LUẬN ĐẠI TRÍ ĐỘ
Nguyên tác: Bồ tát Long Thọ
Hán dịch: Pháp sư Cưu Ma La Thập
Việt dịch: Linh Sơn Pháp Bảo Đại Tạng Kinh
Hội Văn Hóa Giáo Dục Linh Sơn Đài Bắc Xuất Bản

 

QUYỂN 71

GIẢI THÍCH PHẨM NĂM MƯƠI: VIỆC LỚN SANH KHỞI

KINH: Bấy giờ, Tu-bồ-đề bạch Phật rằng: Bạch đức Thế Tôn! Bát- nhã Ba-la-mật thâm sâu ấy vì việc lớn nên sanh khởi, vì việc không thể nghĩ bàn nên sanh khởi, vì việc không thể cân nên sanh khởi, vì việc không thể lường nên sanh khởi, vì việc không ngang bằng nên sanh khởi.

Phật bảo Tu-bồ-đề: Đúng vậy, đúng vậy! Bát-nhã Ba-la-mật thâm sâu, vì việc lớn nên sanh khởi, cho đến vì việc Vô đẳng đẳng nên sanh khởi. Vì cớ sao? Vì trong Bát-nhã Ba-la-mật ấy hàm chứa năm Ba-la- mật; trong Bát-nhã Ba-la-mật hàm chứa Nội không cho đến Vô pháp hữu pháp không; hàm chứa Bốn niệm xứ cho đến Tám thánh đạo phần, hàm chứa Mười lực Phật cho đến trí Nhất thiết chủng. Thí như vua Quán đảnh là tôn quý nhất trong nước, các việc quan đều ủy thác cho đại thần, còn quốc vương an vui vô sự. Như vậy Tu-bồ-đề! Pháp Thanh văn, Bích-chi Phật, hoặc pháp Bồ-tát, hoặc pháp Phật, hết thảy đều ở trong Bát-nhã Ba-la-mật, Bát-nhã Ba-la-mật, thành biện được các việc ấy. Thế nên, Bát-nhã Ba-la-mật vì việc lớn nên sanh khởi cho đến vì không ngang bằng nên sanh khởi.

Lại nữa, Tu-bồ-đề! Vì Bát-nhã Ba-la-mật không thủ không trước sắc, nên có thể thành biện; không thủ không trước thọ, tưởng, hành, thức nên có thể thành biện, cho đến không thủ không trước trí Nhất thiết chủng nên có thể thành biện; không thủ không trước quả Tu-đà-hoàn cho đến quả A-na-hàm, Bích-chi Phật đạo cho đến không thủ không trước Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác nên có thể thành biện.

Tu-bồ-đề bạch Phật rằng: Bát-nhã Ba-la-mật không thủ không trước sắc nên có thể thành biện thế nào? Bát-nhã Ba-la-mật không thủ không trước thọ, tưởng, hành, thức cho đến Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác nên có thể thành biện thế nào?

Phật bảo Tu-bồ-đề: Ý ông nghĩ sao, có phải thấy sắc ấy khả thủ khả đắm chăng?

Tu-bồ-đề thưa: Không, Bạch đức Thế Tôn!

Tu-bồ-đề! Ý ông nghĩ sao, có phải thấy thọ, tưởng, hành, thức cho đến Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác khả thủ, khả đắm chăng?

Tu-bồ-đề thưa: Không, Bạch đức Thế Tôn!

Phật dạy: Lành thay, lành thay ! Tu-bồ-đề! Ta cũng không thấy sắc ấy khá thủ khá đắm; vì không thấy nên không thủ, không thủ nên không đắm; ta cũng không thấy thọ, tưởng, hành, thức cho đến Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác và trí Nhất thiết chủng khả thủ khả đắm; vì không thấy nên không thủ, vì không thủ nên không đắm. Ta cũng không thấy pháp Phật, pháp Như Lai, pháp người Tự nhiên, pháp ngôi Nhất thiết trí khá thủ khá đắm; vì không thấy nên không thủ, không thủ nên không đắm. Thế nên Tu-bồ-đề! Các Bồ-tát ma-ha-tát đối với sắc cũng không nên thủ cũng không nên đắm; đối với thọ, tưởng, hành, thức cho đến pháp Phật, pháp Như Lai, pháp người Tự nhiên, pháp người Nhất thiết trí cũng không nên thủ, cũng không nên đắm.

Bấy giờ, các Thiên tử ở cõi Dục, cõi Sắc bạch Phật rằng: Bạch đức Thế Tôn! Bát-nhã Ba-la-mật ấy thâm sâu, khó thấy khó hiểu, không thể tư duy, suy luận biết được, chỉ người có trí tuệ tịch diệt, vi diệu, thiện xảo có thể biết được. Người tin được Bát-nhã Ba-la-mật ấy nên biết đó là Bồ-tát đã cúng dường Phật nhiều, gieo trồng căn lành nhiều, đi theo thiện tri thức nên có thể tin hiểu Bát-nhã Ba-la-mật thâm sâu.

Bạch đức Thế Tôn! nếu chúng sanh trong ba ngàn đại thiên thế giới, đều làm hạng người tín hành, pháp hành, bát nhơn, Tu-đà-hoàn, Tư-đà-hàm, A-na-hàm, A-la-hán, Bích-chi Phật, hoặc trí hoặc đoạn, đều chẳng bằng Bồ-tát ấy trong một ngày tu thâm sâu, hoặc tín nhẫn, ham muốn, tư duy trù lượng Bát-nhã Ba-la-mật thâm sâu. Vì sao? Hạng người tín hành, pháp hành, bát nhơn, Tu-đà-hoàn, Tư-đà-hàm, A-na-hàm, A- la-hán, Bích-chi Phật, hoặc trí, hoặc đoạn tức là Bồ-tát ma-ha-tát Vô sanh pháp nhẫn.

Phật bảo các Thiên tử cõi Dục, cõi Sắc: Đúng vậy, đúng vậy! Các Thiên tử! Nếu hạng người tín hành, pháp hành, bát nhơn, Tu-đà-hoàn cho đến A-la-hán, Bích-chi Phật tức là Bồ-tát ma-ha-tát Vô sanh pháp nhẫn. Nếu thiện nam tử, thiện nữ nhơn, nghe Bát-nhã Ba-la-mật thâm sâu này mà biên chép, thọ trì, đọc tụng, giảng nói, nhớ nghĩ đúng thì thiện nam tử, thiện nữ nhơn ấy mau được Niết-bàn hơn thiện nam tử, thiện nữ nhơn cầu Thanh văn, Bích-chi Phật thừa, mà xa lìa Bát-nhã Ba- la-mật thâm sâu để theo các kinh khác tu hành, hoặc một kiếp, hoặc non một kiếp. Vì sao? Vì trong Bát-nhã Ba-la-mật thâm sâu ấy nói rộng pháp thượng diệu, hạng người tín hành, pháp hành, bát nhơn, Tu-đà-hoàn, Tư- đà-hàm, A-na-hàm, A-la-hán, Bích-chi Phật nên học, Bồ-tát ma-ha-tát cũng nên học, học rồi được Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.

Khi ấy, các Thiên tử cõi Dục, cõi Sắc đều cất tiếng thưa rằng: Bạch đức Thế Tôn! Bát-nhã Ba-la-mật thâm sâu ấy gọi là Ma-ha Ba-la-mật, gọi là không thể nghĩ bàn, không thể cân, không thể lường, vô đẳng đẳng Ba-la-mật. Hạng người tín hành, pháp hành, bát nhơn học Bát-nhã Ba- la-mật thâm sâu ấy thì được thành Tu-đà-hoàn, Tư-đà-hàm, A-na-hàm, A-la-hán, Bích-chi Phật; còn học Bát-nhã Ba-la-mật thâm sâu ấy được thành Bồ-tát ma-ha-tát; học Bát-nhã Ba-la-mật thâm sâu ấy được thành Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, Bát-nhã Ba-la-mật thâm sâu ấy, cũng không thêm, không bớt.

Khi ấy các Thiên tử cõi Dục, cõi Sắc đảnh lễ dưới chân Phật, nhiễu quanh Phật rồi đi, đi chưa bao xa, bỗng nhiên biến mất, đều trở về chỗ cũ.

Tu-bồ-đề bạch Phật rằng: Bạch đức Thế Tôn! Nếu Bồ-tát ma-ha-tát nghe Bát-nhã Ba-la-mật ấy tức thì tin hiểu. Các Bồ-tát ấy mệnh chung từ chỗ nào mà sanh đến đây?

Phật bảo Tu-bồ-đề: Nếu Bồ-tát ma-ha-tát nghe Bát-nhã Ba-la-mật thâm sâu ấy, tức thì tin hiểu, không thối thất, không khiếp sợ, không khó khăn, không nghi ngờ, không hối hận, hoan hỷ, ưa nghe, nghe rồi nhớ rõ trọn không xa lìa Bát-nhã Ba-la-mật thâm sâu ấy, hoặc đi, hoặc ở, hoặc ngồi, hoặc nằm, trọn không quên mất, thường theo pháp sư, ví như trâu nghé mới sanh, không lìa mẹ nó. Bồ-tát ma-ha-tát cũng nhu vậy, vì muốn nghe Bát-nhã Ba-la-mật thâm sâu, nên trọn không xa lìa pháp sư, cho đến khi miệng đọc, tâm hiểu, chánh kiến, thông đạt Bát-nhã Ba-la- mật thâm sâu ấy. Này Tu-bồ-đề! Nên biết Bồ-tát ấy từ trong cõi người mệnh chung, trở lại sanh trong cõi người này. Vì sao ? Vì muốn cầu Phật đạo, đời trước khi nghe Bát-nhã Ba-la-mật thâm sâu, biên chép, thọ trì, cúng dường, tôn trọng, tán thán, cúng dường hương hoa, phan lọng. Do nhân duyên ấy khi mạng chung trong cõi người, trở lại sanh trong cõi người, nghe Bát-nhã Ba-la-mật thâm sâu ấy liền tin hiểu.

Tu-bồ-đề bạch Phật rằng: Có phải có Bồ-tát ma-ha-tát thành tựu công đức như vậy, đi đến thế giới phương khác cúng dường chư Phật, ở thế giới đó mệnh chung, sanh trở lại cõi này, nghe Bát-nhã Ba-la-mật thâm sâu, liền tin hiểu viết chép, giữ gìn, đọc tụng, nhớ nghĩ đúng, có việc như vậy chăng?

Phật đáp: Có, Bồ-tát thành tựu công đức như vậy đi đến thế giới phương khác cúng dường chư Phật, ở thế giới đó mệnh chung, sanh đến cõi này nghe Bát-nhã Ba-la-mật thâm sâu liền tin hiểu viết chép, giữ gìn, đọc tụng, nhớ nghĩ đúng. Vì sao? Vì Bồ-tát ma-ha-tát ấy, từ chỗ chư Phật ở phương khác nghe Bát-nhã Ba-la-mật thâm sâu ấy, tin hiểu, viết chép, giữ gìn, đọc tụng giảng nói, nhớ nghĩ. Ở phương kia mệnh chung sanh đến cõi này. Nên biết người ấy thành tựu công đức như vậy.

Lại nữa, Tu-bồ-đề! Có Bồ-tát từ nơi Bồ-tát ma-ha-tát Di-lặc nghe Bát-nhã Ba-la-mật thâm sâu, nhờ nhân duyên thiện căn đó nên sanh đến cõi này.

Tu-bồ-đề! Lại có Bồ-tát ma-ha-tát đời trước tuy nghe Bát-nhã Ba- la-mật thâm sâu mà chẳng hỏi đúng nghĩa lý, nên khi sanh đến cõi người nghe Bát-nhã Ba-la-mật thâm sâu, tâm nghi ngờ hối hận, khó ngộ.

Tu-bồ-đề! Bồ-tát như vậy nên biết đời trước tuy có nghe Bát-nhã Ba-la-mật thâm sâu, vì không hỏi nên đời nay tiếp tục sanh nghi ngờ khó ngộ. Nếu Bồ-tát đời trước nghe Thiền Ba-la-mật, nhưng không hỏi đúng nghĩa lý, đời nay nghe Bát-nhã Ba-la-mật, vì không hỏi nên tiếp tục sanh nghi ngờ, hối hận.

Tu-bồ-đề! Nếu Bồ-tát đời trước tuy nghe Tinh tấn Ba-la-mật nhưng không hỏi đúng nghĩa lý, đời nay nghe Bát-nhã Ba-la-mật, vì không hỏi nên lại tiếp tục nghi ngờ hối hận.

Tu-bồ-đề! Nếu Bồ-tát đời trước tuy nghe Nhẫn nhục Ba-la-mật, nhưng không hỏi đúng nghĩa lý, đời nay nghe Bát-nhã Ba-la-mật, vì không hỏi nên lại tiếp tục nghi ngờ, hối hận.

Tu-bồ-đề! Nếu Bồ-tát đời trước tuy nghe Giới Ba-la-mật, nhưng không hỏi đúng nghĩa lý, đời nay nghe Bát-nhã Ba-la-mật, vì không hỏi nên lại tiếp tục nghi ngờ, hối hận.

Tu-bồ-đề! Nếu Bồ-tát đời trước tuy nghe Bố thí Ba-la-mật, nhưng không hỏi đúng nghĩa lý, đời nay nghe Bát-nhã Ba-la-mật, vì không hỏi nên lại tiếp tục nghi ngờ hối hận.

Lại nữa, Tu-bồ-đề! Bồ-tát đời trước tuy nghe nội không, ngoại không, nội ngoại không, cho đến Vô pháp hữu pháp không, nhưng không hỏi đúng nghĩa lý, khi sanh đến cõi người, nghe Bát-nhã Ba-la-mật thâm sâu ấy, vì không hỏi nên lại tiếp tục nghi ngờ, khó ngộ.

Lại nữa, Tu-bồ-đề! Bồ-tát đời trước tuy nghe Bốn niệm xứ cho đến

Tám thánh đạo phần, Bốn thiền, Bốn tâm vô lượng, Bốn định vô sắc, Năm thần thông, Mười lực Phật cho đến trí Nhất thiết chủng, nhưng không hỏi đúng nghĩa lý, khi sanh đến cõi người, nghe Bát-nhã Ba-la- mật thâm sâu ấy, vì không hỏi nên lại tiếp tục nghi ngờ, khó ngộ.

Lại nữa, Tu-bồ-đề! Bồ-tát đời trước nghe Bát-nhã Ba-la-mật thâm sâu, hỏi đúng nghĩa lý mà không thực hành, khi mệnh chung sanh đến đây nghe Bát-nhã Ba-la-mật thâm sâu ấy, hoặc một ngày, hai ngày, ba ngày, bốn ngày, năm ngày tâm họ kiên cố không thể phá hoại, nhưng nếu khi lìa pháp được nghe liền bị thối thất. Vì cớ sao ? Vì đời trước khi nghe Bát-nhã Ba-la-mật thâm sâu ấy, tuy có hỏi đúng nghĩa lý mà không tu hành đúng như pháp. Người ấy hoặc có khi muốn nghe, hoặc có khi không muốn nghe, tâm mỏng manh không bền chắc, chỉ rối loạn không định, thí như lông nhẹ bay theo gió.

Tu-bồ-đề! Nên biết Bồ-tát ấy phát tâm không lâu, không theo cùng thiện tri thức, cúng dường chư Phật không nhiều; đời trước không viết chép Bát-nhã Ba-la-mật thâm sâu ấy, không đọc tụng, không nhớ nghĩ đúng, không học Bát-nhã Ba-la-mật, không học Thiền Ba-la-mật, không học Tấn Ba-la-mật, không học Nhẫn Ba-la-mật, không học Giới Ba- la-mật, không học Thí Ba-la-mật, không học Nội không cho đến Vô pháp hữu pháp không, không học Bốn niệm xứ, cho đến Tám Thánh đạo phần, không học Bốn thiền, Bốn tâm vô lượng, Năm thần thông, Mười lực Phật, cho đến không học trí Nhất thiết chủng.

Như vậy Tu-bồ-đề! Nên biết Bồ-tát ấy mới phát tâm Đại thừa vì ít tin, ít vui nên không thể viết chép Bát-nhã Ba-la-mật thâm sâu ấy, không thể thọ trì, đọc tụng, giảng nói, nhớ nghĩ đúng.

Tu-bồ-đề! Nếu thiện nam tử, thiện nữ nhơn cầu Phật đạo, không viết chép Bát-nhã Ba-la-mật thâm sâu, không thọ trì, đọc tụng, giảng nói, nhớ nghĩ đúng, cũng không được Bát-nhã Ba-la-mật thâm sâu hộ trì, cho đến không được trí Nhất thiết chủng hộ trì; người ấy cũng không tu hành đúng như Bát-nhã Ba-la-mật thâm sâu như đã nói, cho đến không tu hành đúng như trí Nhất thiết chủng như đã nói; thì người ấy hoặc rơi vào Nhị địa, hoặc Thanh văn địa, Bích-chi Phật địa. Vì cớ sao ? Vì thiện nam tử, thiện nữ nhơn ấy không viết chép Bát-nhã Ba-la-mật thâm sâu, không đọc tụng, giảng nói, nhớ nghĩ đúng; người ấy cũng không được Bát-nhã Ba-la-mật thâm sâu hộ trì; cũng không tu hành như đã nói. Vì thế nên thiện nam tử, thiện nữ nhơn ấy sẽ rơi vào một trong hai địa.

LUẬN: Hỏi: Từ trước lại đây, thường nói nhân duyên Bát-nhã Ba- la-mật thâm sâu ấy, nay vì sao nói lập lại?

Đáp: Nơi nơi nói Bát-nhã thâm sâu, thì có được lợi ích nhiều. Kẻ phàm phu không hiểu cho là nói lặp lại. Thí như vua nước lớn, chưa có đích tử, cầu đảo thần kỳ, nhiều năm không ứng. Trong lúc vua xuất hành, phu nhân sanh con trai, khiến báo tin vua biết, phu nhân sanh con trai, vua nghe vui mừng mà không trả lời cho đến mười phen sứ giả tâu: Tôi thưa nảy giờ vua có nghe chăng? Vua đáp: Ta có nghe. Lâu lắm ta mới được mãn nguyện, trong tâm rất vui mừng, muốn nghe mãi không thôi, liền sắc cho quan hữu ty, ban cho người ấy một trăm vạn lượng vàng; cứ một câu nói mười vạn lượng vàng. Vua nghe sứ giả nói trong mỗi câu, mỗi câu đều có lợi ích chứ không nói lặp. Người không biết cho là nói lặp. Nơi nơi nói Bát-nhã thâm sâu cũng như vậy. Phật và Bồ-tát, Tu-bồ-đề biết có lợi ích lớn. Tu-bồ-đề nghe Phật nói Bát-nhã thâm sâu, không thể hiểu thấu, trở thành cảm giác thâm sâu; người nghe ở nơi nơi nghe nói thâm sâu, được lợi ích Thiền định và trí tuệ. Còn kẻ phàm phu chê là nói lặp.

Lại nữa, sâu cạn không nhất định, tùy theo chúng sanh, kẻ hiểu thì không sâu, kẻ không hiểu cho là sâu. Bát-nhã Ba-la-mật, trừ Phật không ai biết khắp được nên nói là thâm sâu. Thế nên, Phật vì chúng sanh nên nói thâm sâu, chứ không có tướng thâm sâu nhất định, nếu có thâm sâu nhất định thì không ai tu được, nên nói Bồ-tát cho Bát-nhã thâm sâu, vì không tu hành Bát-nhã Ba-la-mật. Nhân duyên của thâm sâu là vì việc lớn nên sanh khởi, cho đến vì Vô đẳng đẳng sự nên sanh khởi. Nghĩa của việc lớn v.v… như trước đã nói. Trong đây, Phật tự nói nhân duyên của việc lớn v.v… đó là Bát-nhã Ba-la-mật hàm chứa năm Ba-la-mật v.v…

Hỏi: Năm Ba-la-mật đều có tướng khác nhau, sao nói hàm chứa trong Bát-nhã Ba-la-mật?

Đáp: Ở đây nói hàm chứa trong quyển kinh Bát-nhã. Lại nữa năm Ba-la-mật v.v… vì cùng với Bát-nhã Ba-la-mật hòa hợp, phương tiện hồi hướng nên năm Ba-la-mật được đạt đến Phật đạo.

Vua Quán đảnh ví như Phật, mọi quốc sự là phép độ chúng sanh, còn đại thần là ví như Bát-nhã Ba-la-mật. Phật ủy thác Bát-nhã Ba-la- mật thành biện mỗi mỗi pháp nên Phật an ở Thiền định, khoái lạc, vô sự. Lại như, muốn trừ cây cỏ, củi khô, lấy lửa ném vào thì lửa đốt cháy hết, còn người thì vô sự.

Lại nữa, Bát-nhã Ba-la-mật vì không thủ, không đắm sắc v.v… nên gọi là hàm chứa, mới nhiễm gọi là thủ, sanh ưa thích gọi là đắm.

Tu-bồ-đề hỏi: Thế nào là Bát-nhã Ba-la-mật, vì không thủ, không đắm sắc v.v… nên gọi là hàm chứa ?

Trong bốn cách đáp, Phật dùng cách đáp phản vấn:

“Ý ông nghĩ sao, dùng mắt trí tuệ thấy sắc pháp v.v… khả thủ, khả đắm chăng?”

Ý Tu-bồ-đề nghĩ rằng: “Nếu con mắt trí tuệ thì chỉ thấy không, vô tướng, vô tác, vô lượng, tướng bất khả tư nghì chứ làm sao đáp sắc v.v… có định tướng khả thủ, khả đắm”.

Phật chấp thuận lời đó, ông chưa được Nhất thiết trí, chẳng thấy sắc v.v… Ta là người Nhất thiết trí cũng chẳng thấy sắc v.v…; thế nên Ta tán thán “Lành thay”. Khi ấy, các Thiên tử tán thán Bát-nhã Ba-la- mật và người tu hành Bát-nhã Ba-la-mật rằng: Nếu chúng sanh trong ba ngàn đại thiên thế giới, hoặc là hạng người tín hành, pháp hành, cho đến Bích-chi Phật hoặc trí hoặc đoạn. Trí là mười trí, đoạn có hai thứ: đoạn có dư tàn, đoạn không có dư tàn. Hàng hữu học đoạn có dư tàn, hàng vô học đoạn không có dư tàn, không bằng Bồ-tát trong một ngày tu Bát-nhã Ba-la-mật thâm sâu. Vì cớ sao? Vì trí và đoạn của Thánh hiền đều là Vô sanh pháp nhẫn của Bồ-tát.

Hỏi: Nếu trí và đoạn của Thánh hiền tức là Vô sanh pháp nhẫn thì cớ gì nói “chẳng bằng”?

Đáp: Người tín hành v.v… vì không có tâm đại từ bi, rời bỏ chúng sanh nên chẳng bằng. Không có sức phương tiện, thì không thể từ Niết- bàn trở lại độ sanh. Thí như muôn dòng nước dồn về sông Hằng đều vào biển cả. Khi muốn vào biển, thế nước xoáy lốc, chúng sanh ở trong đó không thể lội ngược lại, chỉ người có sức mạnh mới ra khỏi được.

Lại nữa, các Thánh hiền khác, thành tựu trí và đoạn, Bồ-tát mới được vô sanh nhẫn mà sức có thể vượt qua cho nên Bồ-tát hơn. Công đức trí và đoạn tuy thành tựu mà không sánh kịp Bồ-tát sơ nhẫn. Thí như đại thần, công nghiệp tuy lớn, không sánh kịp Thái-tử.

Lại nữa, pháp noãn, đảnh, nhẫn là pháp môn ban đầu của Tiểu thừa. Pháp nhẫn của Bồ-tát là pháp môn ban đầu của Đại thừa. Thanh văn, Bích-chi Phật tuy thành đạt trọn vẹn còn không sánh kịp Bồ-tát mới vào cửa đạo huống gì thành Phật.

Hỏi: Pháp của Thanh văn, Bích-chi Phật là Tiểu thừa, Bồ-tát là Đại thừa, làm sao nói trí và đoạn của Nhị thừa tức là Vô sanh nhẫn của Bồ-tát?

Đáp: Vì sở duyên đồng, như như, pháp tánh, thực tế cũng đồng, chỉ trí tuệ lợi và độn khác nhau. Lại vì có vô lượng công đức và tâm đại bi thủ hộ nên thắng. Các cách nói khác đều là tán thán Bát-nhã Ba-la- mật.

Người hành Bát-nhã Ba-la-mật có thượng, trung, hạ. Hạ là khi nghe Bát-nhã Ba-la-mật liền lãnh thọ, tin ngay, không hỏi đúng nghĩa lý; Trung là đã nghe rồi hỏi nghĩa lý đúng mà không thực hành; Thượng là nghe hiểu và thực hành. Hạ tuy được làm thân người, nghe Bát-nhã cứ nghi ngờ, hối hận khó ngộ, vì phước mỏng, căn độn. Trung là được thân người nghe Bát-nhã nhất tâm tin vui, hiểu biết nghĩa lý, từ một ngày đến bốn năm ngày, tâm rất kiên cố, quá ngày đó không thể tin vui; hoặc muốn nghe, hoặc không muốn nghe vì đời trước, tuy hiểu nghĩa mà không thực hành, phước mỏng, căn độn. Thượng là được thân người nghe Bát-nhã, tâm liền thâm hiểu tin, vui không bỏ, thường theo pháp sư. Hai hạng Bồ-tát trên không thể được thượng địa, sẽ rơi vào Nhị thừa, vì không được Bát-nhã thủ hộ. Vì muốn làm rõ nghĩa ấy lần nữa, nên ở phẩm sau Phật nêu thí dụ. Như ở giữa biển cả, thuyền bị vỡ, nếu được chỗ nương thì lội qua được, không được chỗ nương thì không lội qua được.

 

GIẢI THÍCH PHẨM NĂM MƯƠI MỐT: THÍ DỤ

KINH: Phật bảo Tu-bồ-đề: Thí như trong biển lớn, thuyền bị vỡ, người trong thuyền, nếu không dùng đồ vật, không dùng phao nổi, không dùng thây chết thì, nầy Tu-bồ-đề, nên biết người ấy không đến được bờ kia, mà bị chết chìm trong biển. Tu-bồ-đề! Nếu khi thuyền vỡ, người trong thuyền dùng cây, dùng đồ vật, phao nổi, thây chết, thì nên biết người ấy trọn không bị chết chìm, an ổn, vô ngại, đến được bờ kia.

Tu-bồ-đề! Thiện nam tử, thiện nữ nhơn cầu Phật đạo cũng như vậy. Nếu chỉ có tâm tin ưa, mà không nương Bát-nhã Ba-la-mật thâm sâu, không chép, không đọc tụng, không nhớ nghĩ đúng, không nương Thiền Ba-la-mật, Tấn Ba-la-mật, Nhẫn Ba-la-mật, Giới Ba-la-mật, Thí Ba-la- mật, không chép, không đọc tụng, không nhớ nghĩ đúng, cho đến không nương trí Nhất thiết chủng, không chép, không đọc tụng, không nhớ nghĩ đúng thì nên biết thiện nam tử ấy, giữa đường bị suy hao, chưa đến được trí Nhất thiết chủng, chỉ thủ chứng Thanh văn, Bích-chi Phật địa.

Tu-bồ-đề! Nếu có thiện nam tử, thiện nữ nhơn cầu Phật đạo vì Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác nên có tín, có nhẫn, có tịnh tâm, có thâm tâm, có ham muốn, có hiểu biết, có buông bỏ, có tinh tấn, người ấy nương Bát-nhã Ba-la-mật thâm sâu, giữ gìn, đọc tụng, giảng nói, nhớ nghĩ đúng thì thiện nam tử, thiện nữ nhân ấy vì Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác nên có tín, nhẫn, tịnh tâm, thâm tâm, ham muốn, hiểu biết, buông bỏ, tinh tấn, được được Bát-nhã Ba-la-mật thâm sâu thủ hộ cho đến được trí Nhất thiết chủng thủ hộ. VÌ được Bát-nhã Ba-la-mật thâm sâu thủ hộ cho đến trí Nhất thiết chủng thủ hộ nên trọn không bị suy hao giữa đường, vượt quá Thanh văn địa, Bích-chi Phật địa, hay làm nghiêm tịnh cõi Phật, thành tựu tuệ giác cho chúng sanh, sẽ được Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.

Tu-bồ-đề! Thí như nam tử, nữ nhơn cầm bình đất lấy nước, nên biết bình ấy không bao lâu tan rã. Vì sao? Vì bình ấy chưa nung chín nên trở lại về với đất. Cũng như vậy, Tu-bồ-đề! Thiện nam tử, thiện nữ nhơn tuy vì Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác có tín, có nhẫn, có tịnh tâm, có thâm tâm, có an ổn, có hiểu biết, có buông bỏ, có Tinh tấn mà không được Bát-nhã Ba-la-mật phương tiện lực thủ hộ, không được Thiền Ba- la-mật, Tinh tấn Ba-la-mật, Nhẫn nhục Ba-la-mật, Giới Ba-la-mật, Thí Ba-la-mật thủ hộ, không được Nội không, cho đến Vô pháp hữu pháp không, Bốn niệm xứ cho đến Tám thánh đạo phần, mười lực Phật, cho đến trí Nhất thiết chủng thủ hộ thì nầy Tu-bồ-đề! Nên biết người ấy bị suy hao giữa đường, rơi vào Thanh văn, Bích-chi Phật địa.

Tu-bồ-đề! Thí như nam tử, nữ nhơn cầm chiếc bình đã nung chín lấy nước ở sông, giếng, ao, suối, nên biết chiếc bình ấy giữ nước rất an ổn. Vì sao? Vì chiếc bình ấy đã nung chín. Cũng như vậy Tu-bồ-đề! Thiện nam tử, thiện nữ nhơn cầu Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, có tín, nhẫn, tịnh tâm, thâm tâm, ham muốn, hiểu biết, buông bỏ, Tinh tấn, lại được Bát-nhã Ba-la-mật, phương tiện thủ hộ, được Thiền định, Tinh tấn, nhẫn, giới, thí, cho đến trí Nhất thiết chủng thủ hộ thì nầy Tu-bồ-đề! Nên biết người ấy không bị suy hao giữa đường, vượt quá địa vị Thanh văn, Bích-chi Phật, có thể làm nghiêm tịnh cõi Phật, thành tựu tuệ giác cho chúng sanh, được Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.

Tu-bồ-đề! Thí như bên bờ biển lớn, thuyền chưa trang bị liền đem đồ vật chất lên trên. Nên biết thuyền ấy bị vỡ chìm giữa đường, thuyền cùng đồ vật ở chung một chỗ, đó là vì khách buôn không có lực phương tiện nên mất hết của cải. Cũng như vậy Tu-bồ-đề! Thiện nam tử, thiện nữ nhơn ấy cầu Phật đạo tuy có tâm vì Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, có tín, nhẫn, tịnh tâm, thâm tâm, dục, giải, xả, Tinh tấn, nhưng không được Bát-nhã Ba-la-mật, phương tiện lực thủ hộ, cho đến trí Nhất thiết chủng thủ hộ, thì nên biết người ấy bị suy hao giữa đường, mất hết trân bảo lớn. Trân bảo lớn là trí Nhất thiết chủng; suy hao là rơi vào Thanh văn, Bích-chi Phật địa.

Tu-bồ-đề! Thí như có người có trí phương tiện, ở tại bờ biển trang bị thuyền lớn, sau mới đẩy xuống nước, đem tài vật chất lên mà đi. Nên biết thuyền ấy không bị vỡ chìm giữa đường, chắc chắn được an ổn, đi đến nơi chốn. Cũng như vậy Tu-bồ-đề! Thiện nam tử, thiện nữ nhơn, vì Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, có tín, nhẫn, tịnh tâm, thâm tâm, dục, giải, xả, Tinh tấn, nhẫn nhục, giới, thí, cho đến trí Nhất thiết chủng thủ hộ thì nên biết Bồ-tát ấy đến được Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, không bị rơi vào Thanh văn, Bích-chi Phật địa.

Tu-bồ-đề! Thí như có người một trăm hai mươi tuổi, tuổi già, các căn suy yếu, lại có các bệnh gió, lạnh, nóng, hoặc tạp bệnh. Tu-bồ-đề!

Ý ông nghĩ sao, người ấy có thể từ giữa đường đứng dậy chăng?

Tu-bồ-đề thưa: Không thể.

Phật dạy: Người ấy nếu có thể đứng dậy thì thế nào?

Tu-bồ-đề thưa: Người ấy tuy có thể đứng dậy nhưng không thể đi xa, hoặc mười dặm, hoặc hai mươi dặm, vì già bệnh.

Phật dạy: Cũng như vậy, Tu-bồ-đề! Thiện nam tử, thiện nữ nhơn tuy có tâm vì Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, có tín, nhẫn, tịnh tâm, thâm tâm, dục, giải, xả, Tinh tấn, nhưng không được Bát-nhã Ba-la-mật thủ hộ thì nên biết người ấy giữa đường rơi vào Thanh văn, Bích-chi Phật địa. Vì sao? Vì không được Bát-nhã Ba-la-mật thủ hộ.

Tu-bồ-đề! Thí như người già một trăm hai mươi tuổi trước kia, tuổi già, các căn suy yếu, lại có các bệnh gió, lạnh,nóng, hoặc tạp bệnh. Người ấy muốn đứng dậy đi, có hai người mạnh dìu hai nách nói với người già rằng: “Đừng sợ khó, muốn đi đến đâu hai người chúng tôi trọn không rời bỏ”. Cũng như vậy, Tu-bồ-đề! Nếu thiện nam tử, thiện nữ nhơn vì Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, có tín, nhẫn, tịnh tâm, thâm tâm, dục, giải, xả, Tinh tấn, được Bát-nhã Ba-la-mật phương tiện được thủ hộ, cho đến nhờ có trí Nhất thiết chủng thủ hộ thì nên biết người ấy giữa đường không rơi vào Thanh văn, Bích-chi Phật địa, có thể đi đến nơi chốn là Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.

LUẬN: Bồ-tát có hai hạng:

1. Hạng ngộ được thật tướng các pháp.

2. Hạng tuy chưa ngộ được thật tướng nhưng đối với trong Phật đạo có tín, có nhẫn, có tịnh tâm, có thâm tâm, có ham muốn, có hiểu biết, có buông bỏ, có Tinh tấn.

Tín là tin nghiệp tội phước, quả báo; tin tu sáu Ba-la-mật thì được

Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Có người tuy tin Phật đạo nhưng tư duy, tù lượng tâm không thể nhẫn chịu, còn ở đây nhẫn được nên nói có nhẫn. Có người tuy Nhẫn, nhưng vì tà kiến, nghi ngờ chưa dứt, tâm ô trược không thanh tịnh, còn ở đây thanh tịnh nên nói có tịnh. Có người tuy có tín, nhẫn, tịnh tâm, nhưng có cạn có sâu, còn ở đây sâu nên nói thâm tâm. Có đủ nhân duyên của bốn thứ trên nên nhất tâm muốn được Vô thượng đạo, không muốn việc gì khác, thế nên nói có dục. Rõ ràng quyết định, biết Vô thượng đạo là lớn, các việc thế gian là nhỏ, thế nên nói có giải. Vì có tâm dục, giải quyết định, nên buông bỏ của cải và buông bỏ các ác tâm, phiền não, xan lận, sân hận v.v… thế nên nói xả. Vì xả nên thường hay Tinh tấn. Có các công đức như vậy, nếu không được Bát-nhã Ba-la-mật, hoặc khi thân hoại mạng chung, hoặc bị ác tri thức làm trở ngại thì mất Bồ-tát đạo. Vì có công đức của thế gian nên hưởng thọ quả báo thế gian nhưng về sau rơi vào Thanh văn, Bích-chi Phật địa, không thể đạt đến Vô thượng đạo.

Trong đây Phật tự nói năm ví dụ: Chiếc thuyền là dụ thân hành giả; phao nổi v.v… là dụ Bát-nhã phương tiện; chiếc bình là dụ Bồ-tát đạo. Bát-nhã phương tiện là lửa, vì chưa cùng Bát-nhã phương tiện hòa hợp nên không thể giữ gìn nước công đức của sáu Ba-la-mật đạt đến Vô thượng đạo; không sửa sang chiếc thuyền là, Bồ-tát không có phương tiện; vật báu về các công đức tín, nhẫn v.v… là, năm chiếc thuyền thiện pháp Ba-la-mật. Thuyền và báu ở riêng rẻ là, ví trái với bổn nguyện, hoặc hưởng thọ cái vui cõi trời, cõi người, hoặc rơi vào Nhị thừa. Lợi lớn là, chỉ cho Pháp Phật bảo và Nhất thiết trí v.v… Người già bệnh là, ví Bồ-tát có các công đức tín, nhẫn v.v… nhưng không dứt sáu mươi hai tà kiến, nên gọi là già, không dứt một trăm lẻ tám phiền não nên gọi là bệnh. Từ giường đứng dậy là, ví từ giường “tam giới” đứng dậy, ta sẽ thành Phật. Vì nhân duyên tà kiến phiền não, nên không thể thành Bồ- tát đạo. Hai người mạnh là, ví Bát-nhã và phương tiện. Bát-nhã Ba-la- mật hay dứt các phiền não tà kiến, lý luận đưa đến trong rốt ráo không, còn phương tiện đưa ra khỏi rốt ráo không.

KINH: Bấy giờ, Phật nói với Tu-bồ-đề: Lành thay! Ông vì các Bồ- tát mà hỏi các việc ấy. Tu-bồ-đề! Nếu có thiện nam tử, thiện nữ nhơn cầu Phật đạo, từ khi mới phát tâm lại đây, đem tâm chấp ta, và của ta, làm việc Bố thí, Trì giới, nhẫn nhục, Tinh tấn, Thiền định, trí tuệ, thì thiện nam tử, thiện nữ nhân ấy, khi Bố thí nghĩ rằng: “Ta là thí chủ, ta thí cho người ấy, ta thí vật ấy; ta tu Trì giới, ta tu nhẫn, ta Tinh tấn, ta nhập định, ta tu trí tuệ”. Thiện nam tử, thiện nữ nhơn ấy nghĩ là thí, ấy là ta thí, cho đến ấy là trí tuệ. Vì sao? Vì trong Thí Ba-la-mật, không có sự phân biệt như vậy, xa lìa bờ này, bờ kia, đó là tướng trạng của Thí Ba- la-mật. Trong Giới Ba-la-mật, Nhẫn Ba-la-mật, Tấn Ba-la-mật, Thiền Ba-la-mật, Bát-nhã Ba-la-mật không có sự phân biệt như vậy. Vì sao? Vì xa lìa bờ này, bờ kia, là tướng trạng của Bát-nhã Ba-la-mật. Người ấy không biết bờ này, không biết bờ kia; vì người ấy không được Thí Ba-la- mật cho đến trí Nhất thiết chủng thủ hộ nên rơi vào Thanh văn, Bích-chi Phật địa, không thể đạt đến Nhất thiết trí.

Này Tu-bồ-đề! Người cầu Phật đạo không có phương tiện thế nào?

Tu-bồ-đề! Người cầu Phật đạo từ khi mới phát tâm lại đây, không có phương tiện tu Bố thí, Trì giới, nhẫn nhục, Tinh tấn, Thiền định, trí tuệ; người ấy nghĩ như vầy: “Ta Bố thí cho người ấy, lấy vật ấy là thí; ta Trì giới, nhẫn nhục, Tinh tấn, nhập định, tu trí tuệ, tu trí tuệ như vậy”. Người ấy nghĩ đó là Bố thí, đó là ta Bố thí, lấy việc Bố thí mà tự cao, nghĩ đó là giới, đó là ta Trì giới, lấy việc Trì giới mà tự cao; nghĩ đó là nhẫn, đó là ta nhẫn, lấy việc nhẫn nhục mà tự cao; nghĩ đó là Tinh tấn, đó là ta Tinh tấn, lấy việc ta Tinh tấn mà tự cao, nghĩ đó là Thiền định, đó là ta Thiền định, lấy việc Thiền định mà tự cao, nghĩ đó là tuệ, đó là ta có trí tuệ, lấy việc trí tuệ mà tự cao. Vì sao? Vì trong Thí Ba-la-mật không có sự phân biệt như vậy, xa lìa bờ này bờ kia, là tướng trạng của Thí Ba-la-mật; xa lìa bờ này bờ kia là tướng trạng của Giới Ba-la-mật; xa lìa bờ này bờ kia, là tướng trạng của Nhẫn Ba-la-mật. Xa lìa bờ này bờ kia là tướng trạng của Tinh tấn Ba-la-mật. Xa lìa bờ này bờ kia là tướng trạng củaThiền Ba-la-mật. Xa lìa bờ này bờ kia là tướng trạng của Bát-nhã Ba-la-mật. Vì sao? Vì trong Bát-nhã Ba-la-mật không có sự nghĩ nhớ phân biệt như vậy. Thiện nam tử, thiện nữ nhơn cầu Phật đạo, không biết bờ này bờ kia, vì người ấy không được Thí Ba-la-mật thủ hộ, không được Giới Ba-la-mật, Nhẫn Ba-la-mật, Tinh tấn Ba-la-mật, Thiền Ba-la-mật, Bát-nhã Ba-la-mật thủ hộ, cho đến không được trí Nhất thiết chủng thủ hộ, nên rơi vào Thanh văn, Bích-chi Phật đạo, không thể đến được Nhất thiết trí. Như vậy, Tu-bồ-đề! Bồ-tát vì không được Bát-nhã Ba-la-mật và sức phương tiện thủ hộ, nên rơi vào Thanh văn và Bích-chi Phật đạo.

Này Tu-bồ-đề! Thế nào là Bồ-tát ma-ha-tát được Bát-nhã Ba-la- mật và sức phương tiện thủ hộ nên không rơi vào Thanh văn và Bích-chi Phật đạo, mau được Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác?

Tu-bồ-đề! Bồ-tát từ khi mới phát tâm lại đây, do sức phương tiện,

Bố thí không có tâm chấp ta và của ta mà Bố thí, cho đến không có tâm chấp ta và của ta mà tu trí tuệ; người ấy không nghĩ rằng ta có đây là thí, đây là ta thí, không lấy việc Bố thí để tự cao, cho đến Bát-nhã Ba-la- mật cũng như vậy. Bồ-tát ấy không nghĩ rằng ta thí, không nghĩ rằng ta thí cho người ấy, dùng vật ấy thí, không nghĩ rằng ta Trì giới, có Trì giới ấy; không nghĩ rằng ta nhẫn nhục, có nhẫn nhục ấy; không nghĩ rằng ta Tinh tấn, có Tinh tấn ấy; không nghĩ rằng ta Thiền định, có Thiền định ấy; không nghĩ rằng ta tu trí tuệ, có trí tuệ ấy. Vì sao? Vì trong Thí Ba- la-mật, không có sự phân biệt như vậy. Xa lìa bờ này bờ kia là tướng trạng của Thí Ba-la-mật; xa lìa bờ này bờ kia là tướng trạng của Giới Ba-la-mật; xa lìa bờ này bờ kia là tướng trạng của Nhẫn nhục Ba-la-mật; xa lìa bờ này bờ kia là tướng trạng của Tinh tấn Ba-la-mật; xa lìa bờ này bờ kia là tướng trạng của Thiền Ba-la-mật; xa lìa bờ này bờ kia là tướng trạng của Bát-nhã Ba-la-mật. Vì sao? Vì trong Bát-nhã Ba-la-mật không có sự phân biệt như vậy. Bồ-tát ấy biết bờ này, bờ kia, vì Bồ-tát ấy được Thí Ba-la-mật thủ hộ; Giới Ba-la-mật, Nhẫn nhục Ba-la-mật, Tinh tấn Ba-la-mật, Thiền Ba-la-mật, Bát-nhã Ba-la-mật thủ hộ cho đến được trí Nhất thiết chủng thủ hộ nên không rơi vào Thanh văn, Bích-chi Phật địa, đến được Nhất thiết trí. Như vậy, Tu-bồ-đề! Bồ-tát được Bát-nhã Ba-la- mật và lực phương tiện thủ hộ nên không rơi vào Thanh văn, Bích-chi Phật địa, mau được Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.

LUẬN: Bấy giờ, Phật chấp thuận ý Tu-bồ-đề, lại nói nhân duyên làm mất kết quả tu hành. Bồ-tát tuy tu hành thiện pháp, tín, nhẫn v.v… cũng không được Vô thượng đạo, đó là vì đem tâm chấp ta, và của ta, tu sáu Ba-la-mật. Trong đây nói không phân biệt bờ này bờ kia vì tướng xa lìa là tướng của Bát-nhã Ba-la-mật mà lại phân biệt chấp trước tu hành, thế là mất.

Trên đây, tuy Phật nói nghĩa không có phương tiện nhưng không nói cái danh không có phương tiện, vì muốn khiến việc ấy rõ ràng nên bảo Tu-bồ-đề: Thế nào là có phương tiện, không phương tiện? Bên trong không có tâm chấp ta và của ta, bên ngoài quán hết thảy pháp không, không thủ tướng, Bát-nhã phương tiện cho đến trí Nhất thiết chủng thủ hộ Bồ-tát nên gọi là có phương tiện.

Thủ hộ ở phía năm Ba-la-mật được lực công đức, ở phía Bát-nhã Ba-la-mật được lực trí tuệ, do hai nhân duyên ấy nên không mất đạo.

 

GIẢI THÍCH PHẨM NĂM MƯƠI HAI: THIỆN TRI THỨC

KINH: Bấy giờ, Tu-bồ-đề bạch Phật rằng: Bạch đức Thế Tôn! Hàng Bồ-tát tân học, nên học Bát-nhã Ba-la-mật, Thiền Ba-la-mật, Tinh tấn Ba-la-mật, Nhẫn nhục Ba-la-mật, Trì giới Ba-la-mật, Thí Ba-la-mật như thế nào?

Phật bảo Tu-bồ-đề: Hàng Bồ-tát tân học, nếu muốn học Bát-nhã Ba-la-mật, Thiền, Tinh tấn, Nhẫn, Giới, Thí Ba-la-mật thì trước tiên nên thân cận cúng dường thiện tri thức, người có thể thuyết giảng Bát-nhã Ba-la-mật thâm sâu. Người ấy dạy rằng: Thiện nam tử, ngươi có Bố thí gì thì tất cả đều hồi hướng đến Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, có Trì giới, Nhẫn nhục, Tinh tấn, Thiền định, Trí tuệ, tất cả đều hồi hướng đến Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Ngươi chớ cho sắc là Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác; chớ cho thọ, tưởng, hành, thức là Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác; chớ cho Thí Ba-la-mật là Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác; chớ cho Giới, Nhẫn, Tấn, Thiền, Bát-nhã Ba-la-mật là Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác; chớ cho Nội không cho đến Vô pháp, hữu pháp không là Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác; chớ cho Bốn niệm xứ, Bốn chánh cần, Bốn như ý túc, Năm căn, Năm lực, Bảy giác phần, Tám thánh đạo phần là Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác; chớ cho Bốn thiền, Bốn tâm vô lượng, Bốn định vô sắc, Năm thần thông là Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác; chớ cho Mười lực cho đến Mười tám pháp không chung của Phật là Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Vì sao? Vì không chấp thủ sắc liền được Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác; không chấp thủ thọ, tưởng, hành, thức liền được Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác; không chấp thủ Thí Ba-la-mật cho đến Bát-nhã Ba-la- mật liền được Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác; không chấp thủ Nội không cho đến Vô pháp hữu pháp không, Bốn niệm xứ cho đến Mười tám pháp không chung liền được Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.

Thiện nam tử! Khi tu Bát-nhã Ba-la-mật thâm sâu chớ tham sắc. Vì sao? Vì sắc chẳng phải cái có thể tham; chớ tham thọ, tưởng, hành thức. Vì sao? Vì thọ, tưởng, hành, thức chẳng phải là cái có thể tham. Thiện nam tử! Chớ tham Thí Ba-la-mật, Giới Ba-la-mật, Nhẫn Ba-la-mật, Tấn Ba-la-mật, Thiền Ba-la-mật, Bát-nhã Ba-la-mật, chớ tham Nội không cho đến Vô pháp hữu pháp không, chớ tham Bốn niệm xứ cho đến Tám Thánh đạo phần, chớ tham Bốn thiền, Bốn tâm vô lượng, Bốn định vô sắc, Năm thần thông, chớ tham Mười trí lực cho đến trí Nhất thiết chủng của Phật. Vì sao? Vì trí Nhất thiết chủng chẳng phải là cái có thể tham. Thiện nam tử! Chớ tham quả Tu-đà-hoàn cho đến quả A-la-hán, chớ tham Bích-chi Phật đạo, chớ tham Bồ-tát vị, chớ tham Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Vì sao? Vì Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác chẳng phải là cái có thể tham. Vì sao? Vì các pháp tự tánh không.

LUẬN: Hỏi: Tu-bồ-đề hỏi chỗ sở hành của hàng tân học cớ sao Phật đáp việc tu hành vi diệu lâu ngày của Bồ-tát, đó là không chấp thủ hết thảy pháp, vì hết thảy pháp tánh không?

Đáp: Các pháp tánh không có hai:

  1. Cái không của đại Bồ-tát ngộ được.
  2. Nhu thuận Nhẫn của tiểu Bồ-tát học được vì trí tuệ mà phát tâm.

Trong đây chỉ nói về cái không của tiểu Bồ-tát học được.

Lại nữa, có khí vị của trí tuệ, Phật kể Bồ-tát, nếu không có khí vị của trí tuệ, thì tuy tu hành các công đức lâu ngày nhưng không kể là Bồ- tát. Thí như Phật nói, tướng trạng của Đảnh pháp ở trong Thanh văn đối với Tam bảo có lòng tin chút ít, gọi là Đảnh pháp; lòng tin ấy cao hơn Noãn pháp nhờ tu Thiền định phát sanh, do tâm cõi Sắc đạt được, nó đối với vô ngại giải thoát của Phật là bé nhỏ, nhưng đối với người phàm là lớn. Như vậy, Bồ-tát mới phát tâm có được khí vị của Bát-nhã Ba-la- mật, nên có thể lãnh thọ sự giáo hóa gọi là tân học, vượt hơn công đức năm Ba-la-mật, đối với người phàm là lớn, đối với Phật là nhỏ.

Lại nữa, Phật không nói thẳng các pháp tánh không, mà trước tiên dạy cúng dường thân cận thiện tri thức, nhờ thiện tri thức nói công đức năm Ba-la-mật. Thiện tri thức tuy mỗi mỗi giáo hóa, nhưng Phật chỉ khen pháp bất hoại, đó là đối với sắc pháp v.v… không tham, không đắm, không thủ. Thí như chim cánh vàng mới sanh, từ một núi Tu-di bay đến một núi Tu-di, Bồ-tát cũng như vậy, mới học đã có thể sanh trí sâu xa như vậy, huống gì học lâu. Lại như đóm lửa nhỏ có thể đốt cháy, huống gì là lửa lớn. Bồ-tát cũng như vậy, lúc mới học có thể dùng trí tuệ, chuyển đổi pháp thế gian khiến rốt ráo không, đốt cháy các phiền não, huống gì đắc lực đầy đủ.

KINH: Tu-bồ-đề bạch Phật rằng: Bạch đức Thế Tôn! Các Bồ-tát làm được việc khó làm, ở trong hết thảy pháp tánh không mà cầu Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, muốn được Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.

Phật dạy: Đúng vậy, đúng vậy! Tu-bồ-đề! Bồ-tát làm được việc khó, ở trong hết thảy pháp tánh không mà cầu Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, muốn được Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.

Tu-bồ-đề! Các Bồ-tát vì an ổn cho thế gian, nên phát tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, vì an lạc cho thế gian, vì cứu thế gian, vì làm chỗ quy hướng cho thế gian, vì làm nơi nương tựa cho thế gian, vì làm gò bãi cho thế gian, vì dẫn đạo thế gian, vì làm đạo rốt ráo cho thế gian, vì làm chỗ đi đến cho thế gian nên phát tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.

Tu-bồ-đề! Bồ-tát vì an ổn thế gian nên phát tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác như thế nào? Tu-bồ-đề! Khi Bồ-tát được Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, đem chúng sanh ra khỏi sáu đường, đặt vào nơi bờ Niết-bàn vô úy. Tu-bồ-đề ấy là Bồ-tát vì an ổn cho thế gian nên phát tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.

Bồ-tát vì an lạc cho thế gian, nên phát tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác như thế nào? Tu-bồ-đề! Bồ-tát khi được Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác đem chúng sanh ra khỏi cái u sầu, khổ não, đặt vào nơi bờ Niết-bàn vô úy. Ấy là Bồ-tát vì an lạc cho thế gian nên phát tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.

Bồ-tát vì cứu thế gian, nên phát tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác như thế nào? Tu-bồ-đề! Bồ-tát khi được Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác cứu các khổ nạn trong đường sanh tử cho chúng sanh, cũng thuyết pháp để dứt các khổ ấy, chúng sanh nghe pháp, tạm dùng Tam thừa để được độ thoát. Tu-bồ-đề! Ấy là Bồ-tát vì cứu thế gian nên phát tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.

Bồ-tát vì làm chỗ quy hướng cho thế gian, nên phát tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác như thế nào? Tu-bồ-đề! Bồ-tát khi được Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác cứu chúng sanh ra khỏi sanh, già, bệnh, chết, ưu bi, sầu não đem đặt vào nơi bờ Niết-bàn vô úy. Tu-bồ-đề! Ấy là Bồ-tát vì làm chỗ quy hướng cho thế gian nên phát tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.

Bồ-tát vì làm chỗ nương tựa cho thế gian nên phát tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác như thế nào? Tu-bồ-đề! Bồ-tát khi được Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, vì chúng sanh nói hết thảy pháp không có chỗ nương tựa. Tu-bồ-đề! Ấy là Bồ-tát vì làm chỗ nương tựa cho thế gian nên phát tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.

Tu-bồ-đề bạch Phật rằng: Bạch đức Thế Tôn! Hết thảy pháp không có chỗ nương tựa như thế nào?

Phật dạy: Sắc không tương tục tức là sắc không sanh, sắc không sanh tức là sắc không diệt, sắc không diệt tức là sắc không có chỗ nương tựa; thọ, tưởng, hành, thức cho đến trí Nhất thiết chủng cũng lại như vậy. Tu-bồ-đề! Ấy là vì làm chỗ nương tựa cho thế gian nên phát tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.

Bồ-tát vì làm đạo cứu cánh cho thế gian nên phát tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác như thế nào? Tu-bồ-đề! Khi Bồ-tát được Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, vì chúng sanh nói pháp như vầy: Tướng rốt ráo của sắc chẳng phải là sắc; tướng rốt ráo của thọ, tưởng, hành, thức cho đến trí Nhất thiết chủng chẳng phải là trí Nhất thiết chủng. Tu-bồ- đề! Tướng cứu cánh : “Như”, tướng hết thảy pháp cũng như vậy.

Tu-bồ-đề thưa: Bạch đức Thế Tôn! Nếu tướng hết thảy pháp cứu cánh “Như” thì các Bồ-tát đều nên tu Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Vì sao? Vì trong tướng rốt ráo của sắc không có phân biệt; trong tướng rốt ráo của thọ, tưởng, hành thức, không có phân biệt cho đến trong tướng rốt ráo của trí Nhất thiết chủng không có phân biệt cho là sắc, là thọ, tưởng, hành, thức cho đến trí Nhất thiết chủng.

Phật bảo Tu-bồ-đề: Đúng vậy, đúng vậy! Trong tướng rốt ráo của sắc không có phân biệt, trong tướng rốt ráo của thọ, tưởng, hành, thức cho đến trí Nhất thiết chủng không có phân biệt gọi là sắc cho đến gọi là trí Nhất thiết chủng. Tu-bồ-đề! Ấy là việc khó của Bồ-tát ma-ha-tát. Quán tướng các pháp tịch diệt như vậy, mà tâm không ẩn khuất, không sợ hãi. Vì sao? Vì Bồ-tát nghĩ rằng các pháp thâm sâu ấy ta nên biết như vậy sẽ được Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Pháp vi diệu tịch diệt như vậy ta sẽ vì chúng sanh nói ra. Ấy là Bồ-tát vì làm đạo cứu cánh cho thế gian nên phát tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.

Bồ-tát vì làm gò bãi cho thế gian nên phát tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác như thế nào? Tu-bồ-đề! Hoặc ở giữa sông ngòi, biển lớn, nước bốn bên ngăn cách, ấy là cồn bãi. Tu-bồ-đề! Sắc cũng như vậy, đời trước đời sau làm gián đoạn; thọ, tưởng, hành, thức đời trước đời sau gián đoạn, cho đến trí Nhất thiết chủng đời trước đời sau gián đoạn. Vì đời trước đời sau gián đoạn ấy nên hết thảy pháp cũng gián đoạn. Tu-bồ- đề! Vì hết thảy pháp đời trước đời sau gián đoạn ấy, nên tức là tịch diệt, tức là diệu bảo, nghĩa là không, không có gì thủ đắc, ái sạch hết không còn, ly dục Niết-bàn. Tu-bồ-đề! Bồ-tát khi được Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác đem pháp tịch diệt vi diệu, vì chúng sanh nói. Tu-bồ-đề! Ấy là Bồ-tát vì làm cồn bãi cho thế gian nên phát tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.

Bồ-tát vì làm dẫn dạo cho chúng sanh như thế nào? Tu-bồ-đề! Bồ- tát khi được Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác vì chúng sanh nói sắc chẳng sanh chẳng diệt, chẳng nhơ, chẳng sạch; nói thọ, tưởng, hành, thức chẳng sanh chẳng diệt, chẳng nhơ, chẳng sạch; nói mười hai xứ, mười tám giới, bốn niệm xứ cho đến tám thánh đạo phần, bốn thiền, bốn tâm vô lượng, bốn định vô sắc, năm thần thông chẳng sanh chẳng diệt, chẳng nhơ, chẳng sạch; nói quả Tu-đà-hoàn cho đến quả A-la-hán, Bích- chi Phật đạo chẳng sanh, chẳng diệt, chẳng nhơ, chẳng sạch, nói mười trí lực cho đến trí Nhất thiết chủng của Phật chẳng sanh, chẳng diệt, chẳng nhơ, chẳng sạch. Tu-bồ-đề! Ấy là Bồ-tát ma-ha-tát vì làm dẫn đạo cho chúng sanh nên phát tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.

LUẬN: Tu-bồ-đề phát tâm hy hữu bạch Phật rằng: “Các Bồ-tát chưa dứt phiền não, chưa đủ đại bi, chưa được địa vị bất thối chuyển, biết các pháp vốn tánh không mà có thể phát tâm Vô thượng đạo, việc ấy rất khó”. Phật nhận lời ấy rằng: “Đúng như vậy”. Lại tán thán nhân duyên hy hữu của Bồ-tát rằng: “Bồ-tát vì an ổn cho thế gian nên phát tâm”. An ổn là có thể phá hết thảy phiền não, rốt ráo không biến mất. Ví như thuốc hay chữa lành bệnh không cần hỏi ngọt đắng, chỉ cần rốt ráo trừ hết bệnh được an ổn. Phật hay làm cho chúng sanh thường an ổn, không kỳ hạn một đời, hai đời. Cái vui của thế gian là có cái tuy an ổn mà không vui, có cái đời nay khổ, đời sau vui như uống thuốc đắng trong bụng an ổn, trong miệng không ngon, thế nên nói Phật hay đem cái vui cho đời này đời sau. Sáu đường vì vô thường nên chẳng phải an ổn, thế nên nói ra khỏi sáu đường gọi là an ổn. Cái vui thế gian là nhân duyên của đắm trước nên lâu về sau, chắc chắn sanh ưu não, không gọi là vui; cái vui Niết-bàn trước sau không biển đổi, lìa hết ưu khổ gọi là vui. Cứu thế gian là như người bị giặc oán đuổi bắt, nếu có thân thích, có thế lực quan quyền thì có thể cứu. Chúng sanh cũng như vậy, vì nhân duyên của tội ác, các phiền não và bị ma dân đuổi bắt. Chỉ có Phật thuyết pháp cứu hộ cho. Thế gian quy hướng là, như người khi gặp gió dữ, mưa mạnh, chắc chắn tìm về phòng xá; các tà kiến phiền não thế gian trong ngoài thân tâm khổ não, già, bệnh, chết, ưu khổ, nên tìm về với Phật, Phật dùng các phương cách nhổ sạch ưu bi, khổ não. Nơi nương tựa là hết thảy pháp hữu vi, do nhân duyên hòa hợp sanh nên không có tự lực, không thể nương tựa. Chúng sanh bị khổ bức bách, đến nương tựa Phật, Phật vì nói cho pháp không có nương tựa. Pháp không có nương tựa là chân thật, đó là Vô dư Niết-bàn. Năm uẩn diệt, không còn tương tục, không tương tục tức là chẳng sanh, chẳng diệt; chẳng sanh chẳng diệt tức là rốt ráo không, không có nơi nương tựa.

Hỏi: Nếu không có nơi nương tựa cớ sao nói làm chỗ nương tựa?

Đáp: Nương tựa có hai: 1. Các phiền não ái kiến nương tựa pháp hữu vi. 2. Trí tuệ thanh tịnh nương tựa Niết-bàn. Vì phiền não kiến nên nói không có nương tựa. Đạo cứu cánh là thật tướng rốt ráo không của các pháp. Sắc pháp v.v… đời trước không có, đời sau không có, đời hiện tại cũng không có. Kẻ phàm phu vì thế lực của ức tưởng phân biệt, ng- hiệp quả báo tình thức nên điên đảo thấy có, còn Thánh nhân dùng con mắt trí tuệ quan sát thấy điều hư vọng không thật. Như đời trước đời sau; đời chính giữa cũng như vậy. Nếu không có trước sau làm sao có giữa? Như vậy, vì chúng sanh thuyết pháp là đặt chúng sanh an ổn trong đạo rốt ráo đệ nhất. Cồn bãi thế gian là, như cồn bãi, bốn phía không có đất, sắc pháp cũng như vậy, đời trước đời sau đều không thể thủ đắc. Trung gian như trong cứu cánh đạo đã phá, vì đời trước đời sau “không” nên trung gian cũng không. Nước là ví cho các phiền não ba lậu, bốn lưu và hết thảy pháp thuộc nghiệp quả báo, rốt ráo không, không có gì để thủ đắc, đó là Niết-bàn, là cồn bãi. Chúng sanh chìm ở giữa bốn dòng nước, Phật lấy con thuyền Bát chánh đạo vớt lên đặt vào trên cồn bãi Niết-bàn. Có các nhân duyên như vậy tiếp độ chúng sanh, ấy gọi là dẫn đạo.

KINH: Bồ-tát vì làm chỗ đến cho thế gian nên phát tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác như thế nào?

Tu-bồ-đề! Bồ-tát khi được Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác vì chúng sanh nói chỗ đến của sắc là “không”; nói chỗ đến của thọ, tưởng, hành, thức là “không” cho đến nói chỗ đến của trí Nhất thiết chủng là “không”. Vì chúng sanh nói sắc chẳng phải chỗ đến, chẳng phải không chỗ đến. Vì sao? VÌ tướng của sắc là “không”, chẳng phải chỗ đến, chẳng phải chỗ không đến; nói thọ, tưởng, hành, thức chẳng phải chỗ đến, chẳng phải không chỗ đến. Vì sao? Vì tướng thọ, tưởng, hành, thức là “không”, chẳng phải chỗ đến, chẳng phải không chỗ đến, cho đến trí Nhất thiết chủng “không” chẳng phải chỗ đến, chẳng phải không chỗ đến. Vì sao? Vì tướng trí nhất thiết chủng là “không” chẳng phải chỗ đến, chẳng phải chỗ không đến.

Như vậy, Tu-bồ-đề! Bồ-tát vì làm chỗ đến cho thế gian nên phát tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Vì sao? Vì chỗ đến của hết thảy pháp là “không”, chỗ đến ấy không vượt quá được. Vì sao? Vì trong “không”, chỗ đến, chẳng phải chỗ đến đều không thể thủ đắc.

Tu-bồ-đề! Chỗ đến của hết thảy pháp là “vô tướng” chỗ đến ấy không vượt quá được. Vì sao? Vì trong “vô tướng”, chỗ đến, chẳng phải chỗ đến đều không thể thủ đắc.

Tu-bồ-đề! Chỗ đến của hết thảy pháp là “vô tác” chỗ đến ấy không

vượt quá được. Vì sao? Vì trong vô tác, chỗ đến, chẳng phải chỗ đến đều không thể thủ đắc.

Tu-bồ-đề! Chỗ đến của hết thảy pháp là “không dấy khởi”, chỗ đến ấy không vượt quá được. Vì sao? Vì trong không dấy khởi, chỗ đến, chẳng phải chỗ đến đều không thể thủ đắc.

Tu-bồ-đề! Chỗ đến của hết thảy là “không có gì của chính nó” chẳng sanh, chẳng diệt, chẳng nhơ chẳng sạch, chỗ đến ấy không vượt quá được. Vì sao? Vì trong chỗ đến, không có gì của chính nó, chẳng sanh chẳng diệt, chẳng nhơ chẳng sạch, chỗ đến, chẳng phải chỗ đến đều không thể thủ đắc.

Tu-bồ-đề! Chỗ đến của hết thảy pháp là “Như mộng”, chỗ đến ấy không vượt quá được. Vì sao? Vì trong mộng, chỗ đến, chẳng phải chỗ đến đều không thể thủ đắc.

Tu-bồ-đề! Chỗ đến của hết thảy pháp là “Như huyễn”, như vang, như bóng, như hóa, chỗ đến ấy không vượt quá được. Vì sao? Vì trong huyễn hóa chỗ đến, chẳng phải chỗ đến đều không thể thủ đắc.

Tu-bồ-đề! Chỗ đến của hết thảy pháp là “vô lượng vô biên”, chỗ đến ấy không vượt quá được. Vì sao? Vì trong vô lượng, vô biên, chỗ đến, chẳng phải chỗ đến đều không thể thủ đắc.

Tu-bồ-đề! Chỗ đến của hết thảy pháp là “không cho, không lấy”, chỗ đến ấy không vượt quá được. Vì sao? Vì trong không cho, không lấy, chỗ đến, chẳng phải chỗ đến đều không thể thủ đắc.

Tu-bồ-đề! Chỗ đến của hết thảy pháp là “không cất lên, không hạ xuống”, chỗ đến ấy không vượt quá được. Vì sao? Vì trong không cất lên, không hạ xuống, chỗ đến, chẳng phải chỗ đến đều không thể thủ đắc.

Tu-bồ-đề! Chỗ đến của hết thảy pháp là “không thêm, không bớt”, chỗ đến ấy không vượt quá được. Vì sao? Vì trong không thêm không bớt, chỗ đến chẳng phải chỗ không đến đều không thể thủ đắc được.

Tu-bồ-đề! Chỗ đến của hết thảy là “không đến, không đi”, chỗ đến ấy không vượt quá được. Vì sao? Vì trong không đến không đi, chỗ đến, chẳng phải chỗ đến đều không thể thủ đắc được.

Tu-bồ-đề! Chỗ đến của hết thảy pháp là “không vào, không ra, không hợp, không tán, không vướng, không dứt”, chỗ đến ấy không vượt quá được. Vì sao? Vì trong không vướng không đứt, chỗ đến, chẳng phải chỗ đến đều không thể thủ đắc.

Tu-bồ-đề! Chỗ đến của hết thảy pháp là “Ngã, chúng sanh, thọ, mệnh, người; dấy khởi, người khiến dấy khởi; làm, người khiến làm, kẻ biết, kẻ thấy”, chỗ đến ấy không vượt quá được. Vì sao? Vì ngã cho đến kẻ biết, kẻ thấy rốt ráo không thể thủ đắc, huống gì có chỗ đến, chẳng phải chỗ đến.

Tu-bồ-đề! Chỗ đến của hết thảy pháp là “thường”, chỗ đến ấy không vượt quá được. Vì sao? Vì thường rốt ráo không thể thủ đắc, làm sao có chỗ đến, chẳng phải chỗ đến.

Tu-bồ-đề! Chỗ đến của hết thảy pháp là “Lạc, tịnh, ngã”, chỗ đến ấy không vượt quá được. Vì sao? Vì lạc, tịnh, ngã rốt ráo không thể thủ đắc, làm sao có chỗ đến, chẳng phải chỗ đến.

Tu-bồ-đề! Chỗ đến của hết thảy pháp là “vô thường, khổ, bất tịnh, vô ngã”, chỗ đến ấy không vượt quá được. Vì sao? Vì vô thường, khổ, bất tịnh, vô ngã rốt ráo không thể thủ đắc, làm sao có chỗ đến, chẳng phải chỗ đến.

Tu-bồ-đề! Chỗ đến của hết thảy pháp là “tham dục”, chỗ đến ấy không vượt quá được. Vì sao? Vì tham dục rốt ráo không thể thủ đắc, huống gì có chỗ đến, chẳng phải chỗ đến.

Tu-bồ-đề! Chỗ đến của hết thảy pháp là “sân hận, si mê, tà kiến”, chỗ đến ấy không vượt quá được. Vì sao? Vì sân hận, si mê, tà kiến rốt ráo không thể thủ đắc, huống gì có chỗ đến, chẳng phải chỗ đến.

Tu-bồ-đề! Chỗ đến của hết thảy pháp là “Như”, chỗ đến ấy không vượt quá được. Vì sao? Vì trong “Như” không có đến, không có đi.

Tu-bồ-đề! Chỗ đến của hết thảy pháp là pháp tánh thực tế, tánh không thể nghĩ bàn, chỗ đến ấy không thể vượt quá được. Vì sao? Vì trong pháp tánh, thực tế, tánh không thể nghĩ bàn, không có đến, không có đi.

Tu-bồ-đề! Chỗ đến của hết thảy pháp là “Bình đẳng”, chỗ đến ấy không vượt quá được. Vì sao? Vì trong bình đẳng, chỗ đến, chẳng phải chỗ đến đều không thể thủ đắc.

Tu-bồ-đề! Chỗ đến của hết thảy pháp là “tướng bất động”, chỗ đến ấy không vượt quá được. Vì sao? Vì trong tướng bất động, chỗ đến, chẳng phải chỗ đến đều không thể thủ đắc.

Tu-bồ-đề! Chỗ đến của hết thảy pháp là “sắc”, chỗ đến ấy không vượt quá được. Vì sao? Vì sắc rốt ráo không thể thủ đắc, làm sao có chỗ đến, chẳng phải chỗ đến.

Tu-bồ-đề! Chỗ đến của hết thảy pháp là “thọ, tưởng, hành, thức”, chỗ đến ấy không vượt quá được. Vì sao? Vì thọ tưởng, hành, thức, rốt ráo không thể thủ đắc, làm sao có chỗ đến, chẳng phải chỗ đến. Mười hai xứ, mười tám giới cũng như vậy.

Tu-bồ-đề! Chỗ đến của hết thảy pháp là “Thí Ba-la-mật”, chỗ đến ấy không vượt quá được. Vì sao? Vì Thí Ba-la-mật rốt ráo không thể thủ đắc, làm sao có chỗ đến, chẳng phải chỗ đến.

Tu-bồ-đề! Chỗ đến của hết thảy là Giới Ba-la-mật, Nhẫn Ba-la- mật, Tấn Ba-la-mật, Thiền Ba-la-mật, Bát-nhã Ba-la-mật, chỗ đến ấy không vượt quá được. Vì sao? Vì Giới Ba-la-mật cho đến Bát-nhã Ba-la- mật rốt ráo không thể thủ đắc, làm sao có chỗ đến, chẳng phải chỗ đến.

Tu-bồ-đề! Chỗ đến của hết thảy pháp là “Nội không”, chỗ đến ấy không vượt quá được. Vì sao? Vì nội không rốt ráo không thể thủ đắc, làm sao có chỗ đến, chẳng phải chỗ đến.

Tu-bồ-đề! Chỗ đến của hết thảy pháp là “Ngoại không, nội ngoại không, cho đến vô pháp hữu pháp không”, chỗ đến ấy không vượt quá được. Vì sao? Vì vô pháp hữu pháp không rốt ráo không thể thủ đắc, làm sao có chỗ đến, chẳng phải chỗ đến.

Tu-bồ-đề! Chỗ đến của hết thảy pháp là Bốn niệm xứ cho đến Tám thánh đạo phần, chỗ đến ấy không vượt quá được. Vì sao? Vì Bốn niệm xứ cho đến Tám thánh đạo phần rốt ráo không thể thủ đắc, làm sao có chỗ đến, chẳng phải chỗ đến.

Tu-bồ-đề! Chỗ đến của hết thảy pháp là Mười trí lực cho đến trí Nhất thiết chủng của Phật, chỗ đến ấy không vượt quá được. Vì sao? Vì trong trí Nhất thiết chủng, chỗ đến, chẳng phải chỗ đến đều không thể thủ đắc.

Tu-bồ-đề! Chỗ đến của hết thảy pháp là quả Tu-đà-hoàn cho đến Bích-chi Phật đạo, chỗ đến ấy không vượt quá được. Vì sao? Vì trong quả Tu-đà-hoàn cho đến Bích-chi Phật đạo, chỗ đến, chẳng phải chỗ đến đều không thể thủ đắc.

Tu-bồ-đề! Chỗ đến của hết thảy pháp là Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, chỗ đến ấy không vượt quá được. Vì sao? Vì trong Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, chỗ đến, chẳng phải chỗ đến đều không thể thủ đắc.

Tu-bồ-đề! Chỗ đến của hết thảy pháp là Tu-đà-hoàn cho đến Phật, chỗ đến ấy không vượt quá được. Vì sao? Vì trong Tu-đà-hoàn cho đến Phật, chỗ đến chẳng phải chỗ đến đều không thể thủ đắc.

Tu-bồ-đề bạch Phật rằng: Bạch đức Thế Tôn! Bát-nhã Ba-la-mật thâm sâu ấy, ai tin hiểu được?

Phật bảo Tu-bồ-đề: Có Bồ-tát trước tiên ở chỗ chư Phật, tu sáu Ba-la-mật lâu ngày, thiện căn thuần thục, cúng dường vô số trăm ngàn, vạn, ức Phật, thường đi theo thiện tri thức, hạng ngưới ấy có thể tin hiểu Bát-nhã Ba-la-mật thâm sâu.

Tu-bồ-đề bạch Phật rằng: Bạch đức Thế Tôn! Người tin hiểu được Bát-nhã Ba-la-mật thâm sâu ấy có tánh gì, tướng gì, hình mạo gì?

Phật dạy: Dứt lìa tham, sân, si là tánh, tướng, mạo. Bồ-tát ma-ha-tát ấy có thể tin hiểu Bát-nhã Ba-la-mật thâm sâu.

LUẬN: Hỏi: Các việc trên chỉ lược nói, nay trong “Chỗ đến” cớ sao nói rộng?

Đáp: “Chỗ đến” là, cuối phẩm tóm tắt hết chỗ hội quy của chín việc trên cho nên nói nhiều.

Lại nữa, an lạc v.v… và chỗ đến đều đồng một nghĩa, đều cứu chúng sanh ra khỏi khổ, đưa đến Niết-bàn. Nếu mỗi việc, mỗi việc nói rộng thì không thể nói hết. Chỗ đến ở sau hết nên nói rộng, nên biết các việc khác cũng đều nên nói rộng.

Chỗ đến của sắc pháp v.v… là không, như hư không chỉ có tên gọi mà không có thực pháp, sắc pháp v.v… cũng như vậy, cuối cùng quy về nơi không, vì tướng rốt ráo của các pháp chắc chắn là không, ngoài ra những cái khác đều hư vọng. Như người lúc mới đầu tuy có lời nói lành lâu lâu mới biết tình thật. Các pháp sắc v.v… cũng như vậy, khi vào vô dư Niết-bàn thì cùng với hư khôngkhông khác; nên biết trước tiên cũng như vậy, chỉ vì người phàm phu do quả báo điên đảo cho nên thấy khác. Hết thảy pháp không có gì qua khỏi tướng không v.v… như người muốn vượt quá hư không không thể được.

Mười sáu danh từ ngã, chúng sanh, thọ mệnh v.v… đều do năm uẩn hòa hợp, giả có danh từ đó, chứ không có thực pháp, làm sao có chỗ đến, chẳng phải chỗ đến. Nếu thường, lạc, ngã, tịnh, bốn điên đảo phá hỏng bốn Thánh hạnh như bốn pháp thường, lạc, ngã, tịnh thì không thể được vì điên đảo, các pháp sắc v.v… cũng như vậy. Như thường, lạc, ngã, tịnh, không thể thủ đắc thì vô thường, khổ, bất tịnh, vô ngã từ thường, lạc, ngã, tịnh, phát xuất cũng không thể thủ đắc. Thế nên nói, chỗ đến của hết thảy pháp là thường, lạc, ngã, tịnh, là vô thường, khổ, bất tịnh, vô ngã.

Tu-bồ-đề hỏi Phật: Pháp ấy sâu xa, vi tế, ai sẽ tin hiểu được? – Phật đáp: Người có nhân duyên tu hành lâu ngày tin được.

Lại hỏi: Người tu hành lâu ngày có tướng trạng gì? – Phật đáp: Người ấy lìa tâm ba độc, cũng không thấy lìa, thâm nhập thật tướng các pháp.

Hỏi: Người ấy chưa được Vô sanh nhẫn làm sao nói dứt ba độc?

Đáp: Dứt có hai: 1. Dứt cội gốc. 2. Dứt ngành ngọn chút ít, hành giả không phân biệt được sự dứt ấy, không phân biệt ấy là dứt, ấy là phiền não. Vì sao? Vì tướng phiền não điên đảo không nhất định, nên phiền não tức là “dứt”, nên nói là ly.

 

GIẢI THÍCH PHẨM NĂM MƯƠI BA: ĐI ĐẾN NHẤT THIẾT TRÍ

KINH: Tu-bồ-đề bạch Phật rằng: Bạch đức Thế Tôn! Các Bồ-tát hiểu Bát-nhã Ba-la-mật thâm sâu ấy sẽ đi đến chỗ nào?

Phật bảo Tu-bồ-đề: Bồ-tát hiểu Bát-nhã Ba-la-mật thâm sâu ấy sẽ đi đến trí Nhất thiết chủng.

Tu-bồ-đề bạch Phật ràng: Bạch đức Thế Tôn! Bồ-tát đến được trí Nhất thiết chủng ấy là làm chỗ hướng về cho chúng sanh tu Bát-nhã Ba- la-mật. Tu Bát-nhã Ba-la-mật là tu hết thảy pháp. Bạch đức Thế Tôn! Không có tu gì là tu Bát-nhã Ba-la-mật. Không “thọ” tu, “hoại” tu là tu Bát-nhã Ba-la-mật.

Phật bảo Tu-bồ-đề: Những pháp gì hoại nên tu Bát-nhã Ba-la-mật là hoại tu?

Bạch đức Thế Tôn! Vì sắc hư hoại nên Bát-nhã Ba-la-mật là hoại tu; vì thọ, tưởng, hành, thức, mười hai xứ, mười tám giới hư hoại nên Bát-nhã Ba-la-mật là hoại tu. Ngã cho đến kẻ biết, kẻ thấy hư hoại nên Bát-nhã Ba-la-mật gọi là hoại tu. Vì Thí Ba-la-mật hư hoại, nên Bát-nhã Ba-la-mật là hoại tu; cho đến vì Bát-nhã Ba-la-mật hư hoại nên Bát-nhã Ba-la-mật là hoại tu. Vì nội không cho đến vô pháp hữu pháp không, Bốn niệm xứ cho đến Mười tám pháp không chung, quả Tu-đà-hoàn cho đến trí Nhất thiết chủng hư hoại, nên Bát-nhã Ba-la-mật là hoại tu.

Phật dạy: Đúng vậy, đúng vậy! Tu-bồ-đề! Vì sắc hư hoại nên Bát- nhã Ba-la-mật là hoại tu; cho đến vì trí Nhất thiết chủng hư hoại nên Bát-nhã Ba-la-mật là hoại tu.

Bấy giờ, Phật bảo Tu-bồ-đề: Trong Bát-nhã Ba-la-mật thâm sâu ấy, Bồ-tát ở địa vị bất thối chuyển phải nên niệm biết. Nếu Bồ-tát không đắm trước ở trong Bát-nhã Ba-la-mật thâm sâu ấy, thì nên biết đó là địa vị bất thối chuyển; không đắm trước ở trong Thiền Ba-la-mật, cho đến Thí Ba-la-mật, không đắm trước ở trong Bốn niệm xứ cho đến trí Nhất thiết chủng, thì nên biết đó là địa vị bất thối chuyển.

LUẬN: Hỏi: Bát-nhã Ba-la-mật chẳng phải chỗ đến, chẳng chỗ không đến, cớ sao Tu-bồ-đề lại hỏi người tu Bát-nhã đi đến chỗ nào? Và cớ sao Phật đáp đi đến Nhất thiết trí?

Đáp: Ngoại đạo nói: Các pháp từ nhân đi đến quả, từ đời trước đi đến đời nay, từ đời nay đi đến đời sau. Vì phá cái điên đảo chấp thường ấy nên nói không có chỗ đến, chẳng phải không chỗ đến. Trong đây Tu- bồ-đề đem tâm vô trước mà hỏi, Phật lấy tâm vô trước mà đáp. Bát-nhã Ba-la-mật rốt ráo không, đối với các pháp không chướng, không ngại, được sự giải thoát không chướng, không ngại, vì không chướng, không ngại có tính nhân quả tương tợ, nên nói người hiểu Bát-nhã thâm sâu đi đến trí Nhất thiết chủng. Tu-bồ-đề thưa: Vị Bồ-tát biết Bát-nhã Ba-la- mật làm chỗ hướng về cho hết thảy chúng sanh, như đứa con bị khổ não bức bách đến nương cha mẹ.

Hỏi: Cớ sao chỉ có vị Bồ-tát hiểu Bát-nhã Ba-la-mật thâm sâu là chỗ hướng về cho chúng sanh?

Đáp: Vì Bồ-tát có tâm đại bi đối với chúng sanh, nên thường tu tập Bát-nhã Ba-la-mật. Vì tu Bát-nhã nên có thể hiểu hết thảy pháp, đều thu vào Bát-nhã Ba-la-mật; thế nên, tu Bát-nhã Ba-la-mật tức là tu hết thảy pháp. Vì Bát-nhã Ba-la-mật không có thật pháp nhất định có thể thủ đắc, nên trong kinh nói không có tu gì là tu Bát-nhã Ba-la-mật. Trong Bát- nhã Ba-la-mật hết thảy cách quán sát đều có lỗi nên không “thọ”, ấy là không “thọ” tu. “hoại” tu là vì hết thảy pháp vô thường tán hoại nên gọi là “hoại” tu. Pháp có thể phá hoại là sắc cho đến trí Nhất thiết chủng. Phật chấp nhận lời của Tu-bồ-đề nói. Cuối phẩm trên có nói tánh, tướng, dung mạo của vị Bồ-tát bất thối chuyển, nay nên thí nghiệm biết, đối với Bát-nhã Ba-la-mật thâm sâu có đắm trước hay không? Nếu có đắm trước thì sai, nếu không có đắm trước thì đúng tướng nó. Bồ-tát tu Bát-nhã Ba-la-mật có hai hạng: 1. Nhơn Bát-nhã Ba-la-mật, quán hết thảy pháp rốt ráo không, Bát-nhã cũng tự không. 2. Không thể quán Bát-nhã cũng không, nên trong kinh nói thí nghiệm biết có đắm trước hay không.

KINH: Nếu có Bồ-tát ở địa vị bất thối chuyển, khi tu hành Bát-nhã Ba-la-mật thâm sâu, không cho lời người khác nói làm cương yếu, cũng không theo người khác chỉ dạy tu hành thì vị Bồ-tát bất thối chuyển không bị dục tâm, sân tâm, si tâm trói buộc. Nếu vị Bồ-tát bất thối chuyển thì không xa lìa sáu Ba-la-mật; nếu vị Bồ-tát bất thối chuyển khi nghe nói Bát-nhã Ba-la-mật thâm sâu, thì tâm không kinh, không mất, không sợ, không hãi, không hối hận, mà hoan hỷ ưa nghe, thọ trì, đọc tụng, nhớ nghĩ đúng, tu hành đúng như kinh nói. Tu-bồ-đề! Nên biết Bồ-tát ấy đời trước đã nghe nghĩa lý trong Bát-nhã Ba-la-mật thâm sâu, đã thọ trì, đọc tụng, giảng nói, nhớ nghĩ đúng. Vì sao? Vì Bồ-tát ấy có oai đức lớn nên nghe Bát-nhã Ba-la-mật thâm sâu ấy, tâm không kinh, không mất, không sợ, không hãi, không hối hận mà hoan hỷ ưa nghe, thọ trì, đọc tụng, nhớ nghĩ đúng.

Tu-bồ-đề bạch Phật rằng: Bạch đức Thế Tôn! Nếu Bồ-tát nghe Bát-nhã Ba-la-mật thâm sâu, không kinh, không sợ, cho đến nhớ nghĩ đúng thì vị Bồ-tát ấy làm sao tu Bát-nhã Ba-la-mật?

Phật dạy: Tâm tùy thuận trí Nhất thiết chủng, Bồ-tát nên như vậy tu hành Bát-nhã Ba-la-mật.

Bạch đức Thế Tôn! Thế nào gọi là tâm tùy thuận trí Nhất thiết chủng, Bồ-tát nên như vậy tu hành Bát-nhã Ba-la-mật?

Phật dạy: Tùy thuận “không” là Bồ-tát tu hành Bát-nhã Ba-la-mật thâm sâu; tùy thuận vô tướng, vô tác, vô sở hữu, bất sanh, bất diệt, bất cấu, bất tịnh, Bồ-tát nên như vậy tu hành Bát-nhã Ba-la-mật. Tùy thuận như mộng, huyễn, sóng nắng, tiếng vang, biến hóa là tu hành Bát-nhã Ba-la-mật.

Tu-bồ-đề bạch Phật rằng: Phật bảo tùy thuận không, cho đến tùy thuận như mộng, như huyễn là tu hành Bát-nhã Ba-la-mật. Bạch đức Thế Tôn! Bồ-tát tu hành pháp gì? Hoặc sắc, hoặc thọ, tưởng, hành, thức cho đến trí Nhất thiết chủng?

Phật bảo Tu-bồ-đề: Bồ-tát không tu hành sắc, không tu hành thọ, tưởng, hành, thức cho đến không tu hành trí Nhất thiết chủng. Vì sao? Vì chỗ tu hành của Bồ-tát là pháp không có tạo tác, là pháp không biến hoại, không từ đâu đến, cũng không đi đâu, không chỗ trú. Pháp ấy không thể đếm, không có lường. Nếu không đếm, không lường pháp ấy không thể thủ đắc; không thể dùng sắc thủ đắc; cho đến dùng trí Nhất thiết chủng thủ đắc. Vì sao? Vì sắc tức là Nhất thiết trí, Nhất thiết trí tức là sắc cho đến trí Nhất thiết chủng tức là Nhất thiết trí; Nhất thiết trí tức là Nhất thiết chủng. Sắc “Như tướng” cho đến trí Nhất thiết chủng “Như tướng” đều là nhất như, không hai, không khác.

LUẬN: “Giải thích”: Bồ-tát bất thối chuyển là, đối với lời nói của người khác, không sanh niệm cho là có thật, không thật. Vì sao? Vì người khác có hai hạng: Hạng tại gia đắm trước cái vui năm dục, hư dối, bất tịnh; hàng ngoại đạo xuất gia đắm trước tà kiến bất thật. Những điều hai hạng ấy nói đều không có thật sự nên không tin. Vì người tự chứng đắc thực tướng các pháp, nên dù có Phật thân hiện đến nói lời phá hoại thật tướng các pháp cũng chẳng tin. Vì chứng được pháp vô vi nên tâm an trụ, không còn di chuyển. Bồ-tát ấy tuy chưa được Phật đạo mà vì các phiền não tham dục v.v… đã bị chẻ mỏng nên không bị lôi kéo. Vì tâm thường không lìa sáu Ba-la-mật, biết khí vị quả báo của thiện pháp nên tâm thường ưa vui không lìa sáu Ba-la-mật.

Có các nhân duyên như vậy, nên nghe Bát-nhã thâm sâu, không sợ, không hãi, hoan hỷ muốn nghe, đọc tụng, hỏi nghĩa, tu tập. Như sấm sét thì chim nhỏ, sợ hãi, rầu chết, còn chim lớn Khổng tước vui mừng, nhảy nhót. Bát-nhã Ba-la-mật cũng như vậy, người tà kiến nghe thấy sợ hãi, vị Bồ-tát bất thối chuyển nghe thì vui mừng, tâm không nhàm chán, không biết đủ; nên nói là vui mừng muốn nghe.

Trong đây Phật nói nhân duyên: Bồ-tát ấy ở đời quá khứ đã nghe Bát-nhã Ba-la-mật thâm sâu, đã chứa nhiều phước đức, trí tuệ nên có oai đức lớn. Có oai đức lớn nên không sợ hãi.

Tu-bồ-đề hỏi: Bồ-tát ấy nghe Bát-nhã Ba-la-mật thâm sâu tuy không sợ hãi, nhưng Bát-nhã không có định tướng nên tu hành thế nào?

Phật dạy: Tâm tùy thuận trí Nhất thiết chủng.

Hỏi: Bồ-tát ấy chưa được trí Nhất thiết chủng, làm sao tùy thuận?

Đáp: Thế nên nói tâm tùy thuận rốt ráo không, tức là tâm tùy thu- ận trí Nhất thiết chủng. Trí Nhất thiết chủng là tướng tịch diệt. Ở trong phẩm sau Phật dạy hết thảy tướng tịch diệt là trí Nhất thiết chủng, thế nên nói tùy thuận rốt ráo không, tức là tùy thuận trí Nhất thiết chủng. Tùy thuận vô tướng, vô tác, hư không, bất sanh, bất diệt, bất cấu, bất tịnh, như mộng cũng như vậy.

Tu-bồ-đề hỏi: Tâm tùy thuận rốt ráo không, quán pháp gì?

Phật đáp: Không quán sắc cho đến trí Nhất thiết chủng. Vì sao? Vì trí tuệ muốn cầu sự thật, mà sắc v.v… là pháp hữu vi tạo tác đều hư dối; trí Nhất thiết chủng là thật pháp. Thật pháp nên vượt quá pháp hữu vi; vì vượt quá pháp hữu vi nên nói pháp ấy là pháp vô tác, vô tác giả, không biến hoại. Không biến hoại là pháp ấy không từ sáu Ba-la-mật đến, nên nói không từ đâu đến. Không đi vào trong Phật pháp nên nói rằng không đi đến đâu. Pháp hữu vi vì hư dối nên không trụ; trong pháp vô vi vì không có ức tưởng phân biệt nên cũng không trụ. Vì năm uẩn hòa hợp nên có số lượng sáu đường, vì hư hoại năm uẩn tương tục nên vô lượng vô số. Vì vô lượng vô số nên đường ngôn ngữ dứt, vì đường ngôn ngữ dứt nên không thể do tu hành sắc pháp v.v… mà ngộ được. Trong đây Phật tự nói nhân duyên: Các pháp sắc v.v… tức là Nhất thiết trí, Nhất thiết trí tức là các pháp sắc v.v… Vì sao? Vì các pháp sắc như v.v… tức là Nhất thiết trí như; Nhất thiết trí như tức là các pháp sắc như v.v… vì vậy, nên nói như ấy là không hai, không khác.