LUẬN DU GIÀ SƯ ĐỊA
Tác giả: Bồ tát Di Lặc giảng thuật, Bồ tát Vô Trước ghi
Hán dịch: Đời Đường, Tam Tạng Pháp sư Huyền Tráng
Việt dịch: Cư sĩ Nguyên Huệ

 

QUYỂN 16

Địa thứ 11: ĐỊA DO TƯ TẠO THÀNH, phần 1 (Phần Bản Địa)

Thế nào là Địa do Tư tạo thành? Nên biết lược nêu do ba thứ Tướng:

  1. Do tự tánh thanh tịnh.
  2. Do xét chọn về đối tượng nhận thức.
  3. Do xét chọn về các pháp.

1. Thế nào là tự tánh thanh tịnh? Đó là chín thứ nhận thức tương ứng:

  1. Tức như có một Hữu tình ở riêng nơi chốn vắng lặng tư duy xét kỹ như chỗ đã được nghe, như đạo lý của các pháp mình đã nghiên cứu thấu đạt.
  2. Xa lìa tất cả lĩnh vực không thể nghĩ bàn, tư duy xét kỹ về nơi chốn nên tư duy.
  3. Có thể khéo nhận biết rõ về sự thuyết giảng bằng cách im lặng là sự thuyết giảng vĩ đại.
  4. Mọi sự tư duy chỉ dựa nơi nghĩa, không dựa nơi văn.
  5. Đối với phần ít pháp chỉ sinh tin hiểu, đối với phần ít pháp dùng tuệ quan sát.
  6. Tư duy kiên cố.
  7. An trụ nơi tư duy.
  8. Tư duy tương tục.
  9. Nơi đối tượng được tư duy có thể khéo đạt đến cứu cánh, trọn không giữa chừng, chán nản, sợ hãi, thoái lui, khuất phục.

Do chín thứ tướng này gọi là tư duy thanh tịnh, thiện tịnh.

2. Thế nào là xét chọn về đối tượng nhận thức? Đó là khéo xét chọn về nghĩa của đối tượng được quan sát.

Những gì là nghĩa của đối tượng được quan sát? Tức là đối với hữu pháp nhận biết rõ về hữu tướng. Đối với phi hữu pháp (không pháp) nhận biết rõ về vô tướng. Như vậy gọi là nghĩa của đối tượng được quan sát.

Những gì gọi là Hữu pháp của đối tượng được quan sát? Nên biết pháp này lược có năm thứ:

  1. Hữu pháp của tự tướng.
  2. Hữu pháp của cộng tướng.
  3. Hữu pháp của giả tướng.
  4. Hữu pháp của nhân tướng.
  5. Hữu pháp của quả tướng.

Những gì gọi là Hữu pháp của tự tướng? Nên biết pháp này lược có ba thứ:

  1. Có tướng thắng nghĩa.
  2. Có tướng tướng trạng.
  3. Có tướng hiện tại.

Ở đây:

Có tướng thắng nghĩa: Đó là nghĩa lìa mọi ngôn thuyết trong các pháp là tướng không phải an lập nơi cảnh giới thuộc đối tượng hành của trí xuất thế gian.

Có tướng tướng trạng: Là do bốn thứ tướng trạng của đối tượng quán, đó là: (a) Nơi xứ này danh có thể đạt được. (b) Nơi xứ này sự có thể đạt được. (c) Danh ấy đối với sự ấy chẳng phải là không quyết định. Nghĩa là hoặc mê loạn nên không quyết định. Hoặc về vô thường nên không quyết định. (d) Danh ấy đối với sự ấy tùy chuyển không ngăn ngại. Chẳng phải hoặc ở xứ này tùy chuyển, hoặc ở xứ này thoái trở lại.

Có tướng hiện tại: Nghĩa là như đã sinh cùng tánh nhân quả.

Hết thảy các thứ như thế gọi chung là Hữu pháp của một tự tướng.

Những gì gọi là Hữu pháp của cộng tướng? Nên biết tướng này lại có năm thứ, đó là:

  1. Cộng tướng của chủng loại.
  2. Cộng tướng của chỗ tạo tác thành tựu.
  3. Cộng tướng của tất cả hành.
  4. Cộng tướng của tất cả hữu lậu.
  5. Cộng tướng của tất cả pháp.

Ở đây:

Cộng tướng của chủng loại: Nghĩa là chủng loại sai biệt của sắc thọ tường hành thức v.v…, gọi chung là cộng tướng của một chủng loại.

Cộng tướng của chỗ tạo tác thành tựu: Là pháp hữu lậu thiện, đối với quả yêu thích đã chiêu cảm được, do cộng tướng của chỗ tạo tác đã thành tựu đầy đủ, nên gọi là cộng tướng. Như pháp hữu lậu thiện đối với quả yêu thích đã chiêu cảm được, các pháp Bồ-đề phần như niệm trụ, chánh đoạn, thần túc, căn, lực, giác chi, đạo chi, đối với sự chứng đắc giác ngộ, do cộng tướng của sự tạo tác có thể thành tựu đầy đủ, gọi là cộng tướng, nên biết cũng như vậy.

Cộng tướng của tất cả hành: Đó là hành tướng vô thường của hết thảy hành.

Cộng tướng của tất cả hữu lậu: Nghĩa là tướng nơi tánh của hành hữu lậu đều khổ.

Cộng tướng của tất cả pháp: Đó là tướng nơi tánh không, vô ngã của tất cả pháp.

Hết thảy các thứ như vậy gọi chung là Hữu pháp của một cộng tướng.

Những gì gọi là Hữu pháp của giả tướng? Nghĩa là nếu ở nơi xứ này lược có sáu thứ ngôn luận sinh khởi, nên biết xứ ấy gọi là có Giả tướng. Những gì gọi là sáu thứ ngôn luận? đó là:

  1. Ngôn luận tương ưng thuộc về chủ.
  2. Ngôn luận xa lìa đây kia.
  3. Ngôn luận chúng cùng nêu bày.
  4. Ngôn luận của pháp được tụ tập.
  5. Ngôn luận không hiện bày khắp tất cả.
  6. Ngôn luận phi thường.

Ở đây:

Ngôn luận tương ưng thuộc về chủ: Đó là các ngôn luận phải phối hợp thuộc về chủ mới lãnh hội tướng của nó, chẳng phải là không thuộc về chủ. Như lúc nói sinh, thì sự sinh ấy là của ai, phải đợi thuộc về chủ để khởi ngôn luận ấy. Nghĩa là sự sinh của Sắc, sự sinh của Thọ Tưởng Hành Thức. Không phải như lúc nào nói về sắc, ở đây sắc là của ai, của cái gì, phải đợi thuộc về chủ để khởi ngôn luận ấy. Như sinh, các tâm bất tương ưng hành như lão, trụ, vô thường, tùy chỗ ứng hợp của chúng, đều nên biết. Đó gọi là Ngôn luận tương ưng thuộc về chủ. Nếu ở nơi đó dấy khởi ngôn luận ấy, nên biết xứ ấy là có giả tướng.

Ngôn luận xa lìa đây kia: Đó là các ngôn luận chẳng phải dùng đây để hiển bày đây, cũng chẳng phải dùng kia để hiển bày kia. Như thế gọi là ngôn luận xa lìa đây kia. Nếu ngôn luận dùng đây để hiển bày đây thì ngôn luận đó cũng ở nơi thật tướng chuyển biến, cũng ở nơi giả tướng chuyển biến. Nếu ngôn luận dùng kia để hiển bày kia, thì ngôn luận ấy cũng ở nơi thật tướng chuyển biến, cũng ở nơi giả tướng chuyển biến. Nếu ngôn luận không dùng đây để hiển bày đây, cũng không dùng kia để hiển bày kia, thì ngôn luận ấy hoàn toàn ở nơi giả tướng chuyển biến.

Thế nào là ngôn luận dùng đây để hiển bày đây, ở nơi thật tướng chuyển biến? Như nói sự bền chắc của đất.

Thế nào là các thứ đấy lại ở nơi giả tướng chuyển biến? Như nói sự tròn đầy của đá.

Như sự bền chắc của đất, sự tròn đầy của đá, thì sự ẩm ướt của nước, sự nhỏ giọt của dầu, sự ấm áp của lửa, sự cháy bùng của ngọn lửa, sự chuyển động của gió, sự bốc lên của gió thổi, cũng vậy.

Thế nào là ngôn luận dùng kia để hiển bày kia, ở nơi thật tướng chuyển biến? Như nói Thức của Nhãn, Xúc của Thân v.v…

Thế nào là những thứ ấy lại ở nơi giả tướng chuyển biến? Như nói sự ăn uống, xe cộ, y phục, vật dụng, trang sức v.v… mà Đức Phật trao cho bạn hiền đức.

Thế nào là ngôn luận không dùng đây để hiển bày đây, cũng không dùng kia để hiển bày kia, hoàn toàn ở nơi giả tướng chuyển biến? Đó là như nói cửa của nhà, tường của nhà, miệng của bình, bụng của hũ, xe của binh, cây của rừng, mười của một trăm, ba của mười. Những thứ như thế gọi là ngôn luận xa lìa đây kia.

Ngôn luận chúng cùng nêu bày: Nghĩa là ở nơi tự tánh của sáu thứ tướng trạng ngôn thuyết giả lập ngôn thuyết. Sáu thứ tướng trạng là: (a) Tướng trạng của sự việc. (b) Tướng trạng của đối tượng nhận biết. (c) Tướng trạng tịnh diệu v.v… (d) Tướng trạng tạo lợi ích v.v…

(đ) Tướng trạng ngôn thuyết. (e) Tướng trạng của hạnh tà v.v…

Tướng trạng của sự việc: Đó là đối tượng giữ lấy của thức.

Tướng trạng của đối tượng nhận biết: Là đối tượng giữ lấy của tác ý, có thể dấy khởi thức.

Tướng trạng tịnh diệu v.v…: Là đối tượng giữ lấy của xúc.

Tướng trạng tạo lợi ích: Là đối tượng giữ lấy của thọ.

Tướng trạng ngôn thuyết: Là đối tượng giữ lấy của tưởng.

Tướng trạng của hạnh tà: Là đối tượng giữ lấy của tư.

Ngôn luận của pháp được tích tập: Đó là ngôn luận ở nơi nhiều thứ hòa hợp kiến lập tự tánh. Như đối với sắc thọ tưởng hành thức bên trong kiến lập vô số ngã v.v… Đối với các sự vật bên ngoài như sắc hương vị xúc hòa hợp sai biệt, kiến lập vô số ngôn luận như nhà cửa, bình áo, xe cộ, cây rừng v.v…

Ngôn luận không hiện bày khắp tất cả: Đó là các ngôn luận có xứ tùy chuyển, có xứ quay trở lại. Như ở nơi nhà cửa, ngôn luận về nhà cửa: Đối với các thứ nhà cửa, thì xứ xứ tùy chuyển. Đối với thôn ấp, làng xóm, đình trạm, đất nước v.v… thì liền quay trở lại. Ở nơi vò, hũ v.v… ngôn luận về vò hũ v.v… đối với các thứ vò, hũ thì xứ xứ tùy chuyển, đối với các vật chứa đựng như bình, hũ thì liền quay trở lại. Ở nơi quân binh, ngôn luận về quân bình, thì tùy các quân binh mà chuyển. Đối với các loại khác biệt như nam, nữ, ấu thời, thiếu thời, tức liền quay trở lại. Đối với rừng, ngôn luận về rừng, thì theo các rừng chuyển. Đối với các thứ riêng biệt như cây, gốc, thân, cánh, nhánh, hoa, quả thì liền quay trở lại.

Ngôn luận phi thường: Là do bốn thứ nhận biết tương ưng: (a) Do hủy hoại. (b) Do không hủy hoại. (c) Do gia hạnh. (d) Do chuyển biến.

Do hủy hoại: Nghĩa là như bình, hũ v.v… đã bị phá vỡ, thì bình, hũ v.v… gọi là bỏ. Ngói, miểng v.v… gọi là sinh.

Do không hủy hoại: Đó là vô số vật cùng hòa hợp rồi, hoặc thành dạng viên, hoặc thành dạng bột, vô số tạp vật sai biệt gọi là bỏ, các viên, bột gọi là sinh.

Do gia hạnh: Đó là nơi một thỏi vàng v.v… khởi các gia hạnh tạo ra các vật dụng trang sức khác nhau như vòng, xuyến vv thỏi vàng v.v… gọi là bỏ, các vòng, xuyến v.v… gọi là sinh.

Do chuyển biến: Đó là các thứ ăn uống v.v… nơi lúc chuyển biến, các thức ăn uống gọi là bỏ. Các thứ phẩn, tiểu v.v… gọi là sinh.

Các loại như vậy, nên biết gọi là ngôn luận phi thường.

Tùy nơi các vật phát khởi sáu thứ ngôn luận như thế, nên biết các vật ấy đều là giả có. Đó gọi là Hữu pháp của giả tướng.

Những gì gọi là Hữu pháp của nhân tướng? Nên biết nhân ấy lược có năm thứ:

  1. Nhân đáng yêu thích.
  2. Nhân không đáng yêu thích.
  3. Nhân nuôi lớn.
  4. Nhân lưu chuyển.
  5. Nhân hoàn diệt.

Nhân đáng yêu thích: Là pháp hữu lậu thiện.

Nhân không đáng yêu thích: Là pháp bất thiện.

Nhân nuôi lớn: Là các pháp thiện, bất thiện, vô ký, được sinh về trước từ trước, do tu tập, khéo tu tập, nên có thể khiến cho các pháp thiện, bất thiện, vô ký, được sinh sau lần lượt tăng thắng, gọi là Nhân nuôi lớn.

Nhân lưu chuyển: Đó là do chủng tử ấy, do sự huân tập ấy đối với pháp kia gọi là Nhân lưu chuyển.

Nhân hoàn diệt: Đó là các hành hoàn diệt, các thứ tạp nhiễu hoàn diệt. Tất cả khả năng đạt đến đạo tịch tĩnh, khả năng đạt Bát Niết-bàn, khả năng hướng đến Bồ-đề, cùng tư lương và phương tiện của các khả năng ấy, đều có thể sinh khởi, có thể thành tựu đầy đủ, hết thảy mọi thứ hiện có ấy gọi là Nhân hoàn diệt.

Như thế gọi chung là Hữu pháp của nhân tướng.

Nên phân biệt rộng, nên biết về tướng của chúng, như trong phần suy xét về nhân quả.

Những gì gọi là Hữu pháp của quả tướng? Đó là từ nơi năm nhân kia, hoặc sinh hoặc đạt được, hoặc thành tựu hoặc đã viên mãn, hoặc chuyển biến, nên biết đó gọi là Hữu pháp của quả tướng.

Những gì gọi là không pháp của đối tượng được quan sát? Nên biết tướng này cũng có năm thứ:

  1. Không chưa sinh.
  2. Không đã diệt.
  3. Không hỗ tương.
  4. Không thắng nghĩa.
  5. Không rốt ráo.

Không chưa sinh: Là các hành của vị lai

Không đã diệt: Là các hành của quá khứ

Không hỗ tương: Đó là các pháp còn lại do nơi tướng còn lại, hoặc tánh xa lìa, hoặc tánh không có, hoặc các pháp còn lại cùng với các pháp khác, tánh không hòa hợp.

Không thắng nghĩa: Là do tự tánh của ngôn thuyết thế tục giả đặt tánh được ngôn luận an lập.

Không rốt ráo: Là loại không rốt ráo, như “cô gái đá” v.v…

Lại có năm thứ có tánh, năm thứ không tánh: Những gì gọi là năm thứ có tánh? Đó là:

  1. Tướng viên thành thật có tánh.
  2. Tướng y tha khởi có tánh.
  3. Tướng Biến kế sở chấp có cánh.
  4. Tướng sai biệt có tánh.
  5. Tướng không thể nói có tánh.

Trong ấy thứ nhất là Tướng thắng nghĩa. Thứ hai là Tướng của tướng duyên sinh. Thứ ba là Tướng giả nêu đặt. Thứ tư là Tướng bất nhị. Tướng sinh, tướng lão, tướng trụ, tướng vô thường, tướng khổ, tướng không, tướng vô ngã, tướng sự việc, tướng của đối tượng nhận biết, tướng của đối tượng giữ lấy, tướng tịnh diệu v.v… các tướng như thế nên biết gọi là Tướng sai biệt. Loại thứ năm, do bốn thứ “không thể nói”, nên gọi là tướng không thể nói, đó là:

Thứ nhất: Do không nên không thể nói. Nghĩa là hữu tình đối với các uẩn kia không thể nêu rõ hoặc khác hoặc chẳng khác.

Thứ hai: Do thâm diệu nên không thể nói. Đó là tánh của pháp lìa ngôn từ không thể nghĩ bàn. Pháp thân của Như Lai không thể nghĩ bàn. Cảnh giới của chư Phật, Như Lai sau khi diệt độ, hoặc có hoặc không v.v… là không thể tuyên thuyết.

Thứ ba: Do có thể dẫn đến vô nghĩa, nên không thể nói. Đó là nếu các pháp không thể dẫn phát nghĩa pháp, phạm hạnh, chư Phật Thế Tôn tuy chứng đắc, nhưng không thuyết giảng.

Thứ tư: Do chỗ an lập của pháp tướng, pháp nhĩ, nên không thể nói. Đó là chân như nơi các hành v.v… không thể nêu rõ tánh là khác, chẳng khác.

Những gì gọi là năm thứ không tánh? Đó là:

  1. Tướng thắng nghĩa không tánh.
  2. Tự tướng rốt ráo không tánh.
  3. Tướng tự nương dựa không tánh.
  4. Tướng không sai biệt không tánh.
  5. Tướng có thể nêu bày không tánh.

3. Thế nào là xét chọn về các pháp? Nên biết ở đây lại có hai loại:

  1. Xét chọn về nghĩa của Tố đát lãm ( Tu-đa-la = Kinh)
  2. Xét chọn về nghĩa của Già tha (Gia tha = Kệ tụng)Trong đó:

Xét chọn về nghĩa của Tố đát lãm: Như trong phần Nhiếp sự và Giáo thọ Bồ-tát tạng sẽ nói rộng.

Xét chọn về nghĩa của Già tha: Lại có ba thứ:

  1. Già tha kiến lập nghĩa lý thù thắng.
  2. Già tha kiến lập nghĩa lý sâu xa.
  3. Già tha kiến lập nghĩa của Thể.

* Già tha kiến lập thắng nghĩa, như kinh viết:

Đều không có chủ tể.

Cùng kẻ tạo, người nhận

Các pháp cũng không dụng

Hưng dụng chuyển chẳng không.

Chỉ mười hai Hữu chi

Uẩn Xứ Giới lưu chuyển

Xét kỹ hết thảy ấy

Chúng sinh không thủ đắc.

Nơi bên trong, bên ngoài

Là tất cả đều không

Người có thể tu không

Cũng thường không sở hữu.

Ngã, ngã thật chẳng có

Do vọng chấp điên đảo

Hữu tình, ngã đều không

Chỉ có nhân pháp có.

Các hành đều sát-na

Trụ hãy không, huống dụng

Tức nói kia sinh khởi

Là dụng, là tác giả.

Mắt không thể thấy sắc

Tai không thể nghe tiếng

Mũi không thể ngửi hương

Lưỡi không thể nếm vị.

Thân không thể xúc biết

Ý không thể tỏ pháp

Ở đây cũng không thể

Nhận giữ và sai khiến.

Pháp không thể sinh tha

Cũng không thể tự sinh

Các duyên có nên sinh

Không cũ mới mới có.

Pháp không thể diệt tha

Cũng chẳng thể tự diệt

Các duyên có nên sinh

Sinh rồi tự nhiên diệt.

Do dựa nơi hai phẩm

Là sinh liền đạt được

Luôn nơi cảnh buông lung

Lại thăng tiến tà vạy.

Bị ngu si cuốn trôi

Bèn thăng tiến tà vạy

Các tham ái dẫn dắt

Nơi cảnh thường phóng dật.

Do các pháp có nhân

Các khổ cũng lại thế

Vì hai Hoặc căn bản

Mười hai chi phần hai

Tự không thể tác dụng

Cũng không do tha tạo

Không gì có thể tạo

Nhưng tác dụng chẳng không.

Không trong cũng không ngoài

Không khoảng giữa hai thứ

Do vì hành chưa sinh

Đúng thời có thể đạt.

Nếu các hành đã sinh

Do đấy nên “không đắc”

Vị lai không có tướng

Quá khứ nên phân biệt.

Phân biệt từng trải qua

Không từng cũng phân biệt

Hành tuy không có đầu

Nhưng có đầu đạt được.

Các sắt như bọt tụ

Các thọ dường bọt nổi

Các tường đồng dợn nắng

Các hành như cây chuối.

Các thức như sự huyễn

Chỗ nói gọi là thân

Các hành đồng lúc sinh

Cũng một lúc trụ diệt.

Si không thể si mình

Cũng không thể si kia

Không gì khác có si

Nhưng ngu si chẳng không.

Do tư duy không chánh

Các ngu si được sinh

Tư duy không chánh ấy

Chẳng phải không ngu khởi.

Phước phi phước, bất động

Hành có ba nên biết

Lại có ba thứ nghiệp

Hết thảy không hòa hợp.

Hiện tại mau hoại diệt

Quá khứ trụ không phương

Chưa sinh dựa các duyên

Mà tâm lại tùy chuyển.

Rốt ráo cùng tương ưng

Không tương ưng cũng thế

Chẳng tất cả, tất cả

Nhưng nói tâm tùy chuyển.

Nơi đây trôi không dứt

Tương tợ không tương tợ

Do thuận theo ngã kiến

Dụng thế tục chẳng không.

Nếu sắc thân hư hoại

Danh thân cũng diệt theo

Nói đời này đời sau

Tự tạo tự nhận quả.

Nên trước sau sai biệt

Từ nhân quả gồm thâu

Người tạo cùng kẻ nhận

Một khác không thể nói.

Do nẻo nhân không dứt

Hòa hợp tác dụng chuyển

Từ tự nhân sinh khởi

Cùng thâu nhận chỗ tạo.

Ua hý luận làm nhân

Hoặc nghiệp tịnh, bất tịnh

Các chủng tử dị thục

Và quả ái không ái.

Dựa các chủng dị thục

Ngã kiến mà sinh khởi

Từ chỗ chứng biết trong

Không sắc chẳng thể thấy.

Phàm phu không phân biệt

Chấp đấy là nội ngã

Ngã kiến làm chỗ dựa

Khởi rất nhiều vọng kiến.

Chấp chung nơi tự chủng

Trợ bạn trước đã tập

Do tùy thuận lắng nghe

Phát sinh nơi ngã kiến.

Tham ái cùng với duyên

Sinh khởi ngã bên trong

Thâu nhận nơi hy vọng

Nhiễm tập duyên bên ngoài.

Thế gian thật đáng sợ

Ngu si nên thâu nhận

Trước khởi ái tàng rồi

Do càng hướng hý luận.

Chỗ kẻ ái tàng kia

Hiền Thánh rõ là khổ

Khổ bức bách kẻ ngu

Sát-na không tạm dừng.

Tâm buộc không bình đẳng

Tích tập các khổ kia

Kẻ ngu thường tích tập

Chấp ngã duyên khổ vui.

Các kẻ ngu bám chặt

Như voi lớn sa lầy

Do si nên tăng thượng

Biến hành, chỗ tạo khắp.

Ao này phân các dòng

Dòng thế gian là thác

Không lửa gió, mặt trời (làm cho khô)

Chỉ trừ chánh pháp hành.

Nơi khổ chấp ngã thọ

Khổ vui biết rõ khổ

Phân biệt khởi biến ấy

Từ kia sinh, sinh kia.

Ý luôn bị nhiễm ô

Các Hoặc cùng sinh diệt

Nếu giải thoát các Hoặc

Không trước cũng không sau.

Chẳng pháp kia sinh rồi

Sau tịnh khác mà sinh

Kia trước không nhiễm ô

Nói giải thoát các Hoặc.

Pháp có nhiễm ô ấy

Tánh hoàn toàn thanh tịnh

Đã không đối tượng tịnh

Sao có chủ thể tịnh.

Vì các chủng tử diệt

Nên các phiền não hết

Tức nơi ấy không nhiễm

Hiển thị hai sai biệt.

Tự chứng đắc bên trong

Nên chỉ các khổ dứt

Vĩnh viễn đoạn hý luận

Hết thảy không hý luận.

Chúng sinh gọi tương tục

Và trong tướng tưởng pháp

Không lưu chuyển sinh tử

Cũng không chứng Niết-bàn.

Ở đây, nương nơi thắng nghĩa vô ngã của hữu tình để nói rõ về Già tha thắng nghĩa như thế. Vì nhằm đối trị kiến chấp về hai biên tăng ích, tổn giảm.

Nơi đối tượng thâu nhận nói là chủ tể. Nơi các nghiệp dụng nói là người tạo tác. Nơi các quả báo gọi là kẻ thọ nhận. Nửa kệ tụng như vậy, nên “Dị dụ” về ngã của đối tượng phân biệt nơi nghĩa riêng.

Các pháp cũng không dụng: Là nêu Dị dụ về ngã của đối tượng phân biệt nơi tức pháp. Nhân đấy xa lìa kiến chấp về biên tăng ích.

Nhưng dụng chuyển chẳng không: Là hiển bày về hữu tánh của pháp. Do đấy xa lìa kiến chấp về biên tổn giảm. Dụng có ba loại: (1) Dụng của chủ tể. (2) Dụng của người tạo tác. (3) Dụng của kẻ thọ nhận.

Nhân nơi Dụng ấy, nên giả lập chủ tể, người tạo tác, kẻ thọ nhận. Tuy nói các pháp nhưng chưa nêu rõ. Những gì là pháp? Nên tiếp theo nửa kệ viết: “Chỉ có mười hai chi v.v…”

Như thứ lớp hữu chi, các uẩn cùng lưu chuyển. Đấy là hiển bày không nắm giữ về nhiều ngã vi tế, nên có thể đối trị kiến chấp về chủ tể, về người tạo tác, thọ nhận. Do nhãn, sắc làm duyên, sinh ra quả của nhãn thức, không có kẻ thọ nhận riêng. Ở đây hiển bày tức mười tám giới nói là tánh của kẻ thọ nhận.

Tuy nói không chủ tể nhưng chưa rõ là không những chủ nào. Vì nhằm làm rõ điều ấy, nên kệ viết tiếp:

Xét kỹ hết thảy ấy

Chúng sinh không thủ đắc.

Nói suy xét kỹ: Là do nương nơi ba lượng để quan sát, thẩm xét. Đây nếu là không, vì sao kiến lập sự thành tựu cả trong ngoài? Nên tiếp theo kệ viết:

Nơi bên trong, bên ngoài

Là tất thảy đều không.

Đây tức làm rõ: Trong ngoài chỉ là giả kiến lập.

Vì sao kiến lập: Hai thứ chủ thể quan sát, đối tượng được quan sát, đều thành tựu? Kệ tiếp theo nói:

Người có thể không tu

Cũng thường không sở hữu.

Vì sao kiến lập Thánh giả và phàm phu, hai thứ thành tựu? Kệ viết tiếp:

Ngã, ngã thật chẳng có

Do vọng chấp điên đảo.”

Đây là làm rõ ngã của Thánh giả và phàm phu quyết định không có tánh của ngã chân thật, chỉ do vọng chấp điên đảo cho là có.

Vì sao kiến lập kia đây đều thành tựu? Kệ nêu tiếp:

Hữu tình ngã đều không.

Vì sao kiến lập nhiễm tịnh thành tựu? Kệ nêu tiếp:

Chỉ có nhân pháp có.

Nên kẻ nhiễm người tịnh đều không thể thủ đắc.

Tuy nói các pháp đều không tác dụng, nhưng chưa nêu rõ thế nào là không dụng, nên kệ viết tiếp:

Các hành đều sát-na

Trụ còn không, huống dụng.

Như trước đã nói: Dụng chuyển chẳng phải là không. Vì sao không dụng mà có dụng chuyển? Nên kệ nói tiếp: Tức nói kia sinh khởi Là dụng là người tạo.

Quả nên nói là dụng. Nhân nên gọi là người tạo.

Kia sinh khởi: Là hiển bày từ các xứ, các thức được sinh. Chúng được sinh: Chẳng phải là lìa nhãn v.v… mà chúng được thành tựu.

Như ở trước đã nêu: Các pháp không dụng. Hiển bày về không dụng này lược có bảy thứ:

Không dụng của tác dụng: Đó là như mắt không thể thấy sắc v.v…

Không dụng của tùy chuyển: Nghĩa là ở đây cũng không thể trụ giữ, sai khiến. Như thứ lớp, chủ tể, tác giả đều không sở hữu, nên không có tác dụng của chủ thể tùy chuyển.

Không dụng của sinh tha: Tức là pháp không thể sinh từ cái khác.

Không dụng của tự sinh: Nghĩa là cũng không thể tự sinh.

Không dụng của di chuyển: Là các duyên có nên sinh, không phải là cũ mới, mới có.

Không dụng của diệt tha: Là pháp không thể diệt từ cái khác.

Không dụng của tự diệt: Là cũng không thể tự diệt.

Hỏi: Như các duyên có nên sinh, vậy cũng các duyên có nên diệt chăng?

Đáp: Các duyên có nên sinh. Sinh rồi tự nhiên diệt.

Như trước đã nêu: Có nhân pháp có. Nhằm hiển bày có nhân pháp có nơi tự tánh tạp nhiễm của hàng tại gia cùng với xuất gia, nên kệ nêu tiếp:

Do dựa nơi hai phẩm

Là sinh liền đạt được.

Do hai kệ ấy là làm rõ về “Có nhân pháp có” của Vô minh, Ái.

Năm tụng tiếp sau hiển bày về nhân cùng thời phần, là chỗ dựa sai biệt của phẩm loại tạp nhiễm. Trong ấy, các pháp có nhân: Là Vô minh cho đến Thọ.

Các khổ có nhân: Là Ái cho đến Lão, tử. Câu này hiển thị phiền não, nghiệp sinh khởi ba thứ tạp nhiễm.

Do hai hoặc căn bản: Câu này làm rõ phiền não tạp nhiễm chỉ giữ lấy tạp nhiễm của phiền não hơn hết.

Các câu: Tự không thể tác dụng v.v… Là hiển bày riêng lần nữa về nghĩa tạp nhiễm của nghiệp, do chỗ tạo tác của chúng có sai biệt, do dị thục của quả ấy là không thể nghĩ bàn.

“Tự không thể tác dụng”: Vì phải đợi chỗ dẫn dắt của kẻ khác về bạn thiện, bạn ác.

“Cũng không do tha tạo”: Vì phải đợi chỗ thành tựu đầy đủ nơi công dụng của tự mình.

“Không gì có thể tạo”: Chính là phải chờ nhân sinh trước có sai biệt nên mới có chỗ tạo tác.

Các tụng: “Không trong cũng không ngoài” v.v… làm rõ nương vào vị lai không sinh tạp nhiễm. Dựa nơi các hành của quá khứ, hiện tại có thể sinh tạp nhiễm. Nếu như hành đã sinh, tức do tướng ấy không có phân biệt. Vì vị lai không tướng nên không phân biệt như ở đây. Như vậy đương lai quyết định không thể nhận biết. Nếu không phân biệt về di loại như thế, hoặc thời có thể đạt được. Như đối với quá khứ tức có thể phân biệt như ở đây. Như vậy từng có tướng mạo có thể phân biệt, chẳng phải chỉ từng trải qua mà có thể phân biệt. Người chưa từng trải qua, tuy không phân biệt rõ ràng vì chỉ giữ lấy tướng mạo, nhưng tùy theo chủng loại, cũng có thể phân biệt. Đây tức hiển thị, dựa vào hành hiện tại phân biệt làm nhân sinh các tạp nhiễm. Hành tuy không khởi đầu, nhưng khởi đầu có thể đạt được: Là làm rõ thời phần sai biệt của tạp nhiễm, do từ vô thủy đến nay luôn theo đuổi, nơi từng sát-na, sát-na, cái mới luôn được sinh khởi.

Từ đây về sau là hiển bày phẩm thanh tịnh, do lúc quán như thật đạt được thanh tịnh. Hoặc do tự tướng, nghĩa là quán sắc v.v… như đám bọt nước v.v… Hoặc do cộng tướng, nghĩa là quán cộng tướng hiện có đồng sinh trụ diệt của các pháp hữu vi. Hoặc do hai đế Thế tục và Thắng nghĩa. Đó là tuy không có kẻ si nhưng không phải là không có ngu si. Do các duyên sinh khởi, nên Thế tục đế nói si có thể làm cho si. Lại hiển thị chẳng phải là kẻ không ngu tư duy không đúng, vì thế kẻ kia bị ngu si làm cho si mê.

Lại cho thế tục nên nêu rõ các thức tùy theo các hành phước, phi phước v.v… Nếu dựa nơi thắng nghĩa thì không có sự theo đuổi.

Lại ba pháp nên biết, đó là quá khứ, hiện tại, vị lai.

Ba thứ nghiệp: Là nghiệp của thân, ngữ v.v…

Hết thảy không hòa hợp: Là lại hỗ tương so với không hòa hợp.

Vì sao? Vì hiện tại mau hoại diệt, quá khứ không nơi trụ, vị lai dựa nơi các duyên, mà tâm lại tùy chuyển. Nếu kia và đây lại cùng tương ưng, như các hành phước, phi phước v.v… không có hòa hợp. Đạo lý tương ưng của tâm ấy cũng vậy.

Vì sao phải có tánh tùy chuyển thật? Như tâm cùng với các hành kia tương ưng, hoặc không tương ưng. Chẳng phải đây cùng với kia, hoặc lúc không tương ưng, hoặc lúc chẳng phải là không tương ưng. Lại, chẳng phải là tất cả tâm, hoặc tương ưng hoặc không tương ưng. Như vậy, do thắng nghĩa nên tánh tùy chuyển của tâm không được thành tựu. Nay sẽ hiển thị do thế tục nên nói nhân duyên hiện có của tâm tùy chuyển.

Nơi dòng này không dứt: Nay trong tụng ấy hiển bày về Thế tục đế không phải là không có tác dụng cùng với tùy chuyển. Lại do Thắng nghĩa không có kẻ tạo tác cùng với kẻ thọ nhận. Do thế tục nên có thể nêu rõ về tự tạo tác tự thọ nhận.

Lại, người tạo tác, kẻ thọ nhận, hoặc một hoặc khác, đều không thể nêu bày. Vì để hiển bày về nghĩa này, nên tiếp theo nêu các tụng: Trước sau sai biệt v.v…

Như vậy, do Thắng nghĩa, nên không có chủ tể, người tạo tác, kẻ thọ nhận, chỉ có nhân quả. Nơi tướng nhân quả giải thích thông suốt các nghi hoặc vấn nạn. Lược do năm tụng hiển thị ở đây khởi điên đảo của ngã chấp.

Tụng thứ nhất hiển bày tuy không có ngã mà có hậu hữu không có đoạn tuyệt. Lại các nhân quả chẳng phải là tức khắc cùng có, chẳng phải từ tất cả, tất cả được sinh. Lại, lý của nhân này không có dứt hẳn. Bốn câu trong tụng, theo như thứ lớp, giải thích về bốn vấn nạn ấy.

Do tụng thứ hai hiển bày về tướng nhân quả. Do ba tụng sau làm rõ ở trong các nhân quả vô ngã, dấy khởi điên đảo về ngã. Trong ấy, hiển thị về cảnh của đối tượng duyên, về nơi chốn nương dựa, về nhân về quả của pháp kia. Tụng một, hiển bày về cảnh của đối tượng duyên ấy. Chỗ chứng đắc bên trong của mình không sắc, khó thấy, khó có thể tìm cầu, suy xét nên gọi là không sắc. Kinh nói sắc tướng là tìm xét khó nêu bày chỉ rõ cho người khác, nên không thể thấy.

Do tụng hai, hiển bày về các việc dựa nơi quả của hành giả kia. Phàm phu là nơi dựa. Các kiến là quả.

Do tụng ba hiển bày về “Ngã kiến câu sinh” của nhân kia. Do kế chấp chung về chốn sinh khởi của tùy miên nơi tự chủng, các ngoại đạo phân biệt về ngã kiến. Vì chỗ sinh khởi của những thói quen từ trước, kiến chấp của ngoại đạo này, chủ yếu là do luôn tập quen, do tầm tư không chân chính. Lại được tùy thuận theo kẻ khác nghe, lãnh hội không phải chánh pháp, nên có thể sinh trưởng. Ở đây, hiển bày do các lỗi lầm nơi đối tượng duyên của tác ý được nương tựa, nên ngã kiến phân biệt mới có thể sinh khởi.

Năm tụng tiếp theo sau hiển bày về ngã kiến ấy là do tập, thứ lớp phát sinh nơi khổ.

Lại, tức khổ này cùng với ngã kiến làm nhân duyên cho hai khổ.

Lại, đối với giải thoát, có thể tạo nên chướng ngại. Trong đó tụng đầu làm rõ về tập. Tụng thứ hai, thứ ba hiển thị về Thức A-lại-da do hành khổ thâu tóm, ái tàng đối với đây rồi hướng tới hý luận. Đó là ta sẽ có, chẳng phải là hiện có.

Nói Ái tàng: Là gồm thâu làm thể của mình.

Lại nữa, khổ này, ở nơi tất cả thời hằng thường theo đuổi, không một sát-na nào tạm ngừng dứt.

Do tụng thứ tư: Hiển thị khổ ấy là hay chấp ngã cùng duyên nơi khổ lạc.

Do tụng thứ năm: Nêu rõ về chấp ngã. Do ngu si nên gây chướng ngại cho giải thoát.

Nói Tăng thượng: Là đối chiếu với hai khổ còn lại.

Nói Biến hành: Là theo đuổi nơi các thọ.

Đối tượng tạo tác hiện bày khắp: Là nói thiện ác vô ký hiện bày khắp. Nay sẽ làm rõ hành khổ thuộc về thức A-lại-da, cùng tương tợ với nó. Lại hiển bày về sai biệt, do hành chánh pháp mới có thể dứt hết được. Đối với các dòng chảy của thế gian là bạo ác bậc nhất.

Nói “Các dòng chảy”: Ví như sáu căn như nhãn v.v… năm nẻo, ba cõi v.v…

Lại, pháp hành: Là nêu rõ sự nhận biết về biến tri của giải thoát và biến tri của hệ phược (ràng buộc).

Nhận biết rõ về biến tri của hệ phược: Là nhận biết rõ về khổ. Đó là nhận biết rõ Ta thọ nhận khổ, vui, đều dựa vào nơi khổ.

Lại, sự phân biệt này có thể dấy khởi các kiến. Từ nơi các kiến chấp ấy sinh ra, cũng có thể sinh ra các kiến chấp đó.

Hiển thị sự hiểu rõ về biến tri của hệ phược rồi, sáu tụng còn lại là làm rõ về việc nhận biết biến tri của giải thoát. Nghĩa là ý nhiễm ô, luôn luôn, các Hoặc cùng sinh diệt. Nếu giải thoát các Hoặc, chẳng phải trước, cũng chẳng phải sau.

Chẳng phải trước: Là cùng với các phiền não luôn câu sinh.

Chẳng phải sau: Là cùng với Hoặc ấy đồng thời diệt mất.

Lại hiển bày tướng giải thoát đã được nói đến. Đó là chẳng phải tức pháp kia sinh rồi, sau mới thanh tịnh, riêng có ý thanh tịnh khác sinh khởi.

Tức tướng kia trước nay không hề nhiễm ô nên gọi là giải thoát. Vì để thành tựu nghĩa này nên lại nói:

Pháp có nhiễm ô ấy

Tánh hoàn toàn thanh tịnh.

Tụng lại nêu rõ hai thứ giải thoát là giải thoát phiền não và giải thoát sự.

“Vì các chủng tử diệt, Nên các phiền não hết”: Là hiển thị về giải thoát phiền não.

“Tức nơi ấy không nhiễm”: Là hiển thị về giải thoát sự. Như nơi kinh nói: “Bí-sô nên biết! Nếu đối với mắt, tham dục đã vĩnh viễn dứt hẳn, như thế thì mắt ấy cũng sẽ vĩnh viễn dứt trừ, cho đến nói rộng”.

Như thế là đã nêu rõ về giải thoát hữu dư y, tiếp theo sẽ hiển thị về giải thoát vô dư y.

“Tự chứng đắc bên trong”: Là làm rõ chỗ chứng đắc không nghĩ bàn.

“Nên chỉ các khổ dứt”: Là dứt trừ vọng chấp, chỉ giữ lấy vô tánh: tức Hữu dư y vĩnh viễn vắng lặng nên nói là tịch diệt, chẳng phải là hoàn toàn vô tánh.

Không hý luận: Tánh của giải thoát này chỉ là chỗ chứng đắc bên trong. Hoặc khác chẳng khác, sau khi chết sẽ có hoặc sẽ không, tất cả hý luận đều không thể nêu.

Vì nhằm làm rõ hữu tình và pháp đều không phải lưu chuyển nơi sinh tử hoặc Bát Niết-bàn, nên tụng lại nói:

Chúng sinh gọi tương tục

Và trong tướng tưởng pháp

Không lưu chuyển sinh tử

Cũng không chứng Niết-bàn.

* Đã giải thích Già tha kiến lập nghĩa lý thù thắng nơi Thánh giáo. Tiếp theo là nêu Già tha kiến lập nghĩa lý sâu xa. Như kinh viết: Một thời vị chủ thế giới Sách Ha (Ta bà) là Đại Phạm Thiên Vương, đi đến chỗ Đức Thế Tôn, đảnh lễ nơi chân Phật rồi lui ra ngồi qua một bên, dùng kệ thù diệu xưng tán thỉnh nguyện:

Nơi học đến cứu cánh

Khéo đoạn các lưới nghi

Nay thỉnh cầu việc học

Vì con nói tu học.

Đại Tiên nên khéo nghe

Học lược có ba loại

Giới, tâm, tuệ tăng thượng

Nơi ấy nên tu học.

Phải viên mãn sáu chi

Thành tựu bốn lạc trụ

Đối bốn đều bốn hành

Trí tuệ thường thanh tịnh.

Trước khéo trụ căn bản

Kế tâm vui tịch tĩnh

Sau: Thánh kiến, ác kiến

Tương ưng không tương ưng.

Trước tịnh, lạc tĩnh lự

Cùng thiện xảo nơi đế

Tức ở trong các đế

Nên sinh tăng trưởng xa.

Ở trong các Học xứ

Có bốn nẻo, ba chốn

Xa lìa nơi hai nẻo

Nơi hai nẻo chứng đắc

Hai an trụ hai loại

Một hay hướng Niết-bàn

Lần lượt làm nhân duyên

Thuần, tạp mà tu tập.

Trước tiên lìa ố tác

Sau cùng vui thành mãn

Các học đó là đầu

Nơi học ấy thông sáng.

Do trí đó tu tịnh

Tịnh sinh, lạc thành mãn

Các học đó là giữa

Nơi học ấy thông sáng.

Theo tâm ấy giải thoát

Diệt hẳn các Hý luận

Các học đó là trên

Nơi học ấy thông sáng.

Nếu hành hướng bất tịnh

Cũng hướng nơi nẻo thiện

Hành này gọi là đầu

Nên biết đấy chẳng chung.

Nếu hành hướng thanh tịnh

Không các nẻo cứu cánh

Hành ấy gọi là giữa

Nên biết cũng không chung.

Nếu hành hướng thanh tịnh

Nơi các nẻo cứu cánh

Hành này gọi tôn quý

Nên biết đấy tất chung.

Như hữu học, vô học

Nên biết đều thông sáng

Nếu hữu học, vô học

Nên biết đều ngu phu.

Nếu từ bỏ thâu nhận

Cũng đoạn trừ thô trọng

Và hiện thấy sở tri

Là thọ trì ba học.

Như có duyên không duyên

Cũng hiện rõ thô tế

Do thọ trì, xa lìa

Ngôn phát, tỏ chỗ dẫn.

Học đầu chỉ có một

Học thứ hai, hai loại

Học thứ ba đủ ba

Bậc tuệ đều siêu việt.

Không hủy hoại Thi la

Nơi học nguyện luôn thuận

Khuôn phép không luận trách

Nơi năm xứ xa lìa.

Nếu xuất ly không phạm

Không ố tác, ố tác

Đối học ấy tìm cầu

Cùng siêng tu hành kia.

Trọn không có từ bỏ

Mạng khó cũng không thiếu

Luôn trụ trong chánh hạnh

Theo Tỳ-nại-da chuyển.

Trước là nguyện tu trị

Cũng tu trị tịnh mạng

Hai biên đều xa lìa

Cũng buông bỏ nguyện tà.

Nơi các pháp chướng ngại

Trọn không có nhiễm đắm

Pháp loạn tâm vừa sinh

Tìm nên mau xa lìa.

Không nổi chìm thái quá

Hằng khéo trụ chánh niệm

Quyến thuộc căn bản tịnh

Mà tu hành phạm hạnh.

Nên phát khởi tinh tấn

Luôn kiên cố dũng mãnh

Thường tu không phóng dật

Năm chi khéo an trụ.

Ẩn các thiện của mình

Cũng phát lồ các ác

Được các loại y phục

Xấu, đẹp đều hoan hỉ.

Ít theo nơi việc đời

Thô, xấu cũng tùy chuyển

Nhận công đức đầu đà

Là lặng lìa phiền não.

Phải đầy đủ uy nghi

Hơn lượng mà thọ nhận

Trọn không có tạo tác

Dối hiện tướng oai nghi.

Không tự nói đức thật

Cũng không khiến người nói

Tuy có chỗ mong cầu

Nhưng không hiện tướng lạ.

Từ biên khác cầu xin

Trọn không hành bức bách

Do pháp mà đạt được

Được rồi không khinh chê

Không đắm vướng lợi dưỡng

Cùng cung kính hiện có

Cũng không chấp các kiến

Tăng ích và tổn giảm.

Không thuận chấp thế gian

Văn chú thuật vô nghĩa

Cũng không ưa nuôi chứa

Y bát nhiều vô nghĩa.

Sợ các phiền não tăng

Không nhiễm theo việc nhà

Vì tịnh tu trí tuệ

Nên thân cận Hiền Thánh.

Không nuôi chứa bạn bè

Sợ buồn lo phát loạn

Hay sinh phiền não khổ

Vừa khởi liền xa lìa.

Không nhận nơi tín thí

Sợ ung nhọt gia hại

Đối chánh pháp Như Lai

Thường không hề buông bỏ.

Lỗi phạm nơi kẻ khác

An vui không gây tạo

Luôn tự xét lỗi mình

Biết rồi mau bày tỏ

Nếu phạm điều ngăn cấm

Nên như pháp xuất ly

Nơi sự việc nên làm

Phải nỗ lực tự tạo.

Đối với Phật, đệ tử

Uy đức cùng ngôn giáo

Hết thảy đều tin nhận

Thấy tội lớn không chê.

Nơi pháp cực thâm diệu

Xứ không thể xét lường

Hay bỏ tông thầy cũ

Không chấp chặt kiến riêng.

Thường vui sống xa lìa

Cùng biên vực ngọa cụ

Hằng tu tập pháp thiện

Vững tinh tấn, dũng mãnh.

Không có dục, sinh dục

Chẳng ghét bỏ, ghét bỏ

Lìa ngủ nghỉ, ngủ nghỉ

Lúc không trụ tịch tĩnh

Bỏ ố tác, ố tác

Không mong lo, mong lo

Hết thảy loại, mọi thời

Thành tựu chánh phương tiện.

Dẫn phát cùng giác ngộ

Hòa hợp mọi nối kết

Có tướng hoặc thân cận Cũng nhiều loại hỷ lạc.

Xâm bức, thật gần gũi

Gọi phân biệt hư vọng

Hay sinh nơi dục tham Bậc trí nên xa lìa.

Các dục khiến không đầy

Mọi người chỗ cùng có

Là nhân duyên phi pháp

Hay tăng trưởng tham ái.

Chốn Hiền Thánh nên lìa

Mau hướng đến hoại diệt

Nương nhờ nơi các duyên

Nơi nguy, lỗi dựa cậy.

Các dục như xương khô

Cũng như cục thịt mềm

Tương tợ bó đuốc cỏ

Cũng giống hầm lửa lớn.

Ví như mãng xà độc

Cũng như thấy trong mộng

Như mượn vật trang sức

Như ngọn cây quả chín.

Biết các dục như thế

Đều không nên tham đắm

Nên lắng nghe chánh pháp

Thường tư duy tu tập.

Trước quán thấy thô, tĩnh

Kế toàn bộ tu tập

Bỏ phiền não thô trọng

Sinh vui thích nơi đoạn.

Quan sát nơi các tướng

Được gia hạnh rốt ráo

Hay lìa dục cõi dục

Cùng lìa dục cõi sắc.

Nhập hiện quán chân đế

Lìa hết thảy các dục

Chứng Niết-bàn hiện pháp

Và đoạn tận dư y.

Nơi học đến cứu cánh, Khéo đoạn các lưới nghi, Nay thỉnh cầu việc học, Vì con nói tu học: Ở trong tụng này, Đại Phạm Thiên Vương, trước là tán thán Đức Thế Tôn, sau là khởi thưa thỉnh.

Tán thán Đức Thế Tôn: Đó là đối với tất cả pháp học, đã đạt được cứu cánh bậc nhất. Đây là dựa vào đức bất cộng viên mãn của hành tự lợi mà nói.

Lại có thể khéo đoạn trừ hết thảy lưới nghi lần lượt sinh khởi. Đây là dựa vào đức bất cộng viên mãn của hành lợi tha mà nói.

Dấy khởi thưa thỉnh: Là nêu: Những gì là học? Học có bao nhiêu loại? Vì sao đối với các loại ấy cần phải tu học?

Do vậy, Đức Thế Tôn vì nhằm khuyên răn, thúc đẩy các chúng sinh có nhiều biếng trễ phải gắng sức, nên thâu tóm chung hết thảy, lược nói về ba học. Tức tiếp theo bảo:

Đại tiên nên khéo nghe

Học lược có ba loại

Giới tâm tuệ tăng thượng

Nơi ấy nên tu học.

Ở đây là hiển thị: Dựa vào giới, tâm, tuệ, nếu là kẻ tán loạn khiến không tán loạn, theo phương tiện mà nói giới học tăng thượng Người tâm chưa định, vì khiến tâm được định, nên theo phương tiện giảng nói về tâm học tăng thượng. Người tâm đã được định nhưng chưa giải thoát, vì khiến đạt được giải thoát, nên theo phương tiện giảng nói về tuệ học tăng thượng. Do nhân duyên này, các người tu hành, mọi chỗ hành trì đều được rốt ráo. Đây là hiển bày mật ý của Đức Thế Tôn tuyên thuyết tất cả các học thảy đều được gồm thâu trong ba học ấy.

Lại vì nhằm nêu rõ, ở trong các học, do phương tiện ấy nên các học được thành tựu đầy đủ. Do đấy, tụng tiếp theo viết:

Phải viên mãn sáu chi

Thành tựu bốn lạc trụ

Đối bốn đều bốn Hành

Trí tuệ thường thanh tịnh.

Trong tụng này, theo như thứ lớp hiển thị về phương tiện thành tựu đầy đủ ba học.

“Phải viên mãn sáu chi”: Là nên dựa vào phương tiện của giới học tăng thượng để tu học. Những gì là sáu chi? Đó là: An trụ nơi Thi la tịnh. Giữ gìn luật nghi biệt giải thoát. Các thứ phép tắc đều viên mãn. Đối tượng hành đều tròn đủ. Nơi các tội nhỏ luôn thấy sợ hãi lớn. Thọ học các Học xứ. Sáu chi như thế là hiển thị về bốn thứ Thi la thanh tịnh.

An trụ nơi Thi la tịnh: Là nêu chỗ dựa căn bản. Giữ gìn luật nghi biệt giải thoát: Là hiển bày về xuất ly nơi Thi la thanh tịnh, vì cầu giải thoát mà xuất ly.

Các thứ phép tắc, đối tượng hành đều viên mãn: Hai thứ này hiển thị về Thi la thanh tịnh không có điều chê trách, hủy phạm.

Nơi các tội nhỏ luôn thấy sợ hãi lớn: Là hiển bày Thi la thanh tịnh không có thiếu sót hay xuyên tạc.

Thọ học các Học xứ: Là làm rõ Thi la thanh tịnh không điên đảo.

Sáu chi được viên mãn hết mực như thế, nên giới học tăng thượng, đối với các phương tiện khác làm chỗ nương dựa.

“Thành tựu bốn lạc trụ”: Là hiển thị phương tiện của tâm học tăng thượng. Bốn thứ tĩnh lự gọi là bốn tâm trụ. Trụ nơi hiện pháp lạc nên gọi là lạc.

“Đối bốn đều bốn hành, Trí tuệ thường thanh tịnh”: Là dựa vào tuệ học tăng thượng mà nói. Nghĩa là ở trong bốn Thánh đế khổ tập diệt đạo, mỗi mỗi đế đều có bốn hành, tức vô thường v.v… Tuệ học tăng thượng do trí thanh tịnh ấy mà được hiển bày.

“Trước khéo trụ căn bản, Kế tâm vui tịch tĩnh, Sau Thánh kiến ác kiến, Tương ưng không tương ưng”: Tụng này nêu rõ về thứ lớp sinh khởi của ba học tăng thượng.

Căn bản: Đó là giới tăng thượng, do hai loại học sau lưu xuất từ loại học thứ nhất. Đã gồm đủ Thi la, vì không hối tiếc v.v…, lần lượt được tu tập nên có thể đạt được học thứ hai là định tâm lạc tĩnh. Tâm được định rồi, thấy đúng như thật, nên có thể đạt được học thứ ba là thành tựu Thánh kiến, xa lìa ác kiến.

“Trước tịnh, lạc tĩnh lự, Cùng thiện xảo nơi đế, Tức ở trong các đế, Nên sinh tăng trưởng xa”: Tụng này làm rõ về thứ lớp thanh tịnh có sai biệt của ba học.

Trước tịnh: Là học thứ nhất.

Lạc tĩnh lự: Là học thứ hai.

Thiện xảo nơi đế: Là học thứ ba.

Lại, ở trong đế thiện xảo như vậy, nên sinh: Tức là đạo đế nên sinh khởi. Nên xa: Tức khổ tập đế nên xa lìa. Nên tăng trưởng: Là diệt đế. Các phẩm loại phiền não hạ trung thượng, lần lượt theo thứ lớp được đoạn trừ dần, là diệt tăng trưởng.

“Ở trong các Học xứ, Có bốn nẻo, ba chốn, Xa lìa nơi hai nẻo, Nơi hai nẻo chứng đắc”: Tụng này hiển thị về Học xứ của giới tâm tuệ tăng thượng. Do chỗ tu học có thành bại, nên tùy sự ứng hợp, quả báo đạt được có bốn nẻo sai biệt. Đó là:

1. Nẻo thiện hiện có thuộc về hàng nhân, thiên nơi Dục giới, là quả đạt được của giới tăng thượng thành tựu.

2. Nẻo ác hiện có thuộc về các hàng còn lại nơi Dục giới, là quả đạt được của giới tăng thượng thất bại.

3. Nẻo trên hiện có thuộc về hàng trời nơi Sắc giới, Vô sắc giới, là quả đạt được của tâm tăng thượng.

4. Cảnh giới Niết-bàn không thuộc về ba cõi, là quả của tuệ tăng thượng. Ở trong các nẻo như vậy, đã xa lìa hai nẻo thiện ác trước rồi, nên chứng đắc hai nẻo trên sau và cảnh giới Niết-bàn. Câu này hiển thị chỗ đạt được của hai đạo thế gian xuất thế gian.

“Hai an trụ hai loại, Một hay hướng Niết-bàn, Lần lượt làm nhân duyên, Thuần tạp mà tu tập”: Nơi tụng này hiển thị giới học tăng thượng là đầu tiên, kế là tâm học tăng thượng, lần lượt làm nhân duyên an trụ của tâm học tăng thượng, tuệ học tăng thượng. Hiển thị tĩnh lự, tuệ tăng thượng trung gian. Giới học tăng thượng thuộc về luật nghi, có thể làm nhân duyên an trụ cho hai loại, hiển thị một loại đối tượng, có thể làm nhân duyên an trụ cho Niết-bàn. Nên biết trong đây đã nêu rõ việc tu tập hoặc riêng hoặc chung theo chỗ ứng hợp.

“Trước tiên lìa ố tác, Sau cùng vui thành mãn, Các học đó là đầu, Nơi học ấy thông sáng”: Tụng này nêu rõ, do giới học tăng thượng, vì không hối tiếc v.v… lần lượt tu tập, làm nhân duyên cho học sau.

“Do trí đó tu tịnh, Tịnh sinh vui thành mãn, Các loại đó là giữa, Nơi học ấy thông sáng”: Tụng này nêu rõ do tu tập tâm học tăng thượng, trí tuệ do tu được thành tựu, căn thiện tối thắng lần lượt sinh khởi, nên là nhân của học tối thượng.

“Theo tâm ấy giải thoát, Diệt hẳn các hý luận, Các học đó là trên, Nơi học ấy thông sáng”: Tụng này hiển thị, do tuệ học tăng thượng, nên có thể làm nhân quả của Niết-bàn tối thắng.

“Nếu hành hướng bất tịnh, Cũng hướng nơi nẻo thiện, Hành nấy gọi là đầu, Nên biết đấy chẳng chung”: Tụng này làm rõ về giới học tăng thượng. Nếu có hủy bại là nhân của nẻo ác. Nếu có thể thành lập là nhân của nẻo thiện. Đây là không chung, vì lìa hai học sau cũng có thể thành lập.

“Nếu hành hướng thanh tịnh, Không các nẻo cứu cánh, Hành đó gọi là giữa, Nên biết cũng không chung”: Tụng này hiển bày về hành của học trung gian, lìa dục của cõi dục, đạt được thanh tịnh nên gọi là hướng thanh tịnh. Chưa có thể lìa hết dục nơi cõi trên, cũng chưa vĩnh viễn dứt hẳn các tùy miên của cõi dục, nên không được gọi là ở trong các nẻo đạt thanh tịnh rốt ráo. Vì đây là lìa tối thượng, cũng có thể thành tựu đầy đủ, nên gọi là không chung, không phải là lìa loại trước tiên.

“Nếu hành hướng thanh tịnh, Nơi các nẻo cứu cánh, Hành này gọi tôn quý, Nên biết đây tất chung”: Tụng này hiển thị hành của Học xứ tối thượng. Các dục của ba cõi đều xa lìa. Cũng có thể vĩnh viễn dứt hẳn các tùy miên, nên ở trong các nẻo là cứu cánh tột bậc. Không lìa hai thứ trước, có thể riêng thành tựu đầy đủ, nên gọi là tất chung.

“Như hữu học vô học, Nên biết đều thông sáng”: Nửa tụng đầu này nêu rõ tướng của bậc thông sáng ở trong ba học, có chánh học nên không có tà học.

“Như hữu học vô học, Nên biết đều ngu phu”: Nửa tụng sau này nêu rõ tướng của hàng ngu phu ở trong ba học, có tà học nên không có chánh học.

“Nếu từ bỏ thâu nhận, Cũng đoạn trừ thô trọng, Và hiện thấy sở tri, Là thọ trì ba học”: Tụng này hiển bày: Nếu có thể từ bỏ các thứ thâu nhận của gia đình thân thuộc. Nếu có thể đoạn trừ các thứ thô trọng làm chướng ngại Tam-ma-địa. Nếu có thể hiện thấy lý nơi đối tượng nhận thức (sở tri) của tướng bốn Thánh đế. Như thứ lớp ấy, ba học thành tựu viên mãn.

“Như có duyên không duyên, Cũng thể hiện thô tế”: Nửa tụng đầu này làm rõ về hai học sau cùng hai học đầu tiên. Theo như thứ lớp của chúng nên có sai biệt về có duyên, không duyên, tế, thô.

“Do thọ trì xa lìa, Ngôn phát tỏ chỗ dẫn”: Nửa tụng sau này hiển thị về nhân duyên dẫn phát theo như thứ lớp đầu giữa sau. Đó là sự dẫn phát của thệ nguyện, mong muốn. Sự dẫn phát của thân tâm xa lìa. Sự dẫn phát do ngôn âm của kẻ khác khiến chánh tư duy bên trong.

“Học đầu chỉ có một, Học thứ hai hai loại, Học thứ ba đủ ba, Bậc tuệ đều siêu việt”: Tụng này nêu rõ về một đầu không chung, giữa không lìa đầu, trên không lìa hai, vượt quá tất cả ấy, nên biết vô học là bậc A-la-hán.

“Không hủy hoại Thi la, Nơi học nguyện luôn thuận, Khuôn phép không luận trách, Nơi năm xứ xa lìa”: Tụng này hiển thị về tướng thọ trì giới không hủy hoại Thi la.

Nơi học: Là an trụ nơi tịnh giới.

Nguyện luôn thuận: Là giữ gìn luật nghi biệt giải thoát.

Khuôn phép không luận trách: Là khuôn phép thì không phạm.

Nơi năm xứ xa lìa: Là đối tượng hành không hủy phạm, lược có năm xứ không phải là nơi nên làm của các Bí-sô. Đó là: Vương gia, nhà xướng lệnh, nhà bán rượu, nhà ca hát uế tạp, nhà Chiên-đồ-la và nhà Yết-sỉ-na.

Nhà xướng lệnh: Là nhà giết mổ dê. Do vì tuyên cáo khắp sự giết hại dê này thành tội cực nặng, tạo nhiều nghiệp ác như giết hại dê …

“Nếu xuất ly không phạm, Không ố tác, ố tác”: Hiển bày nơi các tội nhỏ luôn thấy sợ hãi lớn. Như nơi xuất ly cũng không ố tác. Như chỗ ố tác, cũng không có phạm.

“Đối học kia tìm cầu, Cùng siêng tu hành ấy”: Là nêu rõ thọ học nơi Học xứ.

“Trọn không có từ bỏ, Mạng khó cũng không thiếu, Luôn trụ trong chánh hạnh, Theo Tỳ-nại-da chuyển”: Bốn câu của tụng này, như thứ lớp của chúng, hiển thị về tánh Thi la thường hằng, tánh Thi la kiên cố, tánh luôn tạo tác, tánh luôn tùy chuyển.

“Trước là nguyện tu trị, Cũng tu trị mang tịnh”: Nửa tụng đầu này hiển bày về khuôn phép và thọ mạng thanh tịnh. Do các khuôn phép, trước phát thệ nguyện mới có thể tu hành nên gọi là Thệ.

“Hai biên đều xa lìa, Cũng buông bỏ nguyện tà”: Nửa tụng sau này hiển thị việc xa lìa hai biên thọ dụng dục lạc và tự khổ, cùng xả bỏ các nguyện như sinh thiên v.v…, nên Thi la thanh tịnh.

“Nơi các pháp chướng ngại, Trọn không có nhiễm đắm, Pháp loạn tâm vừa sinh, Tìm nên mau xa lìa”: Tụng này làm rõ về chướng ngại do không giữ gìn các căn môn thanh tịnh nên ở trong pháp tu học không thấy công đức. Do không đắm nhiễm nên đối với các tầm bất thiện như dục, sân v.v… làm nhiễu loạn ý pháp, tuy tạm thời sinh khởi nhưng liền trừ diệt, nên pháp tu học được thanh tịnh.

“Không nổi chìm thái quá, Hằng khéo trụ chánh niệm, Quyến thuộc căn bản tịnh, Mà tu hành phạm hạnh”: Tụng này hiển bày xa lìa ố tác nhỏ yếu, xa lìa ố tác không đúng chỗ, xa lìa thất niệm, nên đối với lúc ở nơi cứu cánh và lúc ở nơi phương tiện, tu hành phạm hạnh đều được thanh tịnh.

HẾT – QUYỂN 16