LUẬN GIẢI THOÁT ĐẠO 
(Con đường giải thoát)
A-la-hán Ưu-ba-để-sa tạo luận
Tam tạng Tăng-già-bà-la dịch
Nguyên Hồng dịch tiếng Việt

 

QUYỂN 1

Phẩm 1: NHÂN DUYÊN

Kính lễ Thế Tôn Ứng cúng Chính biến tri.

Giới định trí tuệ,

Vô thượng giải thoát.

Tùy giác pháp này,

Xứng danh Cồ-đàm..

Nếu ai muốn thoát khỏi các khổ nạn, lìa bỏ chấp trước, thành tựu thắng phần, tâm sợ sinh già chết, ưa điều thiện, ưa giải thoát đến cái vui Niết-bàn, thì dẫu chưa đến bờ kia cũng có thể được đầy đủ. Rộng học Tu-đa-la, Tì-đàm và Tì-ni đó là con đường giải thoát tôi sắp nói. Xin hãy lắng nghe.

Hỏi: Sao gọi là giới?

Đáp: Giới nghĩa là oai nghi. Định là không loạn. Tuệ là tri giác. Giải thoát là lìa thoát ràng buộc. Vô thượng là vô lậu. Tùy giác là biết

được nghĩa. Pháp này là 4 Thánh pháp. Cồ-đàm là họ của Phật. Xứng danh là xứng đáng danh nghĩa Thế Tôn. Vì giới định tuệ là công đức giải thoát vượt trội, có thể đưa đến giải thoát cao tột nên gọi là vô lượng.

Sao gọi là con đường giải thoát?

Con đường giải thoát gồm có 5 thứ:

  1. Phục giải thoát.
  2. Bỉ phần giải thoát.
  3. Đoạn giải thoát.
  4. Khinh an giải thoát.
  5. Ly giải thoát.

Sao gọi là phục giải thoát?

Là hiện tu hành dùng Sơ thiền đè bẹp các thứ ngăn che, gọi là phục giải thoát.

Bỉ phần giải thoát là hiện tu đạt được một phần định, giải thoát các kiến chấp.

Đoạn giải thoát là tu theo con đường xuất thế gian, diệt trừ các kết sử.

Khinh an giải thoát là như tâm an vui khi chứng được đạo quả. Ly giải thoát là chứng đắc Vô dư Niết-bàn.

Con đường nầy đưa đến sự giải thoát hoàn toàn, là con đường đầy đủ dựa trên cơ sở tu tập giới, định, tuệ, nên được gọi là giải thoát đạo, tức con đường giải thoát.

Giờ đây, tôi sẽ nói về giải thoát đạo.

Hỏi: Nói giải thoát đạo để làm gì?

Đáp: Có người thiện muốn được giải thoát, nhưng vì không được nghe nói về giải thoát, không hiểu được phục giải thoát, không hiểu phục giải thoát một cách đúng đắn, người ấy như một người mù không ai dẫn đường, một mình nơi đất nước xa lạ, chỉ gặp khổ sở không giải thoát, muốn được giải thoát mà chẳng do đâu.

Bởi vì sao? Giải thoát là nhân. Như Phật có nói: Như có chúng sinh trần lao vi tế, mà không được nghe pháp, nên rốt cuộc phải thoái chuyển.

Lại như Phật nói: Các Tì-kheo, có 2 nhân, 2 duyên, khiến sinh chính kiến.

Những gì là hai? Một là nghe người khác nói. Hai là tự mình lý giải bằng chính niệm. Cho nên nói giải thoát.

Không được phục giải thoát, là để sinh chán lìa cho nên nói giải thoát. Không được phục giải thoát một cách đúng đắn, là để trừ được con đường bất chính, mà chứng đắc con đường thiền định giải thoát, cho nên nói giải thoát. Như người đi xa được gặp người khéo dẫn đường.

Người đươc phục giải thoát đạo này thành tựu đầy đủ 3 ấm.

Những gì là ba?

Là giới ấm, định ấm, và tuệ ấm.

Sao gọi là giới ấm?

Là chính ngữ, chính nghiệp, chính mạng và các chủng loại trong đó. Hoặc các thứ công đức của giới trong giới ấm.

Sao gọi là định ấm?

Là chính tinh tiến, chính niệm, chính định và các chủng loại trong định ấm. Hoặc các thứ công đức ở trong định.

Sao gọi là tuệ ấm?

Là chính kiến, chính tư duy và các chủng loại trong đó. Hoặc các thứ công đức trong tuệ.

Đó gọi là thành tựu đầy đủ 3 ấm.

Con đường phục giải thoát cần phải học 3 môn học. Đó là tăng thượng giới học, tăng thượng tâm học và tăng thượng tuệ học. Có giới là có tăng thượng giới học. Có định là có tăng thượng tâm học. Có tuệ là có tăng thượng tuệ học.

Lại nữa có giới giới học là có giới tăng thượng giới học. Có định tâm học là có định học tăng thượng tâm học. Có tuệ tuệ học là có tuệ tăng thượng tuệ học.

Hỏi: Sao gọi là giới học?

Đáp: Là có giới tướng gọi là giới học. Đạt phần giới gọi là tăng thượng giới học.

Lại nữa phàm phu giới là giới học, Thánh giới là tăng thượng giới học.

Hỏi: Sao gọi là tâm học?

Đáp: Là định cõi Dục.

Hỏi: Sao gọi là tăng thượng tâm học?

Đáp: Định cõi Sắc và định cõi Vô sắc là tăng thượng tâm học.

Lại nữa có định tướng tâm học, đạt phần định và đạo định là tăng thượng tâm học.

Sao gọi là tuệ học?

Thế gian trí là tuệ học. Tứ đế, tương tự trí và đạo trí là tăng thượng tuệ học.

Như Thế Tôn vì người độn căn nói tăng thượng giới học, vì người trung căn nói tăng thượng tâm học, vì người lợi căn nói tăng thượng tuệ học.

Hỏi: Học là nghĩa thế nào?

Đáp: Học cái phải học, học cái tăng thượng học, học đến không còn chỗ để học mới gọi là học. Học 3 cái học như vậy gọi là phục giải thoát đạo.

Do 3 thứ học này thành tựu thanh tịnh nên gọi là giới thanh tịnh, tâm thanh tịnh và tri kiến thanh tịnh. Do đó giới là giới thanh tịnh, định là tâm thanh tịnh, tuệ là tri kiến thanh tịnh.

Giới thì tẩy sạch cấu bẩn của sự phạm giới, định thì tẩy sạch cấu bẩn của phiền não trói buộc. Đó là tâm thanh tịnh. Tuệ thì trừ cấu bẩn của vô tri. Đó gọi là tri kiến thanh tịnh.

Lại nữa giới trừ cấu bẩn của ác nghiệp, định trừ cấu bẩn của triền, tuệ trừ cấu bẩn của sử. Ba thanh tịnh như vậy là phục giải thoát đạo.

Lại nữa lấy 3 thứ thiện phục đạo là sơ thiện trung thiện và hậu thiện, lấy giới làm sơ thiện, lấy định làm trung thiện, lấy tuệ làm hậu thiện.

Vì sao giới là sơ thiện?

Người có tinh tiến thì thành tựu không thoái lui. Do không thoái lui nên vui mừng, do vui mừng nên phấn khởi, phấn khởi nên thân khoan khoái, do thân khoan khoái nên vui, do vui nên tâm định. Đó gọi là sơ thiện. Định là trung thiện là vì định thì tri kiến như thật. Tuệ là hậu thiện là vì đã tri kiến như thật nên nhàm chán, do nhàm chán nên lìa dục, do lìa dục nên giải thoát, do giải thoát nên được tri kiến tự nhiên.

Như vậy thành tựu 3 thiện đạo, đã được phục giải thoát đạo, được 3 thứ vui là cái vui không tội lỗi, cái vui tĩnh lặng và cái vui chính giác.

Do giới được cái vui không tội lỗi, do định được cái vui tĩnh lặng, do tuệ được cái vui chính giác. Thành tựu 3 cái vui như vậy là phục giải thoát đạo, xa lìa nhị biên đầy đủ trung đạo.

Do giới này trừ các dục bám dính, vui trong cái vui không tội lỗi.

Do định trừ được sự bạc nhược của thân, tăng thêm sự hỷ lạc trong cái vui tịch diệt.

Do tuệ phân biệt 4 đế, đầy đủ trung đạo, ái lạc sâu sắc trong cái vui chính giác. Xa lìa nhị biên được đầy đủ trung đạo là phục giải thoát đạo.

Do giới trừ các nẻo ác. Do định trừ cõi Dục. Do tuệ trừ tất cả các hữu.

Với giới tu nhiều, với định, tuệ tu ít thì thành Tu-đà-hoàn, Tưđà-hàm.

Với giới định tu nhiều, với tuệ tu ít thì thành A-na-hàm.

Tu đầy đủ 3 thứ thì thành A-la-hán giải thoát cao tột.

Phẩm 2: PHÂN BIỆT GIỚI

Hỏi: Sao gọi là giới? Tướng của giới như thế nào? Mùi vị của giới như thế nào? Giới khởi như thế nào? Thế nào là đủ giới? Giới có công đức gì? Giới nghĩa, giới hạnh như thế nào? Có gì khác biệt? Có bao nhiêu giới? Giới khởi từ đâu? Giới trước tiên, giữa và sau như thế nào? Có bao nhiêu pháp chướng ngại giới? Có bao nhiêu nguyên nhân của giới? Có bao nhiêu thứ giới? Làm sao cho giới được thanh tịnh? Có bao nhiêu nhân duyên khiến giới an trụ?

Đáp: Sao gọi là giới? Là tư giới, oai nghi giới, và hộ giới.

Thế nào là tư giới?

Là tư duy suy nghĩ rằng ta không làm ác, làm thì tự mình chịu.

Thế nào là oai nghi giới?

Là lìa những trường hợp phạm tội.

Thế nào là hộ giới?

Là nếu người có giữ giới thì thân miệng không tội lỗi.

Lại nữa có nghĩa là đoạn, có oai nghi với tất cả thiện pháp đều là giới. Như A-tì-đàm nói: Dùng pháp xuất ly đoạn trừ các dục là giới có thể lìa ác.

Tư giới, hộ giới, oai nghi giới là lấy sự không sân giận đoạn diệt sân giận.

Lấy tướng sáng suốt đoạn trừ sự ham ngủ.

Lấy sự không tán loạn đoạn trừ sự kích động vui chơi.

Lấy sự thấy pháp đoạn trừ nghi hối.

Lấy trí đoạn vô minh.

Lấy niềm vui đoạn trừ cái không vui.

Lấy Sơ thiền trừ 5 thứ ngăn che.

Lấy Nhị thiền trừ giác quán.

Lấy Tam thiền trừ hỷ. Lấy Tứ thiền trừ lạc.

Lấy không nhập định trừ tưởng về sắc, cho đến sân giận và các thứ tưởng.

Lấy thức nhập định trừ hư không.

Lấy định vô sở hữu trừ tưởng thức nhập.

Lấy định phi tưởng phi phi tưởng trừ vô sở hữu.

Lấy cái thấy vô thường trừ tưởng về thường.

Lấy cái thấy khổ trừ tưởng cho là vui.

Lấy cái thấy vô ngã trừ tưởng có ngã.

Lấy cái thấy bất tịnh trừ tưởng cho là tịnh.

Lấy cái thấy tội lỗi mà trừ tưởng ái dục.

Lấy cái thấy không nhiễm trừ tưởng tham dục.

Lấy cái thấy tịch diệt trừ tập.

Lấy cái thấy tiêu diệt trừ tưởng sâu dày.

Lấy cái thấy phân chia trừ tưởng đoàn tụ.

Lấy cái thấy sinh diệt trừ tưởng thường còn.

Lấy cái thấy vô tướng trừ tưởng có tướng.

Lấy cái thấy vô tác trừ tưởng tạo tác.

Lấy cái thấy không trừ tưởng nhập.

Lấy cái thấy tăng thượng tuệ trừ chấp trước.

Lấy cái tri kiến như thật trừ chấp vô minh.

Lấy cái thấy tội lỗi mà trừ chấp nơi ở.

Lấy cái thấy quán tướng kia trừ chẳng quán kia.

Lấy cái thấy chuyển tán trừ chấp hòa hợp.

Lấy Tu-đà-hoàn đạo trừ kiến nhất xứ phiền não.

Lấy tư-đà-hàm đạo trừ thô phiền não.

Lấy A-na-hàm đạo trừ phiền não vi tế.

Lấy A-la-hán đạo trừ tất cả phiền não.

Đó gọi là hộ giới, tư giới, oai nghi giới. Tất cả nói chung là giới.

Giới tướng là gì?

Là lấy oai nghi phá trừ phi oai nghi.

Hỏi: Thế nào là phi oai nghi?

Đáp: Phi oai nghi là phá pháp. Có 3 thứ phá pháp:

  1. Phá pháp Ba-la-đề-mộc-xoa
  2. Phá duyên pháp.
  3. Phá căn pháp.

Sao gọi là phá pháp Ba-la-đề-mộc-xoa?

Là không hổ không thẹn, lìa bỏ lòng tin nơi Như Lai.

Sao gọi là phá duyên pháp?

Là quá đáp ứng cho sự trau chuốt thân hình mà không biết đủ.

Sao gọi là phá căn pháp?

Là không đóng cửa 6 căn, xa lìa chính niệm và tuệ. Do 3 thứ này che lấp là phi oai nghi, gọi là giới tướng.

Thế nào là vị, là khởi, là túc xứ?

Niềm vui không tội lỗi là vị, không lo buồn là khởi, 3 thiện hành là túc xứ.

Lại nữa niềm vui vượt trội là vị, không hối tiếc là khởi, che các căn là túc xứ.

Thế nào là công đức của giới?

Không hối là công đức của giới. Như Thế Tôn bảo A-nan: Không hối giới thiện là nghĩa của công đức.

Lại nữa gọi giới là niềm vui không tội lỗi, là chủng tính thượng đẳng, là của cải làm cho giàu sang, đất của người trì giới ở là đất Phật, ở đất Phật thì tắm không dùng nước, là hương khắp xông, là bóng theo hình, là dù lọng có thể che, là dòng giống Thánh, là học vô thượng, là con đường đưa đến nẻo thiện.

Nếu ai có giới thì vì có giới nên được không lo sợ, làm vinh hiển thân thuộc bạn bè, được hàng Thánh giả thương yêu, là chỗ dựa của thân thuộc bạn bè, là khéo trang nghiêm, là thống lãnh các hạnh, là nơi công đức, là nơi cúng dường, là nơi đồng học quý trọng. Trong các thiện pháp không có gì sợ hãi, không thoái lui, thành tựu tất cả ý nguyện thanh tịnh, dầu chết cũng không quên, làm phương tiện đưa đến cái vui phục giải thoát. Công đức của giới vô biên như vậy.

Thế nào là nghĩa của giới?

Là nghĩa lạnh, là nghĩa tăng thượng, là nghĩa hành, là nghĩa tự tính, là nghĩa tính khổ vui tương ưng.

Lại có nghĩa là đầu, là lạnh, là an.

Sao gọi đầu là nghĩa của giới?

Là như người không có đầu thì tất cả các căn không thể thu nhận trần, bấy giờ gọi là chết. Cũng như vậy, Tì-kheo lấy giới làm đầu. Nếu đầu đã đứt là mất hết các thiện pháp. Phật pháp gọi đó là chết. Giới gọi là đầu với nghĩa như vậy.

Sao gọi lạnh là nghĩa của giới?

Là như chà xát gỗ chiên đàn lạnh tốt, trừ được thân nhiệt sinh dễ chịu. Cũng như vậy, giới là gỗ chiên đàn lạnh tốt có thể tiêu diệt tâm nóng nảy lo sợ của sự phạm giới, thành tựu hoan hỷ. Đó là nghĩa lạnh của giới.

Sao gọi an là nghĩa của giới?

Là người có giới đức thì tác phong oai nghi nghiêm túc không sinh sợ hãi. Đó là nghĩa an của giới.

Có gì sai khác với hạnh?

Hạnh là tu hành tinh tiến, thụ trì pháp Đầu-đà. Đó là hạnh không phải là giới, mà giới thì cũng là hạnh. Giới là thụ oai nghi, cũng gọi là hạnh.

Giới có mấy thứ?

Có 3 thứ giới: giới thiện, giới bất thiện và giới vô ký.

Sao gọi là giới thiện? Là thân nghiệp khẩu nghiệp thiện và chính mạng, không tội lỗi nhờ đó được quả báo tốt.

Sao gọi là giới bất thiện?

Là thân nghiệp khẩu nghiệp ác và sống tà mạng có tội lỗi nên quả báo không khả ái.

Sao gọi là giới vô ký?

Là thân khẩu nghiệp vô lậu và sống thanh tịnh, không có tội lỗi cũng không quả báo.

Sao gọi là khởi giới?

Là tâm thiện sinh khởi là giới thiện, tâm bất thiện sinh khởi là giới bất thiện, tâm vô ký sinh khởi là giới vô ký.

Giới ban đầu khoảng giữa và sau là thế nào?

Ban đầu là thụ giới, khoảng giữa là không phạm không lỗi và sau là hoan hỷ.

Có bao nhiêu pháp làm chướng ngại giới? Có bao nhiêu pháp làm nhân cho giới?

Có 34 pháp làm chướng ngại đạo 34 pháp là nhân cho giới. Đó là tức giận, sầu não, che giấu, nóng nảy, bủn xỉn, ganh ghét, giả dối, gièm siểm, uất hận, tranh giành, kiêu ngạo, cao ngạo, ngạo mạn, phóng túng, lười biếng, tham dục, không biết đủ, không theo trí, không chính niệm, ác khẩu, bạn xấu, trí hiểu biết xấu, kiến giải xấu, bất nhẫn, không tin, không hổ, không thẹn, nuông chiều thân miệng, lân la thế tục, gần gũi đàn bà, không kính trọng thầy học, không kềm chế các căn, không tiết giảm ăn uống, đầu hôm nửa đêm cuối đêm lười biếng không ngồi thiền tụng kinh. Ba mươi bốn pháp này làm chướng ngại đạo. Nếu mỗi mỗi làm chướng ngại thì giới hạnh không thành tựu viên mãn. Nếu giới hạnh không thành tựu đầy đủ thì ắt bị thoái lui mất.

Nếu đối trị lại 34 pháp này thì đó là nhân của giới.

Có bao nhiêu thứ giới?

Có 2 thứ, 3 thứ, 4 thứ.

Hai thứ là gì?

Là tính giới và chế giới.

Thân miệng làm những điều mà Phật cấm không cho làm, đó thuộc về tính giới.

Thân miệng có thể làm những điều mà Phật không cho làm, đó thuộc về chế giới.

Tính giới thì lấy tín, tinh tiến, có thể làm cho đầy đủ. Chế giới thì lấy tín, niệm, trì, có thể khiến đầy đủ.

Lại nữa giới có 2 thứ là thoái giới và đắc giới.

Sao gọi là thoái? Là có thể diệt mất giới thành phi giới.

Sao gọi là đắc giới? Là được các thiện pháp, trừ các pháp phi giới như trừ bóng tối. Do đoạn trừ phi giới lìa các nẻo ác. Do được chính giới có thể đến các nẻo thiện. Do đoạn trừ phi giới được thành tựu trụ phần.

Lại nữa giới có 2 thứ là thế giới và xuất thế giới.

Sao gọi là xuất thế giới? Là như giới đạt được quả của Thánh đạo là giới xuất thế gian, ngoài ra là giới thế gian. Do giới thế gian thành tựu nên có đầy đủ. Do giới xuất thế gian thành tựu mới có thể giải thoát.

Lại nữa giới có 2 thứ là có hạn lượng và không có hạn lượng. Giới không đầy đủ là giới có hạn lượng. Nếu giới đầy đủ như Phật đã chế là giới không có hạn lượng.

Lại nữa giới có 2 thứ là có biên giới và không biên giới.

Sao gọi là có biên giới? Là như có người vì lợi thế gian là hơn, vì bạn bè thân thích, vì thân mình, vì mạng sống, vì muốn vượt quá chỗ nương cậy mà thụ giới. Giới đó lấy lợi dưỡng làm biên giới, tiếng khen là biên giới, thân làm biên giới, mạng làm biên giới.

Sao gọi là không biên giới? Là Tì-kheo vì lợi ích xuất thế gian, vì làm hơn, vì thân, vì mạng, đúng như pháp thụ giới không khởi tâm vi phạm huống chi là cố ý phạm giới. Đây gọi là giới không có biên giới.

Lại nữa giới có 2 thứ là có chỗ dựa và không có chỗ dựa.

Sao gọi là có chỗ dựa? Là có tương ưng giới dựa vào ái, giới trộm tương ưng giới dựa vào kiến chấp, khen mình chê người khác tương ưng giới dựa vào mạn mà khởi.

Những giới có chỗ dựa này nếu thành tựu giải thoát mà thụ dụng là giới không có chỗ dựa. Nếu là giới có chỗ dựa thì đó chẳng phải là thứ mà người trí tuệ ưa thích. Nếu là giới không chỗ dựa mới là chỗ ưa thích của người trí tuệ.

Lại nữa giới có 2 thứ là giới của hàng mới học Phạm hạnh và giới vi tế.

Sao gọi là mới bắt đầu Phạm hạnh? Là giới bao gồm chính nghiệp, chính ngữ, chính mạng. Đó gọi là bắt đầu của Phạm hạnh.

Có bao nhiêu học giới khác gọi là khinh giới.

Lại nữa giới có 2 thứ là hữu tâm tương ưng và vô tâm tương ưng.

Sao gọi là hữu tâm? Là mới học Phạm hạnh.

Sao gọi là vô tâm? Là các khinh giới khác.

Thanh Văn mới bắt đầu Phạm hạnh kiên trì các giới trên, do đó đối với các khinh giới này có thể phạm có thể khởi. Bởi vì sao? Vì Phật đã không nói điều này chướng ngại giải thoát.

Lại nữa có 2 thứ giới là giới không phạm và giới thanh tịnh.

Sao gọi là không phạm? Đó là giới Thanh Văn.

Sao gọi là giới thanh tịnh? Đó là giới của Phật và Duyên Giác.

Lại nữa giới có 2 thứ là thời phần giới và tận hình giới. Thụ một thời gian ngắn không trọn đời gọi là thời phần giới. Bắt đầu theo thầy phát nguyện thụ cho đến suốt đời gọi là tận hình giới. Thời phần giới thì quả báo có thời hạn. Tận hình giới thì quả báo không thời hạn.

Ba thứ là gì? Là chận đứng các ác không phạm, thụ rồi không phạm, đoạn dứt không phạm.

Thế nào là chận đứng các ác không phạm? Là tuy chưa thụ, hoặc không thuộc phạm vi hành trì của giới đã thụ nhưng không sinh tâm vi phạm. Đó gọi là chận đứng các ác không phạm.

Thế nào là thụ rồi không phạm? Là từ khi thụ giới rồi không phạm trở lại. Đó gọi là thụ rồi không phạm.

Thế nào là đoạn dứt không phạm? Là Thánh nhân dùng Thánh đạo đoạn các nhân ác. Đó là đoạn dứt không phạm.

Lại nữa giới có 3 thứ là xúc giới, bất xúc giới và ỷ giới.

Thế nào là xúc? Là vừa mới thấy tướng hữu vi liền sinh ái là xúc. Là giới thiện của phàm phu dùng để vào đạo gọi là vô xúc giới. Thế nào là ỷ giới? Là giới A-la-hán.

Lại nữa có 3 thứ là giới nương vào thế gian, giới nương vào bản thân, giới nương vào chính pháp.

Thế nào là giới nương vào thế gian? Là nếu người vì lo sợ nương theo ý thế gian để trừ các pháp ác, đó là nương vào thế gian.

Thế nào là giới nương vào bản thân? Là nếu người vì sợ sệt mà nương vào thân mạng để trừ các pháp ác, đó là nương vào bản thân.

Thế nào là nương vào chính pháp? Là nếu người sợ hãi mà nương nhờ chính pháp trừ các bất thiện, đó gọi là nương nhờ chính pháp.

Lại nữa giới có 3 thứ là sở nguyện không đồng, sở nguyện đồng đều và không có sở nguyện.

Thế nào là sở nguyện không đồng? Là thụ giới mà gây khổ não cho người khác, đó là sở nguyện không đồng.

Thế nào là sở nguyện đồng đều? Là thụ giới vì được niềm vui hiện tại và giải thoát về sau, đó là sở nguyện đồng đều.

Thế nào là không có sở nguyện? Là thụ giới mà không ăn năn vì đã làm lợi ích cho ngứời khác, đó là không có sở nguyện.

Lại nữa giới có 3 thứ là giới thanh tịnh, giới không thanh tịnh và giới có nghi ngờ.

Thế nào là giới thanh tịnh? Có 2 nhân duyên khiến giới thành thanh tịnh: một là không phạm, hai là phạm rồi có thể sám hối. Đó là giới thanh tịnh.

Thế nào là giới không thanh tịnh? Có 2 nhân duyên khiến giới không thanh tịnh: một là tự cố ý phạm, hai phạm rồi không sám hối. Đó là giới không thanh tịnh.

Thế nào là giới có nghi ngờ? Có 3 nguyên nhân khiến có nghi ngờ: một là không phân biệt nơi chốn, hai là không phân biệt sự vi phạm, ba là không phân biệt chính hạnh. Đó là giới có nghi ngờ.

Nếu người tu thiền, biết giới không thanh tịnh mà hổ thẹn sâu sắc thì được niềm vui thanh tịnh. Lại như có nghi ngờ mà hiện biết tội lỗi thì được an lạc.

Lại nữa giới có 3 thứ là: học, vô học và phi học phi vô học.

Thế nào là học? Là giới của 7 người học.

Thế nào là vô học? Là giới của A-la-hán.

Thế nào là phi học phi vô học? Là giới của phàm phu.

Lại nữa giới có 3 thứ là giới sợ, giới lo và giới si.

Thế nào là sợ? Là có người sợ tội không dám làm ác, đó là giới sợ,

Thế nào là lo? Là như người lo nghĩ nhớ đến người thân mà sinh sầu khổ, vì sầu khổ nên không khởi việc làm ác, đó là giới lo.

Thế nào là giới si? Là có người thụ giới bò, giới chó, đó là giới si. Nếu thành tựu giới si thì thành bò thành chó, nếu không thành thì đọa địa ngục.

Lại nữa giới có 3 thứ là: hạ, trung và thượng.

Thế nào là hạ? Là khi tiếp xúc thượng phiền não, thượng thượng phiền não, đại phiền não không biết đủ chỗ nhiễm, đó là giới hạ.

Thế nào là trung? Là khi tiếp xúc phiền não vi tế biết đủ chỗ nhiễm, đó là giới trung.

Thế nào là thượng? Là không tiếp xúc vẫn biết đủ chỗ nhiễm, đó là thượng giới.

Thành tựu viên mãn giới hạ thì đầy đủ làm người. Thành tựu viên mãn giới trung thì đầy đủ làm trời. Thành tựu viên mãn giới thượng thì được giải thoát.

Lại nữa giới có 4 thứ là thoái phần, trụ phần, thắng phần và đạt phần.

Thế nào là thoái phần? Là không loại trừ các chướng ngại của đạo, xa lìa người tinh tiến, biết mà cố phạm, phạm rồi che giấu, đó gọi là thoái phần.

Thế nào là giới trụ phần? Là với giới thành tựu không khởi phóng túng, không sinh kiến tịch diệt là thành tựu trụ phần.

Với giới định thành tựu viên mãn không khởi phóng túng, không sinh kiến tịch diệt là thành tựu thắng phần.

Với giới định thành tựu viên mãn không khởi tâm phóng túng sinh khởi kiến tịch diệt, là thành tựu đạt phần.

Lại nữa giới có 4 thứ là giới Tỳ-kheo, giới Tỳ-kheo-ni, giới không cụ túc và giới tại gia.

Thế nào là giới Tỳ-kheo? Ba-la-đề-mộc-xoa oai nghi là giới Tỳ-kheo.

Thế nào là giới Tỳ-kheo-ni? Ba-la-đề-mộc-xoa oai nghi là giới Tỳ-kheo-ni.

Sa-di, Sa-di-ni 10 giới và giới Thức-xoa-ma-ni là giới không cụ túc.

Năm giới của Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di, và 8 giới là giới tại gia.

Lại nữa giới có 4 thứ là tính giới, hành giới, pháp chí giới và sơ nhân giới.

Thế nào là tính giới? Giới của Uất-đan-việt là tính giới. Đó là giới tự nhiên.

Thế nào là hành giới? Các pháp của ngoại đạo, quốc gia, chủng tộc chế định là hành giới.

Thế nào là pháp chí giới? Giới của Bồ-tát nhập thai gọi là pháp chí giới.

Thế nào là sơ nhân giới? Giới của Bồ-tát và Ma-ha Ca-diếp gọi là sơ nhân giới.

Lại nữa giới có 4 thứ là giới giới, tập giới, diệt giới và diệt đạo cụ túc giới.

Thế nào là giới giới? Có 2 thứ giới là giới thiện và giới bất thiện, đó gọi chung là giới giới.

Thế nào là tập giới? Là thiện tâm tập họp giới thiện, tâm bất thiện tập họp giới bất thiện, gọi chung là tập giới.

Thế nào là diệt giới? Là được giới thiện diệt giới bất thiện, được A-la-hán diệt giới thiện. Đó là diệt giới.

Thế nào là diệt đạo cụ túc giới? Là 4 chính cần. Đó gọi là diệt đạo cụ túc giới. Như vậy nếu chỉ phân biệt hiểu rõ thụ trì 4 pháp đó là tinh tiến không phải chân thật trì giới mà chỉ gọi là chính cần.

Lại nữa giới có 4 thứ là Ba-la-đề-mộc-xoa oai nghi giới, mạng thanh tịnh giới, căn oai nghi giới và duyên tu giới.

Thế nào là Ba-la-đề-mộc-xoa oai nghi giới? Là Tì-kheo thụ trì Ba-la-đề-mộc-xoa oai nghi giới, thụ giới này rồi bất luận ở, đi, đi đến nơi đâu đều được cụ túc, lo sợ đến tội nhỏ, học tập tất cả giới luật phải học. Khi đó Tì-kheo này được gọi là sư pháp Tì-kheo. Sư pháp Tì-kheo đồng thụ trì giới phàm phu thiện như nhau.

Ba-la-đề-mộc-xoa oai nghi giới còn bao gồm giới hữu học, giới vô học và giới bất động pháp. Nói Ba-la-đề-mộc-xoa tức là giới khởi, là bắt đầu, là thực hành, là giữ gìn, là oai nghi, là thoát, là không trói buộc v.v… là tất cả pháp, do đó cũng gọi là chính thụ thiện pháp.

Nghĩa của Ba-la-đề-mộc-xoa là hộ trì thân khẩu nghiệp, là hộ trì oai nghi, là thành tựu trì giới Ba-la-đề-mộc-xoa oai nghi. Trụ là nhiếp hộ 4 oai nghi. Các hạnh đầy đủ là Ba-la-đề-mộc-xoa còn bao gồm hành và phi hành.

Thế nào là phi hành?

Là nếu có Tì-kheo đối với ai đó hoặc cho gậy tre, hoặc cho lá cây, hoa, quả, hoặc cho tăm xỉa răng, nước tắm, hoặc mua bán tốt xấu, hoặc đùa cợt vui chơi, hoặc dua nịnh để tiến thân, hoặc ngược xuôi chiêu tập hội hè. Những hành vi như thế Phật ngăn cấm. Đó là sống tà mạng đều là hành vi phi pháp.

Lại nữa có 2 thứ hành vi phi pháp là hành vi phi pháp do thân làm và hành vi phi pháp do miệng nói.

Thế nào là hành vi phi pháp do thân làm?

Là như có Tì-kheo có tâm khinh mạn, trong chúng Tăng không kính trọng các bậc Đại đức, không xem ai ra gì, đi trước ngồi trên, mặc áo đi giày da, cử chỉ thô tháo, vỗ vai nói cười bỡn cợt, quấy rối làm phiền mọi người, đảo lộn trật tự lớn nhỏ, hoặc đốt củi đun nấu trong nhà tắm, đóng cửa mở cửa không lên tiếng hỏi han, hoặc xuống sông thì xuống nước trước, uốn éo mình mẩy một cách thô bỉ, hoặc vào nhà người thì buông tuồng từ nhà trước ra nhà sau, đứng ngồi không ngôi thứ, hoặc ở chỗ vắng đùa bỡn với phụ nữ, rờ rẫm xoa đầu gái trẻ. Đó là những lỗi của hành vi phi pháp.

Thế nào là hành vi phi pháp do miệng làm?

Là như có Tì-kheo tâm chẳng kính sợ, chẳng hỏi ý bậc tôn túc mà tự tiện thuyết pháp, hoặc giảng Ba-la-đề-mộc-xoa, hoặc vừa vỗ vai người khác vừa nói, hoặc vào nhà lạ mà hỏi nữ chủ nhân tên họ là chi, có cái gì ăn không, ta đang muốn ăn v.v… ngôn ngữ như vậy là hành vi phi pháp thuộc về miệng làm. Tất cả mọi sự phạm giới đều là hành vi phi pháp.

Thế nào là hành?

Hành là trái với phi hành.

Lại nữa Tỳ-kheo có tâm cung kính, biết hổ thẹn, thành tựu oai nghi không chỗ nào thiếu sót, giữ gìn các căn, ăn uống tiết độ, đầu hôm cuối đêm chẳng thường ngủ nghỉ, có trí tuệ, có tri túc, không chạy theo thế tục, phát tâm mạnh mẽ, kính trọng bạn đồng học. Đó gọi là hành.

Hành xứ là gì? Là nơi lui tới. Có 2 loại hành xứ là nơi không nên lui tới và nơi có thể lui tới.

Nơi không nên lui tới là gì?

Là nếu Tì-kheo vào nhà gái giang hồ, nhà đàn bà góa, nhà gái trinh, nhà ái nam, tinh xá Tì-kheo-ni, và các quán rượu, thân cận quốc vương, đại thần, Sa-môn ngoại đạo, bạn bè phi pháp những kẻ chẳng có tín tâm, chẳng làm lợi ích cho dân chúng và bị dân chúng hết sức oán ghét. Đó là những nơi chẳng nên lui tới. Như Phật có nói, Tỳ-kheo chẳng nên lui tới nơi phi Phạm hạnh.

Thế nào là nơi phi Phạm hạnh? Có thể biết là nơi buôn phấn bán hương.

Lại nữa có 3 thứ hành xứ là: hành xứ nương tựa, hành xứ giữ gìn và hành xứ ràng buộc.

Thế nào là hành xứ nương tựa? Là người bạn lành có đầy đủ 10 công đức, nương tựa nơi công đức này mà được nghe điều chưa nghe, nghe rồi hiểu thêm rộng, đoạn trừ nghi ngờ hối tiếc, chính kiến trong trắng, có thể theo pháp học, tín tâm sâu sắc mạnh mẽ, tăng trưởng thêm giới hạnh và trí tuệ, niệm niệm tăng trưởng. Đó là nơi hành xứ đáng nương tựa.

Thế nào là hành xứ giữ gìn? Là nếu có Tỳ-kheo phải vào nhà ai, hay đi vào làng xóm thì mắt nhìn xuống đất phiá trước chẳng quá một tầm, dung nghi chỉnh tề, mọi người thấy đều kính nể, không nhìn voi, ngựa, xe cộ cùng trai gái đi dự hội, không ngắm trông cung điện, ngỏ hẽm đường sá, không ngẩng đầu nhìn 4 phía, đó là biết giữ gìn khi đi lại. Đó gọi là hành xứ giữ gìn.

Thế nào là hành xứ ràng buộc? Như Phật nói, nếu Tỳ-kheo lưu trú nơi gia cảnh của mình, đó là hành xứ ràng buộc.

Đó gọi là hành. Hành xứ này thành tựu gọi là hành xứ đầy đủ.

Nói lo sợ đến cả tội nhỏ có nghĩa là ta lo sợ cả đến những lỗi nhỏ nhặt sợ phạm phải trong khi tu học. Đó là lo sợ cả tội nhỏ.

Lại nữa có thuyết cho rằng, nếu khởi tâm bất thiện, đó là lỗi nhỏ. Đối với lỗi nhỏ đó, thấy tai hoạ do lỗi gây ra nên sinh tâm lìa xa tội. Đó là biết thấy lo sợ cả về tội nhỏ.

Nói thụ học những điều phải học, vậy phải học là những gì? Đó là 7 nhóm oai nghi, tức là cần phải tu học tất cả những điều phải học. Đó gọi là Ba-la-đề-mộc-xoa oai nghi giới.

Hỏi: Sao gọi là thanh tịnh giới?

Đáp: Là không phạm tà mạng.

Thế nào là tà mạng?

Là có tướng biếng nhác, dua nịnh, hiện tướng giận dữ mắng nhiếc để thí mà mong được thí trở lại.

Thế nào là biếng nhác? Biếng nhác có 3 trạng thái là nghĩ kế muốn được, muốn được 4 việc cúng dường, và giả hiện oai nghi tự khoe khoang.

Nếu có Tỳ-kheo ôm tâm xấu ác, tham lợi tiền bạc, nhường áo quần tốt đẹp cầu lấy thứ thô xấu làm như không muốn có thứ tốt, hay giả ra vẻ vì thương xót người mà nhận tứ sự cúng dường của người ấy. Đó là nghĩ kế gạt gẫm về sự hoá duyên.

Nếu có Tỳ-kheo ôm tâm xấu ác, tham lợi, giả hiện oai nghi, rằng ta nhập thiền định cần được cúng thí để đọc tụng kinh điển. Đó là biếng nhác về oai nghi.

Nếu có Tỳ-kheo tham dục dối gạt nói với kẻ khác rằng ta chứng đắc Thánh pháp, an trú trong tĩnh lặng, hoặc được nhập sâu thiền định hiện bày tướng hơn người, vì tham lợi mà quá tự đề cao. Đó là biếng nhác.

Như tâm niệm giả dối nêu điều lành để tán dương, mua bàn tráo đổi tốt xấu diễu cợt khôi hài để đem lợi về mình, đó là dua nịnh.

Thế nào là hiện tướng? Là dựa vào sự lợi lộc mà nói pháp để mong cầu lợi cho mình chứ không khắp vì mọi người. Đó gọi là hiện tướng.

Hiện tướng giận dữ mắng nhiếc là lớn tiếng la mắng làm cho người sợ, hoặc tự dưng bịa chuyện thị phi hủy báng người, cho đến dùng bạo lực bắt chẹt người để cầu lợi. Đó gọi là hiện tướng giận dữ mắng nhiếc.

Thế nào là lấy thí để mong được thí? Là đem cho chút ít để mong được đáp lại hậu hĩ. Đó là lấy bố thí mà cầu bố thí. Các hành vi ác này gọi là tà mạng.

Lại nữa, về tà mạng còn có: hoặc cho một khúc tre, hoặc tặng hoa lá trái cây, hoặc cây tăm xỉa răng, bột tắm, hoặc xem tướng đoán mộng, hoặc xem các vì sao, hoặc nghe tiếng cầm thú mà đoán nghiã, hoặc nhìn tướng đi đứng mà nói điều xấu tốt, ác ngôn ly tán, đốt hoa thờ lửa, mở tiệm buôn bán, thống lãnh quân đội, tàng trữ vũ khí. Các hoạt động đó đều gọi là tà mạng. Nếu không vi phạm những điều đó gọi là thanh tịnh giới.

Hỏi: Thế nào là giữ gìn căn oai nghi giới?

Đáp: Là thụ trì không phạm các phiền não nhiễm trước như thấy, nghe, hay, biết, màu sắc, âm thanh, mùi hương, vị giác, dự chạm xúc và các pháp v.v… Đó gọi là gìn giữ căn oai nghi giới.

Gìn giữ căn oai nghi giới do thành tựu viên mãn 9 hạnh là do tướng ác đoạn các căn, đối trị mà không tác ý, như cứu lửa cháy đầu không tạm bỏ ngơ, như thấy oai nghi của Nan-đà, đè bẹp tâm ác, tâm tự tại ở trong định, xa lìa người không gìn giữ các căn, hòa hợp với người biết giữ gìn các căn.

Hỏi: Thế nào là tu hành 4 việc giới?

Đáp: Dùng 8 hành động sau đây để quán chiếu sự tu hành khất thực:

  1. Không vì hành động hung hiểm, không tự cao.
  2. Không vì trau chuốt thân thể đẹp đẽ.
  3. Để nuôi thân và giữ gìn thân.
  4. Để trừ đói khát.
  5. Để thụ trì Phạm hạnh.
  6. Thường tự nghĩ ăn uống là để trừ bệnh cũ không gây bệnh mới.
  7. Thường lấy ít mà được tự yên ổn.
  8. Thưòng an trú không lỗi lầm.

Hỏi: Thế nào là chẳng vì hành động hung hiểm, chẳng vì tự cao?

Đáp: Ta vì tham ăn mà sức mạnh mẽ, hâm mộ các hành động hung bạo và nguy hiểm, đua chạy tranh hơn, đó là các hành động hung hiểm. Tự cao, kiêu mạn, tự tôn mình lên chẳng biết chán đủ, như kẻ giận đang đánh người.

Không vì trau chuốt thân thể đẹp đẽ là người cứ lo cho thân thể đẫy đà, mặt mày béo tốt, khiến người ham thích thú vui không biết chán, thành người đầy dục vọng.

Để nuôi thân và giữ gìn thân, là vì nhờ thực phẩm đó mà thân được an ổn, tựa như trục xe được bôi dầu mỡ.

Để trừ đói khát là thường nghĩ ăn ít. Tu hành như vậy giống như bôi thuốc cho mụt nhọt .

Để thụ trì Phạm hạnh là nhờ ít ăn mà vui trên đường Thánh đạo. Tu hành như vậy xem sự ăn uống như ăn thịt con. Vì ăn uống là để trừ bệnh cũ và không gây bệnh mới, không ít không nhiều. Tu tập như vậy là xem sự ăn uống như đang uống thuốc.

Thường lấy ít mà được tự an, là nhờ ít công đức mà tự an thân, thường tập cái hạnh như săn sóc người bệnh.

Không lỗi lầm, là nhờ lấy ít mà tự an. Tu hành như vậy không khiến người có trí tuệ phiền trách, nên được an trụ trong chỗ không lỗi lầm.

Nếu việc ăn uống được thích hợp, thường không lười biếng, đầu hôm, nửa đêm cuối đêm cũng không mê ngủ thì được thành tựu an ổn. Như vậy nên dùng 8 pháp quán này để tu hạnh khất thực.

Lại nữa 8 hạnh này được tóm lại trong 4 pháp quán. Đó là :

  1. Quán có thể đoạn trừ.
  2. Quán về sự.
  3. Quán lấy ít để tự an.
  4. Quán chút ít công đức.

Hỏi: Thế nào là quán có thể đoạn trừ?

Đáp: Là không hành động hung hiểm, không vì tự cao, chẳng vì trước tiên lo trau chuốt thân thể được đẹp đẽ. Đó gọi là quán có thể đoạn trừ.

Vì để nuôi sống và giữ gìn thân mạng, để trừ đói khát và thụ trì Phạm hạnh, đó là quán về sự.

Ta sẽ trừ bệnh cũ và không gây bệnh mới, đó là quán lấy ít để tự an.

Ta sẽ bằng lòng với số ít mà sống an vui không tội lỗi, đó là quán chút ít công đức.

Bốn pháp quán này được tóm tắt thành 3 pháp, đó là: đoạn nhị biên, được trung đạo và được cụ túc. Dùng quán đoạn trừ dứt bỏ sự tham đắm dục lạc, nghĩa là trừ đói khát, trừ bệnh cũ và không sinh bệnh mới.

Lại nữa dùng pháp quán này chống sự mệt mỏi của thân xác. Ngoài ra quán trung đạo và quán cụ túc cũng cần phải tu hành.

Lại nữa quán y phục để ngăn trừ gió, lạnh, nóng, muỗi, mòng, kiến, để che đậy thân thể cho kín đáo không sinh hổ thẹn. Với pháp quán cụ túc là tu hành đầy đủ như vậy.

Lại nữa cũng quán về việc uống thuốc men cho đến các tật bệnh.

Nếu quán như nói trên, thì quán vào lúc nào?

Về ăn uống và thuốc men, phải quán khi bắt đầu dùng. Về áo quần, đồ nằm, thì quán khi vừa mới nhận.

Lại nữa, hằng ngày hằng giờ đều quán mạng sống của ta là nhờ vào người khác, nên lúc nào cũng quán như vậy.

Các sư tiền bối có nói 4 thứ thụ dụng là:

  1. Thụ dụng như kẻ trộm.
  2. Thụ dụng như người mắc nợ.
  3. Thụ dụng như người được hưởng gia tài.
  4. Thụ dụng như người chủ.

Thế nào là thụ dụng như kẻ trộm? Đó là sự thụ dụng của người phạm giới.

Thế nào là thụ dụng như người thiếu nợ? Đó là sự thụ dụng của người không biết hổ thẹn, người sống tà mạng.

Thế nào là thụ dụng như người được hưởng gia tài? Đó là sự thụ dụng của người tinh tiến tu hành.

Thế nào là thụ dụng như người chủ? Đó là sự thụ dụng của bậc Thánh nhân.

Lại nữa, có 2 thứ thụ dụng là:

  1. Thụ dụng nhơ bẩn.
  2. Thụ dụng trong sạch.

Thế nào là thụ dụng nhơ bẩn? Đó là sự thụ dụng của người tuy biết hổ thẹn nhưng không thể quán.

Thế nào là sự thụ dụng trong sạch? Đó là sự thụ dụng của người biết hổ thẹn, biết tự tiết và chán ghét. Nên phải biết sự trong sạch đó và thường xuyên tu tập.

Đó gọi là tu hành 4 việc về giới.

Như vậy đối với giới luật nghi thì lấy thâm tín mà làm cho thành tựu viên mãn.

Với mạng thanh tịnh giới thì dùng thâm tinh tiến mà cho thành tựu viên mãn.

Với căn oai nghi giới thì lấy thâm tín mà làm cho thành tựu viên mãn.

Với tu hành 4 việc về giới thì dùng thâm tuệ mà làm cho thành tựu viên mãn.

Như vậy mạng thanh tịnh giới là tùy thuộc vào luật nghi giới.

Vì sao vậy? Vì muốn đoạn diệt tất cả mọi sự thì không phải thân mạng có thể làm được mà phải trì giới thanh tịnh tâm an mới làm được. Oai nghi thân nghiệp và khẩu nghiệp 2 thứ giới nầy đều phụ thuộc vào căn oai nghi.

Vì sao vậy? Vì khéo giữ tâm, khéo giữ gìn thân nghiệp khẩu nghiệp, nên tu hành 4 việc về giới chính là căn oai nghi giới.

Vì sao vậy? Vì đã biết chỗ y chỉ của tướng của tập mà sinh ra chán lìa, thì an trú trong chính niệm và chính định. Như Thế tôn đã nói nếu có Tỳ-kheo hiểu được đoàn thực và hiểu được 5 dục lạc là đầy đủ luật nghi và mạng thanh tịnh này.

Như vậy, luật nghi và mạng thanh tịnh thuộc về giới ấm. Căn luật nghi giới thuộc về định ấm. Tu hành 4 việc về giới thuộc tuệ ấm.

Những gì khiến việc thụ giới được thanh tịnh?

Nếu Tỳ-kheo vừa mới thụ pháp thiền, nơi thất tụ quán thấy tự thân mình phạm giới Ba-la-di là bị dứt mất pháp Tỳ-kheo sống trong tình trạng giới không đầy đủ. Nếu sống trong giới đầy đủ thì sẽ được thắng pháp. Đức Bản Sư đã nói như vậy.

Nếu thấy mình phạm giới Tăng-già-bà-thi-sa thì có thể đem sự việc ra sám hối trước Tăng chúng.

Nếu ngoài ra thấy mình phạm các tội khác thì chỉ cần đến với một người xin sám hối.

Nếu thấy mình phạm tà mạng, thì tùy theo tương đương với chỗ phạm mà sám hối. Sám hối xong, tự hứa tôi sẽ không tái phạm. Thấy như vậy rồi, như vậy mà thụ trì căn oai nghi giới và tu hành 4 việc và cũng hứa ta sẽ không tái phạm.

Nếu thụ trì được như vậy thì tương lai sẽ được oai nghi cao thượng vượt trội.

Người ấy theo giới thanh tịnh như vậy là đang tạo tác những điều mà thân nghiệp khẩu nghiệp đáng phải làm.

Người ấy phải quán làm việc thiện trừ việc ác, phải quán ngày đêm sống trong thanh tịnh giới.

Nếu được như vậy là làm cho giới được thanh tịnh.

Tướng của giới thanh tịnh là gì?

Là giới tương ứng với các phiền não, không khởi thoái chuyển và hối hận, được định thành tựu viên mãn. Đó là tướng của giới thanh tịnh.

Có bao nhiêu nhân duyên làm cho giới an trú trong thanh tịnh?

Có 2 nguyên nhân:

  1. Cân nhắc tai họa của phạm giới.
  2. Cân nhắc công đức của giữ giới.

Cân nhắc tai họa của phạm giới như thế nào?

Người nếu vi phạm giới thì không còn công đức, sa vào chốn ác, sợ hãi trước 4 chúng, nghi ngờ người trí. Người giữ giới xa lánh không thể dạy thiền, chư thiên khinh bỉ là đồ nhơ bẩn, mọi người ghét bỏ. Nghĩ đến việc phạm giới của mình, khi nghe ai khen ngợi công đức trì giới, thì lòng hối tiếc nhưng lại chẳng tin. Thường hay nổi giận và gây gổ với 4 chúng. Đối với các thân hữu, thường khởi hiềm khích oán hờn. Quay lưng với người giữ giới mà đi kết bè đảng với kẻ ác. Lại không kham được pháp thiền định thù thắng. Tuy ngụy trang giả hiện oai nghi nhưng chẳng dấu nổi chỗ xấu ác, tựa như đồ đại tiểu tiện ai cũng nhờm gớm, chẳng chút mô phạm, như vũng bùn lầy, hiện tại vị lai không được ích lợi gì cả. Thường sinh sảng sốt lo âu nhớ đến tội đã phạm mà xấu hổ hối hận không yên, như kẻ trộm bị giam trong ngục, tâm có vui gì đạo Thánh, như kẻ Chiên-đà-la chẳng dám mơ đến ngôi vua. Cho dầu có học rộng hiểu biết, nhưng cũng chẳng ai qúi kính, như lửa phân bò. Sống chẳng tìm được nơi như ý, chết thì thần thức hôn mê, lạc vào nẻo dữ.

Các tội lỗi như trên có thể cân nhắc suy xét mà biết được.

Nếu ai biến cải các điều ác đó thành công đức của giới cũng có thể cân nhắc. Cân nhắc như thế này: Kẻ phạm giới thì tâm ý buồn chán, chí khí thoái lui tan mất. Còn người giữ giới thì tinh tiến siêng năng tin kính gấp bội. Thành người tinh tiến, thành người tin kính thì một lòng giữ giới như con kiến ôm giữ cái trứng, như con ly ngưu yêu thích cái đuôi, như bảo hộ đứa con một, như người chột giữ gìn con mắt còn lại, như người đồng bóng giữ thân mình, như kẻ nghèo giữ gìn của báu, như thuyền trưởng bảo vệ chiếc thuyền. Người trì giới kính tin và giữ gìn giới mình đã thụ còn hơn những sự giữ gìn đó. Thụ trì như vậy thì tâm được bảo vệ, an trú trong thiền định, khiến cho giới được thủ hộ.

QUYỂN 1 HẾT