LUẬN
ĐẠI TRÍ ĐỘ

Nguyên tác: Bồ tát Long Thọ
Hán dịch: Pháp sư Cưu Ma La Thập
Việt dịch: Tỳ kheo ni THÍCH NỮ DIỆU KHÔNG

 

TẬP IV
QUYỂN 79

Phẩm thứ sáu mươi lăm
(Tiếp theo)
Độ Hư Không

(Tiếp theo)

KINH:

Này Tu Bồ Đề ! Bồ Tát thành tựu 2 pháp, khiến ác ma chẳng phá hoại được. Đó là:

  1. Quán hết thảy pháp không.
  2. Chẳng xả bỏ hết thảy chúng sanh.

Bồ Tát lại thành tựu 2 pháp nữa, khiến ác ma chẳng phá hoại được. Đó là ;

  1. Làm đúng như nói.
  2. Được chư Phật hộ niệm.

Này Tu Bồ Đề ! Bồ Tát hành như vậy, nên chư Thiên đến thân cận, thăm hỏi, và thưa rằng : Chẳng bao lâu nữa ngài sẽ được Vô Thượng Bồ Đề, nên ngài phải hành “không, vô tướng và vô tác”.

Vì sao ? Vì hành các hạnh đó, ngài sẽ hộ cho những chúng sanh chẳng được hộ; sẽ làm chỗ y chỉ; cho những chúng sanh chẳng có chỗ y chỉ; sẽ cứu những chúng sanh chẳng được cứu; sẽ làm con đường cứu cánh cho những chúng sanh chẳng có chỗ cứu cánh; sẽ làm chỗ quy y cho những chúng sanh chẳng có chỗ quy y; sẽ làm chỗ cồn đảo cho những chúng sanh chẳng có nơi trú ngụ; sẽ làm đuốc sáng cho những chúng sanh mê muội; sẽ làm đôi mắt sáng cho những chúng sanh bị đui mù.

Bồ Tát hành Bát Nhã Ba La Mật như vậy. Chư Phật trong khắp cả 10 phương, khi thuyết pháp trước đại chúng, đều xưng dương và tán thán danh tánh của vị Bồ Tát ấy.

Vì sao ? Vì do hành Bát Nhã Ba La Mật như vậy, mà Bồ Tát ấy thành tựu được vô lượng công đức, khiến hạt giống Phật chẳng đoạn dứt.

Này Tu Bồ Đề ! Như khi ta thuyết pháp trước đại chúng, ta cũng xưng dương và tán thán danh tánh của Bồ Tát Bảo Tướng, Bồ Tát Thi Khí… Lại nữa, ở thế giới Phật A Súc Bệ, có những Bồ Tát hành Bát Nhã Ba La Mật, tịnh tu phạm hạnh, ta cũng xưng dương và tán thán các Bồ Tát ấy. Ở các thế giới Phật về 4 phương Đông, Tây, Nam và Bắc, về 2 phương Trên và Dưới, về 4 phương chéo, ta cũng làm như vậy.

Lại nữa, này Tu Bồ Đề ! Có Bồ Tát, từ sơ phát tâm, đã muốn được đầy đủ Phật đạo, muốn được nhất thiết chủng trí, nên khi chư Phật thuyết pháp thường xưng dương và tán thán các Bồ Tát ấy.

Vì sao ? Vì do hành Bát Nhã Ba La Mật như vậy, mà các Bồ Tát ấy thành tựu được vô lượng công đức, khiến giống Phật chẳng đoạn dứt.

Ngài Tu Bồ Đề bạch Phật : Bạch Thế Tôn ! Những Bồ Tát nào được chư Phật, khi thuyết pháp, xưng dương và tán thán ?

Phật dạy : Này Tu Bồ Đề ! Đó là các vị Bồ Tát bất thối chuyển.

Ngài Tu Bồ Đề bạch Phật : Bạch Thế Tôn ! Bồ Tát bất thối chuyển nào được chư Phật xưng dương và tán thán ?

Phật dạy : Này Tu Bồ Đề ! Tu tập như đức Phật A Súc Bệ khi còn là Bồ Tát. Chư Bồ Tát bất thối chuyển cũng phải tu tập như vậy. Chư Bồ Tát bất thốĩ chuyển này được chư Phật, khi thuyết pháp xưng dương và tán thán.

Lại nữa, này Tu Bồ Đề ! Có Bồ Tát hành Bát Nhã Ba La Mật, dù chưa được vô sanh pháp nhẫn, nhưng đã tín giải hết thảy pháp vô sanh, tín giải hết thảy pháp không, biết rõ hết thảy pháp đều là hư vọng, đều chẳng thật có, đều chẳng kiên cố.

Này Tu Đồ Đề ! Các Bồ Tát này được chư Phật, khi thuyết pháp, xưng dương và tán thán.

Này Tu Bồ Đề ! Nếu có Bồ Tát nào được chư Phật, khi thuyết pháp xưng dương và tán thán, thì phải biết vị Bồ Tát ấy đã diệt hẳn tâm Thanh Văn và tâm Bích Chi Phật, sẽ được thọ ký Vô Thượng Bồ Đề.

Này Tu Bồ Đề ! Bồ Tát nào được chư Phật, khi thuyết pháp, xưng dương và tán thán, sẽ được an trú trong Bất Thối Chuyển địa; trú ở địa này rồi sẽ được nhất thiết chủng trí.

Lại nữa, này Tu Bồ Đề ! Nếu có Bồ Tát nào nghe thâm Bát Nhã Ba La Mật, mà tâm được bừng sáng, chẳng nghi, lại tự niệm rằng, “Sự việc như vậy, nên Phật nói ra đúng như vậy”, thì phải biết vị Bồ Tát ấy đã được nghe Phật A Súc cùng hàng Bồ Tát rộng nói về Bát Nhã Ba La Mật. Nghe xong, Bồ Tát ấy liền tín giải, rồi đúng như thuyết tu hành, dẫn đến an trú trong Bất Thối Chuyển địa.

Này Tu Bồ Đề ! Chỉ nghe Bát Nhã Ba La Mật đã được nhiều lợi ích, huống nữa là còn tín giải và đúng như thuyết tu hành. Người nghe, rồi tín giải, đúng như thuyết tu hành sẽ được bất thối chuyển … dẫn đến sẽ được nhất thiết chúng trí.

Ngài Tu Bồ Đề bạch Phật : Bạch Thế Tôn ! Phật dạy, “Nếu Bồ Tát đúng như thuyết mà trú, đúng như thuyết mà hành, thì đó là trú trong nhất thiết chủng trí”. Như vậy, nếu Bồ Tát chẳng đắc hết thảy pháp, thì làm sao mà trú trong nhất thiết chủng trí được?

Phật dạy : Này Tu Bồ Đề ! Bồ Tát trú trong pháp “như” là trú trong nhất thiết chủng trí.

Ngài Tu Bồ Đề bạch Phật : Bạch Thế Tôn ! Trừ “như” ra, thì chẳng có pháp nào khả đắc. Như vậy, thì ai trú trong “như”, và trú trong “như” rồi sẽ được Vô Thượng Bồ Đề; ai trú trong “như” để thuyết pháp ? “Như” còn bất khả đắc; huống nữa là trú trong “như” sẽ được Vô Thượng Bồ Đề, nên chẳng có ai trú trong “như” để thuyết pháp vậy.

Phật dạy : Đúng như vậy, đúng như vậy ! Này Tu Bồ Đề ! Trừ “như” ra, thì chẳng có pháp nào khả đắc cả. Chẳng ai trú trong như; chẳng ai trú trong như rồi sẽ được Vô Thượng Bồ Đề; chẳng ai trú trong như rồi sẽ thuyết pháp. “Như” là bất khả đắc, huống nữa là trú trong như mà sẽ được Vô Thượng Bồ Đề.

Vì sao ? Vì “như là chẳng sanh, chẳng trú, chẳng dị, chẳng diệt. Nếu pháp “như” là chẳng sanh, chẳng trú, chẳng dị, chẳng diệt, thì chẳng ai có thể trú trong như, chẳng ai có thể trú trong như rồi sẽ được Vô Thượng Bồ Đề; chẳng ai có thể trú trong như rồi sẽ thuyết pháp vậy.

Lúc bấy giờ, ngài Thích Đề Hoàn Nhơn bạch Phật : Bạch Thế Tôn ! Chư đại Bồ Tát làm việc rất khó làm, đó là trú trong thâm Bát Nhã Ba La Mật, mà muốn được Vô Thượng Bồ Đề. 

Vì sao ? Vì trong “như” chẳng có người trú, chẳng có người trú rồi sẽ được Vô Thượng Bồ Đề, chẳng có người trú rồi sẽ thuyết pháp. Chư đại Bồ Tát, ở nơi đây, chẳng sanh tâm sợ hãi, chẳng nghi ngờ, chẳng chìm đắm.

Ngài Tu Bồ Đề nói : Thưa ngài Kiều Thi Ca ! Ngài nói đại Bồ Tát làm các việc rất khó làm. Ở trong thâm pháp đó mà Bồ Tát chẳng sợ hãi, chẳng nghi ngờ, chẳng chìm đắm.

Thưa ngài Kiều Thi Ca ! Trong các pháp không, thì có ai sợ hãi, có ai nghi ngờ, có ai chìm đắm chăng ?

Ngài Thích Đề Hoàn Nhơn đáp : Thưa ngài Tu Bồ Đề ! Ngài chỉ thuyết về pháp “không”, nên chẳng có gì chướng ngại. Ví như hướng lên không trung mà bắn tên, thì các mũi tên bay đi chẳng có gì chướng ngại. Ngài Tu Bồ Đề thuyết pháp “không” cũng được vô ngại vậy.

LUẬN:

Trong chúng hội có nhiều người khởi tâm nghi, chẳng hiểu vì nhân duyên gì mà Bồ Tát có đại lực, khiến chúng ma chẳng phá hoại được, Phật nêu lên 2 nhân duyên làm cho Bồ Tát có đại lực, khiến các ác ma chẳng phá hoại được. Đó là :

  1. Bồ Tát thường quán các pháp không.
  2. Bồ Tát chẳng xả bỏ chúng sanh.

Phải có đủ mặt trời lẫn mặt trăng, thì vạn vật mới sanh trưởng được. Nếu chỉ có mặt trăng, mà chẳng có mặt trời, thì vạn vật sẽ bị ẩm ướt, khiến phải bị hư hoại. Nếu chỉ có mặt trời mà chẳng có mặt trăng, ,thì vạn vật sẽ bị thiêu cháy, khiến phải bị hư hoại.

Nếu mặt trăng và mặt trời hòa hợp, thì vạn vật mới được thấm nhuần lợi lạc.

Cũng như vậy, trong khi hành Bồ Tát đạo, Bồ Tát phải khéo hòa hợp “bi tâm” và “không tâm” mới đem lại đại lợi ích cho chúng sanh.

Có “bi tâm” mới lân mẫn chúng sanh, mới thệ nguyện độ hết thảy chúng sanh. Có “không tâm” mới diệt được tâm chấp có lân mẫn, có độ thoát chúng sanh. Vì sao ? Vì nếu chỉ có “bi tâm” mà chẳng có “không tâm”, chẳng dùng trí huệ để xả tâm chấp có lân mẫn, có cứu độ chúng sanh thì sẽ rơi về đoạn diệt. Bởi vậy nên Phật dạy, “Phải song tu cả 2 tâm”, nghĩa là phải thường quán hết thảy pháp đều là không, mà chẳng rời bỏ chúng sanh. Tuy lân mẫn chúng sanh, mà chẳng rồi bỏ hết thảy pháp không; tuy quán hết thảy pháp không, mà chẳng chấp không; vì chẳng chấp không, nên chẳng ngại việc lân mẫn chúng sanh.

Lại nữa, quán lân mẫn chúng sanh, mà chẳng chấp chúng sanh, chẳng chấp tướng chúng sanh, mà chỉ vì lân mẫn chúng sanh, muốn dẫn dắt chúng sanh vào nơi thật tướng pháp, vào nơi rốt ráo không.

Bởi vậy nên, tuy hành “bi tâm”, lân mẫn chúng sanh, mà chẳng ngăn ngại “không tâm”; tuy hành “không tâm”, mà chẳng chấp “không”, nên chẳng ngăn ngại “bi tâm”, chẳng ngăn ngại việc lân rnẫn chúng sanh. Ví như mặt trăng và mặt trời hòa hợp với nhau khiến vạn vật được sanh tồn và tăng trưởng vậy.

Chư Thiên cũng như chư Thần thường khinh dễ người nói dối, người làm các việc chẳng đúng như lời nói. Còn Bồ Tát thì y như chỗ nói mà hành, nên chấp Kim Cang Thần thường thủ hộ, khiến các ác ma chẳng tìm được chỗ tiện để gây tác hại. Các ác ma thường sanh ác tâm, phá hoại tâm của người hành Bồ Tát đạo. Nếu Bồ Tát chẳng nhờ chư Phật hộ niệm, thì các ác ma có thể đến quấy nhiễu, khiến thiện căn của Bồ Tát bị hư nát vậy. Ví như trứng cá, nếu chẳng được cá mẹ lo lắng chăm sóc, thì cũng sẽ bị hư thối, chẳng nở thành cá con được.

Bởi vậy nên nói, “Nếu Bồ Tát y như chỗ nói mà hành, thì được chư Phật hộ niệm”. Bồ Tát hành Bát Nhã Ba La Mật như vậy, nên được Bát Nhã Ba La Mật công đức, chẳng bị phá hoại, được trí huệ tăng trưởng, được chư Thiên thân cận, thăm hỏi, và khuyến dụ rằng, “Ngài sắp được Vô Thượng Bồ Đề.  Bởi vậy nên ngài phải thường hành không, vô tướng và vô tác”.

Hỏi : Chư Thiên chưa được nhất thiết trí, làm sao có thể tham dự việc thọ ký cho Bồ Tát ?

Đáp : Chư Thiên ở cõi trời Trường Thọ Thiên, ở trong quá khứ, đã được nghe nói, “Hành Bát Nhã Ba La Mật như vậy là nhân duyên dẫn đến việc được thọ ký”. Nay chư Thiên thấy có Bồ Tát có hạnh như vậy, có nhân tu như vậy, nên biết rõ các vị Bồ Tát ấy sẽ được thọ ký.

Chư Thiên thấy các vị Bồ Tát ấy hành 3 giải thoát môn, là 3 pháp ấn, lại thường hành từ bi tâm đối với hết thảy chúng sanh, nên tán thán rằng, “Chẳng bao lâu nữa ngài sẽ thành Phật. Ngài sẽ hộ những chúng sanh chẳng được hộ; sẽ làm chỗ y chỉ cho những chúng sanh chẳng có chỗ y chỉ; sẽ làm chỗ quy y cho những chúng sanh chẳng có chỗ quy y v.v…

Nếu Bồ Tát nào thường hành thâm Bát Nhã Ba La Mật như vậy, thì sẽ được chư Thiên hộ niệm; được chư Phật, khi thuyết pháp, xưng dương và tán thán danh tánh. Ví như trường hợp Bồ Tát Bảo Tướng, và Bồ Tát Thi Khí đã được Phật Thích Ca Mưu Ni, khi thuyết pháp, xưng dương và tán thán vậy. Ở thế giới Phật A Súc Bệ, cũng như ở các thế giới Phật khác ở khắp trong 10 phương, cũng có những vị Bồ Tát hành thâm Bát Nhã Ba La Mật như vậy, và cũng được các đức Phật khi thuyết pháp xưng dương và tán thán như vậy. Do các vị Bồ Tát ấy hành đúng như chỗ nói, nên danh tánh được chư Phật, khi thuyết pháp, nêu lên để làm thí dụ, “Ở thế giới Phật đó … có vị Bồ Tát đó … tuy chưa thành Phật, mà đã hành thâm Bát Nhã Ba La Mật như vậy. Thật là rất ít có ! “

Ví như viên đại tướng chẳng tiếc thân mạng, xông pha vào giữa trận mạc dẹp phá quân địch, nên thường được vị quốc vương xưng dương và tán thán. Cũng như vậy, Bồ Tát thường quán các pháp không, dùng lực phương tiện Bát Nhã Ba La Mật tận dẹp các phiền não mà chẳng tác chứng Niết Bàn, ra vào sanh tử để cứu độ chúng sanh mà chẳng tiếc thân mạng, nên được chư Phật xưng dương và tán thán danh tánh vậy.

Tuy các đức Phật chẳng có tâm chấp đắm, chẳng phân biệt thiện pháp hay bất thiện pháp; đối với chư Thanh Văn, chư Bích Chi Phật, cũng như đối với hàng ngoại đạo chẳng có thương ghét; nhưng vì lợi ích cho chúng sanh, mà thường tán thán thiện nhân, xưng dương thiện pháp. Vì sao? Vì muốn chúng sanh y nơi người có thiện tâm, tùy thiện pháp mà tu tập, nhằm vượt ra khỏi ngục tù 3 cõi.

Hỏi : Kinh nào nói chư Phật, chư đại Bồ Tát tán thán và xưng dương các vị Bồ Tát ấy ?

Đáp : Sự việc này được nói trong kinh Vô Lượng. Thế nhưng, sau khi Phật nhập Niết Bàn, có các vị vua tàn ác, tà kiến đem đốt phá rất nhiều kinh điển, phá hoại rất nhiều pháp tự, giết hại rất nhiều Sa Môn, nên 500 năm sau, vào thời Tượng Pháp, có rất ít các vị đắc A La Hán có đầy đủ thần thông, cũng như có rất ít các vị đại Bồ Tát hành thâm Bát Nhã Ba La Mật.

Bởi vậy nên các thâm kinh chẳng còn đủ ở cõi Diêm Phù Đề, người tu thọ trì, và hành thâm pháp cũng rất ít, khiến chư Thiên Long, Thiên Thần Hộ Pháp phải đem các thâm kinh cất giữ ở cõi khác.

Hỏi : Vì sao chẳng tán thán các đại Bồ Tát như Phổ Hiển, Quán Âm, Thế Chí, Văn Thù, Di Lặc …. mà chỉ tán thán 2 vị Bồ Tát Bảo Tướng và Thi Khí ?

Đáp : 2 vị Bồ Tát ấy; tuy chưa được vô sanh pháp nhẫn, mà thường hành pháp tương tợ như Bồ Tát đã được vô sanh pháp nhẫn. Vì hai Bồ Tát ấy hành pháp như vậy, nên ma chẳng thể phá hoại tâm của các vị ấy. Do vậy, mà được Phật tán thán.

Lại nữa, vì 2 vị Bồ Tát ấy phát đại nguyện thanh tịnh hành thâm Bát Nhã Ba La Mật, và phát tâm đại bi vô kỳ hạn, nên sẽ mau được thành Phật, độ thoát chúng sanh. Do vậy, mà được Phật tán thán.

Lại nữa, chư đại Bồ Tát, Phổ Hiền, Quan Âm, Thế Chí. v.v…, tuy có công đức vô lượng, nhưng công đức và danh tánh của các ngài đều được chúng sanh cõi Diêm Phù Đề biết đến, nên Phật chẳng nói đến.

Còn 2 vị Bồ Tát ấy chưa ai biết đến, nên Phật mới tán thán vậy. Phật nói thêm rằng, ở thế giới Phật A Súc, cũng như ở các thế giới Phật trong khắp 10 phương, có những vị Bồ Tát, từ sơ phát tâm đã muốn được đầy đủ Phật đạo, muốn được nhất thiết chủng trí, thường tu phạm hạnh, thường hành Bát Nhã Ba La Mật, nên được chư Phật, khi thuyết pháp, xưng dương và tán thán. Các vị Bồ Tát ấy làm những việc khó làm như vậy, khiến hạt giống Phật chẳng đoạn dứt, nên được chư Phật xưng dương danh tánh và tán thán công đức vậy.

Hỏi : Phật đã nêu những trường hợp Bồ Tát được chư Phật xưng dương và tán thán rồi. Vì sao ngài Tu Bồ Đề còn hỏi, “Những Bồ Tát nào được chư Phật, khi thuyết pháp, xưng dương và tán thán” ?

Đáp : Lúc ban đầu, Phật nói đến các vị đại Bồ Tát, rồi sau đó Phật nói đến hết thảy các Bồ Tát, từ sơ phát tâm … dẫn đến thập địa, nên ngài Tu Bồ Đề sanh nghi mà hỏi như trên.

Phật ái niệm hết thảy các Bồ Tát, nhưng các vị Bồ Tát nào có công đức thù thắng hơn, thì Phật mới xưng dương danh tánh, và tán thán công đức. Ví như, ở thế giới Phật A Súc Bệ có những Bồ Tát, từ sơ phát tâm đã thường tịnh tu phạm hạnh; ở các thế giới Phật khác trong khắp 10 phương cũng có những vị Bồ Tát, từ khi sơ phát tâm tịnh tu phạm hạnh như vậy, nên được chư Phật xưng dương và tán thán.

Lại nữa, có những vị Bồ Tát, tuy chưa vào được vô sanh pháp nhẫn, chưa vào được Bồ Tát vị, nhưng nhờ hành Bát Nhã Ba La Mật mà thường tư duy, trù lượng, cầu thật tướng pháp, thường tín giải nhẫn pháp, thông đạt hết thảy pháp không, biết rõ sanh tướng là hư vọng, là chẳng kiên cố. Các vị Bồ Tát như vậy đều được chư Phật xưng dương và tán thán.

Lại nữa, khi mới tu tập, Bồ Tát còn thấy 3 giải thoát môn “không, vô tướng và vô tác” có sai khác; khi đã vào được thật tướng pháp rồi, biết rõ hết thảy pháp đều là vô sanh, thì đoạn được hết các quán môn. Khi mới được nhu thuận nhẫn, chưa vào được vô sanh pháp nhẫn, Bồ Tát mới chỉ ra khỏi phàm phu pháp; tuy đã tín giải và thọ Thánh pháp, nhưng chưa vào được Thánh vị. Bởi vậy nên Phật tán thán Bồ Tát vào được Thánh pháp như vậy thật là rất ít có; Bồ Tát ấy đã được bất thối chuyển, đã đoạn dứt Nhị Thừa tâm, được Phật dự thọ ký. Những Bồ Tát, dù chưa được vô sanh pháp nhẫn, nhưng đã có được trí huệ lực của bậc Bồ Tát bất thối chuyển, có thắng tín lực cũng được Phật xưng dương và tán thán.

Hết thảy các Bồ Tát nói trên đây nghe thuyết Bát Nhã Ba La Mật rồi, liền minh liễu, chẳng có nghi, chẳng có sợ, vì tự niệm rằng, “Sự việc như vậy, nên Phật nói ra đúng như vậy”.

Hỏi : Vì sao có những vị Bồ Tát đã thâm tín giải Bát Nhã Ba La Mật, mà còn theo đức Phật A Súc Bệ để được nghe nữa ?

Đáp : Những vị Bồ Tát ấy, từ khi mới hành Bồ Tát đạo, đã theo Phật A Súc Bệ tu tập, hành thanh tịnh phạm hạnh. Những Bồ Tát ấy thường chẳng rời Phật A Súc Bệ, để học theo hạnh của ngài, nên được tín lực và trí huệ lực của bậc Bồ Tát bất thối chuyển; dù chưa được vô sanh pháp nhẫn, nhưng cũng được Phật xưng dương và tán thán.

Phật dạy rằng, “Những người nghe Bát Nhã Ba La Mật mà còn được đại lợi ích như vậy, huống nữa là người tín thọ, đúng như thuyết tu hành Bát Nhã Ba La Mật. Những người như vậy sẽ được nhất thiết chủng trí, sẽ được Vô Thượng Bồ Đề.

—oOo—

Ngài Tu Bồ Đề hỏi : Nếu hết thảy pháp đều là không tướng, đều là bất khả đắc, thì vì sao nói Bồ Tát trú trong “như” tức là trú trong nhất thiết chủng trí ?

Phật dạy : Bồ Tát trú trong “như”, mà “như” là không; trú trong “như” là trú trong rốt ráo không. Bởi vậy nên nói Bồ Tát trú trong “như” là trú trong nhất thiết chủng trí.

Ngài Tu Bồ Đề lại hỏi : Trừ “như” ra, thì chẳng có pháp nào khả đắc cả. Như vậy thì ai trú trong “như” sẽ được Vô Thượng Bồ Đề ? Thật là vô lý vậy.

Phật ấn chứng lời nói của ngài Tu Bồ Đề : “Như” là không, vì trong “như” chẳng có các tướng “sanh, trú, dị, diệt’’. Nếu chẳng có các tướng “sanh, trú, dị diệt”, thì chẳng có ai trú trong như; chẳng có ai trú trong như rồi sẽ được Vô Thượng Bồ Đề; chẳng ai trú trong như, rồi sẽ thuyết pháp vậy. “Như” đã là bất khả đắc rồi, huống nữa là trú trong “như” để được Vô Thượng Bồ Đề, để thuyết pháp.

—oOo—

Lúc bấy giờ, ngài Thích Đề Hoàn Nhơn, do còn chấp Bát Nhã Ba La Mật là có định tướng, nên khi nghe Phật và ngài Tu Bồ Đề nói Bát Nhã Ba La Mật là vô tướng, là bất khả đắc, liền bạch Phật rằng.: Thật là hy hữu ! Bát Nhã Ba La Mật rất thậm thâm. Bồ Tát làm việc rất khó làm, đó là trú trong Bát Nhã Ba La Mật, mà muốn được Vô Thượng Bồ Đề.

Vì sao ? Bát Nhã Ba La Mật là “như”, mà “như” là rốt ráo không; ở trong “như” chẳng có người trú, chẳng có người trú rồi sẽ được Vô Thượng Bồ Đề, chẳng có người trú rồi sẽ thuyết pháp, chẳng có chúng sanh để độ, chẳng có việc độ chúng sanh, chẳng có việc đưa chúng sanh vào Niết Bàn, vì hết thảy các pháp tướng là thường trú, là “như tướng” vậy.

Bồ Tát nghe như vậy mà chẳng nghi, chẳng sợ là việc rất khó làm. Bồ Tát tuy biết rõ hết thảy pháp là rốt ráo không, mà vẫn cầu Vô Thượng Bồ Đề, vẫn tinh tấn tu tập Bát Nhã Ba La Mật, chẳng ngưng nghỉ, thật là việc rất khó làm vậy.

Ngài Tu Bồ Đề nói với vị Đế Thích : Nếu các pháp đều là không, là vô sở hữu, thì chẳng có gì để nghi, chẳng có gì để sợ. Như vậy thì chẳng có gì gọi là việc khó làm cả.

Vị Đế Thích hoan hỷ dấy niệm rằng : Ngài Tu Bồ Đề ưa nói pháp không; những gì ngài nói ra đều y nơi pháp không. Tuy nói có sắc, có các sự việc, mà pháp nghĩa đều dẫn đến “không”, cho nên dù có người đến vấn nạn cũng chẳng thấy có gì ngăn ngại cả. Vì sao ? Vì pháp không cũng là không. Nếu còn đặt nghi vấn về “không”, thì cũng tức là đã phá pháp “không” rồi vậy. Bồ Tát biết rõ như vậy, nên ở nơi CÓ, cũng như ở nơi KHÔNG đều được vô ngại. Ví như bắn tên lên không trung, thì mũi tên chẳng có bị ngăn ngại. Đến khi sức đẩy yếu hẳn, thì mũi tên mới rơi trở lại mặt đất; thế nhưng đó chẳng phải là vì hư không đã cùng tận vậy.

Cũng như vậy, ngài Tu Bồ Đề nói pháp chẳng có gì ngăn ngại. Khi các nhân duyên của sự biện thuyết đã xong, thì ngài liền dứt, chẳng nói thêm nữa; thế nhưng đó chẳng phải là pháp đã tận rồi vậy.

Trên đây, mũi tên bắn lên không trung dụ cho mũi tên trí huệ của ngài Tu Bồ Đề thâm nhập vào pháp không. Nếu có người hướng mũi tên vào vách tường, thì mũi tên sẽ bị vách tường ngăn ngại, chẳng xuyên qua được, nên chẳng đi xa hơn được. Cũng như vậy, người có lợi trí, mà có tà kiến chấp, thì vẫn bị các tà kiến đó ngăn ngại, chẳng sao thông đạt được các pháp. Ngài Tu Bồ Đề thường trú trong pháp không, chẳng có gì ngăn ngại, nên thông đạt được pháp vô ngại vậy.

***

Phẩm thứ sáu mươi sáu
Chúc Lụy

(Phó Chúc)

KINH:

Lúc bấy giờ, ngài Thích Đề Hoàn Nhơn bạch Phật :

Bạch Thế Tôn ! Con đáp như vậy có phải là tùy thuận theo pháp chăng ? Có phải là chánh đáp chăng ?

Phật dạy : Này Kiều Thi Ca ! Chỗ ông đáp đó đều tùy thuận theo pháp cả.

Ngài Thích Đề Hoàn Nhơn bạch Phật : Bạch Thế Tôn ! Thật là hy hữu ! Chỗ nói của ngài Tu Bồ Đề là không, là vô tướng, là vô tác, là 4 niệm xứ… dẫn đến là Vô Thượng Bồ Đề.

Phật dạy : Này Kiều Thi Ca ! Ông Tu Bồ Đề là vị Tỷ Kheo thường hành pháp không, nên biết rõ Đàn Ba La Mật … dẫn đến Bát Nhã Ba La Mật đều bất khả đắc, huống nữa là người hành Đàn Ba La Mật … dẫn đến hành Bát Nhã Ba La Mật; biết rõ 4 niệm xứ … dẫn đến 8 thánh đạo bất khả đắc, huống nữa là người hành 4 niệm xứ … dẫn đến hành 8 thánh đạo, biết rõ thiền giải thoát tam muội bất khả đắc, 10 Phật lực bất khả đắc, 4 vô sở úy bất khả đắc, 4 vô ngại trí bất khả đắc, đại từ đại bi bất khả đắc, 18 bất cộng pháp bất khả đắc, Vô Thượng Bồ Đề bất khả đắc, nhất thiết trí bất khả đắc, huống nữa là người hành các pháp ấy; biết rõ Như Lai bất khả đắc, vô sanh pháp bất khả đắc, 32 tướng tốt bất khả đắc, 80 vẻ đẹp bất khả đắc, huống nữa là người đắc các pháp ấy … Vì sao ? Này Kiều Thi Ca ! Vị Tỷ Kheo Tu Bồ Đề ở nơi hết thảy pháp, thường hành ly, hành vô sở đắc, hành không, hành vô tướng, hành vô tác.

Này Kiều Thi Ca ! Thế nhưng, chỗ hành pháp của Tỷ Kheo Tu Bồ Đề, nếu đem so sánh với chỗ hành pháp của Bồ Tát Ma Ha Tát, thì ở trong trăm phần, ngàn phần, muôn ức phần … chẳng bằng được một; dẫn đến chẳng có toán số thí dụ nào có thể dùng để sánh được.

Vì sao ? Vì trừ công hạnh của Phật ra, thì công hạnh của Bồ Tát Ma Ha Tát, so với công hạnh của hàng Thanh Văn và Bích Chi Phật, là tối tôn, tối diệu, tối thượng. Vậy nên, Bồ Tát muốn độ hết thảy chúng sanh, muốn có công hạnh tối thượng trong hết thảy chúng sanh, thì phải hành Bát Nhã Ba La Mật.

Lúc hành Bát Nhã Ba La Mật, Bồ Tát vượt qua hàng Thanh Văn và Bích Chi Phật, nhập vào Bồ Tát vị, được đầy đủ các Phật pháp, được nhất thiết chủng trí, đoạn sạch các phiền não tập khí… dẫn đến thành tựu Phật đạo.

Lúc bấy giờ, trong chúng hội, chư thiên cõi trời Đao Lợi đem hoa mạn đà la tán Phật và chúng tăng. Lại có 800 vị Tỷ Kheo, từ tòa đứng dậy, đem hoa cúng dường Phật, trịch vai, quỳ gối, chấp tay bạch Phật rằng: Chúng con nguyện hành vô thượng hạnh, là hạnh mà hàng Thanh Văn và Bích Chi Phật chẳng có thể hành được.

Phật biết rõ tâm niệm của các vị Tỷ Kheo này, liền mỉm cười. Tức thì, từ kim khẩu của Phật phóng ra vô lượng ánh sáng đủ màu sắc như xanh, vàng, đỏ, tím, hồng…. Các quang minh đó chiếu suốt khắp cõi đại thiên thế giới, trở về diễu 3 vòng quanh Phật rồi nhập vào đảnh Phật.

Lúc bấy giờ, ngài A Nan từ tòa đứng dậy, trịch vai, quỳ gối và bạch Phật rằng: Bạch Thế Tôn ! Vì nhân duyên gì mà Thế Tôn mỉm cười ? Phật mỉm cười ắt là có đại sự nhân duyên, chẳng phải chẳng có nhân duyên vậy.

Phật dạy : Này A Nan ! 800 vị Tỷ Kheo này, trong kiếp Tinh Tú, sẽ thành Phật, đồng một hiệu là Ngũ Sắc Thiên Hoa. Chúng sanh ở thế giới các đức Phật này sẽ được thọ mạng đồng đều nhau, sau 10 vạn năm sẽ đều xuất gia làm Phật, ở thế giới các đức Phật này thường mưa hoa trời 5 sắc.

Vậy nên, Bồ Tát muốn có công hạnh tối thượng, thì phải hành Bát Nhã Ba La Mật.

Này A Nan ! Nếu có Thiện Nam, Thiện Nữ nào thường hành thâm Bát Nhã Ba La Mật, thì phải biết người ấy đời trước đã từng ở trong loài người, đã được nghe thâm Bát Nhã Ba La Mật, nên sau khi mạng chung, lại trở về đây, sanh lại làm người; hoặc từ trên cung trời Đâu Suất, đã được nghe thâm Bát Nhã Ba La Mật, nên sau khi mạng chung, về đây, sanh làm người.

Này A Nan ! Ta thấy các Bồ Tát ấy thường hành thâm Bát Nhã Ba La Mật.

Này A Nan ! Nếu có Thiện Nam, Thiện Nữ nào nghe thâm Bát Nhã Ba La Mật, liền thọ trì, đọc tụng, biên chép… dẫn đến chánh ức niệm, rồi lại đem thâm Bát Nhã Ba La Mật dạy cho người khác tu Bồ Tát đạo, thì phải biết người ấy đời trước đã từng nghe chư Phật thuyết về thâm Bát Nhã Ba La Mật, đã từng thân cận chư Phật, gieo trồng thiện căn, và tự niệm rằng “ta chẳng tu theo hạnh Thanh Văn, mà phải nghe thâm Bát Nhã Ba La Mật”

Này A nan ! Nếu có Thiện Nam, Thiện Nữ thọ trì, đọc tụng thâm Bát Nhã Ba La Mật, lại tùy nghĩa và tùy pháp hành thâm Bát Nhâ Ba La Mật, thì phải biết người ấy đã từng ở trước chư Phật, nghe thuyết thâm Bát Nhã Ba La Mật rồi vậy.

Này A Nan ! Nếu có Thiện Nam, Thiện Nữ nào nghe thâm Bát Nhã Ba La Mật mà được tín tâm thanh tịnh, thì phải biết người ấy đã từng cúng dường chư Phật, gieo trồng thiện căn và đã từng cùng chư thiện tri thức tương đắc.

Này A Nan ! Người trồng thiện căn nơi phước điền Phật, phải tu qua Thanh Văn đạo và Bích Chí Phật đạo, mà vẫn phải cầu được giải thoát, nên phải biết rõ ràng 6 hạnh Ba La Mật … dẫn đến biết rõ ràng nhất thiết chủng trí. Người ấy thường hướng về giải thoát, ắt sẽ được Vô Thượng Bồ Đề, chẳng có thể bị lạc về Thanh Văn và Bích Chi Phật địa.

Này A Nan ! Nay ta đem thâm Bát Nhã Ba La Mật phó chúc cho ông. Nếu thọ trì hết thảy các pháp khác mà có quên sót, thì chưa phải là lỗi lầm lớn. Nếu thọ trì thâm Bát Nhã Ba La Mật, mà quên sót, dù chỉ là một câu, thì đó là lỗi lầm rất lớn.

Bởi nhân duyên vậy, nên nay ta đem thâm Bát Nhã Ba La Mật này chúc lụy cho ông. Ông phải khéo thọ trì, đọc tụng.

Này A Nan ! Nếu có Thiện Nam, Thiện Nữ nào thọ trì, đọc tụng thâm Bát Nhã Ba La Mật, thì phải biết đó là người thọ trì Vô Thượng Bồ Đề của chư Phật trong 3 đời.

Này A Nan ! Người mến thích Phật, chẳng muốn xa lìa Phật, phải là người mến thích thâm Bát Nhã Ba La Mật, chẳng muốn xa lìa Bát Nhã Ba La Mật, dẫn đến một câu trong kinh Bát Nhã Ba La Mật cũng chẳng để quên sót.

Này A Nan ! Ta có nhiều nhân duyên để chúc lụy cho ông. Nhưng nay ta chỉ lược nói : Ta là Thế Tôn, thì Bát Nhã Ba La Mật cũng là Thế Tôn.

Này A Nan ! Nay ở giữa hết thảy thế gian, Trời, Người và A Tu La, ta chúc lụy cho ông : Những ai chẳng muốn xa lìa Phật, chẳng muốn xa lìa Pháp, chẳng muốn xa lìa Tăng, chẳng muốn xa lìa Vô Thượng Bồ Đề của 3 đôi chư Phật, thì phải cẩn thận chớ xa lìa Bát Nhã Ba La Mật.

Này A Nan ! Đây là chánh pháp mà ta truyền dạy cho hàng đệ tử của ta. Nếu có Thiện Nam, Thiện Nữ nào thọ trì, đọc tụng, thuyết giảng … dẫn đến chánh ức niệm thâm Bát Nhã Ba La Mật, rồi lại vì người khác rộng nói nghĩa, khai thị, phân biệt, khiến họ dễ hiểu, thì phải biết người ấy mau được Vô Thượng Bồ Đề, mau gần nhất thiết chủng trí. Vì sao ? Vì từ Bát Nhã Ba La Mật xuất sanh ra 3 đời chư Phật; xuất sanh ra Vô Thượng Bồ Đề của 3 đời chư Phật. Vô Thượng Bồ Đề của chư Phật quá khứ, hiện tại và vị lai ở trong khắp 10 phương đều từ trong Bát Nhã Ba La Mật xuất sanh ra. Bởi vậy nên muốn được Vô Thượng Bồ Đề, Bồ Tát phải học 6 pháp Ba La Mật.

Này A Nan ! Vì 6 pháp Ba La Mật là mẹ sanh ra chư Bồ Tát, nên các Bồ Tát học 6 pháp Ba La Mật sẽ được Vô Thượng Bồ Đề. Do vậy mà nay ta đem 6 pháp Ba La Mật chúc lụy thêm cho ông.

Này A Nan ! 6 pháp Ba La Mật này là pháp tạng vô tận của chư Phật. Ở hiện tại, trong khắp 10 phương, khi thuyết pháp, chư Phật đều y trong pháp tạng này mà nói ra. Chư Phật quá khứ, khi thuyết pháp, cũng đã y trong pháp tạng này mà nói ra; chư Phật vị lai, khi thuyết pháp, cũng sẽ y trong pháp tạng này mà nói ra. Chư Phật 3 đời cùng hàng đệ tử đều học theo 6 pháp Ba La Mật này mà được diệt độ; hoặc đã diệt độ, hoặc đang diệt độ, hoặc sẽ được diệt độ vậy.

Này A Nan ! Nếu ông, vì hàng Thanh Văn, mà thuyết pháp, khiến chúng sanh trong cõi đại thiên thế giới đề thành A La Hán; đó chưa phải là việc làm của đệ tử của ta. Nếu ông đem một câu trong Bát Nhã Ba La Mật, đúng như thuyết mà dạy cho hàng Bồ Tát, thì như vậy mới là việc làm của đệ tử của ta. Thấy như vậy, ta vui mừng hơn là thấy ông dạy cho chúng sanh khắp cõi đại thiên thế giới được quả A La Hán nữa.

Này A Nan ! Nếu hết thảy chúng sanh trong cõi đại thiên thế giới đều được quả A La Hán; được A La Hán rồi lại hành bố thí, trì giới, thiền định, thì công đức ấy có nhiều chăng ?

Ngài A Nan bạch Phật : Bạch Thế Tôn ! Công đức ấy rất nhiều.

Phật dạy : Này A Nan ! Công đức ấy chẳng sao bằng được công đức của người đệ tử của ta, đúng như pháp mà thuyết cho hàng Bồ Tát nghe. Dù chỉ thuyết giảng trong một ngày, trong nửa ngày, trong thời gian một bữa ăn … dẫn đến trong chốc lát, dù chỉ thuyết giảng một câu, thì cũng thành tựu được rất nhiều công đức. Vì sao ? Vì công đức của Bồ Tát này thù thắng hơn công đức của hàng Thanh Văn và Bích Chi Phật, do Bồ Tát này muốn được Vô Thượng Bồ Đề, và muốn làm lợi ích cho chúng sanh, dạy cho họ cũng được Vô Thượng Bồ Đề vậy.

Này A Nan ! Bồ Tát hành 6 pháp Ba La Mật, hành 4 niệm xứ … dẫn đến hành nhất thiết chủng trí như vậy, nên thiện căn càng lâu càng thêm tăng trưởng, ắt sẽ mau được Vô Thượng Bồ Đề.

Khi nói phẩm kinh Bát Nhã Ba La Mật này, trước đại chúng, Phật hiện thần lực biến hóa, làm cho cả đại chúng đều được thấy đức Phật A Súc, với chúng Tỷ Kheo tăng vây quanh, đang thuyết pháp, ở đây, chư Tỷ Kheo tăng nhiều vô lượng, đều là bậc lậu tận A La Hán, đều được tự tại giải thoát, tâm giải thoát, huệ giải thoát, tâm ý đã được điều phục nhu nhuyến; lại cũng có chư đại Bồ Tát đã thành tựu vô lượng công đức.

Thuyết xong, Phật lại thu nhiếp thần lực, khiến đại chúng chẳng còn thấy thế giới Phật A Súc, như trước nữa.

Lúc bây giờ, Phật bảo ngài A Nan : Này A Nan ! Chẳng phải mắt nào cũng thấy được hết thảy các pháp, mà các pháp cũng chẳng thấy nhau, chẳng biết nhau. Thế nên, thế giới của Phật A Súc và hàng đệ tử Phật chẳng còn hiện ra trước mắt ông nữa, vì các pháp chẳng thấy nhau, chẳng biết nhau vậy.

Vì sao ? Vì hết thảy pháp đều chẳng biết (vô tri), chẳng thấy (vô kiến), chẳng làm (vô tác), chẳng động (vô động), đều chẳng thể nghĩ bàn được (bất khả tư nghi) vậy.

Ví như người huyễn chẳng thọ, chẳng cảm giác, chẳng phải chân thật. Cũng như vậy, Bồ Tát hành Bát Nhã Ba La Mật chẳng chấp hết thảy pháp.

Này A Nan ! Bồ Tát học như vậy gọi là học Bát Nhã Ba La Mật.

Vì sao ? Vì học như vậy là học đến chỗ đệ nhất, tối thượng, vi diệu của sự học; học như vậy là an lạc hết thảy chúng sanh, là cứu độ những chúng sanh chẳng được ai cứu độ; học như vậy là học chỗ sở học của chư Phật. Chư Phật, trú nơi chỗ sở học đó, mà có thể dùng tay nâng cả đại thiên thế giới, rồi đặt lại chỗ cũ mà chúng sanh chẳng hay biết gì cả.

Vì sao ? Vì chư Phật, do học Bát Nhã Ba La Mật, mà thành tựu được tri kiến vô ngại nơi hết thảy các pháp ở quá khứ, ở hiện tại và ở vị lai.

Này A Nan ! Trong hết thảy các môn học, thì Bát Nhã Ba La Mật là đệ nhất, tối thượng, vi diệu.

Này A nan ! Người muốn biết Bát Nhã Ba La Mật đến tận bờ mé là người muốn biết hư không đến tận bờ mé.

Vì sao ? Vì Bát Nhã Ba La Mật là vô hạn lượng, nên chẳng có danh tự, ngữ ngôn nào có thể diễn đạt được. Bát Nhã Ba La Mật là vô hạn lượng, còn danh tự, ngữ ngôn đều là hạn lượng vậy.

Ngài A Nan bạch Phật : Bạch Thế Tôn ! Vì sao Bát Nhã Ba La Mật là vô hạn lượng ?

Phật dạy : Này A Nan ! Vì Bát Nhã Ba La Mật là vô tận, nên là vô hạn lượng. Vì Bát Nhã Ba La Mật là ly, nên là vô hạn lượng.

Này A Nan ! Chư Phật quá khứ, do học Bát Nhã Ba La Mật, mà được độ, nên Bát Nhã Ba La Mật là vô tận. Chư Phật hiện tại và vị lai cũng do học Bát Nhã Ba La Mật, mà đang được độ, sẽ được độ, nên Bát Nhã Ba La Mật là vô tận.

Này A Nan ! Như hư không chẳng cùng tận, Bát Nhã Ba La Mật cũng chẳng cùng tận, 5 Ba La Mật kia … dẫn đến nhất thiết chủng trí cũng chẳng cùng tận.

Vì sao ? Vì hết thảy pháp đều là vô sanh; mà đã là vô sanh, thì cũng tức là vô tận vậy.

Lúc bấy giờ, Phật hiện tướng lưỡi rộng dài, trùm cả mặt, và bảo ngài A Nan rằng : Từ nay, ở giữa 4 chúng, ta sẽ thuyết giảng rộng rãi Bát Nhã Ba La Mật, khai thị, phân biệt, khiến tất cả đều hiểu được đễ dàng.

Vì sao ? Vì thâm Bát Nhã Ba La Mật rộng nói hết thảy các pháp tướng. Người cầu Thanh Văn đạo … dẫn đến người cầu Phật đạo đều cần phải học; và học ở trong đó, tất cả đều được thành tựu.

Này A Nan ! Thâm Bát Nhã Ba La Mật này nhiếp hết thảy các “tự môn”; hành thâm Bát Nhã Ba La Mật sẽ vào được các đà la ni môn; Bồ Tát được các đà la ni môn rồi, sẽ được biện tài vô ngại.

Này A Nan ! Bát Nhã Ba La Mật là diệu pháp của chư Phật trong 3 đời. Bởi vậy nên ta, vì ông, giảng dạy rõ ràng rằng, “Nếu có người nào thường thọ trì, đọc tụng, biên chép thâm Bát Nhã Ba La Mật này, thì phải biết đó là người thường thọ trì Vô Thượng Bồ Đề, là pháp tạng của chư Phật trong 3 đời”.

Này A Nan ! Ta nói Bát Nhã Ba La Mật là đôi chân của người tu hành; người thọ trì Bát Nhã Ba La Mật là người vào được các đà la ni, thọ trì được hết thảy các pháp.

LUẬN:

Hỏi: Vì sao vị Đế Thích hỏi Phật rằng, “Những lời ông đáp có tùy thuận theo pháp, có phải là chánh đáp chăng” ? Vì sao Phật dạy, “Chỗ vị Đế Thích đáp đều tùy thuận theo pháp cả” ?

Đáp: Vị Đế Thích tự niệm rằng mình tuy có nhiều phước đức, nhưng vì chưa được lậu tận, chưa khắp biết các pháp, lại sợ có lầm lỗi, nên đã thưa hỏi Phật như vậy. Hơn nữa, vì trong chúng hội có nhiều Bồ Tát sơ phát tâm, nhiều vị chư Thiên chưa ly dục, còn khởi nghi tâm, lại vì chính bản thân của mình cũng còn có chỗ nghi, nên vị Đế Thích mới đứng lên thưa hỏi Phật như vậy.

Phật biết rõ vị Đế Thích, tuy chỉ mới là Tu Đà Hoàn, tuy chưa được nhất thiết chủng trí, nhưng đã nhiều phen theo Phật nghe thuyết giảng về Bát Nhã Ba La Mật, đã từng thọ trì, đọc tụng Bát Nhã Ba La Mật, nên đã y theo lý trong Bát Nhã Ba La Mật mà nói ra. Do vậy mà Phật bảo vị Đế Thích rằng, “Chỗ ông đáp đó đều tùy thuận theo chánh pháp, đều đúng theo chánh lý”.

Ở đây, nên biết rằng, “Có 3 thứ huệ. Đó là văn huệ, tư huệ và tu huệ”.

Người đã được “văn huệ” và “tư huệ” là người đã minh liễu được các pháp, nên có thể cùng người “tu huệ” pháp đàm vậy. Ví như người đi thuyền theo dòng nước, dù chẳng có dùng nhiều sức, cũng đã có thể đi mau hơn người đi bộ. Cũng như vậy, ví như ngài A Nan, tuy chưa ly dục, chưa vào được thâm thiền định, nhưng do đã có đầy đủ văn huệ và tư huệ, nên thường thưa hỏi Phật về nghĩa lý thâm sâu của Bát Nhã Ba La Mật, và những lời ngài nói ra đều tùy chánh pháp, chẳng có sai trái.

Vị Đế Thích bạch Phật : Trong hàng đại đệ tử của Phật, ngài Tu Bồ Đề là vị “đệ nhất không hành”. Ngài Tu Bồ Đề ưa nói về pháp “không” nên chỗ ngài nói ra đều là không, là vô tướnglà vô tác. Khi ngài thuyết về 4 niệm xứ … dẫn đến khi ngài thuyết về Vô Thượng Bồ Đề ngài đã khéo hòa hợp với rốt ráo không.

Phật dạy : Chẳng phải chỉ ở đời nay, mà trong nhiều đời trước, Tỷ Kheo Tu Bồ Đề đã từng tu pháp “không”, ông Tu Bồ Đề đã do “không giải thoát môn” mà vào được đạo; rồi ông cũng dùng pháp môn ấy mà giáo hóa chúng sanh.

Ông biết rõ 6 pháp Ba La Mật bất khả đắc, 37 Phẩm Trợ Đạo bất khả đắc, 10 Phật lực, 4 vô sở úy, 4 vô ngại trí … dẫn đến nhất thiết chủng trí bất khả đắc, huống nữa là người hành các pháp ấy; ông biết rõ Như Lai bất khả đắc, 32 tướng tốt bất khả đắc, 80 vẻ đẹp bất khả đắc, huống nữa là người đắc các pháp ấy.

Thế nhưng công hạnh của ông Tu Bồ Đề chẳng sao sánh bằng công hạnh của Bồ Tát Ma Ha Tát hành Bát Nhã Ba La Mật; trong trăm phần, ngàn phần, muôn ức phần … chẳng sao bằng được một.

Hỏi : Đã nói “pháp không” và “chúng sanh không”, thì còn gì nữa để nói đến chỗ cùng tận. Như vậy, vì sao còn nói trong trăm phần, ngàn phần v.v… chẳng sao bằng được một ?

Đáp : Trên đây nói trong hàng Thanh Văn, thì ngài Tu Bồ Đề là vị Tỷ Kheo hành pháp “không” vào bậc nhất. Thế nhưng, ngài cũng chưa thể nhập được vào nơi thật tướng pháp, vào nơi rốt ráo không. Phật dạy : Trừ Phật ra, thì các vị đại Bồ Tát thù thắng hơn các vị Thanh Văn hành pháp “không”.

Vì sao ? Vì trí huệ có chỗ cạn, có chỗ sâu, nên vào pháp “không” cũng có cạn có sâu vậy. Chỉ những người lợi căn, lợi trí, mới vào được nơi thật tướng pháp; khi vào được rồi, thì mới minh liễu được hết thảy các pháp. Ví như khi đèn được thắp sáng, thì phá đựợc bóng tối. Đèn sáng ít chỉ phá được một phần bóng tối; đèn càng sáng thêm nhiều, thì bóng tối càng bị phá nhiều hơn. Đèn trước phá được bóng tối, nhưng chưa tận phá; đèn sau cùng phá bóng tối đến chỗ cùng tận.

Bởi vậy nên, tuy đều được đạo, nhưng trí huệ của người tu hành có độn, có lợi sai khác nhau; do vậy mà chỗ phá vô minh cũng phân biệt có chỗ chưa tận, có chỗ tận.

Chỉ có trí huệ Phật mới tận diệt được vô minh; còn trí huệ của hàng Thanh Văn và Bích Chi Phật chỉ mới trừ được một phần vô minh. Lại nữa, hàng Thanh Văn và Bích Chi Phật chưa có đầy đủ từ bi, chưa đầy đủ nguyện độ hết thảy chúng sanh, nên chẳng có được vô lượng Phật pháp; chưa đầy đủ nguyện thanh tịnh Phật độ, nên chẳng chuyển được pháp luân. Trái lại, do hạnh nguyện độ sanh, nên Bồ Tát khi thành Phật đạo, chẳng những hành “không” có hạn lượng của hàng Nhị Thừa, mà còn dùng hạnh “không” vô hạn lượng của Phật và chư đại Bồ Tát.

Ví như người đang khát nước, tìm đến sống để giải khát, bất quá chỉ uống no bụng rồi thôi, chẳng thể uống nhiều hơn nữa được. Cũng như vậy, công hạnh của hàng Nhị Thừa, tuy rất nhiều, nhưng chẳng sao sánh được với công hạnh của hàng đại Bồ Tát; trong trăm phần, ngàn phần, vạn ức phần … chẳng sao có thể bằng được một.

Sau khi đã phân biệt về hạnh “không” của hàng Nhị Thừa và của chư đại Bồ Tát, Phật nói với vị Đế Thích rằng, “Bồ Tát muốn độ hết thảy chúng sanh, muốn có công hạnh tối thượng trong hết thảy chúng sanh, thì phải hành Bát Nhã Ba La Mật”.

Nơi đây, Phật mật ý nói rằng, “Bồ Tát học và hành Bát Nhã Ba La Mật, mà chẳng chấp có học, có hành Bát Nhã Ba La Mật, cũng chẳng chấp “không”, nên được vô sanh pháp nhẫn, vào Bồ Tát vị, thù thắng hơn hàng Nhị Thừa; khi Bồ Tát được đầy đủ hết thảy Phật pháp, đầy đủ nhất thiết chủng trí, thì được gọi là Phật.

Cũng nên biết rằng, “Tận đoạn hết thảy phiền não và tập khí là căn bản của việc hành không”.

Hỏi : Niết Bàn là vô lượng. Vì sao nói chỗ hành của hàng Nhị Thừa là có hạn lượng ?

Đáp : Đây là nói về trí huệ có phần hạn lượng, chẳng phải là nói tánh của các pháp có hạn lượng. Ví như bình chứa chỉ dung chứa số nước có hạn lượng, chẳng phải là nước trong biển lớn có hạn lượng vậy.

Lại nữa, “hữu lượng tướng” và “vô lượng tướng” chỉ là những tướng tương đãi giữa các pháp mà thôi. Ví như hàng phàm phu, do chẳng suy lường được về các pháp, nên nói có vô lượng pháp; còn đối với Phật, thì các pháp là hữu lượng. Lại ví như Thanh Văn pháp và Bích Chi Phật pháp là hữu lượng; còn Bồ Tát trú nơi pháp tánh, nên nói Bồ Tát pháp là vô lượng.

Hỏi : Chư Thiên tán hoa cúng dường Phật và Tăng. Vì sao 800 vị Tỷ Kheo lại đem hoa cúng dường riêng Phật?

Đáp : Chư Thiên đem thiên hoa cúng dường Phật và chư Tăng.

Các hoa với hương sắc vi diệu này rơi lên trên y của chư vị Tỷ Kheo, số 800 vị Tỷ Kheo này phát tâm hành vô thượng hạnh, nên đã đem các thiên hoa rơi trên y của mình đến cúng dường Phật, và bạch với Phật rằng, “Chúng con nguyện hành, vô thượng hạnh, là hạnh rốt ráo không, vô tướng và vô tác, bình đẳng độ hết thảy chúng sanh”.

Phật mỉm cười, và dạy : 800 Tỷ Kheo này đều là thiện tri thức của nhau, cùng hành tâm bình đẳng, đời đời cùng tu tập các công đức, sẽ cùng đem thiên hoa 5 sắc đến cúng dường chư Phật, sẽ đồng thời được thành Phật, cùng một hiệu là Ngũ sắc Thiên Hoa.

Nhân dịp này, Phật nói với ngài A Nan rằng : Bồ Tát muốn có được công hạnh tối thượng, thì phải hành Bát Nhã Ba La Mật. Nếu có Thiện Nam, Thiện Nữ nào hành thâm Bát Nhã Ba La Mật, thì phải biết người ấy đời trước đã ở trong loài người hoặc đã ở cõi trời Đâu Suất, đã từng nghe thậm Bát Nhã Ba La Mật, nên sau khi mạng chung mới sanh về đây, để tiếp tục nghe thâm Bát Nhã Ba La Mật. Vì sao ? Vì chúng sanh ở 3 đường ác chẳng hành Bát Nhã Ba La Mật được; chư Thiên cõi Dục, do chấp đắm 5 diệu dục lạc, cũng chẳng hành Bát Nhã Ba La Mật được; chư Thiên các cõi Sắc và Vô Sắc, do chấp thiền vị, cũng chẳng hành Bát Nhã Ba La Mật được. Loài người vừa thọ khổ, vừa thọ lạc, chẳng phải như chư Thiên chỉ toàn thọ lạc. Bởi vậy nên trong loài người có nhiều thuận lợi để hành Bát Nhã Ba La Mật hơn.

Những người hành Bát Nhã Ba La Mật thường từ cõi trời Đâu Suất, sau khi mạng chung, thọ sanh về đây. Vì sao ? Vì ở cõi trời Đâu Suất thường có các Bồ Tát nhất sanh bổ xứ đến thuyết pháp. Chư Thiên ở cõi trời Đâu Suất, tuy cũng hưởng thọ 5 diệu dục lạc, nhưng vì pháp lực thù thắng, nên có được thiện duyên nghe pháp. Hàng Nhị Thừa ở các cõi trời khác cũng thường đến cõi trời Đâu Suất nghe pháp.

Phật dạy ngài A Nan rằng : Nếu có Thiện Nam, Thiện Nữ nào cầu Phật đạo, mà thường thọ trì, đọc tụng … dẫn đến chánh ức niệm Bát Nhã Ba La Mật, lại thường thưa hỏi về Bát Nhã Ba La Mật, thì phải biết người ấy thường được chư Phật hộ niệm; ở đời trước, người ấy đã từng theo chư Phật, gieo trồng thiện căn, trọn chẳng phát tâm Nhị Thừa. Người có tín tâm bất hoại, có trí huệ thanh tịnh như vậy, thì phải biết người ấy đời trước đã cúng dường vô lượng Phật, và đã được vô lượng chư Phật và chư thiện tri thức hộ trì.

Hỏi : Phật là phước điển vô thượng; người trồng thiện căn nơi phước điền Phật, dù hành thừa pháp nào trong 3 thừa pháp, cũng đều đến được Niết Bàn cả. Ví nhừ trong kinh Pháp Hoa nói, “Người cầm một cành hoa, một nén hương … cúng dường Phật, … dẫn đến người chỉ biết niệm Nam Mô Phật cũng đều được Phật độ cả. Như vậy, người hành 5 Ba La Mật kia chỉ cần quán “không” là có thể vào Phật đạo rồi, đâu cần phải thường hành Bát Nhã Ba La Mật, là pháp khó hành, khó đắc ?

Đáp : Phật dạy ngài A Nan rằng, “Phước điền Phật chẳng phải hư dối. Chúng sanh trồng thiện căn nơi đây đều được 3 Thừa Niết Bàn.

Tuy nhiên, khi tu hành 6 pháp Ba La Mật, 4 niệm xứ … dẫn đến hành nhất thiết chủng trí, thì hành giả phải dùng trí huệ Bát Nhã Ba La Mật để quán chiếu các pháp, mới thấu triệt được tánh không của các pháp, vào được thật tướng pháp; như vậy mới mau được Vô Thượng Bồ Đề, mau thoát ra khỏi sanh tử, khổ đau. Bát Nhã Ba La Mật có công hạnh tối thượng như vậy, nên ta phó chúc cho các người phải hành Bát Nhã Ba La Mật”.

Hỏi: Phật là đấng vô ngại giải thoát, thanh tịnh, vi diệu, chẳng còn có lòng tham; chẳng có tham đắm Bát Nhã Ba La Mật. Như vậy vì sao Phật lại đem Bát Nhã Ba La Mật phó chúc cho ngài A Nan, tựa như có tham đắm Bát Nhã Ba La Mật vậy ?

Đáp : Chư Phật vì lợi ích chúng sanh mà xuất thế, lại cũng vì chúng sanh nói những điều lợi ích, nên chẳng có lỗi lầm gì cả. Vì sao ? Vì Bát Nhã Ba La Mật tận đoạn được các khổ; Bát Nhã Ba La Mật chẳng phải do dùng lời nói mà có thể diễn đạt được thâm nghĩa, nên Phật mới đem kinh quyển Bát Nhã Ba La Mật phó chúc cho ngài A Nan.Lại nữa, những người có mặt trong chúng hội thấy Phật ân cần phó chúc cho ngài A Nan như vậy, đã tự niệm rằng, “Phật đã làm xong đại sự, mà còn quý trọng Bát Nhã Ba La Mật, ắt pháp ấy phải là tôn quý, vi diệu”, nên càng thâm tín Bát Nhã Ba La Mật nhiều hơn nữa.

Ví như có ông trưởng giả giàu có, khi sắp chết, đem tất cả của cải cho các con, nhưng riêng viên ngọc như ý bảo châu, thì ông ân cần phó chúc. Viên bảo châu này trong suốt như hư không, nhưng khi đặt trước các vật lại hiện ra đủ màu sắc vi diệu. Giữ gìn các vật báu khác còn rất khó, huống nữa là gìn giữ như ý bảo châu này, nên ông trưởng giả phải ân cần phó chúc cho các con vậy.

Trong thí dụ này, ông trưởng giả dụ cho Phật; viên như ý bảo châu dụ cho Bát Nhã Ba La Mật.

Phật phó chúc cho ngài A Nan rằng, “ông nên giữ gìn Bát Nhã Ba La Mật, chớ nên để thất lạc. Nếu để mất 12 bộ kinh, thì lỗi ấy cũng nhỏ; còn để mất 1 câu trong kinh Bát Nhã Ba La Mật, thì phạm lỗi rất lớn. Vì sao ? Vì Bát Nhã Ba La Mật là mẹ của 3 đời 10 phương chư Phật, khiến người tu hành thâm pháp ấy mau được Vô Thượng Bồ Đề. Như trong kinh nói chư Phật ở cả 3 đời đều hành Bát Nhã Ba La Mật, mà thành bậc Chánh Đẳng Chánh Giác; cho nên dù thuyết pháp cho hàng Thanh Văn, khiến mọi người đều được A La Hán cũng chẳng bằng được tự mình hành Bát Nhã Ba La Mật, và dạy người hành Bát Nhã Ba La Mật’’.

Hỏi : Vì sao nói thuyết pháp cho hàng Thanh Văn khắp cõi đại thiên thế giới cũng chẳng bằng được dạy cho hàng Bồ Tát hành Bát Nhã Ba La Mật, dù chỉ dạy 1 câu mà thôi ?

Đáp : Dạy pháp Thanh Văn trong khắp cõi đại thiên thế giới, thì cũng chỉ là dạy cho chúng sanh về pháp tự độ, nên chẳng sao có thể bằng được dạy cho Bồ Tát 1 câu trong kinh Bát Nhã Ba La Mật vậy. Vì sao ? Vì dạy Bát Nhã Ba La Mật là dạy làm Phật, khiến chúng sanh được đại lợi ích, nên thù thắng hơn nhiều.

Ví như người trồng cây “như ý” sẽ có được quả “như ý”. Pháp Thanh Văn chẳng dạy phát tâm đại bi; còn Bát Nhã Ba La Mật dạy phát tâm đại bi, nên thù thắng hơn nhiều. Thanh Văn tu Tiểu Thừa nhằm tự độ, còn Bồ Tát tu Đại Thừa nhằm độ tha, nên được công đức vô lượng. Ví như hạt kim cương, tuy nhỏ bé, nhưng có giá trị rất lớn so với các vật báu khác.

Phật dạy, “Bồ Tát muốn được Vô Thượng đạo, và cũng muốn độ người, khiến họ được Vô Thượng đạo, nên tự mình hành 6 pháp Ba La Mật và cũng dạy người hành 6 pháp Ba La Mật”. Như vậy, Bồ Tát thành tựu cả 2 phần công đức, nên thù thắng hơn hàng Thanh Văn.

Phật cũng nêu đủ các điều dẫn chứng cho thấy Bồ Tát hành “không” mà chẳng có chấp “không”, nên được vô lượng công đức.

Phật vì thương xót 4 chúng, nên đã hiện thần lực, khiến cả đại chúng đều thấy được thế giới của Phật A Súc; nơi đó Phật A Súc đang thuyết pháp cho chứng Tỷ Kheo tăng. Chỉ có huệ nhãn, pháp nhãn và Phật nhãn mới thấy được như vậy; còn thiên nhãn và nhục nhãn chẳng có thể thấy được như vậy. Vì sao ? Vì chư Thiên dùng thiên nhãn và nhục nhãn cũng chẳng sao thấy được pháp vô tướng, vô vi; chẳng biết rằng thế giới ấy hiện ra như huyễn, như mộng. Bồ Tát quán thế giới ấy là như vậy, và cũng quán các sắc pháp đều là như vậy cả.

Bởi vậy nên Phật phó chúc cho ngài Tu Bồ Đề rằng, “Bồ Tát hành Bát Nhã Ba La Mật mà vô sở trước, nên là vô sở hành”. Phật tán thán, “Bồ Tát vì lợi ích chúng sanh, mà phát đại từ bi, hành Bát Nhã Ba La Mật, nhằm độ thoát chúng sanh”. Phật cũng tán thán, “Bát Nhã Ba La Mật là bất khả tư nghi tướng, là vô tận tướng”, nên đã phó chúc cho ngài A Nan, “phải hành Bát Nhã Ba La Mật”.

Kinh tán thán, “Bát Nhã Ba La Mật là trí huệ bất khả tận của chư Phật, nên công đức của Bát Nhã Ba La Mật cũng bất khả tận. Bát Nhã Ba La Mật có vô lượng tướng, nên Bát Nhã Ba La Mật nghĩa cũng là vô lượng”.

-o0o-

Ngài A Nan hỏi Phật : Vì sao nói Bát Nhã Ba La Mật là vô lượng ?

Phật dạy : Bát Nhã Ba La Mật là tự tướng ly; mà ly là vô sanh, nên là vô tận, vô diệt.

Phật nói tiếp : Trong quá khứ đã có vô lượng chúng sanh được độ, và đã vào Vô Dư Niết Bàn. Ở hiện tại và ở vị lai, chúng sanh cũng là vô lượng, nên muốn độ chúng sanh như vậy chẳng khác gì muốn độ hư không. Hư không là vô tận, nên Bát Nhã Ba La Mật… dẫn đến nhất thiết chủng trí cũng vô tận. Vì các pháp vốn vô sanh, nên chẳng tận vậy. Số kinh điển có hạn lượng; một khi kinh điển bị thất lạc, thì người đời sau chẳng rõ được Bát Nhã Ba La Mật nghĩa, nên Phật mới ân cần phó chúc cho ngài A Nan giữ gìn Bát Nhã Ba La Mật.

Phật lại đem tướng lưỡi rộng dài, để minh chứng cho lời nói chân thật, và phó chúc cho 4 chúng rằng, “Các ngươi hãy vì chúng sanh thuyết giảng, khai thị, phân biệt, khiến chúng sanh dễ hiểu. Ta vì độ chúng sanh mà cúng dường Bát Nhã Ba La Mật, nên ta muốn các ngươi tín thọ Bát Nhã Ba La Mật, và thuyết giảng Bát Nhã Ba La Mật cho chúng sanh nghe. Khi được Bát Nhã Ba La Mật rồi, các ngươi sẽ được vô quái ngại, như chim bay giữa hư không, chẳng gì ngăn ngại vậy”.

Phật lại dạy ngài A Nan rằng : Hành Bát Nhã Ba La Mật là vào được các “tự môn”, được các đà la ni môn; được các đà la ni rồi, là được biện tài vô ngại. Người thọ trì Bát Nhã Ba La Mật là thọ trì Vô Thượng Bồ Đề của 3 đời chư Phật. Bát Nhã Ba La Mật là đôi chân của người tu hành, vì vào được Bát Nhã Ba La Mật là minh liễu được hết thảy các pháp”.

Hỏi : Nhờ nghe, mà có được Văn Trì đà la ni. Sao lại nói nhờ hành Bát Nhã Ba La Mật, mà có được các đà la ni?

Đáp : Nghe và học các pháp thế gian cũng có được Văn Trì đà la ni, nhưng công năng chỉ có hạn lượng. Ví như hàng ngoại đạo cũng có được Văn Trì đà la ni, nhưng vẫn dễ bị quên sót. Nếu có lực Bát Nhã Ba La Mật, thì được Văn Trì đà la ni rồi, sẽ có thể nghe và ghi nhớ hết các kinh điển, chẳng có quên sót.

Hỏi : Bát Nhã Ba La Mật là Bát Nhã Ba La Mật. Sao cũng gọi là đà la ni ?

Đáp : Bát Nhã Ba La Mật là thật tướng pháp, có đại lợi ích cho chúng sanh, nên được nhiều người ái niệm, và đặt cho nhiều tên, ví như Phật có nhiều danh hiệu vậy. Bát Nhã Ba La Mật là thật trí huệ. Nhờ lực Bát Nhã Ba La Mật mà nghe là liền ghi nhớ, nên được đà la ni v.v… Bát Nhã Ba La Mật hợp với tất cả các pháp, như viên như ý bảo châu đặt trước vật gì liền biến thành sắc của vật ấy vậy.

(Hết Quyển 79)