qua tướng thành tựu của Như Lai! Vậy phải nhìn như thế nào? Ấy là phải nhìn thấy Pháp thân theo nghĩa thứ nhất kia.

Lìa biếng nhác, lợi dưỡng và mọi thú vui, kinh nói: Tu-bồ-đề! Nếu có người nam, người nữ, xả bỏ Hằng hà sa thân mình v.v… Việc nầy nhằm làm sáng tỏ điều gì? Bỏ thân nhiều như thế ấy, nhưng hết thảy phước đức, vẫn không bằng phước này. Tại sao có một thân nầy mà để vướng mắc vào lười biếng trở thành chướng ngại? Tại sao Tu-bồ-đề phải khóc rơi lệ và nói: “Con chưa từng được nghe pháp môn như thế!” Vì nghe được pháp môn nầy thì phước đức hết sức nhiều, hơn gấp nhiều lần việc xả bỏ thân mạng kia, dù đó là vô lượng. Lại còn những phước thù thắng khác không thể nói hết.

Nghe phước thù thắng như vậy rồi tự nhiên phát khởi siêng năng tinh tấn, sinh ý tưởng thực hành những nghĩa lý cao đẹp, đó là đã lìa khỏi lỗi nầy.

Kinh nói: Nếu sinh thật tưởng với kinh nầy, là đã thành tựu chuyện hiếm có bậc nhất. Từ nơi thật tưởng ấy, mà lìa bỏ thứ thật tưởng do phân biệt, nên kinh nói: Hết thảy thật tưởng khác, đều không phải là thật tưởng.

Kinh lại nói: “Thưa Thế Tôn! Con đối với pháp môn nầy, nếu tin hiểu- phân biệt, thì đó không phải là chuyện hiếm có. Nếu ở đời vị lai, có ai thọ trì- đọc tụng, giảng nói cho kẻ khác về pháp môn này, thì đó mới là việc hiếm có bậc nhất”. Câu nầy có nghĩa gì? Có phải do tham mê lợi dưỡng và biếng nhác, nên các Bồ-tát lấy làm xấu hổ, bởi vì thấy đời vị lai, chánh pháp sắp diệt mà vẫn có Bồ-tát thọ trì pháp môn nầy, không chấp người, cũng không chấp pháp. Tại sao khi chánh pháp đang còn hưng thịnh, mà các ông lại lìa khỏi chuyện tu hành, không sinh tâm hổ thẹn.?

Kinh nói: Các Bồ-tát ấy, không có ý niệm về ngã v.v… Điều đó chỉ rõ việc không chấp vào người. Hết thảy ý niệm về ngã đều không phải là ý niệm ngã, là chỉ rõ không chấp vào pháp.

Kinh nói: Tại sao chư Phật-Thế Tôn đều lìa hết ý niệm? Đây là chỉ rõ tướng thuận học của Bồ-tát. Họ bảo: Chư Phật- Thế Tôn đã buông lìa hết thảy ý niệm, thì chúng ta cũng phải học theo như vậy. Trong kinh nói thế là để xua tan sự thiếu sáng suốt tiến tới.

Kinh nói: “Còn tin hiểu, phân biệt” thì câu sau giải thích cho câu trước. Thọ là nhân lấy văn tự, nhiếp là gồm thâu nghĩa lý. Về lìa bỏ, không phát khởi tinh tấn, kinh nói: Tu-bồ-đề! Nếu ai nghe chương cú trong kinh nầy mà không kinh sợ v.v… Do kinh sợ nên không phát khởi tinh tấn. Đối với hàng Thanh văn, đức Thế Tôn nói: Có pháp và có Không. Nên khi nghe kinh nầy nói pháp không có, họ đâm hoảng. Rồi lại nghe Không, cũng không có, thì lại càng sợ hơn. Tiếp đến là suy lường thấy cả hai cái không có lý, lại không tương ưng, thì càng run sợ. Lại có sự giải thích khác là ba thứ ấy không có tự tính riêng. Tướng sinh của nghĩa thứ nhất là không có tự tính.

Kinh nói: Tu-bồ-đề! Vì sao Như Lai nói Ba-la-mật là đệ nhất? Nghĩa nầy thế nào? Lại nói có cái thứ hai, tất sinh xấu hổ. Nói pháp nầy cao tột là như vậy. Các ông chớ có buông thả. Nó là hơn hết thảy trong các Ba-la-mật khác, nên gọi là Ba-la-mật bậc nhất.

Kinh nói: Như Lai nói pháp Ba-la-mật bậc nhất, vô lượng các đức Phật kia cũng nói pháp Ba-la-mật. Lời nầy chỉ rõ, hết thảy chư Phật đều cùng nói pháp bậc nhất. Cho nên gọi là bậc nhất.

Về lìa bỏ việc không chịu khổ, kinh nói: Lại nữa, Tu-bồ-đề! Như Lai nói Sằng- đề Ba-la-mật v.v… Ở đây, những gì phải nhẫn, thì lấy tướng nào để sinh nhẫn? Nếu nhẫn có nhiều loại khác nhau, tốt hơn hết là tìm những điều kiện để đối trị nó. Làm sao nhẫn? Đó là nhờ thấu suốt được pháp vô ngã. Nó được làm sáng tỏ như thế nào? Như kinh nói: Như Lai nói Sằng Đề Ba-la-mật. Làm sao biết được tướng của nhẫn? Là khi ai đó nổi tâm ác với mình mà mình không có ý niệm về ngã, nên không sinh ý tưởng ghét họ. Cũng không đối với Sằng Đề Ba-la-mật mà sinh ý niệm có, còn những cái không phải Ba-la-mật thì sinh ý niệm không với chúng. Nghĩa nầy được làm sáng tỏ ra sao? Như Kinh nói: “Như ta ngày xưa bị vua Ca- lợi cắt rời thân thể, nhưng khi ấy ta không có ý niệm về ngã. Không ý niệm, cũng chẳng phải không ý niệm. Có những loại nhẫn nào? Đó là hết sức chịu đựng khổ, tiếp tục chịu khổ. Nó làm sáng tỏ điều gì? Như kinh nói: Như ta ngày xưa bị vua Ca-lợi cắt rời thân thể, và nói:

Ta nhớ lại năm trăm đời, làm vị Tiên tu hạnh nhẫn nhục v.v…

Nếu không nhẫn nhịn, thì có ba thứ khổ:

  1. Khổ vì lưu chuyển trong sinh tử.
  2. Khổ vì chúng sinh chống trái nhau.
  3. Khổ vì đời sống thiếu thốn.

Như kinh nói: Tu-bồ-đề! Cho nên các đại Bồ-tát phải lìa xa hết thảy ý niệm, khi phát tâm Chánh Đẳng Chánh Giác Vô Thượng. Đấy là trình bày về điều kiện đối trị là nhẫn khổ vì lưu chuyển. Phát tâm Bồ-đề mà dùng ba ý niệm khổ, thì không nên phát tâm, nên nói là phải lìa xa mọi ý niệm. Hết thảy ý niệm là chỉ cho ba tưởng khổ đó. Nếu tham đắm vào sắc v.v… thì mãi chịu khổ trong lưu chuyển, đầy thiếu thốn, mệt mỏi, tâm Bồ-đề không thể phát lên được.

Kinh nói: Không nên trụ vào sắc sinh tâm v.v…, như đã nói trước.

Không trụ phi pháp, vì đó chẳng phải là pháp vô ngã. Cả phi pháp và pháp vô ngã đều không nên trụ chấp vào đó. Xác lập những điều không nên chấp trước, là để ngăn những lỗi khác.

Như kinh nói: Nên sinh tâm không chỗ trụ. Vì sao? Vì tâm trụ vào cái gì, thì cái đó không phải là nơi đáng trụ.

Kinh nói: Như thế, các Bồ-tát làm ích lợi cho chúng sinh, nên bố thí theo nguyên tắc ấy. Cho đến câu nói: Hết thảy mọi ý niệm là không phải ý niệm, ở đây chỉ rõ khổ nhẫn để đối trị sự chống trái của chúng sinh. Đã vì chúng sinh mà làm, với ý niệm xả bỏ, thì tại sao Bồ-tát còn nổi giận đối với chúng sinh? Vậy là vẫn còn nuôi ý niệm về chúng sinh. Do đó, nên khi chúng sinh làm ngược lại, thì sinh ra mỏi mệt. Đây là chỉ rõ lý về nhân vô ngã, pháp vô ngã.

Tu-bồ-đề! Lời Như Lai là lời chân thực v.v… Câu ấy chỉ rõ cái gì? Đó là dạy chúng ta tin Như Lai giỏi chịu đựng. Nói lời chân thực là làm sáng tỏ hình tướng nơi pháp thế gian. Lời chân thực là chỉ cho sự tu hành theo nguyên lý thế gian, gồm cả tướng phiền não và thanh tịnh. Chữ thật chỉ rõ đây là hành phiền não, đây là hành thanh tịnh. Lời chân thực là tướng của Đệ nhất nghĩa đế. Không nói hai lời là sự tu hành của Đệ nhất nghĩa đế, gồm thâu cả tướng phiền não và thanh tịnh. Ở đây đã nói về lời chân thực rồi, do vậy, lời nào nói lên mà gây chấp trước, là ngược lại ở đây.

Kinh nói: Tu-bồ-đề! Pháp Chánh giác của Như Lai đã nói đó, nó không thật cũng không dối. Không thật là như nói: Tính vốn không có. Không dối là như không nói tự tính là có. Tu-bồ-đề! Ví như có người trượng phu đi vào nhà tối v.v…, điều đó chỉ rõ điều kiện đối trị sự nhẫn khổ, do thiếu thốn đồ dùng.

Nên vì muốn được quả báo mà bố thí, thì liền bị vướng mắc vào việc làm bố thí. Kẻ ấy không thể ra khỏi những tham-muốn-khổ-vui trong những cái mình ban cho, như người vào nhà tối, không biết mình phải tới lui ra sao. Kẻ bố thí tham vui nầy cũng thế.

Nếu không chấp trước vào sự mà hành bố thí thì như bậc trượng phu có mắt, từ đêm tàn chuyển qua trời sáng, mọi sắc hình bày ra, tha hồ mà vui thích. Nên thấy biết như vậy: vô minh kia là đêm tàn; mặt trời trí tuệ chiếu sáng mọi thứ cũng như vậy, nó giúp trông thấy mọi thứ đúng như thật. Người kia không biết làm sao để ra khỏi mọi tham muốn vui khổ, mà tham mê dục lạc là xa lìa vốn liếng trí tuệ vô cùng ít ỏi.

Kinh nói: Tu-bồ-đề! Nếu có thiện nam, thiện nữ, thọ nhận pháp môn nầy v.v… thì đấy là điều kiện lìa bỏ duyên vào Tam-ma-đề, là chỉ rõ sự tương ưng với pháp. Có năm thứ công đức tốt đẹp:

  1. Như Lai luôn nghĩ nhớ và gần gũi.
  2. Gồm thâu phước đức.
  3. Khen ngợi pháp và tu hành.
  4. Trời, người cúng dường.
  5. Trừ diệt tội.

Thế nào là Như Lai nghĩ nhớ và gần gũi? Như Kinh nói: Ai thọ trì, đọc tụng thì Như lai lấy trí Phật mà biết đến họ. Như Lai dùng mắt Phật trông thấy họ. Thọ là học tập thuộc lòng. Trì là không quên. Như đọc tụng, như gồm thâu thì đấy là nói nhân của thọ trì. Muốn thọ, nên phải đọc, vì muốn nắm giữ nên phải gồm thâu. Lại nữa, đọc là học tụng thuộc lòng. Gồm thâu có nghĩa là nhìn tổng quát.

Thế nào là gom phước đức về? Kinh nói: Các chúng sinh ấy, làm phát sinh vô lượng phước đức như thế.

Khen ngợi pháp và tu hành là sao? Như Kinh nói: Lại nữa, Tu-bồđề! Pháp môn nầy là không thể nghĩ, không thể tính kể. Đấy là khen ngợi pháp. Ở trong chỗ không thể nghĩ ấy mà chỉ mình biết. Nơi phần không thể tính kể là không có gì ngang bằng hay vượt hơn được. Kinh lại nói: Pháp môn nầy, Như Lai nói cho người phát tâm tối thượng thừa, nói cho người phát tâm tối thắng thừa. Đấy là thành tựu ý nghĩa không thể tính kể, các Thừa khác không sánh kịp. Tối thượng thừa là đã dứt sạch phiền não chướng và trí chướng. Tối thắng cũng nên biết như vậy.

Kinh nói: Ai thọ trì pháp môn nầy, cho đến Như Lai đều thấy, biết v.v… Đấy là khen ngợi sự tu hành. Câu: “Các chúng sinh đó thành tựu vô lượng” là nói tổng quát. Còn câu: Không thể nghĩ, không thể kể tính, không thể lường, đó là giải thích. Câu: Những kẻ ấy, vì ta mà gánh vác đạo Bồ-đề”, nghĩa là đưa vai để lấy gánh nặng Bồ-đề.

Kinh nói: Tu-bồ-đề cho đến câu tin, hiểu: Là không thể nghe được pháp này tức là nói hàng Thanh văn, Độc giác.

Kinh nói: Nếu có ngã đẳng kiến. Câu nầy nói chúng sinh có nhân, ngã, kiến mà tự cho mình là Bồ-tát!

Các Trời, Người cúng dường là sao? Như kinh nói: Lại nữa, Tubồ-đề! Ở nơi nào có sự phân biệt giảng nói kinh nầy thì phải nên cúng dường cho nơi ấy. Nơi đó gọi là Chi- đề (Tháp Phật). Ở nơi đó dùng tràng hoa quí- hương đốt- hương xông- hương xoa- hương bột- vải vóc- tàn lọng- cờ phướn mà cung kính cúng dường, đi vòng quanh bên tay mặt, nên gọi là Chi-đề.

Tội được diệt trừ là sao? Như kinh nói: Kẻ nào bị người khinh rẻ, vô cùng khinh rẻ… cho đến sẽ được quả Bồ-đề. Đấy là nói về hủy nhục, có vô lượng cách. Để chỉ rõ việc nầy, nên lại nói: Vô cùng khinh rẻ. Kinh nói: Sẽ được quả Bồ-đề, là chỉ rõ diệt hết tội.

Trước đây có nói, do có nhân duyên mới phát sinh vô lượng phước đức nhiều như A-tăng-kì, nay xin giải thích nghĩa vô lượng A-tăng-kì ấy.

– Oai lực là sự thành thục sáng tỏ. Nhiều là đầy đủ, trọn vẹn, lớn hơn cả. Trong đó kinh nói: Tu-bồ-đề! Ta nhớ lại A-tăng-kì, vượt khỏi Atăng-kì về trước nữa v.v…, là chỉ rõ oai lực, tức là sức mạnh của phước tu, vì người ấy có nhiều phước đức thật cao xa và hơn hết. Trong A-tăng-kì kiếp nầy là cho đến Phật Nhiên Đăng v.v… nên biết.

– Vượt khỏi A-tăng-kì là vượt khỏi về trước nữa. Thân cận là cúng dường. Không bỏ qua là luôn luôn không rời việc cúng dường.

Lại như Kinh nói: Tu-bồ-đề! Có thiện nam- thiện nữ nào, đạt được phước đức như Ta nói đây, nếu có ai nghe nói tâm trí tất sẽ cuồng loạn v.v… Đấy là chỉ rõ số nhiều. Hoặc vì nhân tố điên cuồng mà dẫn đến quả là tâm rối loạn. Phước đức quá nhiều và oai lực kia, do ai nói? Cho nên kinh nói: Lại nữa, Tu-bồ-đề! Pháp môn nầy không thể nghĩ bàn. Quả báo cũng không thể nghĩ bàn. Câu trên là chỉ rõ Thể của phước và quả của nó là không thể lường được.

– Về xa lìa sự chấp chặt vào mình, kinh nói: Tu-bồ-đề thưa: Vì sao Bồ-tát Đại thừa, khi phát tâm, nên trụ vào v.v…

Tại sao Tu-bồ-đề nêu lên câu hỏi nầy đầu tiên?

Khi Bồ-tát “sắp chứng đạo”, tự thấy mình cao quí, nên nghĩ: Ta nên trụ vào như vậy, tu hành như vậy, làm chủ tâm như vậy, ta diệt độ chúng sinh… Để đối trị việc nầy, nên Tu-bồ-đề đã hỏi ngay lúc đầu, là nên để tâm trụ vào đâu, tu hành ra sao, làm chủ tâm như thế nào v.v…?

Đức Thế Tôn đã đáp, là nên sinh tâm như vậy v.v…

Kinh lại nói: Tu-bồ-đề! Nếu Bồ-tát có các ý niệm về chúng sinh v.v…, là chỉ rõ sự chấp giữ vào ngã, hoặc tùy miên. Nếu bảo “Chính tôi tu hạnh Bồ-tát thừa”, thì đó là chấp ngã.

Để đối trị điều nầy, kinh nói: “Tu-bồ-đề! Không có pháp nào để tu hạnh Bồ-tát thừa cả!” Đây là lìa bỏ, không cần truyền trao. Thế nên kinh nói: Tu-bồ-đề! Như Lai có pháp nào ở chỗ Phật Nhiên Đăng chăng? v.v…

Kinh lại nói: Tu-bồ-đề! Nếu có pháp để Như Lai chứng đắc Chánh giác thì Đức Nhiên Đăng đã không thọ kí: Ông sẽ được thành Phật v.v… Câu ấy có nghĩa gì? Nếu pháp Chánh giác mà nói được, thì Như Lai Nhiên Đăng kia đã nói: Ta vào thời kỳ ấy tức được Chánh giác, Phật Nhiên Đăng sẽ không thọ kí: Ông sẽ được v.v… Ấy là do pháp Chánh giác kia không thể nói ra được. Lúc ấy, ta chưa được chánh giác, nên Ngài mới thọ kí cho ta. Nghĩa nầy nên biết.

Lại nữa, vì sao pháp đó không thể nói?

Như kinh nói: Tu-bồ-đề! Như Lai là Chân như. Như là thanh tịnh nên gọi là Như Lai. Do như nên không thể nói nên nói như vậy: Như thanh tịnh nên gọi là Chân như, giống như vàng ròng. Ở chỗ Phật Nhiên Đăng, không có được pháp Chánh giác, mà sau nầy đức Thế Tôn tự mình chứng chánh giác.

– Về lìa chấp nầy, kinh nói: Tu-bồ-đề! Nếu ai nói lời như vậy: Chánh giác của Như Lai là Chánh Đẳng Bồ-đề Vô Thượng v.v…

Kinh lại nói: Tu-bồ-đề! Pháp chánh giác của Như Lai, không phải thật, cũng không phải dối: Tức là hiển bày Chân như là không có hai. Vì sao nó không phải là thực? Vì đó chỉ là lời nói. Vì sao không phải là dối, vì nó là Chánh giác chứ không phải là ngôn thuyết của thế gian.

Kinh nói: Thế nên hết thảy pháp Như Lai nói, tức là Pháp Phật.

Hết thảy pháp, ở đây có nghĩa gì? Đó là pháp Như thanh tịnh. Như là trùm khắp hết thảy pháp. Nghĩa nó là như thế.

Lại nữa, pháp thể của mọi pháp là không thành tựu, vì nó an lập Đệ nhất nghĩa.

Kinh nói: Tu-bồ-đề, hết thảy mọi pháp đều là phi pháp, cho nên gọi là hết thảy pháp. Đây là sự chứng đạo.

Kinh nói: Tu-bồ-đề! Ví như có người, thân to, thân đẹp như vậy v.v… là chỉ rõ khi chứng đạo, được trí tuệ nên xa rời kiêu mạn. Được trí tuệ gì? Có hai thứ trí:

  1. Trí gồm thâu chủng tính.
  2. Trí Bình đẳng.

Được trí rồi, tất được sinh vào nhà Như Lai, được quyết định nối dòng chư Phật. Đây là Trí gồm thâu chủng tính. Khi chứng được trí nầy thì sẽ được thân nhiệm mầu, đẹp đẽ. Nếu trong đêm dài sinh tử nguyện vọng được sinh vào nhà Như Lai, khi sinh rồi thì được thân đẹp kia, gọi là diệu thân. Còn Trí Bình Đẳng thì có năm thứ nhân duyên bình đẳng:

  1. Thô ác bình đẳng.
  2. Pháp vô ngã bình đẳng.
  3. Đoạn tương ưng bình đẳng.
  4. Tâm không mong cầu tương ưng bình đẳng.
  5. Hết thảy Bồ-tát chứng đạo bình đẳng.

Khi có được các thứ bình đẳng trên thì được thân to lớn, thâu tóm hết thảy thân lớn của chúng sinh. Trong thân lớn đó, an lập cái không phải mình-không phải người.

Kinh nói: Như Lai bảo: Ai có thân to- thân đẹp tức là không phải thân, nên Như Lai mới gọi là thân đẹp- thân to lớn v.v… Ở đây, đối với thân đẹp mà an lập Đệ nhất nghĩa. Như thế v.v… là chứng được trí tuệ.

Thế nào là lìa bỏ kiêu mạn? Như kinh nói: Nếu Bồ-tát nói lời nầy. Ở đây do đâu có thể biết? v.v… Nếu nghĩ: Ta diệt độ chúng sinh. Ta là Bồ-tát thì đấy là kiêu mạn, không phải là nghĩa thật của Bồ-tát. Để chỉ rõ điều ấy, kinh nói: Thế nên Như Lai nói: Hết thảy pháp không có chúng sinh. Nếu Bồ-tát có ý niệm về chúng sinh, thì không được thân to, thân đẹp. Đó là trên cầu quả Phật, giữa là làm thanh tịnh cõi nước với Tam-ma-bát-đế.

Kinh nói: Tu-bồ-đề! Nếu có Bồ-tát nói lời nầy: Ta phải trang nghiêm cõi nước cho thành tựu thì đó không phải là Bồ-tát. Nghĩa nầy, được chuyển từ lúc cùng thấy chánh hạnh. Chấm dứt điều ấy tức an lập Đệ nhất nghĩa.

Kinh nói: Tức chẳng phải trang nghiêm, Như Lai mới gọi là trang nghiêm cõi nước.

Lại nữa, kinh nói: Tu-bồ-đề! Nếu Bồ-tát tin hiểu pháp vô ngã. Pháp vô ngã nói ở đây có hai thứ là: Nhân vô ngã và pháp vô ngã.

Kinh lại nói: Như Lai gọi là Bồ-tát… Bồ-tát ở đây là hai vô ngã, là hai chánh giác… Tức là muốn chỉ rõ điều gì? Nếu nói ta thành tựu, tức là chấp lấy ngã. Còn trang nghiêm cõi nước, tức là ta chấp lấy pháp. Đều không phải là Bồ-tát, do còn đủ cả kiến, trí, tịnh.

Kinh nói: Tu-bồ-đề! Ông nghĩ sao? Như Lai có nhục nhãn không? v.v… Như Lai không chỉ có mắt huệ, khiến thấy biết lắng sâu vi diệu. Làm rõ là có năm thứ mắt. Nếu khác với đây thì chỉ cầu huệ nhãn với kiến tịnh. Trong đó nếu nói tóm tắt có bốn thứ mắt là:

  1. Mắt gồm thâu hết thảy sắc.
  2. Mắt gồm thâu Đệ nhất nghĩa đế.
  3. Mắt gồm thâu Thế đế.
  4. Mắt gom hết thảy thứ- hết thảy sự cần biết.

Mắt gồm thâu hết thảy sắc, lại có hai thứ: Là quả pháp và quả tu. Đấy là năm thứ mắt của cảnh giới thô.

Sự gồm thâu sắc, ban đầu là trí lực của Đệ nhất nghĩa, nó được chuyển biến từ trí thế gian không điên đảo. Cho nên, Đệ nhất nghĩa đế, được gom lại đầu tiên là ở nơi người nói pháp, pháp ấy được người nói lập nên. Trí nầy gọi là pháp nhãn. Còn trong hết thảy những gì cần biết, hết thảy những thứ, mà không có Trí công dụng thì đó là Phật nhãn. Những thứ nhãn nầy, gọi là kiến tịnh. Như kinh nói thí dụ về Hằng hà v.v… Hết thảy có bao nhiêu tâm trụ, ta đều biết tất. Đấy là trí tịnh. Tâm trụ là tâm ba đời. Bao nhiêu thứ cần biết có hai loại là nhiễm và tịnh. Tức là đi với tâm tham muốn và tách khỏi tâm tham muốn. Đời tức là quá khứ, vị lai, hiện tại. Từ trong hai loại vừa nói mà an lập Đệ nhất nghĩa.

Kinh nói: Tâm trụ ấy tức là không trụ… cho đến tâm quá khứ, không thể nắm bắt được. v.v… Tâm quá khứ không nắm bắt được, là do nó đã diệt. Còn tâm vị lai thì chưa có. Đệ nhất nghĩa là ở hiện tại. Những việc nầy, cần phải biết trên đường tu chứng. An lập biến giải là giáo hóa biến giải ấy. Khi tâm chúng sinh đã lắng yên, mới xây dựng trí tuệ cho họ. Trong trí tịnh nầy, hễ nói tâm trụ, tức là không phải trụ. Như vậy, ở trong kiến tịnh, làm sao nói được, mắt tức là không phải mắt? Do nó cùng một chỗ ở. Sau kiến trí tịnh mới an lập Đệ nhất nghĩa, nhưng cái thấy ban đầu cũng được thành tựu.

Về phước đức tự tại đầy đủ, kinh nói: Ba ngàn đại thiên thế giới nầy v.v… trong đó cũng an lập Đệ nhất nghĩa. Kinh nói: Này Tu-bồ-đề! Nếu phước tụ có thật, thì đối với thân đầy đủ là đầy đủ cái tốt đẹp.

Kinh nói: Tu-bồ-đề! Ông nghĩ sao? Có nên thấy Như Lai bằng sắc thân thành tựu chăng? Trong đó, cũng đã an lập Đệ nhất nghĩa.

Kinh nói: Như Lai nói không phải thành tựu.

Về tướng thân đầy đủ, kinh nói: Tu-bồ-đề! Ông nghĩ sao? Có nên thấy Như Lai bằng tướng đầy đủ không? v.v…

Về ngữ đầy đủ, kinh nói: Tu-bồ-đề! Ông nghĩ sao? Ông có cho Như Lai có nói pháp như vậy v.v… Ở đây, đã an lập Đệ nhất nghĩa. Kinh nói: Như Lai nói pháp. Nói pháp là lĩnh vực nghĩ đến cho tâm đầy đủ. Kinh nói: Thưa Thế Tôn! Ở đời vị lai, có chúng sinh nghe nói đến pháp nầy v.v… Chỗ ấy, chỉ rõ cho chúng sinh biết, nơi chốn quán niệm của Đức Thế Tôn. Không phải chúng sinh là Đệ nhất nghĩa. Đều là chúng sinh, tức là Thế đế. Người nầy là hiếm có bậc nhất, điều đó làm sáng tỏ Đệ nhất nghĩa là không chung cùng và tương ưng.

Đoạn văn nầy, như trước đã nói: Đối với tâm đầy đủ là Chánh giác.

Kinh nói: Lại có pháp nào mà Như Lai đối với Chánh Đẳng Bồ-đề Vô Thượng được Chánh giác v.v… Trong đó, chữ không có pháp nào, là chỉ cái lỗi thấy có, cần từ bỏ.

Đã nói rõ Bồ-đề và đạo Bồ-đề. Nhưng Bồ-đề ấy, lại có hai thứ nhân duyên: Là từ ngữ A-nậu-đa-la và từ ngữ Tam-miệu-tam-Phật-đà. Ở đây, kinh nói: Bao nhiêu pháp như vi trần ấy, đều không thể nắm bắt được, không thể có. Từ ngữ A-nậu-đa-la chỉ rõ tự tướng của Bồ-đề và tướng giải thoát của Bồ-đề. Nhưng pháp vi trần ấy đâu có Thể, nên cũng không nắm bắt được, cũng không có được, nên biết như vậy.

Kinh nói: Lại nữa, Tu-bồ-đề! Pháp bình đẳng tức từ ngữ Tam-miệu- tam-Phật đà, là chỉ rõ tướng nhân bình đẳng của Bồ-đề. Bình đẳng là pháp Bồ-đề, chỉ Phật mới biết được. Việc nầy, kinh nói không có cao thấp, là nhằm làm sáng tỏ hết thảy chư Phật đều ở trong Đệ nhất nghĩa, về thọ mạng thì không cao thấp. Kinh nói: Không thọ mạng, không chúng sinh. Cái bình đẳng đó là Chánh Đẳng Chánh Giác Vô Thượng. Đây là chỉ rõ Bồ-đề đều có tướng bình đẳng đối với pháp sinh tử.

Kinh nói: Hết thảy pháp lành đều được Chánh giác. Đây là làm sáng tỏ đạo Bồ-đề.

Kinh nói: Gọi là pháp lành, pháp lành đó Như Lai nói không phải là pháp lành v.v… Đó là an lập tướng Đệ nhất nghĩa. Đối với tâm đầy đủ thì đó là chỉ rõ việc xây dựng pháp đại lợi.

Kinh nói: Có bao nhiêu núi Tu-di trong ba ngàn đại thiên thế giới nầy v.v… Tức là trong đó, an lập giáo thọ Đệ nhất nghĩa.

Kinh nói: Như Lai từng nghĩ: Ta có độ chúng sinh sao? v.v… Như thế là Như Lai có ngã để chấp lấy. Đây có nghĩa là gì? Như Lai như Trí cảnh mà nhận biết được. Nếu có ý niệm về chúng sinh tức là Như Lai đã có chấp ngã. Nếu thật là vô ngã mà nói có ngã chấp tức là lìa bỏ sự vướng mắc ấy.

Kinh nói: Tu-bồ-đề, chấp ngã tức là không phải chấp v.v…, cho dù một đứa trẻ phàm phu, nhưng cũng đã biết chấp ngã rồi.

Kinh nói: Tu-bồ-đề! Phàm phu- phàm phu ấy Như Lai nói không phải là phàm phu, ấy mới gọi là phàm phu. Ấy là đối với tâm đầy đủ, chứng Pháp thân.

Kinh nói: Tu-bồ-đề! Ông nghĩ sao? Có nên thấy Như Lai bằng tướng thành tựu hay không? v.v… Trong đó, kệ đầu đã chỉ rõ cái đúng là không nên thấy, không thể thấy bằng lối ấy. Sao gọi là không thể thấy? Vì cái thấy đó nằm trong Thế đế.

– Người nầy thực hành tịnh tà là : Định gọi là tịnh, do chứng thiền nên gọi là vắng lặng. Hơn nữa, thiền còn gọi là tư duy tu. Trong đó, tư là thuộc về ý, tu là thuộc về thức. Khi nói vắng lặng tức là nói về ý và thức. Các thứ nầy, thuộc về Thế đế. Việc ấy không thể thấy Phật, do đấy là hạnh thuộc ve Thế đế. Kệ thứ hai chỉ rõ như thế đấy thì không nên thấy và nhân duyên không nên thấy, nghĩa là phần đầu và phần kế của kệ. Trong câu kệ nói: Nên thấy Phật bằng pháp, thì pháp đó có nghĩa là Chân như. Đây là nhân duyên gì? Kệ nói: Pháp của bậc Đạo sư, chính là thân của Phật. Lấy Như để làm điều kiện, sinh ra thân thanh tịnh của chư Phật. Điều nầy không thể thấy. Chỉ nên thấy Pháp, mà thân đó không nên thấy. Do nhân duyên nào mà không thể thấy? Vì pháp ấy là tướng của chân như. Không phải như nói năng mà biết, chỉ có tự chứng mới biết được.

Không phải như nói năng: Nghĩa là không thấy được cái thực, cũng không có khả năng biết được. Để chỉ rõ nghĩa nầy, Kệ nói: Không có khả năng biết được Thể của pháp. Cái không thể biết đó đã được chỉ rõ trong trụ xứ nầy, là thấy Như Lai phải thấy bằng Pháp thân của Như Lai, chứ không phải thấy bằng tướng đầy đủ. Dù không thể thấy Như Lai bằng tướng đầy đủ, nhưng vẫn phải lấy tướng đầy đủ làm nhân để được Chánh Đẳng Chánh Giác Vô Thượng.

Về lìa khỏi vướng mắc nầy, kinh nói: Tu-bồ-đề! Ông nghĩ sao? Như Lai có thể nhờ tướng đầy đủ mà được Chánh giác về Chánh Đẳng Bồ-đề Vô Thượng v.v… Tâm đầy đủ thì không trụ ở sinh tử hay Niết-bàn. Cho nên kinh nói: Tu-bồ-đề! Ông có nghĩ: Phát tâm tu hành Bồ-tát thừa v.v… Trong đó, kinh nói: Đối với pháp, không nói đoạn diệt, nghĩa là như chỗ trụ của pháp mà thông suốt. Không cần phải cắt đứt hết bóng dáng của sinh tử mà vẫn tự tại nơi Niết-bàn, làm mọi chuyện ích lợi cho chúng sinh. Nhưng ở đó, phải một mực vắng lặng. Tại đây chỉ rõ việc không trụ yên trong Niết-bàn, nếu không trụ yên trong Niết-bàn thì phải chịu khổ não trong sinh tử.

Để xua tan vướng mắc nầy, kinh nói: Tu-bồ-đề! Nếu có thiện nam- thiện nữ… cho đến… thế nên Bồ-tát nhận lấy phước đức v.v… thì trong đó, kinh nói Vô Ngã, Vô Sinh Pháp Nhẫn là có nghĩa gì? Tức là Như Lai luôn tự tại đối với mọi pháp hữu vi, không bị sinh tử, pháp chấp, ngã chấp lôi kéo, cũng không bị nghiệp lực và phiền não sinh ra hay không sinh ra. Gọi là Vô Ngã, Vô Sinh thì ở đây chỉ bày ra sao? Ấy là, như nói: Được các phước đức khác mà đã khỏi phải chịu khổ trong sinh tử, huống chi là Bồ-tát đối với pháp Vô Ngã, Vô Sinh, được các nhẫn rồi thì phước đức kia, sẽ nhiều hơn và thù thắng hơn.

Kinh nói: Tu-bồ-đề! Bồ-tát không nên lãnh nhận phước tụ v.v… là chỉ rõ không trụ nơi sinh tử. Vì trụ nơi sinh tử, mới nhận phước tụ.

Kinh nói: Tu-bồ-đề thưa: Không nên nhận lãnh phước tụ là sao? Thì điều đó có nghĩa gì? Do những nơi khác, đức Thế Tôn nói là nên nhận lãnh phước tụ.

Kinh nói: Thế Tôn dạy nhận lãnh phước tụ, nhưng không chấp giữ phước đức, nên gọi là nhận lãnh phước tụ. Câu: Không chấp giữ đó, ở đây rõ ràng là phương tiện để nhận lấy, chớ không phải chấp trước vào đó.

Như trước đã nói: Đối với tâm đi đứng đầy đủ chính là oai nghi đi đứng. Kinh nói: Tu-bồ-đề! Nếu ai nói Như Lai hoặc tới, hoặc lui v.v… Trong đó, đi là tới lui, trụ là mọi oai nghi khác. Do phá được danh sắc, cho nên thân, luôn được tự tại trong đi đứng.

Kinh nói: Tu-bồ-đề! Nếu có thiện nam- thiện nữ, lấy hết thảy vi trần trong ba ngàn đại thiên thế giới v.v… Trong đó, các phương tiện rất nhỏ cho đến không thấy là có phương tiện v.v…, thì đây là phá chấp, như trước đã nói nên biết.

Kinh nói: Số vi trần ấy là vô cùng nhiều, đó là những phương tiện vi tế.

Kinh nói: Thưa Thế Tôn! Nếu số vi trần ấy mà có, thì Thế Tôn không nói là vi trần v.v… Đây là không thấy có các phương tiện. Nói như vậy, có nghĩa gì? Nếu từ Đệ nhất nghĩa, mà nhìn thấy có vi trần, thì Thế Tôn không nói chẳng phải vi trần. Thế Tôn nói: Nhóm vi trần ấy, chẳng phải là nhóm vi trần, nên mới gọi là nhóm vi trần. Do cái Thể của nhóm nầy là không thành nên hình. Còn những điều khác ở đây, dù không nói cũng tự biết. Nhóm nầy có điều gì cần phải nói?

Kinh nói: Như Lai nói tức chẳng phải thế giới. Thì đấy là không chỗ thấy phương tiện. Ở đây là phá bỏ danh thân, như trước đã nói. Trong đó, chữ thế giới là chỉ rõ nơi chúng sinh ở. Nó nhờ chỉ rõ danh thân mà được tên.

Kinh nói: Thưa Thế Tôn! Nếu thế giới là có thực, tức là có sự thâu tóm, trong đó nói tổng quát hoặc là thế giới hoặc là cõi vi trần. Có hai thứ tóm lấy: Tóm lấy và sự khác nhau của tóm lấy. Các loài chúng sinh và thế giới chúng sinh mà có, đấy là tóm lấy. Còn có vi trần, thì đấy là sự khác nhau của tóm lấy, do cứ chấp vi trần là tụ tập.

Kinh nói: Như Lai nói: Tóm lấy tức chẳng phải tóm lấy. Ở đây,

Tu-bồ-đề, đã an lập nghĩa đệ nhất. Vì muốn thành tựu nghĩa ấy, nên Thế Tôn nói, sự tóm lấy tức là không thể dùng lời để nói. Đấy là chỉ rõ sự nói năng trong Thế đế, là có sự tóm lấy Đệ nhất nghĩa, vì pháp đó là không thể nói. Như cách ăn nói của trẻ nhỏ phàm phu, thì không phải là Đệ nhất nghĩa.

Đã nói không có chỗ để thấy các phương tiện, chứ chưa nói nghĩa phá. Trong câu: Không có chỗ để thấy, là khi nhập định tương ưng thì không còn phân biệt. Nghĩa là không còn phân biệt ai, pháp nào, phương tiện nào… Tại sao lại không phân biệt? Sau đây sẽ nói đủ.

Kinh nói: Tu-bồ-đề! Nếu có ai nói: Như Lai có ngã kiến v.v… thì đấy là chỉ sự không phân biệt. Làm sao biết được ngã, mà ngoại đạo lại nói Như Lai là ngã kiến nên an trí nhân vô ngã ? Lại nói là có ngã kiến nầy, nên đặt ra pháp vô ngã ? Nếu có ngã kiến, là tùy thuộc về sự thấy. Cứ như thế mà quán sát. Khi Bồ-tát tương ưng trong chánh định, thì không còn phân biệt nữa. Tức là sự quan sát nầy chỉ làm phương tiện.

Kinh nói: Tu-bồ-đề! Bồ-tát Thừa phát hạnh nguyện… Đây là chỉ rõ người không phân biệt. Kinh nói: Đối với hết thảy pháp… Tức chỉ rõ đối với pháp nào, là không phân biệt? Kinh nói: Nên biết như thế, nên thấy như thế, nên hiểu như thế. Đó là chỉ rõ tâm tăng thượng và trí tăng thượng. Với Tri kiến thắng giải trong vô phân biệt, nếu trí nương vào Xa-ma-tha (chỉ) là Tri, còn nương vào Tì- bát- xá- na (Quán)là kiến. Cả hai thứ nầy đều nương vào Tam-ma-đề. Thắng giải nhờ vào Tam-ma-đề mà tự tại. Hiểu rõ mọi ảnh tượng qua lại duyên nhau dựa bên trong đó, gọi là thắng giải.

Kinh nói: Hiểu biết như thế, nhưng không trụ vào ý niệm pháp. Đây là chỉ rõ sự không phân biệt. Kinh nói: Ý niệm về pháp. Ý niệm về pháp đó, tức là chẳng phải ý niệm về pháp, nên gọi là ý niệm về pháp. Đây là chỉ rõ nghĩa không chung và nghĩa tương ưng của ý niệm về pháp. Như trước đã nói: Như thế, trong hết thảy trụ xứ, nên biết phương tiện cũng tương ưng Tam-ma-đề. Hai thứ Dục-Nguyện và thâu giữ tâm tán loạn, như trước đã nói có nghĩa không khác nhau. Do vậy, không nói lại ở đây. Phương tiện của nó đối với tâm đầy đủ là nói pháp vô nhiễm.

Kinh nói: Tu-bồ-đề! Nếu có Bồ-tát lấy cả bảy báu đầy khắp trong vô lượng A-tăng-kì thế giới v.v… Ở đây muốn chỉ rõ điều gì? Do có được lợi ích lớn như thế, nên quyết định diễn nói sự thật. Diễn nói như vậy mà tâm thì không nhiễm.

Kinh nói: Vì sao diễn nói mà không diễn nói, lại gọi là diễn nói? Câu ấy nghĩa là gì? Là làm sáng tỏ việc không thể nói năng được, cho nên không diễn nói. Pháp nào có thể nói về Thể của nó, tức cứ thế mà diễn nói. Nếu làm khác đi, thì diễn nói với tâm nhiễm, bởi vì nghĩa trái ngược. Lại nữa, khi nói như thế mà không mong cầu ai tin hay kính trọng v.v…, đó cũng là cách nói pháp với tâm không nhiễm. Đối với tâm đầy đủ, thì không bị ô nhiễm do sinh tử. Nói kệ sao màn che, đèn, huyễn v.v… thì nghĩa nầy như trước đã nói.

Nếu nghe nghĩa như thế,
Không giác ngộ Đại thừa,
Ta nhớ xưa có đá,
Rốt cùng không có nhân.
Người ngu gặp pháp cao sâu này,
Không thể hiểu biết và tin hướng,
Cõi đời có bao người như thế,
Do đấy, pháp bảo bị hoại diệt!

Luận Kim Cang Đoạn Cát Bát-nhã Ba-la-mật

Pages: 1 2