LUẬN DU GIÀ SƯ ĐỊA
Tác giả: Bồ tát Di Lặc giảng thuật, Bồ tát Vô Trước ghi
Hán dịch: Đời Đường, Tam Tạng Pháp sư Huyền Tráng
Việt dịch: Cư sĩ Nguyên Huệ

 

QUYỂN 87

PHẦN NHIẾP SỰ. ĐOẠN THỨ NHẤT:

Sự Khế kinh. Lựa chọn, gồm thâu về hành. Đoạn 3:

Lại nữa, Tụng nêu:

Nhân thắng lợi, hai trí

Kẻ ngu phần vị năm

Hai thứ kiến sai biệt

Đối với Thánh giáo ấy.

Nhân của tất cả hành lược có hai thứ:

  1. Chung.
  2. Không chung.

Nhân chung: Nghĩa là hỷ làm nhân trước. Do hỷ ấy nên đối với các xứ sinh kia ngăn chặn sự chán lìa, làm nhuần thấm tự thể. Vì dục sắp sinh nơi xứ đã sinh, tuy có tất cả phiền não làm nhân, nhưng ở nơi xứ sinh, kẻ sinh hỷ sinh, không phải kẻ ở nơi xứ kia khởi tưởng chán nghịch. Lại, tức hỷ này chỉ dựa nơi sắc mà nói. Nhân trước sinh rồi, không đợi nhân khác mới hoàn toàn chuyển.

Nhân không chung: Nghĩa là thuận theo xúc khổ vui, không khổ vui, đối chiếu nơi tâm pháp hiện có như thọ v.v…, ý diệt vô gián, cùng câu sinh, gọi là mười thứ sắc v.v… so với sáu thứ thức. Do các pháp kia tuy từ nhân trước sinh ra, từng sát-na sát-na riêng đợi nhân khác mới được sinh khởi.

Lại nữa, các vị A-la-hán tâm có giải thoát, trí kiến có thanh tịnh, có bốn thắng lợi, nên biết không cùng chung với các ngoại đạo:

  1. Lúc hành trì, tánh luôn thường trụ.
  2. Lúc trụ, tánh trụ nơi vô tướng.
  3. Nhân trước xa sinh khởi các hành tự nhiên quy diệt.
  4. Nhân hiện tại của hành hữu sau đã đoạn trừ nên sẽ không sinh nữa.

Vì chứng đắc bốn thứ thắng lợi như thế, có ba thứ lần lượt: Nghĩa là tu học trí kiến làm chỗ dựa, nên người đạt được chán lìa, ở trong các hành không sinh hỷ lạc, cho đến không sinh tham đắm mà trụ. Chán lìa là ưu tiên nên được lìa dục. Lìa dục là ưu tiên nên tâm khéo giải thoát. Từ đó trở về sau, tức do tâm khéo giải thoát như thế, nên luôn thường an trụ, không thuận, không nghịch.

Lại, nơi lúc hành hoặc lúc trụ, đối với tất cả tướng không tác ý nữa. Đối với cảnh giới vô tướng tác ý tư duy, trụ nơi vô tướng. Tất cả kiến thú này có thể ngăn cản, vì trước đã đoạn trừ vĩnh viễn, huống chi là nay sẽ gây trở ngại. Hành giả kia, do hai thứ hoặc hành hoặc trụ ấy, cho đến thọ mạng dứt, nên dùng nội Bát Niết-bàn vô học mà nhập Niết-bàn. Hữu đã sinh trước, hiện tại vĩnh viễn dứt trừ, các hành của vị lai không còn sinh nữa.

Lại do ba phần, nên biết Tát-ca-da-kiến được kiến lập, dùng làm căn bản nơi tất cả kiến thú:

  1. Do cùng hành với thời gian trước.
  2. Do cùng hành với thời gian sau.
  3. Do cùng hành với cả hai.

Cùng hành với thời gian trước: Nghĩa là như có một hữu tình khởi tư duy: Ta nơi đời quá khứ là từng có chăng? Là từng không có chăng? Từng là người nào? Vì sao từng có?

Cùng hành với thời gian sau: Nghĩa là như có một hữu tình, khởi tư duy: Ta nơi đời vị lai là sẽ có chăng? Là sẽ không có chăng? Sẽ là người nào? Vì sao sẽ có?

Cùng hành với cả hai: Tức như có một hữu tình, khởi tư duy như vầy: Ta từng có cái gì? Cái gì sẽ có nơi ta? Hữu tình này nay từ nơi nào đến? Ở đây chết rồi, đi tới chốn nào?

Lại, Tát-ca-da-kiến của các ngoại đạo dùng làm căn bản, có sáu mươi hai thứ các kiến thú ác. Nghĩa là:

Bốn luận thường kiến.

Bốn luận một phần thường kiến.

Hai luận không nhân.

Bốn luận tưởng hữu biên, vô biên.

Bốn luận kiểu loạn bất tử.

Mười tám thứ kiến thú ác như thế, là luận chấp nói về ngã của thời trước.

Lại có mười sáu thứ luận tưởng hữu kiến, tám thứ luận vô tưởng, tám thứ luận phi hữu tưởng phi vô tưởng, bảy luận đoạn kiến, năm luận hiện pháp Niết-bàn. Bốn mươi bốn thức các kiến thú ác này là luận chấp nói về ngã của thời sau.

Như vậy, luận suy chấp về thời sau, lược thâu tóm có năm:

  1. Luận hữu tưởng.
  2. Luận vô tưởng.
  3. Luận phi hữu tưởng phi vô tưởng.
  4. Luận đoạn kiến.
  5. Luận hiện pháp Niết-bàn.

Năm thứ như thế lại tóm lược làm ba:

  1. Luận thường kiến.
  2. Luận đoạn kiến.
  3. Luận hiện pháp Niết-bàn.

Lại, tất cả các kiến thú ác này, do sáu nhân duyên nên được kiến lập:

  1. Do nhân duyên.
  2. Do dựa nơi giáo pháp.
  3. Do dựa vào tĩnh lự.
  4. Do dựa vào đời.
  5. Do dựa vào các kiến.
  6. Do xứ sinh.

Do nhân duyên: Nghĩa là tất cả Tát-ca-da-kiến kia dùng làm nhân duyên.

Do dựa nơi giáo pháp: Tức là do dựa nơi pháp tạng bất chánh, có thể hiển bày kiến thú. Sư đệ truyền nghe, lần lượt cùng trao làm phương tiện.

Do dựa vào tĩnh lự: Tức dùng tĩnh lự làm chỗ dựa, nên đối với chỗ được nghe trước, chỗ tin hiểu trước mà được quyết định.

Lại, tĩnh lự này lại có hai thứ:

  1. Cùng hành với túc trụ tùy niệm.
  2. Cùng hành với thiên nhãn đã đạt được.

Cùng hành với túc trụ tùy niệm: Là trong ba luận thường, là chấp về thời gian trước. Do thanh tịnh của hạ trung thượng có sai biệt, cùng đối với bốn thứ luận hữu biên vô biên. Do kẻ kia nhớ nghĩ về hai kiếp thành hoại của các khí thế gian, theo phương tiện xuất hiện. Nếu lúc nhớ nghĩ về phần vị của kiếp thành, bấy giờ liền sinh ba thứ vọng tưởng: Hoặc có trường hợp hoàn toàn nhớ nghĩ về trên dưới. Dưới cho đến dưới địa ngục Vô gián, trên cho đến trên tĩnh lự thứ tư. Nhớ nghĩ về biên vực, phần lượng như thế, nên đối với thế gian, trụ nơi tướng hữu biên. Hoặc có trường hợp hoàn toàn nhớ nghĩ về một bên không biên vực, nên đối với thế gian trụ nơi tưởng vô biên. Hoặc có kẻ nhớ nghĩ về hai thứ cùng hành, nên đối với thế gian trụ nơi tưởng cùng hành cả hai.

Hoặc lúc nhớ nghĩ về phần vị của kiếp hoại, lúc ấy liền trụ nơi tưởng phi hữu biên, tưởng phi vô biên, các khí thế gian không chỗ đạt được. Lại có trường hợp nương dựa nơi các tĩnh lự, nên biết hoặc nói là luận một phần thường, hoặc nói là luận không nhân, hoặc nói là luận kiểu loạn bất tử.

Nên biết ở đây có hai trời tịnh:

  1. Không khéo thanh tịnh.
  2. Khéo thanh tịnh.

Nếu chỉ có thể nhập định thế tục, nên biết là trời không khéo thanh tịnh. Ở trong các đế không thông tỏ, tâm chưa được khéo giải thoát.

Nếu có thể chứng nhập định của nội pháp, nên biết là trời khéo thanh tịnh. Ở trong các đế đã thấu đạt, tâm đã được hoàn toàn giải thoát. Nên biết không loạn cũng có hai loại:

  1. Vô tướng, không phân biệt.
  2. Hữu tướng, có phân biệt.

Ở đây, loại thứ nhất là trời khéo thanh tịnh. Loại thứ hai là trời không khéo thanh tịnh. Loại trời khéo thanh tịnh trước, đối với bất tử của chính mình không loạn mà chuyển, thế nên gọi là bất tử không loạn. Loại trời không khéo thanh tịnh sau, nếu có kẻ dựa nơi bất tử không loạn có chỗ cật vấn, liền vin vào sự kiểu loạn khác để lẫn tránh. Do đối với các đế vô tưởng, tâm định không thiện xảo, nên trước dấy khởi tâm lo nghĩ, tư duy: Chúng ta đã xưng là bất tử không loạn, ngoài ra lại có bất tử không loạn. Đối với các Thánh đế vô tướng, tâm định đã được thiện xảo…

Do dựa vào đời: Nghĩa là dựa vào đời quá khứ cùng hiện tại, khởi phân biệt, gọi là chấp về thời trước. Dựa vào đời vị lai khởi phân biệt, gọi là chấp về thời sau.

Do dựa vào các kiến: Nghĩa là dựa vào ba kiến, như trước đã nói, nên biết. Do dựa vào kiến thứ nhất, nên ở trong hiện pháp chấp ngã có sắc, sau hoặc có sắc có tưởng hoặc không có tưởng, hoặc phi hữu tưởng phi vô tưởng. Dựa vào kiến thứ hai, nên ở trong hiện pháp chấp ngã không sắc, về sau, chỗ chấp như trước nên biết. Dựa vào kiến thứ ba, luận về ngã có hai:

  1. Nói ngã có sắc không sắc.
  2. Nói ngã phi có sắc, phi không sắc.

Phần còn lại như trước đã nói.

Lại, tức chấp ngã là có sắc: Hoặc nói nhỏ hẹp, hoặc nói vô lượng. Chấp ngã không sắc nên biết cũng vậy.

Hai luận về ngã này, dựa vào kiến thứ ba, lập làm hai luận:

  1. Chấp ngã nhỏ hẹp.
  2. Chấp ngã vô lượng.

Do bốn thứ ấy, nên luận về ngã nói có sai biệt: Nói ngã là hữu biên. Nói ngã là vô biên. Nói ngã cũng hữu biên cũng vô biên. Ngã phi hữu biên phi vô biên. Tùy theo thứ lớp, như trước nên biết.

Lại, tức nương dựa nơi các kiến như thế, cùng dựa nơi luận về ngã, lại tuyên thuyết ngã giải thoát thành tịnh. Đối với dục, tĩnh lự đều được tự tại, tùy theo chỗ dục, trụ nhiều nơi biến hóa. Như nơi chỗ dục, tĩnh lự an trụ. Do kiến thanh tịnh nên tự tại thọ dụng pháp lạc theo phương tiện. Như thế gọi là dựa nơi các kiến, nên biết đã an lập.

Do xứ sinh: Nghĩa là ngã có một tưởng, cho đến nói rộng.

Có một tưởng: Là tại xứ không vô biên, xứ thức vô biên của cõi vô sắc.

Có vô số tướng: Nghĩa là tại địa dưới. Tức như đã nói, tùy theo thứ lớp, nói ngã có tưởng nhỏ hẹp, có tưởng vô lượng.

Hoàn toàn có lạc: Là tại ba tĩnh lự dưới.

Hoàn toàn có khổ: Là tại Nại-lạc-ca (Địa ngục).

Có lạc có khổ: Là tại nẻo quỷ, bàng sinh, người, chư thiên cõi dục.

Có không khổ không lạc: Là tại tĩnh lự thứ tư trở lên, cho đến xứ phi tưởng phi phi tưởng.

Lại, đối với xứ của các ngoại đạo như thế, nên biết gồm có ba thứ suy tổn:

  1. Suy tổn của luận kiến cùng dục lạc lần lượt trái nhau.
  2. Suy tổn của luận dựa nơi ngã vô trí hỏi, ghi.
  3. Suy tổn của chứng đắc dựa nơi pháp tùy pháp hành.

Ở đây, ba thứ ấy, hoặc chấp có tưởng, hoặc chấp không tưởng, hoặc luận chấp phi có tưởng phi không tưởng cùng luận đoạn kiến.

Hoặc luận dựa nơi sự vấn nạn kẻ khác làm thắng lợi. Hoặc luận dựa nơi sự tránh khỏi vấn nạn làm thắng lợi, mà khởi suy chấp. Nên biết đó gọi là suy tổn thứ nhất. Do các luận kia suy lường chấp nơi thời sau, dựa nơi đời vị lai, vọng chấp nơi ngã là có không.

Suy tổn của luận dựa vào ngã vô trí hỏi, ghi: Nghĩa là đối với, hoặc các tạp nhiễm, hoặc xứ tạp nhiễm, hoặc chủ thể tạp nhiễm, như vậy, tất cả đạo lý của hai đế thế tục, thắng nghĩa đều không nhận biết như thật. Do vô trí ấy có chỗ hướng tới cho là ưu tiên, nên phần đạt được có sai biệt.

Từ vô trí này, hướng đến chốn nào? Nghĩa là ba, bốn lượt chuyển:

  1. Thường, vô thường v.v…
  2. Hữu biên, vô biên v.v…
  3. Tự tạo, tha tạo v.v…

Vì sao? Vì do vô trí nên trước tiên là hướng tới, sai biệt như thế sau mới hỏi, ghi.

Lại, ở trong Thánh pháp Tỳ-nại-da, kẻ trí hiện có không thể ghi sự. Nơi hai đạo lý, không chịu ghi nhận. Nghĩa là đạo lý của hai đế thế tục, thắng nghĩa.

Trong đây, bốn thứ hoàn toàn là luận thường, chấp về thời trước, cùng luận không nhân chấp về thời trước: Hai thứ có sai biệt, đều trước là chấp ngã, sau mới duyên nơi ngã, hoàn toàn là sự sai biệt của các luận về thường v.v…

Lại, tức bốn thứ luận một phần thường chấp về thời trước, chúng có sai biệt. Nghĩa là có luận một phần duyên nơi thường – vô thường, hoặc có luận một phần duyên nơi phi thường – phi vô thường. Các luận về hữu biên vô biên, như trước đã nói về hữu biên vô biên, nên biết về tướng của chúng. Hoặc muốn tất cả đều là sự tạo tác của nhân đời trước, gọi là luận tự tác. Hoặc muốn tất cả đều là sự tạo tác của nhân biến hóa như trời Tự Tại v.v…, gọi là luận tha tác. Hoặc muốn một phần là sự tạo tác của nhân biến hóa như trời Tự Tại, một phần thì không như thế, gọi là luận câu tác. Hoặc luận không có nhân tạo tác, gọi là luận câu phi tác. Nên biết đó gọi là suy tổn thứ hai của các luận dựa nơi ngã không trí để hỏi, ghi.

Do các luận kia suy chấp về thời trước, dựa vào đời quá khứ hiện tại để phân biệt sai lạc.

Suy tổn của chứng đắc dựa nơi pháp tùy pháp hành: Nghĩa là có Sa-môn hoặc Bà-la-môn, không xem luận vấn nạn kẻ khác làm thắng lợi, không xét luận tránh khỏi sự vấn nạn làm thắng lợi, cũng không vui muốn mở bày, xiển dương các luận dựa vào ngã vô trí, vì cầu lợi dưỡng, sự cung kính v.v…, cũng không. Ở trong pháp – luật thuyết giảng xấu ác mà cầu xuất gia, chỉ trừ vui cầu xuất ly giải thoát. Nên biết họ là chủng loại Bạc trần, vì tánh ngu độn chuyên tu hành chỉ. Các vị này do vì đạt được tĩnh lự thứ nhất, nhất định do sự chỉ dạy, trao truyền, khuyên bảo, có thể đối với cả hai thời sau, trước đều cùng hành nơi kiến thú. Do không chấp nhận như thế mà có thể vượt qua. Ở trong hiện pháp lại có thể vượt qua các kiết của cõi dục, chứng đắc hỷ xa lìa. Từ đấy trở lên không nghe không biết, tức ở trong ấy sinh tưởng Niết-bàn. Như do các pháp kia nên chứng đắc hỷ xa lìa, cũng vậy, hoặc có trường hợp do nhân duyên riêng nên chứng đắc tĩnh lự thứ hai, thứ ba, không ái lạc nơi vị, tĩnh lự thứ tư không khổ lạc thọ. Từ đấy trở lên cho đến xứ phi tưởng phi phi tưởng, nên biết cũng thế.

Đối với vô số tưởng cùng hành với khổ lạc thọ có sai biệt, đã vượt qua. Như thế, các vị ấy, đối với các hành thủ của cõi, nẻo, là không thể vượt khỏi, vui thích pháp thoái chuyển, chưa Bát Niết-bàn mà khởi mạn Niết-bàn. Nên biết đó gọi là suy tổn thứ ba.

Ở đây, Đức Như Lai tự nhiên chứng biết diệu tích tịch tĩnh, đối với tất cả hành tướng nơi ba thứ suy tổn như đã nêu giảng, do năm thứ tướng nên nhận biết rõ đúng như thật. Nghĩa là, hoặc tự tánh kia. Hoặc các kiến kia. Hoặc do không trí nên chúng được sinh khởi. Hoặc nơi đối tượng duyên chuyển. Hoặc các lỗi lầm thô xấu của đối tượng duyên kia cùng nẻo xuất ly chúng. Nơi các sự như thế đều nhận biết rõ đúng như thật, tức trong xuất ly thường tự xuất ly.

Lại nữa, có hai trí, có thể khiến kiến thanh tịnh cùng kiến hoàn toàn thanh tịnh. Nghĩa là trí pháp trụ cùng đây là trí Niết-bàn ở trước.

Trí pháp trụ: Nghĩa là khả năng nhận biết rõ về chủng loại sai biệt nơi tự tướng của các hành, cũng có thể nhận biết rõ những lỗi lầm, tai họa sai biệt nơi cộng tướng của các hành. Tức đối với phương tiện của các hành, thuận theo ba phần vị hoặc khổ hoặc lạc thuộc không khổ không lạc, nhận biết rõ về tánh của ba khổ.

Trí Niết-bàn: Nghĩa là ở trong tất cả hành như thế, trước khởi tưởng khổ, sau suy xét như vậy. Tức hết thảy các hành có khổ ấy, đều vĩnh viễn đoạn trừ rốt ráo, nói rộng cho đến gọi là Niết-bàn. Nhận biết rõ như thế gọi là trí Niết-bàn. Tức hai trí này khiến kiến thanh tịnh cùng hoàn toàn thanh tịnh. Chính là do hai môn chánh cần tu tập mới khiến kiến được thanh tịnh:

1. Hữu tình tự không có lực, nhân nơi sự chỉ dạy, trao truyền của kẻ khác, mới có thể khiến kiến được thanh tịnh.

2. Hữu tình tự có lực, đa văn, xét tìm, nên có thể khiến kiến được thanh tịnh.

Ở đây, loại hữu tình thứ nhất là không thông lợi, các căn như tín v.v… chỉ là một vị. Đối tượng duyên của Chỉ Quán, đối với phần ít pháp xét kỹ nhận chuyển. Cùng với đấy trái nhau, nên biết là loại hữu tình thứ hai.

Lại có ba trí hiện quán biên, do tu tập trí ấy nên kiến được thanh tịnh:

  1. Trí có thể thuận sinh trí vô lậu.
  2. Trí vô lậu.
  3. Trí nối tiếp sau trí vô lậu.

Trí thứ nhất thuộc về đệ nhất pháp của thế gian. Trí thứ hai, nếu trụ nơi ấy tức có thể đoạn trừ tất cả phiền não do kiến đạo đoạn.

Trí thứ ba là trí giải thoát nối tiếp sau phiền não được đoạn trừ. Nếu trụ trong trí đó, liền gọi là đã nhập chánh tánh ly sinh, vượt quá địa phàm phu, chưa đắc quả Dự lưu. Tuy chưa kịp chứng trí của quả Dự lưu giải thoát thứ ba, ở trung gian ấy, trụ nơi sát-na, như chưa chứng nhập, trọn không bỏ dở giữa chừng do thời gian thiếu. Từ đấy không gián đoạn, tất chứng trí thứ ba, trụ trong phần vị ấy, hiện thấy đúng như thật về cảnh của đối tượng nhận thức, nên gọi là kiến thanh tịnh, các hoặc còn lại nên không phải là hoàn toàn thanh tịnh.

Nếu đối với trí này, lại tu tập nhiều thành A-la-hán, tất cả phiền não đều lìa trói buộc, nên gọi là hoàn toàn thanh tịnh.

Lại, trí đoạn trụ rốt ráo có ba tương ưng:

  1. Do không hiện hành.
  2. Do cõi.
  3. Do sự.

Không hiện hành: Là tuy sinh khởi nhưng không nhiễm vướng, tuy chưa hoàn toàn đoạn trừ, nhưng do luôn tu tập các pháp thiện, nên khiến thành phần xa, các triền phiền não không còn hiện hành.

Cõi: Là ba cõi, như trước đã nói nên biết.

Sự: Nghĩa là hai sự: (a) Sự phiền não. (b) Sự khổ.

Lại, ở trong năm thứ cảnh giới của các phẩm ly hệ theo đuổi an lạc, lợi ích, có công đức tịch tĩnh, vi diệu, thù thắng, cho đến Niếtbàn là sau cùng, có sai biệt nên biết.

Lại, ở trong ấy, tất cả nương, giữ đều dứt bỏ. Nên biết về sự dứt bỏ cha mẹ v.v…

Lại, ở trong ấy có sinh, có hữu sau không sinh lại nữa. Như thứ lớp ấy, nên biết gọi là không có tương tục, không thủ, không sinh.

Lại, đối với ba phẩm, do ba thứ môn làm chướng ngại, nên biết đã kiến lập ba kiết sai biệt. Nghĩa là chưa phát khởi hướng tới, tuy đã phát khởi hướng tới, thành lập sai lạc, nên ở trong chánh pháp hành không đúng đắn. Tức phẩm tại gia, ở trong pháp – luật không khéo thuyết giảng, những phẩm xuất gia thì ở nơi phần pháp – luật khéo thuyết giảng.

Lại, hành hướng tới hành ngược dòng, là giải thoát khỏi nẻo ác thành tựu hai thứ quyết định giải thoát:

  1. Quyết định giải thoát phiền não.
  2. Quyết định giải thoát hữu sau.

Do nhân duyên này nên gọi là Dự lưu, cho đến nói rộng.

Lại, nếu chứng đắc quả A-la-hán, trước tại địa học, ở trong các hành đã không chấp thọ ngã cùng ngã sở, sau, đối với các lậu đều được giải thoát.

Lại, cùng với bốn thứ nghĩa tương ưng, nên biết đó gọi là tướng A-la-hán:

  1. Nghĩa của tự sự đã cứu cánh, nên hành tác tha sự.
  2. Nghĩa nên đạt được đạo lý tất cả đủ khắp của tự nghĩa.
  3. Nghĩa của nhân nơi hành vị lai đã vĩnh viễn đoạn dứt nên chứng đạt hiện pháp lạc trụ.
  4. Nghĩa tương ưng, vượt địa hữu học nhập địa vô học.

Lại nữa, phần vị ngu có năm, hoặc ở trong ấy chuyển rơi vào số ngu tối. Những gì là năm? Đó là:

  1. Không đạt được tuệ câu sinh.
  2. Không đạt được tuệ duyên sinh, từ việc nghe âm thanh của kẻ khác.
  3. Không đạt được tuệ chân thánh.
  4. Bị triền ngu si trói buộc.
  5. Bị tùy miên kia theo buộc.

Lại, có bốn thứ luận vọng chấp ngã:

  1. Tuyên thuyết các hành là ngã.
  2. Tuyên thuyết ngã có các hành.
  3. Tuyên thuyết các hành thuộc về ngã.
  4. Tuyên thuyết ngã ở trong hành.

Do hai nhân duyên nên luận vọng chấp ngã tạo các tạp nhiễm:

  1. Chấp trước.
  2. Tùy miên.

Chấp trước: Nghĩa là các ngoại đạo tuy cầu giải thoát, do chấp trước kia làm chướng ngại, nên đối với tất cả loại đều không thể đạt được.

Tùy miên: Tức các nội pháp bị đắm vướng nơi cảnh giới, tạm thời bị chướng ngại nên không đạt cứu cánh.

Lại nữa, hoặc có ngã kiến, hoặc không ngã kiến, cùng duyên nơi các hành làm sự cảnh, nên gọi là đồng phận. Nhưng đối với sự kia, nhận lấy tà, nhận lấy chánh, nhiễm ô, thanh tịnh với các nghĩa sai biệt, nên gọi là không đồng phận.

Lại do bốn tướng nơi sự của đối tượng duyên, với sức tăng thượng của chấp trước sai lạc, nên có thể khiến cho ngã kiến tạo các tạp nhiễm:

  1. Nhân duyên.
  2. Tự tánh.
  3. Do quả.
  4. Đẳng lưu.

Nhân duyên: Nghĩa là hai thứ ngu si: (a) Ngu si của sự. (b) Ngu si của kiến.

Ngu si của sự: Do ngu về sự, nên trước nghe pháp tà, sau khởi ngã kiến.

Ngu si của kiến: Do ngu về kiến, nên đối với kiến tương ưng với các xúc vô minh sinh khởi thọ, vọng chấp là ngã. Do đấy làm duyên, nên luôn là chỗ theo đuổi của ngã ái. Lại do đấy nên thường đối với ngã kiến không thể lìa bỏ.

Tự tánh: Là chỗ thâu nhận của hai nhân duyên, cùng tùy quan sát, đối với tùy miên kia không thể xa lìa.

Do quả: Tức do Tát-ca-da-kiến kia làm chỗ dựa, nên không thể xa lìa tùy miên ngã mạn. Là sức tăng thượng của hai tùy miên, nên có thể dẫn phát khiến khởi các căn của vị lai. Do chúng lãnh nhận nhân của hai thọ khổ lạc, lại phát khởi chấp ngã, ngã sở, không tư duy tương ưng như chánh lý, ý lời phân biệt cho ngã, ngã sở có sự nhận lãnh kia.

Đẳng lưu: Nghĩa là do sức của nhân trước được duy trì, tức chủng tử của kiến đã gắn liền nơi ý.

Sau có ý giới, do sức huân tu của nhân duyên trước mà được thành tựu đầy đủ. Tức ở trong ý của hữu sau như thế, có chủng vô minh cùng giới vô minh, là hai chủng tử đã theo đuổi pháp giới là đối tượng duyên của ý. Kẻ kia do đời trước dựa nơi pháp – luật thuyết giảng ác, Tát-ca-da-kiến sinh phân biệt làm chỗ dựa, tập thành giới hiện nay. Tức do sức tăng thượng của cảnh giới này, nên phát khởi Tát-ca-da-kiến câu sinh, ở trong pháp – luật thuyết giảng thiện cũng lại hiện hành, có thể tạo chướng ngại.

Lại, tức kiến này do hai thứ tướng nên hiện hành sáu chuyển:

  1. Do đời.
  2. Do mạn.

Do đời: Nghĩa là ta ở nơi quá khứ là từng có chăng, là từng không có chăng? Cho đến nói rộng, như chỗ ứng hợp nên biết.

Do mạn: Nghĩa là cho ta là hơn, cho đến nói rộng.

Kẻ kia, đối với tất cả nẻo như thật như thế không biết không thấy. Vì nhân duyên ấy nên khởi quán tà vạy không như lý chánh.

Lại, phần vị minh có ba: Nghĩa là nghe âm thanh của kẻ khác, tác ý như lý, là phần vị thứ nhất của minh. Đã có thể chứng nhập chánh tánh ly sinh, là phần vị thứ hai của minh. Quả A-la-hán, tâm hoàn toàn giải thoát, là phần vị thứ ba của minh.

Phần vị vô minh kia lại có hai thứ: (1) Trước. (2) Sau.

Vị tùy miên là trước, các phần vị triền là sau.

Lại, căn cứ nơi sự đoạn trừ của kiến đạo tu đạo có khác, nên biết đó gọi là sai biệt thứ hai.

Lại nữa, nơi xứ này, Đức Thế Tôn, dựa nơi tự Thánh giáo, vì muốn hiển thị sự phát khởi của pháp thuyết giảng thiện. Dựa nơi tà giáo khác, vì nhằm hiển thị sự rơi mất của pháp không thuyết giảng thiện, nên tự có chỗ nêu giảng. Người kết tập sau này, ở trong pháp môn, cho là Đức Thế Tôn nói Ốt-đà-nam. Do hai nhân duyên, nên pháp – luật thuyết giảng thiện gọi là phát khởi quả lớn lợi lớn. pháp – luật thuyết giảng ác thì không có gì cả:

1. Ở trong pháp – luật thuyết giảng thiện, tất cả các khổ đều có thể vĩnh viễn lìa bỏ, tức là tánh của ba thứ khổ.

2. Tất cả các kiết đều có thể vĩnh viễn đoạn trừ, tức là kiết của phần trên, dưới.

Ở trong pháp – luật thuyết giảng ác, hai thứ như thế đều không thể đạt được. Kẻ kia do dựa nơi Tát-ca-da-kiến, ở trong các hành, tâm chán khổ khổ. Dục lạc làm chỗ dựa, khởi thắng giải về điều ấy, nguyện nơi đời vị lai không có khổ nơi ta, ta không có khổ. Hoặc lại đã đoạn, tức nhân của khổ kia, cùng quả hiện có. Đối với đời vị lai, do hai thứ tướng mà sinh thắng giải. Nghĩa là khổ vị lai sẽ lìa nơi ta, và ta nơi vị lai sẽ không có khổ. Tuy do bốn thứ hành tướng vui thích đoạn trừ như thế làm chỗ dựa, lìa dục của cõi dục, sinh tĩnh lự thứ nhất, thứ lớp cho đến nơi xứ phi tưởng phi phi tưởng kia, hoặc định hoặc sinh. Vì nhân duyên ấy nên vượt khỏi khổ khổ, nhưng chưa có thể đoạn trừ các kiết phần dưới. Chưa đoạn trừ chúng, nên biết khổ khổ chưa hoàn toàn vượt khỏi. Kẻ kia ở trong việc đoạn trừ hai khổ hoại và hành, hãy còn không sinh mong muốn, huống hồ là có thể đoạn trừ. Do tùy thuận chỗ chưa đoạn kia, nên biết đối với các kiết thuận phần trên cũng chưa có thể đoạn.

Người trụ nơi nội pháp, lúc bắt đầu tu quán, tuy ở nơi cõi dục chưa được lìa dục, chưa là hữu tình thù thắng, nhưng đối với ba khổ, tâm chán lìa sâu xa. Dựa nơi lạc đoạn dục, ở trong các hành, lấy kiến vô ngã làm chỗ nương dựa, phát khởi thắng giải về điều ấy, mong nơi đời vị lai không có ba khổ nơi ta, ta không có ba khổ. Kẻ ấy, đầu tiên tu tập hành như thế rồi, đối với dục của cõi dục được xa lìa, vĩnh viễn đoạn trừ khổ khổ. Như trước, lại sinh thắng giải như vậy, nên không có khổ kia nơi ta, ta sẽ không có khổ kia. Hành giả như thế, đối với khổ khổ đã giải thoát rốt ráo, cũng vĩnh viên vượt khỏi các kiết thuận phần dưới. Tức đối với đạo ấy lần lượt tiến tu, cho đến có thể đạt quả A-la-hán.

Hoặc các hạng ngu tối, do Tát-ca-da-kiến làm chỗ dựa, đối với việc vĩnh viễn vượt khỏi hai khổ hoại, hành, cùng đoạn dứt hoàn toàn các kiết thuận phần trên. Tức là ta không nên đối với điều không nên sợ hãi vọng sinh sợ hãi, hãy còn không khởi vui thích, huống chi là sẽ có thể đoạn.

Lại, ở nơi xứ này, do hai nhân duyên, không nên sinh sợ hãi. Tức là chỉ có tâm trụ nơi bốn thức trụ, có chuyển có nhiễm. Lại chỉ có tâm đoạn nơi bốn thức trụ, không chuyển không nhiễm.

Lại có bốn thứ nương dựa: Nghĩa là sắc thọ tưởng hành.

Lại có bốn thủ: Nghĩa là dục tham hiện có của dục, kiến, giới cấm và ngã ngữ.

Lại có hai duyên: Tức hoặc là đối tượng duyên, cùng hoặc là chủ thể duyên.

Lại có hai thức trụ: Là triền phiền não trụ và tùy miên trụ.

Ở đây, sức tăng thượng của các thủ, do phân biệt không như lý làm trước, do nhận lấy cảnh giới tà của ngã, ngã sở, do duyên nơi thủ của cảnh giới tự tướng, do cùng có chỗ dựa. Ba nhân duyên này khiến các thức chuyển, cùng khiến nhiễm ô.

Lại do ba thứ: Nghĩa là đối với hiện pháp hướng tới tập đế. Duyên nơi khổ của vị lai, ta sẽ nói ái như thế, như thế. Đối với nhân trước kia đã sinh hiện khổ mà an trụ.

Lại do ba thứ: Nghĩa là hướng tới phần vị lạc, duyên nơi phần vị khổ, an trụ nơi phần vị không khổ không lạc.

Lại do ba thứ: Nghĩa là hướng tới đời sau, duyên nơi đời quá khứ, trụ nơi đời hiện tại.

Lại do ba thứ: Nghĩa là do ái của hữu sau hướng đến hữu sau. Do ái của các thứ hỷ lạc kia duyên nơi cảnh giới của vị lai. Do ái cùng hành với hỷ tham. Trụ nơi hiện tại rồi, được cảnh giới.

Lại do ba thứ: Nghĩa là do thân tham dục, bị trói buộc, hướng tới sự của xứ tùy thuận tham. Do thân giận dữ bị trói buộc, duyên nơi sự kia. Do thân của hai thủ ấy thuộc giới cấm bị trói buộc, trụ nơi sự kia.

Tụng nêu:

Quả nhân cùng thọ

Thế ái cùng buộc.

Hỷ ái làm tươi nhuận, như trước đã nói nên biết. Nghĩa là như trong nhân của các hành đã nêu rõ.

Lại, tức thức kia lúc chuyển như thế, nơi hai xứ sinh, nên biết kiết sinh tương tục tăng rộng:

  1. Nơi có sắc.
  2. Nơi không sắc.

Nơi xứ có sắc, nương dựa nơi trung hữu mà có đi, lại. Nơi xứ không sắc, chỉ có sinh theo. Tức nơi hai xứ cho đến thọ mạng dứt, nối tiếp mà trụ, nên gọi là trụ. Nên biết trụ này, trong nẻo người thuộc cõi dục, có ba phần vị. Nghĩa là mới vào thai, thức được tươi nhuận. Phần thai viên mãn, từ thai mà ra. Nên biết ba phần vị này lại có sai biệt. Dục, Sắc, Vô sắc, như thứ lớp ấy…

Lại, mười sắc giới gọi là cõi sắc. Nên biết lại có sáu thứ thọ giới, tưởng giới, hành giới.

Lại, đối với ba phần vị, nên biết các thức giải thoát khỏi phiền não. Nghĩa là đối với các hành, thấy rõ lỗi lầm tai họa, có thể khiến xa lìa các triền. Ở trong địa biến, tất cả các tùy miên trói buộc của ngoại đạo đều vĩnh viễn đoạn dứt, nương dựa nơi tu đạo, đạt được cứu cánh.

Lại, các ngoại đạo đối với tất cả xứ sinh đều là vọng chấp, cho là Đại tự tại, Na la diễn noa, cùng vô lượng phẩm loại như các Chủ v.v… Vui thích sinh nơi đấy, nên gọi là thân tham bị trói buộc, ở trong pháp dị phần của các kiến khác, ghét ganh sâu xa, nên gọi là thân giận dữ bị trói buộc. Dựa nơi nguyện tà, tu phạm hạnh, ở trong pháp đáng vui thích của đồng phạm hạnh, khởi ghét bỏ. Do hai duyên ấy, nên đối với giới học tăng thượng có thể bị tạp nhiễm. Do thân được chấp giữ là thật ấy bị trói buộc, nên đối với tuệ học tăng thượng, có thể bị tạp nhiễm.

Bốn pháp như thế có thể ở trong sắc thân, danh thân hướng tới sự được an lập của đối tượng duyên, khiến tâm bị trói buộc nên danh thân hệ thuộc.

Lại, pháp kia ở nơi ý địa, nên ý phân biệt, ý tương ưng, là tùy miên của ý nên ý bị nhiễm ô, gọi là ý tạo thành.

Lại, pháp kia được đoạn trừ, nghĩa là duyên nơi cảnh ấy, các phiền não được đoạn trừ, không phải là đối tượng duyên kia, tức ở nơi cảnh ấy lý giải không điên đảo.

Lại, do chỗ thâu giữ của các nghiệp phiền não thuộc hữu sau, chủng thức của hữu sau, nên biết ở nơi chỗ dựa ấy đã kiến lập. Pháp kia không có, nên ba thứ của vị lai như trước đã nói về nghĩa lý sâu xa sinh trưởng rộng lớn có sai biệt. Nên biết tất cả thảy đều diệt hết.

Lại, do thức kia không chỗ trụ, phần nhân phần quả không sinh trưởng lại, nên các đạo đã gồm thâu được sinh trưởng.

Lại, môn giải thoát không kia làm chỗ dựa, nên gọi là không chỗ tạo tác. Môn giải thoát vô nguyện làm chỗ dựa, nên gọi là biết đủ. Môn giải thoát vô tướng làm chỗ dựa, nên gọi là trụ. Đối với ái lạc kia luôn tu tập nên được khéo giải thoát. Tất cả tùy miên vĩnh viễn đoạn dứt nên tâm hoàn toàn giải thoát. Từ đấy về sau đạt được hằng trụ, tuy trụ nơi các hành mà không hề sợ hãi. Đã được các uẩn tự nhiên mà diệt, nhân khác được đoạn trừ nên không sinh trở lại nữa. Thức hữu lậu kia do đã hoàn toàn vắng bặt rồi, nên khắp mười phương đều không chỗ hướng tới, chỉ trừ các thọ như bóng cùng với thức uẩn kia nhân biết, gieo trồng, nên biết như đèn đều quay về nẻo tịch diệt. Tức ở trong giới Niết-bàn hữu dư, dựa vào triền thứ nhất được đoạn trừ, gọi là tịch tĩnh. Dựa vào triền thứ hai được đoạn trừ, gọi là trong lành mát mẻ. Dựa vào loại thứ ba được đoạn trừ, gọi là yên lặng.

Lại do ba duyên, nên thức hướng đến thức trụ đều không chỗ có:

  1. Do tự nhiên không nhiễm ô.
  2. Do chỗ còn lại không nhiễm ô.
  3. Do thức khác trợ bạn không có.

Lại nữa, tụng nêu:

Đoạn chi thật hiển rõ

Hành duyên giáo vô đẳng

Bốn thứ chúng hữu tình

Đạo bốn, cứu cánh năm.

Các thứ tu đoạn, lược do năm chi thâu nhận, đối với việc đoạn trừ, có thể ở nơi các hành hiển bày rõ như thật:

  1. Do thân xa lìa.
  2. Do tâm xa lìa.
  3. Do Tam-ma-địa của phẩm Xa-ma-tha.
  4. Do Tam-ma-địa của phẩm Tỳ-bát-xá-na.
  5. Do thường gắn bó với chỗ tạo tác.

Lại nữa, nên biết có mười hai thứ hành tướng hiển bày rõ như thật, như nơi phần Nhiếp dị môn đã nêu. Nghĩa là lắng nghe đều riêng khác, nhận lấy thiện, nhận lấy ác, chánh giáo, hiện lượng, tỷ lượng, cảnh giới, tự tướng, cộng tướng, như tánh hiện có, toàn bộ tánh hiện có, nhập nơi địa kiến cứu cánh.

Lại nữa, lược có bốn thứ hành tướng hiển bày rõ như thật về sự nơi đối tượng duyên của trí theo đạo lý. Nghĩa là phàm phu trụ nơi nội pháp, ở trong cảnh giới đột nhiên gắn bó đã khởi thọ, do sức tăng thượng của sự nhận biết không như thật, nên có thể khiến các hành lưu chuyển theo tạp nhiễm. Nhận biết đúng như thật nên có thể khiến thanh tịnh.

Lại có phàm phu tại gia, ở trong chỗ nương dựa, như vui thích hữu sau v.v…, do sức tăng thượng của sự nhận biết không đúng như thật, nên có thể khiến các hành lưu chuyển theo tạp nhiễm. Cùng với đấy trái nhau, là có thể khiến thanh tịnh.

Lại có các ngoại đạo, đối với chỗ ái lạc đã phân biệt hư vọng, định sinh hỷ ái, ở trong chỗ dựa là hành, vì sức tăng thượng của sự nhận biết không như thật, nên có thể khiến các hành lưu chuyển theo tạp nhiễm. Cùng trái với đây, tức có thể khiến thanh tịnh.

Lại có hàng hữu học trụ nơi nội pháp, dựa vào vọng niệm hiện có của các cảnh, căn, đối với các hành còn sót lại, do sức tăng thượng của sự nhận biết không như thật, nên lưu chuyển theo tạp nhiễm. Đoạn dứt các thứ tàn dư kia, nên liền được thanh tịnh. Nên biết, ở trong tất cả phẩm ấy, các phẩm thanh tịnh đều trụ nơi nội pháp. Như thế gọi là bốn sự của đối tượng duyên.

Lại nữa, do ba nhân duyên, nên Đức Như Lai đã thuyết giảng giáo pháp không gì sánh bằng:

  1. Tuyên thuyết pháp không chung.
  2. Tuyên thuyết pháp không điên đảo.
  3. Tuyên thuyết pháp tự giác.

Ở đây, tuyên thuyết, nếu hướng đến hành của Tát-ca-da tập, tức là hướng đến hành của khổ tập. Nếu hướng đến hành của Tát-ca-da diệt, tức là hướng đến hành của khổ diệt. Đó gọi là tuyên thuyết về giáo pháp không chung.

Nếu lại thuyết nêu: Đây là có chân thật, đó gọi là tuyên thuyết về giáo pháp không điên đảo.

Nếu lại thuyết nêu: Ta đã nhận biết như thật. Đó gọi là tuyên thuyết về giáo pháp tự giác.

Lại có ba thứ khiến các hành lưu chuyển có sai biệt:

  1. Tát-ca-da là nghĩa thuộc nơi chốn an túc của các hữu tình nhiễm chấp.
  2. Thế gian là nghĩa hư hoại của xứ nhiễm chấp.
  3. Hữu là nghĩa lại sinh của kẻ nhiễm chấp.

Lại nữa, chúng hữu tình kia lược có bốn thứ. Đó là:

1. Hoàn toàn an trụ nơi quả của nghiệp khả ái. Tức ở nơi quả ấy tham đắm thọ dụng, nghĩa là sinh nơi cõi trời chuyên hành phóng dật.

2. Hoàn toàn nhân nơi chuyển. Nghĩa là các Sa-môn hoặc Bà-la-môn hiện có mong cầu về pháp kia.

3. Các chúng hữu tình vui thích Bát Niết-bàn.

4. Các chủng loại xen tạp. Nghĩa là trụ ở đây, hoặc trụ nơi quả, tham đắm thọ dụng, hoặc vui thích thọ nhận quả yêu thích của vị lai. Hoặc thường xuyên tu tập tạo tư lương quả Niết-bàn, lìa các phóng dật.

Ở trong ba thứ chúng hữu tình trước, theo chỗ ứng hợp, nên biết đó là biên tập diệt kia của thế gian cùng biên tập diệt kia của Tát-cada. Ở trong chúng hữu tình thứ tư sau, nên biết là Tát-ca-da nơi tập kia, diệt kia, hướng đến đạo có sai biệt.

Lại nữa, dựa nơi hai thứ đạo, nên biết đã thiết lập bốn thứ hành tướng.

Thế nào là dựa nơi hai thứ đạo? Tức là dựa nơi kiến đạo và dựa nơi tu đạo.

Thế nào là thiết lập bốn thứ hành tướng? Đó là:

  1. Hành tướng nên nhận biết khắp.
  2. Hành tướng nên vĩnh viễn đoạn trừ.
  3. Hành tướng nên tác chứng.
  4. Hành tướng nên tu tập.

Bốn thứ hành tướng như thế, ba là dựa nơi kiến đạo, một là dựa nơi tu đạo. Lúc nhập kiến đạo, hiện quán đế cùng có thể nhận biết khắp về khổ, đoạn một phần tập, chứng một phần diệt, đối với một phần kia có thể đoạn, chứng. Ở trong tu đạo, vì cầu đoạn cùng chứng rốt ráo, nên như chỗ đạo đạt được, cần siêng năng tu tập. Nhân tu tập các đạo xét chọn như thế, cùng với tu đạo, nên đoạn trừ vĩnh viễn phần tập còn lại, chứng đắc phần diệt còn lại.

Lại nữa, chứng đắc hết sức rốt ráo như thế, do năm thứ tướng, nên biết là rốt ráo. Những gì là năm? Đó là:

  1. Đã chứng đắc khổ cùng nhân của khổ được dứt trừ trọn vẹn.
  2. Hết thảy tự nghĩa đều được viên mãn, nên có thể hành tác tha nghĩa.
  3. Chứng đắc rốt ráo về đoạn và trí.
  4. Có thể nhập nơi thành Niết-bàn cứu cánh.
  5. Đã được nhập rồi, có thể an trụ nơi Thánh trụ.

Nơi tướng thứ nhất, có bốn thứ sai biệt như cắt dứt ái v.v…, như trước đã nói, nên biết.

Nơi tướng thứ hai, có A-la-hán dứt hết các lậu nơi những sai biệt hiện có, như trước đã nêu, nên biết.

Nơi tướng thứ ba, có tất cả hành sự cứu cánh thảy đều đoạn trừ hoàn toàn. Có vô cấu hoàn toàn, vì hết thảy phiền não đều đoạn trừ rốt ráo. Có phạm hạnh rốt ráo dùng làm hậu biên, tức đã đạt được sự đối trị kia.

Nơi tướng thứ tư, ví như thế gian gồm đủ năm thứ tướng, gọi là đi vào cung thành, theo đấy nếu thiếu một thứ thì không gọi là vào. Như thế, cần phải đủ cùng tương tợ nơi năm thứ tướng kia, nên biết gọi là nhập cung thành Niết-bàn. Những gì gọi là đủ năm tướng của thế gian? Đó là:

1. Cửa của cung thành đã mở rộng.

2. Vượt qua hào thành mà không bị rơi xuống nước.

3. Dấy khởi sự quả quyết sâu xa mà vượt qua.

4. Vượt qua hào thành rồi liền tới cung điện.

5. Không phải tự, không phải là chỗ trông mong nào khác, trụ cờ cao nhất đã ngã thì từ từ mà vào trong cung. Như thế là đi vào cung không có các thứ trở ngại.

Nhập nơi cung Niết-bàn cũng lại như vậy. Trước tiên là đoạn trừ năm kiết thuận phần dưới, như cửa đã mở rộng kia. Tiếp theo, đối với Niết-bàn khởi tưởng về hầm sâu, vô minh, sợ hãi, đã được dứt bỏ trọn vẹn, như vượt qua hào thành mà không bị rớt xuống nước, thân có thể đến bờ kia, nên có thể giữ lấy thân sau cùng. Như kẻ kia quả quyết vượt qua, sắp vào cảnh giới Niết-bàn Vô dư y như sự thúc bách vào cung khuyết. Đã đoạn hữu ái, đối với các cảnh giới, ái không còn sinh nữa, đối khắp tất cả kiêu mạn không khởi mà nhập Niết-bàn. Như không phải chỗ trông mong của tự, tha, trụ cờ cao nhất đã ngã thì từ từ vào trong cung. Như trước đã nói về năm thứ nhân duyên, nhập cung Niết-bàn nên biết cũng vậy.

Lại, đã nhập rồi, do hai thứ tướng nên an trụ nơi Thánh trụ:

  1. Do hành.
  2. Do trụ.

Hành do ba tướng, nên nhận biết rõ đúng:

  1. Không chung.
  2. Không nhiễm.
  3. Nương dựa đúng đắn nơi chỗ nương dựa.

Đoạn trừ vĩnh viễn năm kiết thuận phần dưới, ở trong các dục lìa dục rốt ráo, tức ở nơi xứ ấy mà du hóa, nên gọi là không chung. Nơi sáu hằng trụ luôn thâu nhận, nên gọi là không nhiễm. Đối với một phần pháp xét chọn xa lìa, nghĩa là voi ngựa dữ v.v… Nơi một phần pháp xét chọn quen gần, nghĩa là y phục, thức ăn uống v.v… Đó gọi là nương dựa đúng đắn nơi chỗ dựa.

Như vậy, đối với hành khéo thanh tịnh rồi, lại do năm tướng nên nhận biết rõ là trụ:

  1. Hoặc do đấy mà trụ.
  2. Hoặc đây là nương dựa.
  3. Hoặc do đấy mà lìa trói buộc.
  4. Hoặc đây là chỗ nương dựa.
  5. Hoặc do đấy nên tương ưng.

Nên biết ở đây, do giải thoát, tâm bất động mà trụ. Nơi một phần pháp xét chọn trừ bỏ, nghĩa là nhân duyên du hành tán loạn, khó nhọc, nên thân tâm mệt mỏi, biếng trễ. Nơi một phần pháp xét chọn nhẫn thọ, nghĩa là nóng lạnh v.v… Đó gọi là nương dựa.

Do nơi ba thứ tạp nhiễm ly hệ:

  1. Kiến tạp nhiễm.
  2. Ái tạp nhiễm.
  3. Tầm tư tạp nhiễm.

Do kiến tạp nhiễm nên được ly hệ: Ở trong hữu sau, tâm không dao động.

Do ái tạp nhiễm nên được ly hệ: Tức ở nơi các cảnh giới không bị chìm nổi.

Tầm tư tạp nhiễm nên được ly hệ: Tầm tư chỉ là thiện, không có bất thiện.

Như vậy gọi là do đấy mà lìa trói buộc. Ở đây, dựa vào Tamma-địa không động của bốn thứ tĩnh lự, an trụ nơi hiện pháp lạc trụ thứ nhất. Đó gọi là nương dựa, do cùng với bậc vô học, tâm hoàn toàn giải thoát, tuệ hoàn toàn giải thoát mà cùng tương ưng.

Lại, người lìa ái, nơi thân thứ hai không còn sinh nữa, đối với nhà Niết-bàn không còn thoái chuyển, nên tất chứng đức viên mãn vô thượng. Do năm tướng này, nên biết trụ nơi trụ thứ nhất viên mãn.

Lại nữa, tụng nêu:

Hai phẩm tổng lược ba có khác

Thắng giải đoạn lưu chuyển có tánh

Bất thiện thanh tịnh, thiện thanh tịnh

Thiện nêu, ác nêu sư cùng riêng.

Lược do ba xứ gồm thâu chung tất cả phẩm đen phẩm trắng:

  1. Do pháp của đối tượng nhận biết khắp.
  2. Do nhận biết khắp.
  3. Do nhận biết khắp thành tựu.

Pháp của đối tượng được nhận biết khắp: Nghĩa là khổ đế, tập đế, nên biết là gồm thâu chung tất cả phẩm đen.

Nhận biết khắp: Nghĩa là diệt đế, nên biết đây là gồm thâu một phần phẩm trắng.

Nhận biết khắp thành tựu: Nghĩa là hữu tình cùng đạo đế. Hữu tình là giả có, nên biết cũng là thuộc về phẩm bạch.

Đây tức là các Thánh đệ tử của Đức Như Lai, ở nơi thế tục đế cùng thắng nghĩa đế, thảy đều thiện xảo. Dựa nơi hai đạo lý, tùy quán như thật, cùng không thể ghi. Nghĩa là Như Lai sau diệt độ, hoặc có hoặc không, cũng có cũng không, chẳng phải có chẳng phải không, đều không thể nhận lấy, cũng không thể ghi. Vì sao? Vì dựa đủ nơi thắng nghĩa, các thứ kia không thể thủ đắc, huống hồ là sau khi diệt độ hoặc có hoặc không. Nếu dựa nơi thế tục, là đối với các hành giả lập Như Lai. Là đối với Niết-bàn, hoặc đối với các hành, Như Lai sau khi diệt độ, không có một hành lưu chuyển có thể thủ đắc, bấy giờ xứ nào giả lập Như Lai. Đã không Như Lai, thì sao còn có không v.v… Nếu đối với Niết-bàn, Niết-bàn chỉ là chỗ hiển bày không hành, dứt hẳn các hý luận, tự nội chứng đắc, tuyệt hẳn hý luận, nên thiết lập là có là không hợp đạo lý. Cũng lại không nên thiết lập không có. Chớ nên tổn hủy việc thiết lập Niết-bàn diệu hữu tịch tĩnh.

Lại, Niết-bàn này là hết sức khó nhận biết, rất vi tế, nên gọi là vô cùng sâu xa. Vô số chẳng phải là một, là chỗ hiển bày phiền não của các hành đã đoạn trừ, nên gọi là rộng lớn. Hiện lượng, tỷ lượng, chánh giáo lượng đều không lường, nên gọi là vô lượng.

Lại nữa, do ba nhân duyên, nên bên trong và bên ngoài gánh chịu khổ não có sai biệt:

  1. Đối tượng được gánh chịu.
  2. Chủ thể gánh chịu.
  3. Thời gian gánh chịu.

Nghĩa là bên ngoài gánh chịu một phần gồm thâu của sắc. Hoặc cây lúa hoặc cỏ dại, hoặc chủng loại khác, là đối tượng được gánh chịu. Kẻ ngu mới dùng tất cả các hành làm đối tượng gánh chịu.

Lại, bên ngoài gánh chịu là thuộc ở vai thân, là chủ thể gánh chịu. Kẻ ngu mới cho tất cả ái nơi uẩn là chủ thể gánh chịu.

Lại, bên ngoài gánh chịu chỉ do nơi vai hiện tại gánh vác chỗ phải gánh chịu. Kẻ ngu mới cho tất cả ái nơi uẩn đã gánh vác chỗ phải gánh chịu.

Muốn xả bỏ đối tượng được gánh chịu, cần kết hợp với việc dứt trừ uẩn. Không có phương tiện riêng mà có thể trừ bỏ, cho đến chưa có thể xả bỏ đối tượng được gánh chịu, dẫn tới việc phải thường xuyên gánh chịu gánh nặng lớn.

Nắm giữ đôi vai không tịch tĩnh, lại yếu kém, nhỏ bé, trong thời gian phải gánh vác không gián đoạn đối tượng được gánh chịu, nên bên trong có ba đức lãnh nhận, gánh chịu các khổ như thế. Bên ngoài thì không như vậy. Đó gọi là hai thứ gánh chịu có sai biệt.

Lại nữa, do năm thứ tướng, kẻ ngu bị trói buộc, cùng với sự trói buộc bên ngoài có sai biệt.

Nghĩa là, bên ngoài bị trói buộc là chỗ trói buộc của một phần sắc, hoặc bị trói buộc của cây gỗ, hoặc sắt thép, hoặc dây chỉ. Kẻ ngu mới bị các hành trói buộc.

Lại, sự trói buộc bên ngoài là bị kẻ khác trói buộc. Kẻ ngu mới tạo sự trói buộc cho chính mình.

Lại, sự trói buộc bên ngoài dễ có thể nhận biết rõ về nhân duyên của sự trói buộc cùng phương tiện giải thoát. Sự trói buộc bên trong của kẻ ngu, tất cả đều khó nhận biết.

Lại, sự trói buộc bên ngoài kia, sau khi chết tức không. Sự trói buộc bên trong của kẻ ngu, sau khi chết, các hành vẫn theo đuổi, lui tới, xoay vòng không bỏ.

Lại, sự trói buộc bên ngoài, người xuất gia hiện có có thể xả bỏ các dục, liền được giải thoát, hết thảy oán địch đều không thể gây trở ngại. Sự trói buộc bên trong của kẻ ngu tuy được lìa dục, cho đến cõi Hữu đảnh hãy còn chưa có thể giải thoát, huống là chỉ xuất gia. Nên biết ở đây, tại phần vị lìa dục, ma la đối với điều ấy không được tự ý. Ở phần vị chưa lìa dục thì chúng tự ý, mặc sức. Nơi phần vị xuất gia chưa thoát khỏi tay ma, hoặc phần vị tại gia hành tác thuận theo dục, chưa lìa nẻo dục nên còn bị ma trói buộc. Do đạo thế gian, tuy sinh nơi cõi Hữu đảnh nhưng vẫn chưa thoát khỏi lưới ma.

Lại nữa, lược do bốn tướng, nên biết Đức Như Lai cùng với A-la-hán tuệ giải thoát có phần đồng phần khác.

Do một thứ tướng, nên gọi là phần đồng, tức là giải thoát v.v…

Do ba thứ tướng, nên gọi là phần khác:

  1. Hiện bày Đẳng giác.
  2. Có thể thuyết pháp.
  3. Hành chánh hành.

Ở đây, Đức Như Lai không thầy, tự nhiên tu ba mươi bảy pháp phần Bồ-đề, hiện Đẳng Chánh Giác. Đẳng Chánh Giác đã dựa khắp nơi thắng nghĩa. Hoặc đối với hiện pháp có năng lực, không năng lực. Hoặc là pháp hiện thấy, pháp không hiện thấy, nơi tất cả thứ thảy đều thấu đạt. Đó gọi là Đẳng giác Bồ-đề tự nhiên.

Thấu đạt về pháp thắng nghĩa như thế rồi, đối với hai chướng kia khéo được giải thoát. Nghĩa là cùng tập khí nơi các phiền não chướng và sở tri chướng, với chúng chư thiên và thế gian khác, vì sự giải thoát chỉ là một, không hai. Nên biết thấu đạt bốn tướng như thế, đó gọi là Đẳng giác Bồ-đề tự nhiên. Do đấy không cùng chung với các Thanh văn.

Lại, dựa nơi sự tạo tác của tha nghĩa để hành tác, có thể thuyết giảng chánh pháp, do năm thứ tướng, nên biết là không chung. Những gì là năm? Đó là:

1. Như Lai nhận biết rõ như thật về tất cả loại đạo là đạo, tất cả loại phi đạo là phi đạo.

2. Nhận biết rồi thì tuyên thuyết đúng như thật là đạo, là phi đạo, vì khiến hướng tới đạo, không hướng tới phi đạo.

3. Hoặc có đạo như chỗ đã nêu giảng, vui muốn siêng hành, vì khiến cho hành kia thâu nhận phương tiện, tác ý như lý dẫn đến chánh đạo, nên dùng môn chỉ dạy, trao truyền để tuyên thuyết.

4. Người kia, lúc hành như Thánh giáo, nếu có lỗi lầm của Chỉ Quán làm chướng ngại đều khiến trừ bỏ.

5. Hoặc có sự tùy thuận với pháp kia đều khiến thâu nhận. Đó gọi là có thể thuyết pháp, là phần không đồng.

Ở đây, hành chánh đáng là phần không đồng: Nghĩa là các Thanh văn, trước dựa nơi Như Lai, sau hành chánh hành. Phàm là Như Lai thì không thiếu đối tượng nương dựa.

Lại, chư vị kia thành tựu chủng tánh Thanh văn, hành nơi hành chân chánh, nhưng Phật Như Lai thì thành tựu tánh tự chúng.

Lại, các Thanh văn kia, hoặc đã thành thục hoặc sẽ thành thục, không phải là trong thân Bồ-tát của hữu sau cùng, hai hành có thể đạt được. Nếu chưa thành thục, các vị kia tùy theo đạo hành có thể thành thục nối tiếp sự thành thục của vị lai.

Nếu đã thành thục: Tức chư vị kia ở nơi hiện pháp thành bậc Đại sư, chỉ dạy như hai thứ ấy, như Thánh giáo kia, tức hành như thế. Hoặc tùy đạo hành, thì chư vị kia, nơi đời vị lai sẽ chứng Niết-bàn. Nếu ở nơi hiện pháp, thành bậc Đại sư, giáo hóa chư vị kia dựa vào thân này liền chứng Thánh đạo, là đạo quả Niết-bàn, tức Thánh đạo này cùng với quả của Thánh đạo. Không tổn hại an lạc, nên gọi là pháp như thật, tánh tạo lợi ích nên lại nói là thiện.

Lại nữa, ở trong các hành, lược có hai thứ thắng giải vô ngã:

  1. Thắng giải của văn, tư tăng thượng.
  2. Thắng giải của tu chứng tăng thượng.

Ở đây, thắng giải của văn, tư tăng thượng có thể cùng với thắng giải của tu chứng tăng thượng, tạo sinh nương dựa. Các thiện nam tịnh tín xuất gia, tuy lại ở nơi cực thiện này đạt đến đủ, nhưng ở trong ấy không nên tri túc. Chính ở đây là dựa trong các hành, lần lượt tu tập các tưởng như vô thường, chứng đắc thắng giải vô ngã tăng thượng. Vì khiến cho chư vị kia chứng chuyển thêm thắng, nên siêng năng tu Quán, Giải.

Lại nữa, do bốn thứ tướng, nên biết các hành có hai thứ đoạn. Bốn tướng đó là:

  1. Các triền được đoạn.
  2. Tùy miên được đoạn.
  3. Tánh nhân của các hành thuộc hữu sau được đoạn.
  4. Hành nhiễm của các hành hiện tại được đoạn.

Bốn thứ như vậy, nên biết là nói chung về hai thứ đoạn trừ: Là phiền não được đoạn dứt cùng do sự đoạn. Hai tướng trước gọi là phiền não được đoạn. Hai tướng sau gọi là sự đoạn.

Lại nữa, ở trong cõi dục, các hành lưu chuyển nơi phần vị đầu giữa sau, nên biết lược có ba thứ khổ gắn liền:

  1. Lúc sinh, vì thai tạng kia che ngăn, nên có khổ bị che ngăn.
  2. Sinh rồi, ở nơi phần vị trẻ con, khổ vì nhiều bệnh tật.
  3. Các căn thành thục, suy già, có khổ về già, chết.

Lại, các hành kia lưu chuyển sinh khởi đầu giữa sau diệt, nên biết tức là ba thứ khổ diệt.

Lại nữa, có ba tánh hữu, vì đoạn trừ chúng nên các Thánh đệ tử phải siêng năng tu học:

1. Tánh hữu dựa nơi quá khứ làm nhân. Do nhân duyên ấy, chư vị tịnh tín bỏ nhà, hướng tới đời sống không nhà, phải thấy rõ về lỗi lầm, chán bỏ các dục.

2. Tánh hữu dựa nơi vị lai sinh khởi các hành làm nhân.

3. Tánh hữu dựa nơi ý lạc chưa đoạn tạp nhiễm của hiện tại.

Vì đoạn trừ ba thứ tánh hữu như thế, nên có ba đoạn. Nghĩa là không luyến tiếc. Không vui thích. Đoạn lìa dục, diệt cảnh giới tập thành.

Lại nữa, ở trong các hành, lược có hai thứ lìa tăng thượng mạn, quán không ngã kiến. Những gì là hai?

  1. Không khéo thanh tịnh.
  2. Hoàn toàn thanh tịnh.

Thế nào gọi là không khéo thanh tịnh? Nghĩa là như có một hữu tình xa lìa mà trụ, dựa nơi quán các hành là tánh vô thường, nhẫn.

Do trí thế gian, đối với tánh vô ngã phát sinh thắng giải. Nhân nơi thắng giải ấy, đối với mắt nhận biết về sắc, cho đến ý nhận biết về pháp, theo đấy quan sát về tướng của ngã, ngã sở không hiện hành, nên gọi là đoạn.

Lại có thể chế phục ba thứ tham sân si hiện có thuộc về bốn thứ trói buộc bên ngoài. Nghĩa là thân tham dục bị trói buộc gồm thâu tham hiện có. Thân giận dữ bị trói buộc gồm thâu sân hiện có. Thân của hai thứ còn lại bị trói buộc gồm thâu si hiện có. Nên biết trong ấy, nghĩa thấp kém cấu uế là nghĩa hiện có.

Trí vô ngã lìa tăng thượng mạn, tác ý như lý cùng tương ưng nên thuộc về địa định. Nên biết trí này do hai nhân duyên không khéo thanh tịnh:

1. Tức nơi thời gian này. Tức lúc phần vị căn thiện đối với việc hướng nhập phần thuận quyết trạch, có ngã mạn thô tùy nhập nơi tác ý vi tế hiện hành, chuyển biến gián đoạn không gián đoạn. Do nhân duyên ấy, nên khởi niệm: Ta nay đối với không có thể tu có thể chứng. Không là ta có. Do không ấy nên chấp ngã là hơn. Như không, thì vô tướng, vô sở hữu nên biết cũng thế.

2. Có thể khiến cho nhân duyên của pháp kia hiện hành. Nghĩa là đối với các dục hoặc Tát-ca-da có thức nhiễm ái. Do ở nơi thức có nhiễm ái như thế, không nhận biết rõ khắp về lực tăng thượng, liền bị Tát-ca-da ái của các dục làm cho chìm nổi. Do ý lạc ấy nên đối với Niết-bàn kia không thể hướng nhập, tâm thoái chuyển như trước đã nói.

Lại do tám tướng, nên có thể nhận biết rõ khắp. Nhận biết rõ khắp nên dứt trừ các thứ lỗi lầm tai họa. Nên biết đó gọi là hết sức khéo thanh tịnh, là chân trí vô ngã lìa tăng thượng mạn.

Lại, ở trong đó đã diệt hoại, là pháp diệt hoại nên là pháp vô thường. Các nghiệp phiền não đã tập thành nên gọi là hữu vi. Do nguyện lực từ xưa được tập thành, nên gọi là tư tạo nên. Từ tự chủng tử hiện tại nơi duyên ngoài đã tập thành, nên gọi là duyên sinh. Đối với pháp suy già của đời vị lai, nên gọi là pháp tận. Pháp chết mất nên gọi là pháp mất. Già chết chưa đến, vì vô số tai họa ngang trái như tật bệnh v.v… bức não, nên gọi là pháp hủy hoại. Do dựa nơi hiện lượng có thể lìa dục, có thể đoạn dứt, nên gọi là đối với hiện pháp đạt được pháp lìa dục cùng do pháp diệt. Nên biết ở đây, trừ pháp lìa dục cùng do pháp diệt, do tướng còn lại, lược quán về lỗi lầm tai họa hiện có của ba đời. Do tướng đã trừ quán nẻo xuất ly kia. Hoặc do xuất ly, nhận biết khắp lỗi lầm tai họa như thế, sự nhận biết kia gọi là khéo nhận biết khắp trong tất cả pháp không có tánh ngã. Gọi là các pháp ấn, tức pháp ấn này theo luận đạo lý pháp vương tạo nên. Đối với các Thánh thân không bị não hại, tùy hỷ có thể đạt được tất cả Thánh tài, do đấy tự nhiên an lành, vượt qua quãng đường dài đầy hiểm nạn của sinh tử rộng lớn, thế nên cũng gọi là pháp ấn của các Thánh. Nên biết ở đây, do trước gọi là trí thông đạt, do sau gọi là kiến hoàn toàn thanh tịnh.

Lại nữa, nên biết do năm thứ tướng, đối với pháp trong ngoài, sư cùng đệ tử, cao thấp có sai biệt:

  1. Do trụ.
  2. Do chế ngự chúng.
  3. Do luận quyết trạch.
  4. Do kiến lập, mở bày làm rõ đạo.
  5. Do hành.

Nghĩa là các sư ngoại đạo cùng đệ tử thường xuyên trụ nơi trụ xứ ồn ào. Sư của nội pháp cùng đệ tử luôn luôn trụ nơi trú xứ tịch tĩnh hết mực. Đó gọi là sự sai biệt về cao thấp thứ nhất.

Lại, sư ngoại đạo, do tự có lượng đệ tử xuất gia, các Tăng ngoại đạo gọi là Tăng hữu. Do tự có lượng đệ tử tại gia, các chúng ngoại đạo gọi là chúng hữu. Hết thảy chúng ít ỏi kia cùng nhận là sư, nên gọi là các sư. Chúng sinh loại ngu tối, cùng cho là có đức, thế nên gọi là cùng suy tìm sắc thiện. Nên biết Như Lai cùng với các pháp kia trái nhau, tuy là bậc Đại sư vô thượng của tất cả hàng trời cùng thế gian, nhưng đối với hàng đồng tôn kia không hề mong muốn.

Lại, sư ngoại đạo và đệ tử của mình, lúc cùng dấy khởi luận bàn, quyết chọn, phàm có chỗ nói, lần lượt ý giải, mỗi mỗi thứ đều sai biệt, không cùng phù hợp, càng thêm ngu tối, không phải là trí được thanh tịnh. Nên biết nội pháp là trái hẳn với đây.

Lại, sư của ngoại đạo, vì các đệ tử, nương dựa nơi không nhân, nhân không bình đẳng để nêu đặt, kiến lập mở rộng, hiển bày về đạo. Lắng nghe pháp không chân chánh như thế, là đại La sát nhiễu loạn nơi tâm.

Lại do tác ý phi lý, tương ưng với tầm tư không đúng đắn, nên tâm kia tán động, do đối với kẻ khác đã mang sẵn tâm hơn thua, chê trách kẻ khác. Nếu kẻ khác hỏi vặn lại liền khởi hung bạo. Không xét chọn kỹ, ngôn từ khinh xuất, tự bị không nhân, nhân không bình đẳng che giấu, nên gọi là tạp nhiễm. Do kẻ ngu ấy, đối với nhân duyên nhiễm, hoặc tự hoặc tha không nhận biết đúng như thật, nên gọi là ngu muội. Lìa thanh tịnh nên gọi là không sáng rõ. Đối với nhân thanh tịnh không khéo léo, nên gọi là bất thiện.

Lại, cho đến đối với ngôn ngữ nên thuyết giảng, như ngôn ngữ đã nêu bày, ngôn ngữ của xứ ấy, hết thảy như thế đều không nhận biết đúng như thật. Do đó gọi kẻ kia là không biết lượng, là không biết ân. Nên biết nội pháp là trái hẳn với các thứ kia.

Lại, các sư ngoại đạo cùng đệ tử, tuy không nêu bày khác, chỗ nói không giảm, không nói về điên đảo. Tuy không lưu tán, nhưng chỗ nói không thêm, không tăng ích. Tuy cùng được nói, nhưng nghĩa chỉ tương tợ. Tuy là pháp, văn nêu bình đẳng. Tuy lại là pháp ký biệt cùng tùy pháp, nhưng đối với đồng pháp lại là bạn nhóm. Nên biết kẻ kia, đối với pháp tùy pháp hành, chứng đắc tự nghĩa, người không phóng dật hãy còn không thể đạt được, huống chi là người phóng dật. Kẻ kia do không đạt được tự nghĩa như thế, nên bị tha luận chế phục, chê bai về chỗ thọ nhận các pháp tà ác. Nên biết nội pháp cùng với kẻ kia trái nhau. Đó gọi là năm thứ cao thấp sai biệt.

Lại nữa, do bốn thứ tướng, nên biết các hành không nhất định là khổ nhiễm. Lại do bốn tướng, không nhất định là lạc, tịnh. Bốn tướng như thế là dựa chung nơi ba sự. Những gì là ba sự? Đó là:

  1. Dựa nơi xứ sinh.
  2. Dựa nơi thọ.
  3. Dựa nơi đời.

Ở đây, lạc: Là ở nơi tĩnh lự thứ ba.

Lạc đã thuận theo: Là ở trong cõi người, nhận có hai thứ.

Hỷ lạc khắp: Là ở tại hai tĩnh lự đầu.

Chưa vĩnh viễn lìa lạc: Là ở tĩnh lự thứ tư trở lên.

Trong ấy, khổ: Là tại nẻo ngạ quỷ cùng do bàng sinh.

Khổ được tùy theo: Là ở trong nẻo người.

Ưu khổ khắp: Là tại Na-lạc-ca.

Chưa vĩnh viễn lìa khổ: Là ở trong Thiên chúng trên, nên khổ đã thuận theo.

Lại nói lạc: Là phần vị của thọ không khổ không lạc hiện tiền.

Lạc đã tùy thuận: Là phần vị của khổ thọ hiện tiền.

Hỷ lạc khắp: Là phần vị của lạc thọ hiện tiền.

Không vĩnh viễn lìa lạc: Là chỗ tùy thuận của nhân lạc nơi tất cả phần vị.

Nếu cùng với đây trái nhau, nên biết là sai biệt của khổ.

Lại, nói lạc: Nghĩa là thuận các hành lạc cùng lạc đã diệt.

Lạc được tùy thuận: Là có nhân lạc, nên ở đời vị lai sẽ sinh khởi lạc.

Hỷ lạc khắp: Là đối với hiện tại tùy thuận xứ lạc.

Chưa vĩnh viễn lìa lạc: Là hai đời còn lại.

Cùng với đây trái nhau là bốn sai biệt của khổ, như chỗ ứng hợp nên biết.

HẾT – QUYỂN 87