LUẬN DU GIÀ SƯ ĐỊA
Tác giả: Bồ tát Di Lặc giảng thuật, Bồ tát Vô Trước ghi
Hán dịch: Đời Đường, Tam Tạng Pháp sư Huyền Tráng
Việt dịch: Cư sĩ Nguyên Huệ

 

QUYỂN 17

Địa thứ 11: ĐỊA DO TƯ TẠO THÀNH, phần 2 (Phần Bản Địa)

“Nên phát khởi tinh tấn, Luôn kiên cố dũng mãnh, Thường tu không phóng dật, Năm chi khéo an trụ”: Tụng này làm rõ, do mặc áo giáp phương tiện, tinh tấn không thoái lui, nên tu tập năm chi không phóng dật khiến chỗ tu học thanh tịnh thù thắng.

Năm chi không phóng dật: Là quá khứ, hiện tại, vị lai, chỗ tạo tác lúc trước và nẻo hành cùng làm.

“Ẩn các thiện của mình, Cũng phát lồ các ác, Được các loại y phục, Xấu đẹp đều hoan hỷ. Ít theo nơi việc đời, Thô xấu cũng tùy chuyển, Nhận công đức đầu đà, Là lặng lìa phiền não”: Hai tụng này hiển thị việc xa lìa quyến thuộc nơi tham dục, nhiều ham muốn không biết đủ là nhân. Cùng xa lìa nhiều ham muốn không biết đủ là chướng ngại nơi nhân của học tịnh, nên các học được thanh tịnh.

“Phải đầy đủ oai nghi, Hợp lượng mà thâu nhận, Trọn không có tạo tác, Dối hiện tướng oai nghi”: Tụng này hiển bày về oai nghi đầy đủ, không ở trước kẻ khác dối hiện tướng. Phàm chỗ thâu nhận, đều khéo biết về lượng. Vì có chỗ thọ dụng là để giúp duy trì thọ mạng, là để tu hành phạm hạnh, nên các học được thanh tịnh.

“Không tự nói đức thật, Cũng không khiến người nói, Tuy có chỗ mong cầu, Nhưng không hiện tướng lạ, Từ biên khác cầu xin, Trọn không hành bức bách, Do pháp mà đạt được, Được rồi không khinh chê”: Trong hai Tụng này hiển thị việc xa lìa ngôn thuyết thêu dệt, dối hiện tướng, hành bức bách. Do các lợi đạt được chuyển biến, chiêu cảm lấy lợi, nên khiến chỗ tu học đạt thanh tịnh thù thắng.

“Không đắm vướng lợi dưỡng, Cùng cung kính hiện có, Cũng không chấp các kiến, Tăng ích và tổn giảm”: Tụng này nêu rõ không tham vướng nơi lợi dưỡng, sự cung kính, không chấp trước năm thứ ác kiến nên khiến việc tu học được thanh tịnh thù thắng.

“Không thuận chấp thế gian, Văn, chú thuật vô nghĩa, Cũng không ưa nuôi chứa, Y bát nhiều vô nghĩa”: Tụng này hiển thị không chấp trước nơi tà luận của ngoại đạo, là nhân của các ác kiến, do có thể gây chướng ngại cho việc giải thoát các thủ uẩn. Chỗ tạo tác, hành xử của những hữu tình như thế gọi là thuận nơi thế gian. Lại cũng xa lìa nhân tham đắm lợi dưỡng, sự cung kính, nhân thêm lớn y bát v.v… Hết thảy đều thanh tịnh, nên các học được thanh tịnh.

“Sợ các phiền não tăng, Không nhiễm theo việc nhà, Vì tịnh tu trí tuệ, Nên thân cận Hiền Thánh”: Tụng này làm rõ việc xa lìa nhân của đối tượng cần đối trị, gần gũi nhân của chủ thể đối trị, nên các học được thanh tịnh.

“Không nuôi chứa bạn bè, Sợ buồn lo phát loạn, Hay sinh phiền não khổ, Vừa khởi liền xa lìa”: Tụng này hiển bày, nếu gần gũi với đời sống gia đình, sinh buồn lo, tán loạn, thêm lớn các phiền não, có thể làm nhân của các khổ. Do gần gũi với các pháp ấy, có thể sinh các khổ. Phiền não vừa dấy khởi liền tức diệt trừ. Như thế là đã chỉ rõ nhân của sự đối trị.

“Không nhận nơi tín thí, Sợ ung nhọt gia hại, Đối chánh pháp Như Lai, Thường không hề buông bỏ”: Tụng này chỉ rõ: Không tham đắm nơi sự cung kính, lợi dưỡng, không chấp chặt nơi các tà kiến ác kiến, không thọ dụng của tín thí một cách hư dối, phí phạm, không hủy báng chánh pháp. Cũng có thể xa lìa mọi tham vướng nơi các dục của đời sau, vì có thể sinh khởi nhân của những ác kiến. Như vậy là các học được thanh tịnh thù thắng.

“Lỗi, phạm nơi kẻ khác, An vui không gây tạo, Luôn tự xét lỗi mình, Biết rồi mau bày tỏ”: Tụng này hiển thị việc xa lìa tác ý cầu tìm lỗi lầm hiện có của kẻ khác, nơi phẩm thiện của mình không có tán loạn, luôn sinh hoan hỷ. Đối với lỗi lầm của mình phải nhận biết rõ như thật, phát lồ sám hối dứt trừ, lìa tăng thượng mạn. Do nhân duyên ấy nên các học được thanh tịnh.

“Nếu phạm điều ngăn cấm, Nên như pháp xuất ly, Nơi sự việc phải làm, Phải nỗ lực tự tạo”: Tụng này hiển bày nẻo xuất ly đối với chỗ vi phạm, cũng có thể xa lìa tâm tham thọ nhận sự cung phụng, hầu hạ của kẻ khác. Do nhân duyên ấy nên các học được thanh tịnh.

“Đối với Phật, đệ tử, Uy đức cùng ngôn giáo, Hết thảy đều tin nhận, Thấy tội lớn không chê”: Tụng này làm rõ về tin tưởng viên mãn, đối với việc thấy tội lớn, có thể sinh phỉ báng, đã không chê bai. Do đấy, các học được thanh tịnh.

“Nơi pháp cực thâm diệu, Xứ không thể xét lường, Hay bỏ tông thầy cũ, Không chấp chặt kiến riêng”: Ở đây, tụng nêu bày việc xa lìa chỗ trụ chấp nơi kiến thủ của mình, nên các học được thanh tịnh thù thắng.

“Thường vui sống xa lìa, Cũng biên vực ngọa cụ, Hằng tu tập pháp thiện, Vững tinh tấn dũng mãnh”: Tụng này hiển thị: Hoặc thân hoặc tâm đều xa lìa, các vật dụng ngồi nằm khiến quen gần thuận nơi định, xa lìa hết thảy cáa tầm tư bất thiện, tu thuần các pháp thiện, bạch tịnh, không bị các thứ tùy phiền não như hôn trầm, trạo cử che ngăn, nhiễu động, nên có thể khéo viên mãn các gia hạnh chân chánh, do đấy phương tiện của tâm học tăng thượng đạt thù thắng.

“Không có dục, sinh dục, Chẳng ghét bỏ, ghét bỏ, Lìa ngủ nghỉ, ngủ nghỉ, Lúc không trụ tịch tĩnh. Bỏ ố tác, ố tác, Không mong lo, mong lo, Hết thảy loại, mọi thời, Thành tựu chánh phương tiện”: Trong hai Tụng này chỉ rõ: Nên xa lìa năm thứ ngăn che (cái): Tham dục, sâu hận, hôn trầm – thùy miên, trạo cử – ố tác và nghi. Đối với các pháp thiện sinh khởi mong muốn, ở trong các dục nên hết sức chán ghét. Vì tu tập gia hạnh nơi phương tiện của phẩm thiện, luôn có sự nhận giữ và tâm an tĩnh. Nếu ở mọi thời gian quen với ngủ nghỉ, khiến tâm chìm đắm, hoặc lo nghĩ khiến chúng sinh khởi. Ở nơi tướng tịnh diệu tác ý tư duy, cùng khi du hóa, không trụ nơi tịch tĩnh. Đối chỗ trái phạm trước liền sinh buồn lo, hối hận. Nơi chỗ không trái phạm thì không buồn lo hối hận, càng về sau càng sinh mong cầu thù thắng, theo chánh phương tiện ân cần không gián đoạn, nên tâm học tăng thượng chuyển đạt thanh tịnh.

“Dẫn phát cùng giác ngộ, Hòa hợp mọi nối kết, Có tướng hoặc thân cận, Cũng nhiều loại hỷ lạc. Xâm bức, thật gần gũi, Gọi phân biệt hư vọng, Hay sinh nơi dục tham, Bậc trí nên xa lìa”: Nơi hai Tụng này hiển thị tám loại phân biệt hư vọng, có thể sinh tham ái hiện có của dâm dục, từ phương tiện đầu theo thứ lớp sinh khởi, cho đến cứu cánh. Do xa lìa nên các chỗ tu học được thanh tịnh thù thắng.

Phân biệt dẫn phát: Đó là phân biệt hiện có đối với các sự việc khả ái, có thể dẫn phát tâm tương ưng với tư duy không chân chính.

Phân biệt giác ngộ: Đó là ở trong các sự việc đáng yêu thích kia phân biệt tương ưng với sự giác ngộ về chỗ trói buộc của tham.

Phân biệt hòa hợp mọi nối kết: Là phân biệt hiện có trong các sự việc khả ái kia.

Phân biệt có tướng: Đó là phân biệt hiện có ở trong các sự việc đáng yêu thích kia đã chấp giữ vô số tướng trạng tịnh diệu.

Phân biệt thân cận: Là phân biệt hiện có, ở trong các sự việc yêu thích đã đạt được tương ưng với những nỗ lực dũng mãnh.

Phân biệt hỷ lạc: Đó là phân biệt hiện có, ở trong các sự việc đã đạt được, có vô số thọ dụng, có vô số nẻo mong cầu, mến mộ, yêu thích chuyển biến.

Phân biệt xâm bức: Là phân biệt hiện có lúc hai căn gặp gỡ.

Phân biệt thật gần gũi: Đó là phân biệt hiện có khi chất bất tịnh xuất ra.

“Các dục khiến không đầy, Mọi người chỗ cùng có, Là nhân duyên phi pháp, Hay tăng trưởng tham ái. Chốn Hiền Thánh nên lìa, Mau hướng đến hoại diệt, Nương nhờ nơi các duyên, Nơi nguy lỗi dựa cậy”: Trong hai Tụng này chỉ rõ về tám thứ lỗi lầm của các dục nơi hiện pháp và hậu pháp theo chỗ ứng hợp của chúng. Nếu có thể quán thấy, tức là đoạn trừ phương tiện của dục ái.

“Các dục như xương khô, Cũng như cục thịt mềm, Tương tợ bó đuốc cỏ, Giống như hầm lửa lớn. Ví như mãng xà độc, Cũng như thấy trong mộng, Như mượn vật trang sức, Như ngọn cây quả chín. Biết các dục như thế, Đều không nên tham đắm”: Ở đây đã nêu dẫn rộng, như trước đã nói về “Các dục khiến không đầy v.v…”.

Tám thứ lỗi lầm ở trong các dục, hết thảy thế gian đều tạo thành thí dụ, để hiển thị các lỗi lầm sâu nặng của các dục.

Nhằm làm rõ, ở trong các dục có đủ những thứ lỗi lầm tai họa như thế, rõ ràng có thể nhận biết, vậy bậc trí đối với chúng sao có thể tham đắm?

Lại, các dục ấy như xương khô, nên khiến không no đủ. Vì như cục thịt, nên mọi người cùng có. Giống như bó đuốc cỏ vì đang dấy khởi sự thiêu đốt, não hại cùng cực nơi hiện tiền, nên là nhân duyên phi pháp. Như hầm lửa lớn phát sinh khát ái nên thêm lớn tham dục. Như rắn độc dữ nên Hiền Thánh xa lìa. Như điều thấy trong mộng nên mau hướng tới hoại diệt. Cũng như các vật trang sức vay mượn, nên nương dựa vào các duyên. Giống như quả chín rục nơi ngọn cây, nên là nơi chốn nương dựa của nguy vong, phóng dật.

“Nên lắng nghe chánh pháp, Thường tư duy, tụ tập, Trước quán thấy thô tĩnh, Kế toàn bộ tu tập. Bỏ phiền não thô trọng, Sinh vui thích nơi đoạn, Quan sát nơi các tướng, Được gia hạnh rốt ráo. Hay lìa dục cõi dục, Cùng lìa dục cõi sắc, Nhập hiện quán chân đế, Lìa hết thảy các dục, Chứng Niết-bàn hiện pháp, Và đoạn tận dư y”: Ở đây hiển thị: Do bảy loại tác ý như rõ tướng v.v… nên đạo thế gian xuất thế gian đều thanh tịnh, chứng đắc quả là hai loại Niết-bàn hữu dư và vô dư, tuệ học tăng thượng hoàn toàn thanh tịnh.

Câu “Nên lắng nghe chánh pháp, Thường tư duy”: Là nêu bày về tác ý rõ tướng.

Câu “Thường tu tập”: Là nêu bày về tác ý thắng giải. Do khởi thắng giải mà tu tập.

Câu “Trước quán thấy thô, tĩnh”: Là nêu bày về tác ý xa lìa.

Câu “Kế toàn bộ tu tập”: Là hiển thị tác ý gồm thâu an lạc.

Câu “Quan sát nơi các tướng”: Là hiển thị tác ý quan sát.

Câu “Được gia hạnh rốt ráo”: Là nêu rõ tác ý gia hạnh rốt ráo.

Các câu “Hay lìa dục cõi dục… Lìa hết thảy các dục”: Là chỉ rõ tác ý quả gia hạnh rốt ráo của thế gian xuất thế gian.

* Đã giải thích Già tha kiến lập nghĩa lý sâu xa nơi Thánh giáo. Nay sẽ nêu Già tha kiến lập nghĩa của Thể. Như tụng nói:

Nơi các thân ngữ ý hiện có

Không làm hết thảy ác thế gian

Do niệm chánh tri lìa các dục

Chớ gần hay dẫn khổ vô nghĩa.

Nơi tụng này, chỗ gọi là ác, tức là các hành ác. Nơi tất cả chủng loại, tất cả nhân duyên, tất cả xứ sở, mọi hành ác hiện có đều không nên làm.

Thế nào là nơi tất cả chủng loại không làm ác? Đó là do thân ngữ ý không tạo các việc ác.

Thế nào là nơi tất cả các nhân duyên không làm ác? Đó là các thứ ác do tham sân si sinh ra, trọn không tạo tác.

Thế nào là nơi tất cả xứ sở không làm ác? Đó là nương vào nơi chốn thuộc sự việc hữu tình và nơi chốn thuộc sự việc phi hữu tình, đều không tạo các việc ác.

Thế nào là do niệm chánh tri xa lìa các dục? Nghĩa là đoạn trừ dục sự và đoạn trừ dục phiền não.

Thế nào là đoạn trừ dục sự? Đó là như có một hữu tình, ở trong Tỳ-nại-da nơi chánh pháp được chứng đắc của Như Lai, đạt được tin tưởng thanh tịnh, nhận biết rõ đời sống gia đình bức bách, chật hẹp giống như lao ngục nên xét cầu xuất ly, nói rộng cho đến do tâm chánh tín, nên lìa bỏ cuộc sống gia đình, hướng đến đời sống không gia đình, nhưng đối với dục tham vẫn chưa lìa dứt hoàn toàn. Như vậy gọi là đoạn trừ dục sự.

Thế nào là đoạn trừ dục phiền não? Đó là vị ấy đã xuất gia rồi, vì nhằm khiến cho dục tham được đoạn trừ rốt ráo, nên đi đến chốn đồng rộng hoang vắng, chốn núi rừng, sống yên trong biên vực ngọa cụ hiện có, hoặc trụ nơi A-luyện-nhã, cho đến hoặc ở nơi tĩnh thất vắng lặng. Vì đối trị tham do phân biệt hư vọng mà có, thâu tóm tất cả dục phiền não sinh khởi từ nơi các dục sự, nên tu bốn niệm trụ. Hoặc lại ra khỏi A-luyện-nhã, dựa vào nơi chốn gần xóm làng để trụ. Khéo phòng hộ thân, căn, khéo trụ nơi chánh niệm khi đi vào xóm làng. Hoặc lại du hành nơi thôn ấp, đi về, lui tới, tiến dừng, hằng trụ trong chánh tri. Vì dứt bỏ ngủ nghỉ và các sự mệt mỏi, vị ấy tức ở trong bốn niệm trụ, khéo an định nơi chánh niệm làm chỗ nương dựa. Vì nhằm vĩnh viễn đoạn trừ tùy miên dục tham, nên tu tập đối trị.

Lại, tức dùng sự an trụ trong chánh tri làm chỗ dựa nương, nên xa lìa các thứ ngăn che (cái), thân tâm thư thái, điều hợp, có thể nhận lãnh, hành trì, phương tiện càng sáng rõ, nơi tịch tĩnh tu đoạn. Vị ấy, do niệm và chánh tri như thế làm chỗ nương tựa, nên có thể chứng đắc việc đoạn trừ dục phiền não, xa lìa các dục, cho đến an trụ đầy đủ nơi tĩnh lự thứ nhất. Như vậy là có thể hoặc nhận biết hoặc đoạn trừ các pháp phàm phu, tánh thấp kém, thô uế nơi biên vực của hành thọ dụng dục lạc.

Những gì gọi là dẫn phát khổ vô nghĩa? Đó là như có hữu tình hoặc các Sa-môn hoặc Bà-la-môn, tự hành khổ hạnh, ở trong hiện pháp dùng vô số các thứ khổ để tự bức bách, tự hành hạ, khiến thân tâm như hoàn toàn bị thiêu đốt, não hại. Tự cho Ta nay do khổ nơi hiện pháp bức bách, nên giải thoát khỏi khổ hiện có. Tuy mong cầu việc này, nhưng sự nung đốt, bức bách như thế, rốt cuộc không thể đạt được, lại chiêu tập sự tổn hại lớn, đó gọi là dẫn phát khổ vô nghĩa.

Các đệ tử của bậc Thánh, ở nơi biên vực thọ dụng khổ hạnh tự tạo như thế, có thể dẫn đến pháp khổ vô nghĩa phi Thánh, khéo nhận biết rõ rồi, thì nên xa lánh, không thân không gần, cũng chẳng thừa sự. Lại nữa, nay sẽ lược biện minh về nghĩa đã nêu trên.

Thế nào là lược biện minh? Đó là các hữu tình có hai thứ đầy đủ: (1) Sinh tăng thượng đầy đủ. (2) Quyết định thắng đầy đủ.

Sinh tăng thượng đầy đủ: Là đi đến nẻo thiện.

Quyết định thắng đầy đủ: Đó là Niết-bàn tịch diệt, ái dứt dục lìa. Ở nơi hai thứ đầy đủ ấy cùng với các thứ chướng ngại, có thể đoạn trừ, có thể chứng đắc. Đó gọi là tóm lược về nghĩa. Nếu ở nơi tất cả chủng loại, tất cả nhân duyên, tất cả xứ sở, không tạo hành ác, thì vị ấy liền có thể đoạn trừ mọi chướng ngại hiện có của sinh tăng thượng đầy đủ, cũng có thể chứng đắc sinh tăng thượng đầy đủ. Nếu ở nơi hành biên thọ dụng khổ hạnh tự tạo, quyết định xa lìa, thì vị ấy liền có thể đoạn trừ mọi chướng ngại hiện có của quyết định thắng đầy đủ. Nên biết đó gọi là tóm lược nghĩa ở đây.

Tụng nêu:

Chúng sinh tưởng nên nói

Dựa nên nói, an trụ

Không biết rõ, nên nói

Mà chiêu tập sinh tử.

Nếu biết rõ nên nói

Nơi người nói không lo

Do không có điều ấy

Kẻ khác không nên bàn.

Nếu chấp bằng, hơn kém

Bèn dấy khởi tranh luận

Nơi ba thứ không động

Bằng hơn kém đều không.

Đoạn danh sắc ái mạn

Khói tịch tĩnh không vướng

Không não, mong chẳng thấy

Đây kia khỏi người, trời.

Trong bốn tụng này: Kệ đầu nói “Nên nói”: Đó là tất cả pháp hữu vi. Vì sao? Vì các pháp hữu vi đều là chỗ thâu tóm của ba loại ngôn sự. Nay trong nghĩa ấy nói về năm thứ dục thù diệu, cho là “Nên nói”. Lại, năm thứ dục thù diệu, các vị Sa-môn Bà-la-môn khác, từ bên các vị thí chủ, dùng ngôn từ để cầu mong, nên gọi là “Nên nói”. Lại, năm thứ dục thù diệu, các bậc quân vương, từ nơi kẻ hầu hạ, dùng ngôn từ gọi bảo mà thọ dụng. Do nhân duyên ấy cũng gọi là “Nên nói”.

Lại, những kẻ thọ dục, đối với năm thứ dục thù diệu, không thể tự nhiên khéo nhận biết về lỗi lầm, tai họa của chúng, chỉ trừ chư Phật và đệ tử của Phật. Vì những kẻ kia nêu bày lỗi lầm, tai họa của dục, thì họ mới có thể nhận biết rõ. Do nhân duyên ấy cũng gọi là “Nên nói”.

Các kẻ thọ dục, ở trong các dục, không tư duy chân chánh, mà chấp giữ lấy tướng, cũng chấp giữ các vẻ đẹp theo ý nghĩ của mình đối với chúng liền sinh ái nhiễm, thọ dụng đam mê, cho đến chấp chặt.

Lại, đối với các dục, không nhận biết đúng như thật là chúng có các lỗi lầm, tai họa. Đó là các dục là pháp vô thường, hư giả, trống rỗng không có thật, hư hoại, cũng như sự huyễn lừa dối mê hoặc kẻ ngu, rất ít vị ái, nhiều lỗi lầm, tai họa. Cũng không nhận biết đúng như thật về nẻo xuất ly các dục vốn ít vị ái, nhiều tai họa. Đó là điều phục các dục tham kia, cho đến vượt khỏi chúng, đó chính là xuất ly. Những kẻ thọ dục đã không thấy lỗi lầm, tai họa như thế, không rõ nẻo xuất ly, mà cứ thọ dụng các dục. Do nhân duyên ấy, nên đối với các hành căn bản hiện có nơi sự sinh thuộc Dục giới, dấy khởi sự ưa thích, chấp trước sâu xa.

Lại nữa, đã tạo tác sinh khởi làm nghiệp hiện có căn bản nên thọ sinh nơi Dục giới. Sinh rồi chết đi, sinh rồi diệt mất. Như thế nên tụng viết:

Chúng sinh tưởng nên nói

Dựa nên nói, an trụ

Không biết rõ, nên nói

Mà chiêu tập sinh tử.

Nếu được gặp bậc thiện tri thức, được nghe chánh pháp, tác ý như lý, tức ở nơi các dục, nhận biết rõ như thật về nẻo xuất ly các thứ lỗi lầm tai họa. Đó là các dục là vô thường, hư giả, nói rộng cho đến vượt khỏi dục tham. Vị ấy, ở trong Tỳ-nại-da nơi chánh pháp của Như Lai chứng đắc đạt được tin tưởng thanh tịnh, nên đối với các dục thấy biết một các sâu xa lỗi lầm tai họa của chúng. Lại chuyển biến thêm hơn, bèn có thể lìa bỏ hoặc ít hoặc nhiều tài sản, vật báu, kho tàng, quyến thuộc tùy tùng, dùng tâm chánh tín từ bỏ cuộc sống gia đình, hướng tới cuộc sống không gia đình. Đó là tất cả sinh lão bệnh tử thảy đều vĩnh viễn diệt trừ. Như thế là xuất gia, không có cầu mong, tu hành phạm hạnh. Tức cho là Ta do sự trì giới, tinh tấn tu tập phạm hạnh ấy, nên sẽ được sinh thiên, hoặc thiên xứ khác. Vị ấy, không có các cầu mong tà vạy như thế, nên đối với mình không thấy, không sợ, không lo bị kẻ khác chê trách, luận bàn. Nghĩa là kẻ khác không nên chê bai, luận bàn, oán trách như thế, nói: Này Hiền giả! Ông nay vì sao đang lúc trẻ trung khỏe mạnh, mà xả bỏ những thứ dục lạc thù diệu nơi hiện tại, không theo ý thích, sở nguyện của thân thuộc, lại cầu mong các thứ dục đợi thời, dốc tu phạm hạnh? Vì thế nên tụng viết:

Nếu biết rõ nên nói

Nơi người nói không lo

Do không có điều ấy

Kẻ khác không nên bàn.

Đây tức thành tựu Thi la thanh tịnh và kiến giải thanh tịnh. Vì sao? Vì do kiến giải điên đảo nên phát khởi mạn. Mạn được giữ lấy nên cùng dấy khởi tranh luận với các Sa-môn, Bà-la-môn khác. Do nhân duyên ấy nên nói: Kiến chấp như thế là căn bản của sự tranh luận. Như có Sa-môn hoặc Ba la môn, dựa nơi kiến chấp căn bản, tranh luận về bằng hơn kém, tâm hiện cao ngạo, vì lý do ấy, nên cùng với các Sa-môn, Bà-la-môn khác lần lượt cùng tranh luận. Nương tựa vào ba thứ mạn: Ta hơn, Ta bằng, Ta kém, để lập mình là hơn, hoặc bằng, hoặc kém. Nếu các đệ tử bậc Thánh không bị ngã, ngã sở, ngã mạn lay động, cho đến cũng không bị những ý tưởng: Ta sẽ chẳng phải là có tưởng, chẳng phải là không tưởng lay động, nhận biết rõ các hành đều do các duyên sinh. Ở trong các hành chỉ thấy pháp tánh, hãy còn không đem mình so sánh với kẻ khác là hơn bằng kém, huống hồ là dấy khởi kiến chấp, kiêu mạn để dẫn phát tranh luận. Chư vị đệ tử Thánh ấy, tuy ở nơi chỗ kẻ khác, luôn hiển dương tông chỉ của mình, hàng phục luận điệu của họ, như đối với các pháp chỉ là pháp tánh duyên nơi từ bi. Điều ấy là như thế nào? Như có hữu tình đối với những diệu nghĩa do Phật nêu giảng, lãnh hội dù chỉ một câu, như vậy như vậy tu hành chân chánh, khiến cho hữu tình ấy, trong đêm dài sinh tử đạt được lợi ích, an lạc lớn lao. Cũng khiến cho chánh pháp của Như lai trụ lâu nơi thế gian. Không dựa nơi kiến mạn, cùng không vì nhân duyên được cung kính, lợi dưỡng mà dấy khởi tranh luận. Như thế là không vì mong cầu các dục thù diệu nơi hiện pháp như vậy nên nguyện tu phạm hạnh. Vị kia do tu phạm hạnh như thế nên xa lìa nguyện tà cùng các thứ kiến chấp tà vạy, dứt bỏ mọi tham cầu về cung kính, lợi dưỡng, nơi tất cả loại đều được thanh tịnh, uy quang rạng rỡ, không đâu là không tỏa sáng khắp, chư thiên, người đời đều chỉ tán dương, không hề luận bàn, chê trách. Lại có thể vượt khỏi sinh lão bệnh tử. Như thế nên tụng viết:

Nếu chấp bằng hơn kém

Bèn dấy khởi tranh luận

Nơi ba thứ không động

Bằng hơn kém đều không.

Nói danh sắc: Đó là năm thủ uẩn. Nếu có hữu tình đối nơi năm thủ uẩn ấy, quán xét thấy rõ là khổ, sẽ hiện quán về đế. Lúc thấy hết các khổ nơi năm thủ uẩn thì đối với tham ái hiện có năm thủ uẩn, do ý vui thích, đều nói là đã đoạn trừ, không phải là tùy miên. Hữu tình ấy như đạo mình đã đạt được, càng gắng sức tu tập, đối với ngã mạn đoạn đứt trọn vẹn, thành A-la-hán, các lậu vĩnh viễn trừ hết. Do đã chứng đắc quả A-la-hán, tâm khéo giải thoát, nên đối với tự thân, các vật dụng của tự thân, mọi thứ trói buộc cùng tùy miên thảy đều đoạn hẳn, lìa ái, lìa kiêu, bỏ các phóng dật. Vị ấy, do những lìa bỏ như vậy, nên gọi là “khói vắng lặng”, không có thiêu đốt, não hại, cũng không mong cầu.

Thế nào gọi là “khói vắng lặng”? Khói gọi là ái. Vì sao? Ví như nơi thế gian, khói là tướng ở trước lửa, có thể gây tổn hại cho nhãn căn, làm nhiễu loạn, khiến không an trụ. Ái cũng như thế là tướng ở trước lửa tham sân si, có thể tạo tổn hại cho tuệ nhãn, nối tiếp làm loạn tâm, nghĩa là hay dẫn phát tầm tư vô nghĩa. Vị đó đối với ái ấy đã nhận biết, đã đoạn trừ, cho đến khiến chúng nơi đời vị lai thành pháp không sinh, gọi là “khói vắng lặng”. Vị ấy đã được khói vắng lặng, lìa mọi vướng mắc như thế, tuy lại tìm cầu các vật dụng duyên của thọ mạng, không phải là không tìm cầu, nhưng có thể giải thoát mọi tìm cầu của tham ái, nên chỗ tìm cầu không cấu nhiễm.

Thế nào là không não hại? Đó là hữu tình kia lúc đang cầu tìm như thế, được kẻ khác tự hành cấp thí, hoặc khuyên người khác bố thí, khi thí thì ân cần tôn trọng chẳng phải là không ân cần tôn trọng, tinh khiết chứ không phải thô xấu, nhiều thứ không phải là ít, mau mắn chứ không phải chậm chạp, nhưng không có vị dục ái. Đối với vật nhận được thọ dụng không cấu nhiễm, không sinh tham đắm, tiếc lẫn, cho đến chấp chặt. Lúc thọ dụng các vật nuôi sống thân mạng như vậy, không bị phiền não tham lam thiêu đốt, não hại.

Hoặc vị thí chủ kia, tự mình không thể hành thí, hoặc ngăn kẻ khác hành thí. Nếu như có bố thí thì hiện rõ không ân cần tôn trọng, không phải là hiện bày ân cần tôn trọng, cho đến trì hoãn chứ không mau chóng, tuy nhiên không hiềm khích, ân hận. Do nhân duyên ấy, nên không sinh giận dữ, não hại. Lại, lúc thọ dụng các vật có được, không lo lắng không nhớ nghĩ, không có tâm tổn hại, tâm sân hận, như thế là không bị phiền não sân hận não hại.

Lại, đối nơi các vật nhận được, hoặc tinh hoặc thô, vào lúc thọ dụng, nhận thấy một cách sâu xa lỗi lầm của chúng, khéo biết rõ nẻo xuất ly, an trụ nơi chánh niệm, xa lìa si ám, như thế là không bị phiền não si mê não hại.

Thế nào là không mong cầu? Mong trông gọi là hy vọng, tâm trói buộc đã hiện hữu. Hữu tình kia không biết xét đoán, ôm lòng tham muốn, đi đến các nhà thế tục, đó là các danh gia vọng tộc Sátđế-lợi, Bà-la-môn, Trưởng giả, Cư sĩ, hy vọng là mình sẽ từ chốn ấy có được những thức ăn uống thích hợp thượng diệu, cho đến các vật dụng nuôi thân như tiền bạc, vật báu, y phục, các thứ món ngon vật lạ, các thứ đồ ngồi nằm, thuốc men trị bệnh … Tìm cầu và thọ dụng là như thế. Đối với các thứ tài sản vật dụng ấy đều không trông mong. Lại nữa, hữu tình kia luôn an trụ trong “tưởng chết”. Nghĩa là hết đêm đến ngày, hết ngày lại tới đêm, nơi khoảng thời gian đó, vị ấy luôn suy niệm mình có vô lượng trường hợp đưa đến tử vong, như kinh đã nói rộng. Đó là như bị trúng gió, cho đến bị hàng phi nhân khủng bố. Do nhân duyên ấy, nên mọi nẻo tìm cầu, mọi sự thọ dụng, mọi thứ tài sản vật dùng hiện có đối với thọ mạng này cũng đều không trông mong. Như thế là khói vắng lặng, không tham vướng, không bị thiêu đốt não hại, không mong trông. Do đó, ở trong nhân hiện có của các bậc Đế Thích, Đại Tự Tại, Thế chủ nơi nẻo trời, người đều không thể thấy. Ở trong các thứ nhân quả của nẻo trời người cũng không thể thấy.

Lại, nơi thế gian trời người của bốn châu này cùng xứ khác đều không thể thấy. Lại, nơi thế gian trời người của thế giới này cùng các xứ khác đều không thể thấy. Vì vậy, tụng nêu:

Đoạn danh sắc ái mạn

Khói tịch tĩnh, không vướng

Không não mong chẳng thấy

Nẻo trời, người đây kia.

Lại nữa, tụng đầu hiển thị về các dục đợi thời đối với hạnh tà của dục và quả của hạnh tà. Tụng thứ hai nêu rõ việc xả bỏ dục, ứng hợp với đạo lý chân chánh, tịnh tu phạm hạnh, nhưng bị luận bàn chê trách là không hợp với đạo lý cùng dục đợi thời. Tụng thứ ba cũng như tụng thứ hai. Trong tụng thứ tư, Đức Thế Tôn chỉ rõ về pháp hiện chứng đắc, vĩnh viễn xa lìa mọi thứ thiêu đốt, cho đến bậc trí tự chứng đắc.

Lại, tụng đầu nêu rõ các dục là tướng nên nói, làm rõ các dục đợi thời. Do các dục ấy chẳng phải là lúc vừa cần thì liền được toại ý, mà chính là trước hết phải dùng ngôn từ để nêu bày, sau đấy mới tìm cầu, thọ dụng. Lại làm rõ, đối với các dục kia, do tưởng an trụ nơi chỗ không nhận biết rõ, nên dấy khởi hạnh tà cùng chiêu cảm lấy sinh tử là quả báo của hạnh tà.

Trong tụng thứ hai, hiển bày đối với các dục có thể nhận biết rõ, nên lìa nguyện tà vạy, tu tập phạm hạnh, bỏ mọi tà kiến, lìa ngã mạn là gốc rễ của kiến chấp. Xa lìa mọi tham đắm về lợi dưỡng, cung kính, dứt bỏ các dục, ứng hợp với đạo lý chân chánh. Do nhân duyên này, nên mọi thứ luận bàn, chê trách của kẻ khác là không hợp đạo lý.

Lại, làm rõ tánh của các dục là đợi thời. Vì sao? Vì nếu ở đời trước không tạo phước đức, thì hiện tại tuy có dụng công, nhưng đối với chỗ mong muốn, quả có được không thể toại ý. Hoặc chỉ đời này tạo phước đức, tức nơi thời này, về chỗ mong muốn cũng không xứng hợp. Do nhân duyên ấy, nên phải về sau mới thành tựu đầy đủ. Do đó các dục gọi là đợi thời.

Nơi tụng thứ tư hiển thị các phiền não do kiến đạo đoạn đã được đoạn trừ, tức ở nơi hiện tại chứng đắc bậc Sa-môn đầu và quả Sa-môn.

Lại, các phiền não do tu đạo đoạn đã được dứt trừ, tức ở nơi hiện tại chứng đắc bậc Sa-môn sau và quả Sa-môn, đoạn trừ tham ái, dứt hết ngã mạn. Như thế là hiển bày pháp hiện chứng đắc.

Lại, lìa mọi chấp trước, đạt “khói vắng lặng”, là hiển thị vĩnh viễn lìa bỏ mọi thứ thiêu đốt, cho đến bậc trí nội tâm tự chứng đạt. Vị ấy đạt được pháp chứng đắc nơi nội tâm như thế, làm sao khiến kẻ khác có thể nhận biết rõ? Là do chỗ biểu hiện của tướng không còn bị thiêu đốt, não hại, không còn mong cầu.

Ở đây, nơi ba tụng đầu, nêu rõ Đức Thế Tôn vì chư thiên mà nói, các Bí-sô không thể hiển dương đại nghĩa nơi Thánh giáo của Như Lai, chỉ riêng Phật là mới có thể làm được. Lúc nói lời ấy, chúng kia đã lãnh hội, tỏ ngộ, đối với các Bí-sô sinh tâm khi dễ, đối với tự thân, tâm sinh kiêu mạn, những thứ ấy đều được trừ diệt. Trong tụng thứ tư, hiển bày rộng về đại nghĩa nơi Thánh giáo của Như Lai.

Bị dục tham che, diệt

Tâm ta thiêu đốt khắp

Chỉ Đại Tiên xót thương

Nói pháp khiến tịch tĩnh.

Do tưởng ngươi điên đảo

Khiến tâm thiêu đốt khắp

Vì thế thường xa lìa

Tướng tịnh diệu, dẫn tham.

Ngươi nên tu bất tịnh

Luôn định nơi một cảnh

Khiến lửa tham mau tắt

Phải nên luôn tưới rưới.

Quán các hành không diệu

Là khổ, là vô ngã

Cũng buộc niệm nơi thân

Hằng tu tập chán lìa.

Tu tập nơi vô tướng

Trừ mạn và tùy miên

Do hiện quán nơi mạn

Nên chứng biên vực khổ.

Thế nào là tưởng điên đảo? Đó là nơi các cảnh bất tịnh, xả bỏ tướng bất tịnh, tư duy không đúng đắn, giữ lấy tướng tịnh diệu và các vẻ đẹp kèm theo.

Thế nào là xa lìa tướng tịnh diệu, dẫn phát tham? Nghĩa là như có một hữu tình thấy rõ một ít sắc tốt tươi rất đáng yêu thích nơi các khung cảnh chung rồi, liền thâu giữ các căn, không niệm theo chúng.

Thế nào là luôn định nơi một cảnh tu tập bất tịnh? Đó là như có một hữu tình, trước dùng phương tiện thiện xảo, giữ lấy tướng của Tam-ma-địa hiền thiện. Tức tướng bầm xanh, cho đến tướng xương trắng hoặc xương nát vụn, liền dùng tướng ấy, đối với cảnh giới khả ái hiện đạt được, buộc niệm tư duy, như trước đã giữ lấy, thì sau cũng vậy. Lại, nơi nội thân, hoặc tự mình, hoặc kẻ khác, quan sát về vô số thứ bất tịnh đầy dẫy. Đó là trong thân này có tóc có móng, cho đến đủ loại bất tịnh về đại tiểu tiện.

Thế nào là quan sát các hành không phải là tốt đẹp, cho đấy là khổ? Đó là như có một hữu tình, khởi tư duy như vầy: Thấy một ít sắc tươi tốt rất đáng yêu thích nơi các khung cảnh chung rồi, tham ái sinh khởi, mong muốn thọ dụng tức là tập đế, là nhân của các khổ. Do đó nên sinh, sinh rồi thì già chết, sầu than lo khổ, vô số buồn phiền, quấy nhiễu từ đấy phát sinh.

Thế nào là quan sát các hành không phải là tốt đẹp, cho đấy là vô ngã? Nghĩa là như có một hữu tình khởi tư duy: Ở trong thân hình ta, thân hình người nữ đều không có ngã và hữu tình v.v…, ai là chủ thể thọ dụng, ai là đối tượng được thọ dụng? Chỉ là các hành. Chỉ là các pháp từ các duyên sinh.

Thế nào là buộc niệm nơi thân, dốc tu tập chán lìa? Đó là như có một hữu tình tánh thuộc loại dục tham mạnh mẽ, do thuộc loại như thế nên tuy đã thâu giữ các căn, nhưng vẫn bị tham dục làm tổn hại tâm ý. Tuy lại tác ý tư duy về bất tịnh, khổ cùng vô ngã, nhưng cũng bị dục tham làm tổn hại nơi tâm. Do nhân duyên này, hữu tình đó nương nơi bất tịnh, hoặc khổ, vô ngã, tác ý tư duy, quyền biến tùy thời, chán lìa, hủy hoại, trái ngược không thuận, ở nơi thân niệm trụ, giữ niệm hiện tiền, thân cận tu tập, hoặc tu tập nhiều. Người ấy, do trụ nhiều nơi hành như thế nên liền có thể đoạn trừ dục tham mạnh mẽ đó. Hoặc thâu giữ các căn, không còn bị dục tham làm tổn hại nơi tâm. Hoặc lại tác ý tư duy về bất tịnh, khổ cùng vô ngã, cũng không bị tham dục làm tổn hại tâm ý. Vị ấy, do tu tập hành như thế, nên mọi trói buộc của dục tham chỉ đoạn nơi hiện hành, không phải đoạn nơi tùy miên (Chủng tử).

Lại, mọi trói buộc của dục tham này cùng tùy miên, lược nêu có hai loại Bổ-đặc-già-tha (Hữu tình) nối tiếp có thể mắc phải: Một là: Nơi hàng phàm phu, nối tiếp có thể mắc phải. Hai là: Nơi hàng hữu học, nối tiếp có thể mắc phải. Tuy trong thân của hàng hữu học có một phần, cũng không thể mắc phải. Tức là đối với tham bậc dưới, do vĩnh viễn đoạn trừ nên đã được an ổn. Tham bậc trên chưa đoạn trừ, nên chưa được an ổn. Trong thân bậc vô học, mọi dục tham hiện có nơi cõi diệu, cõi trung, hãy còn không thể khiến mắc phải, huống hồ là cõi kém, do bậc vô học, tham loại thượng, hạ đều đoạn trừ, nơi tất cả phần đã được an ổn. Một phần hàng hữu học chỉ nhận biết rõ mà thôi, chưa lìa bỏ tham dục nên đối với bậc vô học sau tâm sinh mong muốn, vui thích, thấy công đức tịch tĩnh của Bát Niết-bàn, lại không tư duy về hết thảy tướng, luôn chánh tư duy về cảnh giới vô tướng, nên nơi định vô tướng siêng năng tu học.

Lại ở nơi ấy thường xuyên tu tập, nên vĩnh viễn đoạn trừ ngã mạn do tu đạo đoạn trong ba cõi. Do sự đoạn trừ ấy nên nói là bậc vô học lìa dục của ba cõi, tham thuộc loại thượng, hạ đoạn trừ rồi, đạt được an ổn, nhân của hết thảy khổ đều lìa bỏ, nên chứng đắc biên vực tận cùng của tất cả các khổ. Vì thế tụng viết:

Tu tập nơi vô tướng

Trừ mạn và tùy miên

Do hiện quán nơi mạn

Nên chứng biên vực khổ.

Lại nữa, nay sẽ lược biện giải về nghĩa đã nói ở trên. Đó là hiển bày tham dục do đấy mà sinh, do đấy đạt tịch tĩnh cùng sự tịch tĩnh kia. Nên biết đó gọi là nghĩa tóm lược trong ấy.

Thế nào là tham dục do đấy mà sinh? Tức là do năm nhân: Do tưởng tịnh diệu. Do vui thích an lạc. Do tưởng của hữu tình. Do tham mạnh mẽ. Do tùy miên còn sót lại chưa dứt hết.

Thế nào là tham dục sinh rồi, do đấy mà tịch tĩnh? Là do năm nhân: Do tác ý tư duy về bất tịnh. Do tác ý tư duy về khổ. Do tác ý tư duy về vô ngã. Do buộc niệm, tu tập nhiều về chán lìa. Do tùy miên đã vĩnh viễn trừ diệt không còn sót.

Thế nào là tịch tĩnh? Nghĩa là tịch tĩnh ấy lược có hai loại: Tịch tĩnh hiện hành. Tùy miên được đoạn trừ vĩnh viễn, nên đương lai không sinh khởi.

Do nhân duyên của bốn loại tịch tĩnh trước, tạo thành tịch tĩnh thứ nhất. Do nhân duyên của tịch tĩnh thứ năm, nên loại thứ hai thành tựu.

Vì sao Bí-sô nhiều chỗ trụ

Vượt năm bộc lưu sẽ qua sáu

Ví sao bậc định hay độ rộng

Dục ái nhưng chưa được lưng thuyền.

Thân khinh an, tâm khéo giải thoát

Vô tác buộc niệm không nghiêng động

Rõ pháp tu tập định không tầm

Giải thoát lỗi phẫn, ái, hôn trầm

Bí-sô như vậy nhiều chỗ trụ

Vượt năm bộc lưu sẽ qua sáu

Như vậy bậc định hay độ rộng

Dục ái nhưng chưa được lưng thuyền.

Kệ tụng này là nhân nơi chỗ thưa hỏi của Thiên nữ.

Bộc lưu (Dòng thác) có sáu. Đó là bộc lưu của mắt có thể thấy các sắc, cho đến bộc lưu của ý, có thể biết rõ các pháp. Bậc hữu học kiến tích, Thánh đệ tử của Phật, nơi mắt tùy thuận hỷ nhận biết về sắc, không trụ nơi ái. Nơi mắt tùy thuận ưu nhận biết về sắc, không trụ nơi sân. Nơi mắt tùy thuận xả nhận biết về sắc, luôn luôn xét chọn an trụ nơi xả. Các thứ phiền não ấy giả như đã sinh, hoặc là trói buộc của dục tham, hoặc là trói buộc của sân hận, hoặc là trói buộc của ngu si. Ba thân làm duyên, đó là thân hỉ, thân ưu, thân xả, nhưng không chấp chặt, cho đến biến chuyển, thổ lộ. Do nhân duyên này, nên đối với các phiền não trói buộc thuộc nơi ba thân, không được hiện hành, khinh an mà trụ. Như vậy gọi là được thân khinh an, nhưng chưa thể đạt được tâm khéo giải thoát. Vì tùy miên nơi vị kia chưa được đoạn trừ vĩnh viễn. Vị ấy, về sau lại có thể đoạn trừ vĩnh viễn các tùy miên hệ thuộc mình, tức ở trong các thứ phiền não hệ thuộc nơi tự thân, xa lìa mọi trói buộc, thuận theo. Như vậy mới gọi là ở chỗ tham sân si của ba thân, tâm khéo giải thoát.

Như mắt nhận biết về sắc, cho đến thân nhận biết về xúc, nên biết cũng vậy. Thế là đã đoạn trừ năm kiết hạ phần, vượt khỏi năm bộc lưu. Tức là vượt bộc lưu mắt có thể nhận biết các sắc, cho đến vượt khỏi bộc lưu thân có nhận biết các xúc. Vượt qua năm thứ bộc lưu như thế rồi, thì bộc lưu thứ sáu còn lại là ý cũng sẽ vượt qua.

Lại tu tập vô tác, vô động buộc niệm.

Thế nào là vô tác? Đó là đối với Niết-bàn, sinh tâm mong muốn, vui thích nhưng không bị ngã mạn làm khuynh động, không có đối tượng tư duy, cũng không tạo tác. Lại không bị các thứ chấp “Ngã, ngã sở nơi vị lai là có” cho đến “Ngã sẽ chẳng phải là tưởng, chẳng phải là chẳng phải tưởng” làm khuynh động, nên cũng không có đối tượng tư duy, không tạo tác.

Thế nào là vô động? Đó là tâm của vị ấy không bị các kiết thượng phần ràng buộc, nhiễu loạn, không biến không động, cũng không chuyển đổi. Lại, ở nơi các định tịch tĩnh, không theo một định để sinh vị tham ái, mến mộ, bám chặt.

Thế nào là buộc niệm? Đó là vị ấy đoạn dứt các kiết thượng phần, đối nơi nội thân an trụ, tuần tự quán thân, như thế cho đến nói rộng về niệm trụ. Vị ấy do tu tập vô tác như vậy nên đoạn các sinh ái, do tu tập vô động như thế nên đoạn các định ái. Ở đây lìa hiện hành, nên gọi là đoạn. Tu tập buộc niệm là tu tập đối trị nên khiến cho các kiết thượng phần hoàn toàn được dứt trừ không còn sót. Tu tập vô tác, buộc niệm, không khuynh động như vậy, nên có thể khiến cho hết thảy các kiết thượng phần đều được đoạn trừ vĩnh viễn, không còn sót. Đó gọi là vượt qua bộc lưu thứ sáu, là bộc lưu ý, có thể biết rõ các pháp.

Lại có sai biệt. Thế nào là vô động? Nói vô động: Là căn thiện từ không có tánh sân hận. Do nhân duyên ấy nên các Thánh đệ tử, đối với thân đoạn trừ nguyện tà, tu Xa-ma-tha, Tỳ-bát-xá-na. Vị ấy, do tâm từ nên tu Xa-ma-tha, do niệm trụ nên tu Tỳ-bát-xá-na. Tu hành đúng đắn như vậy, nên có thể thuận theo việc đoạn trừ các kiết thượng phần, ba tâm tu tập mau được viên mãn. Đó là đối với thân nơi cõi trên, tâm không đắm nhiễm. Đối với hữu tình hạng dưới, tâm không giận dữ. Người không phóng dật, đối nơi cảnh trên dưới, tâm không nhiễm ô. Phần còn lại như trước đã nói. Như thế gọi là vượt khỏi năm bộc lưu, sẽ vượt qua bộc lưu thứ sáu.

Thế nào là biết rõ các pháp? Đó là nơi pháp khổ có thể biết rõ, có thể quán xét. Nơi pháp tập diệt đạo, có thể biết rõ, có thể quán xét.

Thế nào là tu tập định không tầm? Đó là có thể nhận biết rõ pháp như vậy rồi, lại an trụ trong sự đoạn dứt và từ bỏ các dục được dựa giữ nơi đời sống gia đình. Hoặc ở chốn A-luyện-nhã, hoặc ở nơi vắng lặng bên cội cây, đối với thân hỷ hiện có thuận theo hỷ do mắt nhận biết về sắc, đối với thân ưu hiện có thuận theo ưu do mắt nhận biết về sắc, đối với thân xả hiện có thuận theo xả do mắt nhận biết về sắc, nơi đối tượng duyên ấy, không có sự trói buộc của tầm dục, tâm an trụ nhiều, cho đến cũng không có sự trói buộc của tầm tương ưng với đời sống gia đình – thế gian sinh ra, tâm an trụ nhiều. Giả như dấy khởi tầm dục cho đến tầm tương ưng với đời sống gia đình – thế gian, tức có thể nhận biết rõ như thật về nẻo xuất ly, không bị tầm dục làm chướng ngại, cho đến cũng không bị tầm tương ưng với đời sống gia đình – thế gian làm chướng ngại, mà có thể dùng tĩnh lự để suy xét kỹ lưỡng, đúng đắn. Do phương tiện ấy, do tu tập đạo ấy, nên có thể đoạn trừ lỗi lầm của thân hỷ nhiễm ái, có thể đoạn trừ lỗi lầm của thân ưu giận dữ, có thể đoạn trừ lỗi lầm của thân xả hôn trầm. Các thứ trói buộc đã dứt, nên thân được khinh an. Tùy miên đã đoạn, nên đối với mọi thứ nhiễm ô của ba thân thuộc cõi dục, tâm khéo giải thoát. Vị ấy, bấy giờ gọi là đã vượt qua vùng dục ái rộng lớn. Đó là ái lưu hành khắp, từ các sắc cho đến các xúc. Hoặc ái hòa hợp, hoặc ái tăng trưởng, hoặc ái không lìa, hoặc ái không hợp, hoặc ái thoái giảm, hoặc ái biệt ly, hoặc ái nơi cõi dục lại thọ sinh.

Lại có sai biệt: Thế nào là tu tập định không tầm? Đó là đã đạt được tĩnh lự không tầm không tứ. Phần còn lại như trước đã nói.

Lại nữa, nay sẽ được biện biệt về nghĩa đã nói ở trên. Tức là Thiên nữ kia đã lược hỏi Đức Thế Tôn ba thứ nghĩa chính yếu: Một là: Đoạn trừ kiết hạ phần. Hai là: Phương tiện đoạn trừ kiết thượng phần. Ba là: Tức phương tiện đoạn trừ kiết hạ phần và sự khéo đoạn trừ của vị ấy.

Hỏi như thế xong. Bấy giờ, Đức Thế Tôn tùy chỗ thích ứng mà giải đáp. Đó là do thân khinh an, tâm khéo giải thoát, là đáp lại chỗ hỏi về “đoạn trừ kiết hạ phần”, không phải là phương tiện đoạn. Do vô tác, buộc niệm, không khuynh động, là đáp lại chỗ hỏi về phương tiện đoạn trừ kiết thượng phần, không phải là đoạn. Nhưng Thiên nữ, đối với sự đoạn trừ giống như trước, tức cũng lãnh hội. Chỉ còn lại phương tiện đoạn trừ kiết hạ phần cùng sự khéo đoạn trừ của vị ấy.

Lúc này, Đức Thế Tôn trước dùng việc tu tập định không tầm được nói rộng về những sai biệt để đáp về phương tiện đoạn. Đó là như chủ thể đoạn, như đoạn, đối tượng đoạn. Trong ấy, biết rõ pháp gọi là chủ thể đoạn. Tu định không tầm gọi là như đoạn. Đối tượng đoạn là lỗi lầm của phẫn, đó là phẩm sân hận. Đối tượng đoạn là lỗi lầm của ái, đó là phẩm tham dục. Đối tượng đoạn là lỗi lầm của hôn trầm, đó là phẩm ngu si. Như thế gọi là chủ thể đoạn, như đoạn, đối tượng đoạn. Đã rộng đáp về phương tiện đoạn như vậy rồi, chỉ còn phần như khéo đoạn trừ.

Lại do nhân duyên sai biệt của việc tu định không tầm thứ hai để đáp lại phần ấy.

Nói khéo đoạn trừ: Là đoạn trừ rốt ráo, đoạn trừ phần xa, đoạn trừ hết thảy tạp nhiễm. Do nhận biết rõ về pháp, nên giải thích đoạn trừ rốt ráo. Do tu tập định không tầm, nên giải thích đoạn trừ phần xa. Do triền (trói buộc) cùng tùy miên của tham sân si, tất cả đều được dứt bỏ, nên giải thích phần đoạn trừ hết thảy tạp nhiễm. Nên biết đó gọi là tóm lược nghĩa trong ấy.

Lại, Thiên nữ kia dựa vào các bậc hữu học chưa đạt được thắng ý, đã lìa tham cõi dục, nhưng chưa lìa tham cõi trên, để nêu các câu hỏi, ý gọi là “Lưng thuyền”, như kinh nói hổ thẹn là trục xe, ý là lưng thuyền. Người đối với lưng thuyền ấy vẫn chưa đạt được: Kẻ ấy gọi là chưa đạt “Lưng thuyền”. Ở đây những gì gọi là Lưng thuyền? Đó là đối với các kiết, tâm khéo giải thoát.

Thế gian thường có sợ

Chúng sinh luôn bị bức

Nơi các khổ chưa sinh

Hoặc trong khổ đã sinh.

Như có ít không sợ

Nay xin vì con nói Trời,

Ta xem giải thoát

Tinh tấn không lìa trí.

Không lìa, thâu các căn

Không lìa, xả tất cả

Con quán rất lâu xa

Phạm chí Bát Niết-bàn

Đã qua các sợ hãi

Vượt tham đắm thế gian.

Nay, trong tụng này, các thân bắt đầu từ cõi dục cho đến cõi Hữu Đảnh, đều gọi là Thế gian. Nghĩa ở trong đây, ý tại thế gian của hữu tình có khổ có vui thuộc cõi dục. Nếu những vật dụng được thâu nhận để nuôi dưỡng thân của các hữu tình hoàn toàn không thiếu thốn, thân khỏe mạnh không bệnh tật, tuổi tác chưa già suy, gọi là thế gian của hữu tình có vui. Trái với điều trên, nên biết là thế gian của hữu tình có khổ. Chúng sinh của thế gian đó, phần ít có vui, phần nhiều có khổ. Các cõi thế gian của hữu tình có vui thường mang tâm sợ hãi. Chớ để tài sản, vật báu của mình bị vua quan chiếm đoạt, nói rộng cho đến, chớ do duyên này gặp phải các khổ nạn. Chớ để, hoặc phong nhiệt bên trong phát động, cho tới hoặc người, hoặc hàng phi nhân xâm hại đến tánh mạng mình chăng. Như thế nỗi lo sợ về khổ do tài sản, vật báu bị biến hoại trong vị lai cùng khổ do thân hoại khiến tâm luôn sợ hãi. Các cõi thế gian của hữu tình có khổ, thân tâm hiện bị các thứ khổ bức bách nên có đủ khổ, lo, sầu, tên nhọn, có các thứ nhiễu động luôn không an trụ. Do đấy nên kệ viết:

Thế gian thường có sợ

Chúng sinh luôn bị bức

Nơi các khổ chưa sinh

Hoặc trong khổ đã sinh.

Vì nhân duyên ấy, vị trời kia hiện thấy cái vui nơi các cõi thế gian của hữu tình có vui là không chắc chắn nên thưa hỏi Đức Như Lai về nơi chốn có cái vui chắc chắn, không sợ hãi. Bấy giờ, Đức Thế Tôn tức vì vị trời kia tạo phương tiện chỉ rõ: Chỉ trong Thánh giáo mới có nơi chốn như vậy, chẳng phải là các ngoại đạo. Đó là như hiện có một Sa-môn hoặc Bà-la-môn trụ ngoài chánh pháp, ở trong hiện pháp cùng các lỗi lầm, tai họa của các dục nơi đời vị lai không nhận biết đúng như thật. Do không nhận biết nên mong cầu các dục sai biệt nơi vị lai, bỏ dục của hiện pháp cầu dục của hậu pháp, tinh tấn thọ học giới cấm hiện có, tuy lại an trụ nơi giới cấm như thế, nhưng không trí tuệ, không hộ trì căn môn, không giữ lấy chánh niệm, không luôn gắn bó với niệm, cho đến nói rộng. Kẻ ấy không điều phục, thâu giữ các căn môn, nên đối với những thứ lợi dưỡng và cung kính nhỏ ít do người khác ban cho, hãy còn sinh vị tham ái, theo đấy khởi luyến mộ vướng chấp, huống chi là những lợi dưỡng, cung kính lớn lao khác. Kẻ tinh tấn thọ giới cấm như thế, xa lìa trí tuệ, xa lìa việc hộ trì nghiêm ngặt căn môn, đối với dục của hiện pháp hãy còn không thể đoạn trừ, huống chi là dục của hậu pháp.

Lại tức ở nơi kia, có một Sa-môn hoặc Bà-la-môn, đối với những lỗi lầm tai họa của dục, chỉ nhận biết rõ phần thô, nên có thể vượt qua các dục của hiện pháp và hậu pháp, nhưng lại vui cầu cảnh giới lìa dục trên, đối với phi giải thoát dấy khởi tưởng giải thoát, tức thì xa lìa đoạn bỏ các dục. Kẻ ấy do tinh tấn, luôn tu tập nhiều chánh tư duy, nên lìa dục nơi cõi dục, cho đến lìa dục nơi cõi vô sở hữu xứ. Vì nhân duyên này, nên xả bỏ tự thể cõi dưới, yêu thích tự thể cõi trên. Do sự yêu thích đó, nên về đời vị lai đối với tự thể cõi dưới hãy còn không giải thoát, huống hồ là cõi trên. Kẻ từ bỏ tài sản, vật báu, tự thể mê lầm lạc đường, tuy được an trụ nơi tinh tấn dũng mãnh, nhưng không thể đạt được nơi chốn hoàn toàn an lạc, không có sợ hãi. Vì sao? Vì các Sư ngoại đạo kia, đối với nơi chốn ấy hãy còn không thấy không biết, huống chi là có thể vì các đệ tử của họ, khai thị quảng diễn. Các Sư và đệ tử của ngoại đạo như thế, trong việc tạo luận, đã nhất định cho không có biên vực của các khổ. Trái với luận điểm ấy là trong Tỳ-nại-da của chánh pháp giảng nói thiện, nên biết là gồm đủ hết thảy nghĩa lợi, cho đến nhất định có biên vực của các khổ.

Dựa nơi mật ý ấy, Đức Phật vì vị trời kia mà nói, như kệ nêu:

Trời, Ta xem giải thoát

Tinh tấn không lìa trí

Không lìa, thâu các căn

Không lìa, xả tất cả.

Lại nữa, nay sẽ lược biện biệt về nghĩa đã nói ở trên. Đó là nhằm hiển thị trong Tỳ-nại-da của tà pháp thuyết ác, các sư và đệ tử đều có suy tổn. Trong Tỳ-nại-da của chánh pháp giảng nói thiện, đều có đủ an lành. Đối với tất cả khổ có thể chứng đắc biên vực tận cùng. Nên biết đó gọi là tóm lược về nghĩa trong ấy.

Bấy giờ, vị trời kia nghe Đức Phật Thế Tôn giải đáp các điều mình thưa hỏi, nên hoan hỷ hết mực, liền dùng bốn thứ công đức vô thượng để tán thán Như Lai. Đó là Đức Phật Thế Tôn khó xuất hiện ở đời, đã xuất hiện rồi thì có thể thành tựu hành lợi tha, nên cũng có thể kiến lập đức tự lợi, đối với lợi tự tha, tâm luôn lìa nhiễm.

Con quán rất lâu xa

Phạm chí Bát Niết-bàn.

Đây là tán thán đức khó xuất hiện ở đời của Đức Thế Tôn.

“Đã vượt qua các oán”: Đây là tán thán về đức nơi hành lợi tha của Đức Thế Tôn. “Đã qua các sợ hãi”: Đây là tán thán về đức kiến lập tự lợi của Đức Thế Tôn.

Vượt tham dục thế gian: Đây là tán thán về đức, đối với lợi tự tha, lìa cấu nhiễm của Đức Thế Tôn. Nên biết bốn thứ công đức có sai biệt như thế.

Lại có ba thứ sai biệt: Đó là khó xuất hiện, khó có thể gặp, kiến lập hành tự lợi lợi tha.

Người gặp tức có thể thành tựu nghĩa lớn. Người thành tựu nghĩa lớn là lìa tâm nhiễm ô, nên khắp tất cả đời cũng không có các tội. Các đức như vậy nơi chư Phật Thế Tôn là hết sức thù thắng nên dùng tướng ấy để tán thán Như Lai.

HẾT – QUYỂN 17