LUẬN
ĐẠI TRÍ ĐỘ

Nguyên tác: Bồ tát Long Thọ
Hán dịch: Pháp sư Cưu Ma La Thập
Việt dịch: Tỳ kheo ni THÍCH NỮ DIỆU KHÔNG

 

TẬP IV
QUYỂN 78

Phẩm thứ sáu mươi bốn
Tịnh Nguyện

(Nguyện Thanh Tịnh)

KINH:

Lúc bấy giờ, ngài Thích Đế Hoàn Nhơn tự niệm rằng: Bồ Tát hành Bát Nhã Ba La Mật, hành 5 Ba La Mật kia … dẫn đến hành 18 bất cộng pháp, đã vượt lên trên hết thảy chúng sanh rồi, huống nữa là khi đã được Vô Thượng Bồ Đề.

Trong các chúng sanh, nếu có người nghe thuyết về nhất thiết chủng trí mà tín giải được, thì phải biết, ở trong loài người, người ấy được nhiều phước lành, được thọ mạng lâu dài, huống nữa là còn phát tâm cầu Vô Thượng Bồ Đề. Nếu có chúng sanh nào phát tâm Vô Thượng Bồ Đề, thì những chúng sanh khác phải nên vui mừng, nên mong ước được như vậy.

Rồi ngài Thích Đề Hoàn Nhơn đem hoa “mạn đà la” tán lên Phật, và phát nguyện rằng: Bạch Thế Tôn ! Con xin đem công đức này để nguyện cho người phát Vô Thượng Bồ Đề tâm được đầy đủ các Phật pháp, đầy đủ nhất thiết trí, đầy đủ tự nhiên trí, nguyện cho người cầu Thanh Văn đạo được đầy đủ Thanh Văn pháp.

Bạch Thế Tôn ! Con nguyện cho Bồ Tát đã phát Vô Thượng Bồ Đề tâm trọn chẳng mống lên một niệm thối chuyển, chẳng sanh một niệm trở về với Thanh Văn tâm và Bích Chi Phật tâm.

Bạch Thế Tôn ! Con nguyện cho chư Bồ Tát càng thêm tinh tấn ở nơi Vô Thượng Bồ Đề, để cứu độ hết thảy chúng sanh đang chịu khổ đau trong các nẻo đường sanh tử, để đem lại lợi ích cho hết thảy thế gian, Trời, Người, A Tu La, với tâm niệm rằng: “Khi được tự độ rồi, tôi sẽ độ người chưa được độ; khi được giải thoát rồi, tôi sẽ giải thoát người chưa được giải thoát; khi được an ổn rồi, tôi sẽ an ổn người chưa được an ổn; khi được diệt độ rồi, tôi sẽ làm cho người chưa được diệt độ cũng được diệt độ”.

Bạch Thế Tôn ! Nếu Thiện Nam, Thiện Nữ tùy hỷ công đức của vị Bồ Tát sơ phát tâm, thì được bao nhiêu phước đức ? Nếu tùy hỷ công đức của vị Bồ Tát đã phát tâm từ lâu, thì được bao nhiêu phước đức ? Nếu tùy hỷ công đức của vị Bồ Tát bất thối chuyển, thì được bao nhiêu phước đức ? Nếu tùy hỷ công đức của vị Bồ Tát nhất sanh bổ xứ, thì được bao nhiêu phước đức?

Phật dạy: Này Kiều Thi Ca ! Cả 4 châu thiên hạ có thể cân lường mà biết được; còn phước đức của sự tùy hỷ chẳng sao có thể suy lường được. Cõi đại thiên thế giới có thể cân lường mà biết được; còn phước đức của sự tùy hỷ chẳng sao có thể suy lường được.

Này Kiều Thi Ca ! Nếu cõi đại thiên thế giới đều tràn đầy nước biển, và nếu đem một sợi tóc chẻ ra làm trăm phần, rồi lấy một phần sợi tóc đó nhúng vào trong nước biển, để cho nhỏ giọt, thì còn có thể đếm được số giọt nước rơi xuống. Thế nhưng, phước đức của sự tùy hỷ chẳng sao có thể suy lường mà biết được.

Ngài Thích Đề Hoàn Nhơn bạch Phật: Bạch Thế Tôn ! Chúng sanh nào chẳng sanh tâm tùy hỷ công đức của người cầu Vô Thượng Bồ Đề đều là quyến thuộc của ma. Các chúng sanh ấy đều từ cõi ma sanh về đây. Vì sao ? Vì những người muốn phá cảnh giới ma, mới phát tâm tùy hỷ công đức của Bồ Tát. Thế nên, người ái kính Tam Bảo ắt phải sanh tâm tùy hỷ, và đem tâm tùy hỷ hồi hướng về Vô Thượng Bồ Đề, vì tâm tùy hỷ và tâm hồi hướng là chẳng phải một tướng, cũng chẳng phải hai tướng vậy.

Phật dạy: Này Kiều Thi Ca ! Nếu có người nào đem công đức của chư Bồ Tát mà tùy hỷ hồi hướng như vậy, thì phải biết người ấy đã thường gặp chư Phật; trọn chẳng thấy ác sắc, chẳng nghe ác thanh, chẳng ngửi ác hương, chẳng nếm ác vị, chẳng chạm ác xúc, chẳng khởi ác niệm; trọn chẳng xa rời chư Phật. Người ấy đi từ cõi Phật này đến cõi Phật khác, thân cận, cúng dường chư Phật, gieo trồng các thiện căn.

Vì sao ? Vì trải qua vô lượng a tăng kỳ kiếp, người ấy đã tùy hỷ công đức của chư vị Bồ Tát sơ phát tâm, của chư vị Bồ Tát từ Nhị địa … dẫn đến Thập địa, của chư vị Bồ Tát nhất sanh bổ xứ, rồi đem các công đức ấy hồi hướng về Vô Thượng Bồ Đề. Do nhân duyên gieo trồng thiện căn như vậy, nên người ấy sẽ mau được Vô Thượng Bồ Đề.

Bồ Tát ấy, khi được Vô Thượng Bồ Đề, sẽ độ vô lượng, vô số, vô biên chúng sanh.

Này Kiều Thi Ca ! Bởi vậy nên Thiện Nam, Thiện Nữ tùy hỷ công đức của chư Bồ Tát sơ phát tâm, rồi hồi hướng về Vô Thượng Bồ Đề, thì tâm tùy hỷ hồi hướng đó là chẳng phải tâm (phi tâm), chẳng phải rời tâm (phi ly tâm). Dẫn đến tùy hỷ công đức của chư Bồ Tát đã phát tâm từ lâu, của chư Bồ Tát bất thối chuyển, của chư Bồ Tát nhất sanh bổ xứ, rồi hồi hướng về Vô Thượng Bồ Đề, thì tâm tùy hỷ hồi hướng đó cũng chẳng phải tâm (phi tâm), chẳng phải rời tâm (phi ly tâm).

Ngài Tu Bồ Đề bạch Phật: Bạch Thế Tôn ! Tâm là như huyễn. Như vậy, tâm đó làm sao được Vô Thượng Bồ Đề ?

Phật dạy: Này Tu Bồ Đề ! Ông có thấy tâm như nhuyễn chăng ?

Ngài Tu Bồ Đề bạch Phật: Bạch Thế Tôn ! Con chẳng thấy huyễn cũng chẳng thấy tâm như huyễn.

Phật dạy: Này Tu Bồ Đề ! Nếu chẳng thấy có huyễn, cũng chẳng thấy có tâm như huyễn thì ông có thấy tâm đó chăng ?

Ngài Tu Bồ Đề bạch Phật: Bạch Thế Tôn ! Chẳng vậy.

Phật dạy: Này Tu Bồ Đề ! Ý ông nghĩ sao ? Ly huyễn và ly tâm như huyễn, thì ông có thấy có pháp nào được Vô Thượng Bồ Đề chăng ?

Ngài Tu Bồ Đề bạch Phật: Bạch Thế Tôn ! Chẳng vậy. Con chẳng thấy ly huyễn và ly tâm như huyễn lại có pháp được Vô Thượng Bồ Đề.

Con chẳng thấy có pháp nào là được, hay là chẳng được, vì pháp tướng là rốt ráo ly, nên chẳng đọa về CÓ (hữu), cũng chẳng đọa về KHÔNG (vô). Nếu pháp là rốt ráo ly, thì chẳng có pháp được Vô Thượng Bồ Đề.

Vậy nên, Bát Nhã Ba La Mật rốt ráo ly, 5 pháp Ba La Mật rốt ráo ly, … dẫn đến Vô Thượng Bồ Đề cũng rốt ráo ly. Nếu pháp là rốt ráo ly, thì chẳng chẳng nên tu, chẳng nên hoại. Hành Bát Nhã Ba La Mật, thì cũng chẳng có pháp khả đắc (có thể được), vì là rốt ráo ly vậy.

Bạch Thế Tôn ! Nếu Bát Nhã Ba La Mật là rốt ráo ly, thì làm sao lại có thể do nơi Bát Nhã Ba La Mật mà được Vô Thượng Bồ Đề ?

Bát Nhã Ba La Mạt rốt ráo ly, Vô Thượng Bồ Đề cũng rốt ráo ly. Trong 2 pháp ly đó, vì sao lại có pháp khả đắc ?

Phật dạy: Lành thay, lành thay ! Này Tu Bồ Đề ! Bát Nhã Ba La Mật rốt ráo ly, 5 pháp Ba La Mật kia rốt ráo ly,… dẫn đến nhất thiết chủng trí rốt ráo ly.

Này Tu Bồ Đề ! Bát Nhã Ba La Mật … dẫn đến nhất thiết chủng trí rốt ráo ly, nên có thể được Vô Thượng Bồ Đề.

Này Tu Bồ Đề ! Nếu Bát Nhã Ba La Mật chẳng phải là rốt ráo ly … dẫn đến nhất thiết chủng trí chẳng phải là rốt ráo ly, thì chẳng gọi là Bát Nhã Ba La Mật… dẫn đến chẳng gọi là nhất thiết chủng trí.

Này Tu Bồ Đề ! Bát Nhã Ba La Mật là rốt ráo ly … dẫn đến nhất thiết chủng trí là rốt ráo ly, nên chẳng phải do nơi Bát Nhã Ba La Mật mà được Vô Thượng Bồ Đề, cũng chẳng phải do nơi ly mà được ly.

Ngài Tu Bồ Đề bạch Phật: Bạch Thế Tôn ! Chỗ sở hành của Bồ Tát có nghĩa rất thâm sâu.

Phật dạy: Này Tu Bồ Đề ! Chỗ sở hành của Bồ Tát có nghĩa quá thâm sâu. Chư Bồ Tát Ma Ha Tát làm những việc rất khó làm. Đó là hành chỗ thâm nghĩa, mà chẳng tác chứng Thanh Văn và Bích Chi Phật đạo.

Ngài Tu Bồ Đề bạch Phật: Bạch Thế Tôn ! Theo nghĩa mà con được nghe Phật dạy, thì sở hành của Bồ Tát chẳng phải là khó. Vì sao ? Vì Bồ Tát chẳng đắc thâm nghĩa đó để tác chứng, chẳng đắc Bát Nhã Ba La Mật để tác chứng, cũng chẳng có người tác chứng.

Bạch Thế Tôn ! Nếu hết thảy pháp đều chẳng thể đắc, thì tác chứng có nghĩa gì; thế nào là Bát Nhã Ba La Mật tác chứng; thế nào là người tác chứng, và tác chứng rồi được Vô Thượng Bồ Đề ?

Bạch Thế Tôn ! Như vậy gọi là Bồ Tát, ở nơi vô sở đắc, mà hành Bồ Tát hạnh. Bồ Tát hành như vậy, nên ở  nơi hết thảy pháp đều được minh liễu.

Bạch Thế Tôn ! Nếu Bồ Tát nghe thâm pháp như vậy, mà chẳng kinh, chẳng hãi, chẳng sợ, chẳng trầm một, thì đó mới gọi là Bồ Tát hành Bát Nhã Ba La Mật.

Khi hành Bát Nhã Ba La Mật, Bồ Tát chẳng thấy mình hành Bát Nhã Ba La Mật, chẳng thấy có pháp Bát Nhã Ba La Mật, cũng chẳng thấy hành Bát Nhã Ba La Mật ắt sẽ được Vô Thượng Bồ Đề.

Vì sao ? Vì khi hành Bát Nhã Ba La Mật, Bồ Tát chẳng dấy niệm “Thanh Văn và Bích Chi Phật cách xa ta, cách xa Bát Nhã Ba La Mật; còn ta thì gần nhất thiết chủng trí, gần Thế Tôn”.

Bạch Thế Tôn ! Ví như hư không chẳng dấy niệm phân biệt có pháp ở xa, có pháp ở gần, vì hư không là vô phân biệt. Cũng như vậy, Bồ Tát hành Bát Nhã Ba La Mật, chẳng dấy niệm phân biệt rằng, “Thanh Văn xa ta, nhất thiết chủng trí gần ta”, vì Bát Nhã Ba La Mật là vô phân biệt.

Bạch Thế Tôn ! Ví như người huyễn chẳng dấy niệm phân biệt rằng, “Huyễn sư ở gần ta, các khán giả ở cách xa ta”, vì người huyễn là vô phân biệt. Cũng như vậy, Bồ Tát hành Bát Nhã Ba La Mật chẳng dấy niệm phân biệt rằng “Thanh Văn xa ta, nhất thiết chủng trí gần ta”, vì Bát Nhã Ba La Mật là vô phân biệt.

Bạch Thế Tôn ! Ví như ảnh trong gương chẳng dấy niệm phân biệt vật ở trước gương là xa hay là gần, vì ảnh là vô phân biệt. Cũng như vậy, Bồ Tát hành Bát Nhã Ba La Mật chẳng dấy niệm phân biệt rằng, “Thanh Văn xa ta, nhất thiết chủng trí gần ta”, vì Bát Nhã Ba La Mật là vô phân biệt.

Bạch Thế Tôn ! Bồ Tát hành Bát Nhã Ba La Mật chẳng thương, cũng chẳng ghét. Vì sao ? Vì tự tánh của Bát Nhã Ba La Mật là bất khả đắc.

Bạch Thế Tôn ! Ví như Phật chẳng có tâm thương ghét, Bồ Tát hành Bát Nhã Ba La Mật cũng là như vậy. Vì sao ? Vì Bát Nhã Ba La Mật chẳng có thương ghét.

Bạch Thế Tôn ! Ví như Phật đã đoạn sạch các niệm tưởng phân biệt, Bồ Tát hành Bát Nhã Ba La Mật cũng là như vậy. Vì sao ? Vì các niệm tưởng đều là rốt ráo không.

Bạch Thế Tôn ! Ví như Phật hóa hiện ra các hóa nhân. Những hóa nhân đó chẳng dấy niệm rằng, “Thanh Văn xa ta, nhất thiết chủng trí gần ta”, vì các hóa nhân đó đều là vô phân biệt. Cũng như vậy, Bồ Tát hành Bát Nhã Ba La Mật chẳng dấy niệm rằng, “Thanh Văn xa ta, nhất thiết chủng trí gần ta”, vì Bát Nhã Ba La Mật là vô phân biệt

Bạch Thế Tôn ! Ví như do có chỗ làm nên hóa tác ra các việc, mà các việc hóa tác ra đó đều là vô phân biệt. Cũng như vậy, do có các việc phải làm, mà phải tu tập, khiến các việc ấy được thành tựu, mà Bát Nhã Ba La Mật cũng vẫn là vô phân biệt.

Bạch Thế Tôn ! Ví như người thợ có chỗ đặt hàng, mới cùng với học trò bỏ công ra làm người gỗ, nhựa gỗ, trâu gỗ, dê gỗ v.v… Các tượng gỗ đó cũng làm nên việc, nhưng đều là vô phân biệt. Bát Nhã Ba La Mật cũng là như vậy. Vì có các việc phải làm, nên nói Bát Nhã Ba La Mật thành tựu các việc, nhưng Bát Nhã Ba La Mật là vô phân biệt.

Lúc bấy giờ, ngài Xá Lợi Phất hỏi : Thưa ngài Tu Bồ Đề ! Chỉ có Bát Nhã Ba La Mật là vô phân biệt, hay 5 Ba La Mật kia cũng là vô phân biệt ?

Ngài Tu Bồ Đề đáp : Thưa ngài Xá Lợi Phất ! 5 Ba La Mật kia cũng đều là vô phân biệt cả.

Ngài Xá Lợi Phất hỏi : sắc … dẫn đến thức, nhãn .. dẫn đến ý, sắc … dẫn đến pháp, nhãn thức … dẫn đến ý thức, nhãn xúc … dẫn đến ý xúc, nhãn xúc nhân duyên sanh thọ … dẫn đến ý xúc nhân duyên sanh thọ cũng đều là vô phân biệt chăng ?

4 thiền, 4 vô lượng tâm, 4 vô sắc định, 4 niệm xứ … dẫn đến 8 thánh đạo, 3 giải thoát môn, 10 Phật lực, 4 vô sở úy, 4 vô ngại trí, đại từ, đại bi, 18 bất cộng pháp, Vô Thượng Bồ Đề, vô vi tánh cũng đều là vô phân biệt chăng ?

Ngài Tu Bồ Đề đáp : sắc … dẫn đến vô vi tánh cũng đều là vô phân biệt cả.

Ngài Xá Lợi Phất hỏi : Nếu hết thảy các pháp đều là vô phân biệt, thì làm sao phân biệt được 6 đạo chúng sanh; làm sao phân biệt được 4 quả Thanh Văn; làm sao phân biệt được quả Bích Chi Phật, quả Phật ?

Ngài Tu Bồ Đề đáp : Do nhân duyên chúng sanh điên đảo tạo 3 nghiệp ở thân khẩu và ý, rồi tùy theo nghiệp dẫn mà thọ thân vào 6 đạo chúng sanh, gồm : Địa ngục, ngạ quỉ, súc sanh, trời, người và A Tu La.

*  Làm sao phân biệt có quả Tu Đà Hoàn… dẫn đến có quả Phật chăng ?

Thưa ngài Xá Lợi Phất ! Do vô phân biệt mà có quả . Tu Đà Hoàn, quả Tư Đà Hàm, quả A Na Hàm, quả A La Hán, quả Bích Chi Phật, … dẫn đến cũng do vô phân biệt mà có quả Phật.

Thưa ngài Xá Lợi Phất ! Chư Phật trong quá khứ cũng do vô phân biệt, do dứt đoạn phân biệt nên có vậy.

Thưa ngài Xá Lợi Phất ! Phải biết rằng hết thảy pháp đều là vô phân biệt, vì đều chẳng có tướng hoại, đều là như pháp tánh thật tế.

Thưa ngài Xá Lợi Phất ! Bởi vậy nên Bồ Tát phải hành vô phân biệt Bát Nhã Ba La Mật. Hành vô phân biệt Bát Nhã Ba La Mật rồi là liền được vô phân biệt Vô Thượng Bồ Đề.

LUẬN:

Thiên Đế Thích hoan hỷ, tự niệm rằng, “Bồ Tát hành Bồ Tát đạo đã có công đức thù thắng hơn hết thảy thế gian, huống nữa là khi được đạo Vô Thượng Bồ Đề”.

Tự niệm như vậy rồi, ngài tự nguyện thủ hộ chư Bồ Tát, khiến được tinh tấn, chẳng bao giờ thối chuyển.

–o0o–

Nên biết trong chúng sanh, có hạng đã phát tâm, có hạng chưa phát tâm. Trong số người đã phát tâm, thì Bồ Tát là thù thắng hơn hết. Vì sao ? Vì Bồ Tát phát nguyện học hết thảy Phật pháp, nhằm cứu độ chúng sanh, khiến họ xa lìa được    các khổ, hưởng được an vui. Chư vị A La Hán, dù đã được lậu tận, cũng chẳng bằng được Bồ Tát sơ phát tâm. Ví như thái tử, tuy chưa được lên ngôi vua, mà đã thù thắng hơn chư vị đại thần. Cũng như vậy, Bồ Tát, tuy chỉ mới sơ phát tâm, đã thắng hơn hàng Thanh Văn và Bích Chi Phật.

-o0o-

Có 2 hạng Bồ Tát sơ phát tâm. Đó là:

  1. Hạng người phát tâm làm Bồ Tát hạnh, hành 6 pháp Ba La Mật.
  2. Hạng người chưa phát tâm, mà đã làm Bồ Tát hạnh, hành 6 pháp Ba La Mật.

Cả 2 hạng người này, tuy chưa thành tựu được Bồ Tát đạo, nhưng đã thắng hơn hết thảy chúng sanh.

Ví như chim Ca Lăng Tần Già, vừa mới từ trong trứng ra, mà đã thắng hơn các loài chim khác. Cũng như vậy, Bồ Tát, tuy chưa thành Phật đạo, nhưng khi hành Bồ Tát đạo đã nói ra thật tướng các pháp phá tan hàng ma vương, ngoại đạo; tuy chưa đoạn sạch phiền não, mà các nghiệp thân khẩu ý đã được thanh tịnh. Bởi vậy nên Bồ Tát thù thắng hơn hết thảy chúng sanh.

Chúng sanh chỉ cầu vui cho riêng mình; Thanh Văn chỉ tự diệt khổ, cầu vui Niết Bàn; Thanh Văn tu hành vì tự độ hơn là vì độ tha.

Trái lại, Bồ Tát trải rộng tâm đại bi, thương xót chúng sanh và nguyện độ hết thảy chúng sanh, nên thù thắng hơn nhiều.

Trong kinh có ghi mẫu chuyện sau đây :

Có một vị Sa Di làm thị giả cho một vị A La Hán, thường theo sát bên thầy.

Một hôm, vị Sa Di mống tâm cầu Vô Thượng đạo, cầu được chứng Niết Bàn Phật Thừa. Vị A La Hán biết được tâm niệm của vị Sa Di, liền lùi lại, ôm đãy đựng y bát theo sau vị Sa Di. Một lúc sau, vị Sa Di lại suy nghĩ Phật đạo khó thành, chúng sanh ở trong các nẻo đường sanh tử đang thọ vô lượng khổ, nên mống tâm cầu chứng Niết Bàn Thanh Văn. Vị A La Hán lại trao đãy đựng y bát cho vị Sa Di, và bảo vị này đi theo sau mình.

Vị Sa Di thưa : Bạch thầy, vì sao thầy mới bảo con đi trước, nay lại đổi ý bảo con đi sau ?

Vị A La Hán đáp : Trước con đã phát Vô Thượng Bồ Đề tâm, muốn được làm Phật. Tâm ấy rất quý, vì đó là tâm Phật, nên ta phải nhường con đi trước. Bích Chi Phật còn cung kính, cúng dường Phật, huống nữa là ta chỉ mới là A La Hán. Thế nhưng ngay sau đó con lại thối chuyển, muốn trở lại với tâm Thanh Văn, nên con phải đi theo ta vậy.

Vị Sa Di nghe thầy nói sanh tâm sợ hãi, biết rằng thầy đã biết mình đã có lần phát Bồ Tát tâm, cũng biết rằng Bồ Tát chỉ mới phát tâm cũng đã thù thắng hơn A La Hán rồi, huống nữa là thành tựu Vô Thượng Đạo.

Bởi vậy nên biết rằng chỉ một phen phát tâm muốn thành Phật để độ thoát chúng sanh, là đã thù thắng hơn biết bao nhiêu người tu thiền định, giải thoát rồi vậy.

Trong kinh Ma Ha Diễn luận rằng : Có người phát Đại Thừa tâm, tuy còn trong hàng tệ ác, tiểu nhân, mà đã thù thắng hơn hàng Nhị Thừa. Vì Bồ Tát Đại Thừa là người đại giải thoát, ly nhị biên, hành trung đạo. Bởi vậy nên, ngay khi vừa phát tâm đã thù thắng hơn hết thảy chúng sanh, huống nữa là khi thành Phật quả. Người nghe Bát Nhã Ba La Mật mà sanh được tín tâm thanh tịnh là đã có được đại lợi ích vậy. Có thuyết nói : Bồ Tát khi đã được bất thối chuyển rồi, thì chẳng còn bị đọa vào các đường ác.

Có thuyết nói : Bồ Tát trú trong quả báo thần thông, đi khắp cả 10 phương, cúng dường chư Phật, giáo hóa chúng sanh. Bồ Tát dùng mọi phương tiện để giáo hóa chúng sanh, nên được thọ mạng lâu dài.

“Mạng” nói trên đây có 2 nghĩa. Đó là :

– Mạng căn.
– Huệ mạng.

Người được “trí huệ mạng” được người đời quí trọng, nên nói là được thọ mạng lâu dài. Người phát tâm Đại Thừa được quí kính. Vì sao ? Vì do nhân duyên xả bỏ sự an vui của chính mình, và nguyện đem lại sự an vui cho người khác.

Bởi nhân duyên vậy, nên vị Đế Thích sanh tâm đại hoan hỷ, đem hoa Mạn Đà La cúng dường Phật.

Hỏi: Vì sao vị Đế Thích đem phước đức của mình để nguyện cho những người cầu Phật đạo đều được đầy đủ Phật pháp?

Đáp: Tuy chẳng có thể đem phước đức cửa mình cho người khác được, nhưng vị Đế Thích đã dùng hảo tâm của mình để tùy hỷ công đức của những người cầu Phật đạo.

Vị Đế Thích bạch Phật rằng, “Tuy rằng con chỉ được Thanh Văn đạo, nhưng con trọn chẳng sanh niệm muốn Bồ Tát, thối tâm về Nhị Thừa, vì Bồ Tát thấy chúng sanh chịu khổ đau trong các đường sanh tử, mà nguyện độ chúng sanh thoát khổ, khiến họ được giải thoát.

-o0o-

Trong chúng hội, có người dấy niệm nghĩ rằng, “Tùy hỷ công đức của người sơ phát tâm Bồ Tát, và tùy hỷ công đức của Bồ Tát đã phát tâm lâu có sai khác”, nên Thiên Đế Thích bạch Phật: Người tùy hỷ công đức của Bồ Tát sơ phát tâm được bao nhiêu phước đức … Dẫn đến người tùy hỷ công đức của Bồ Tát nhất sanh bổ xứ được bao nhiêu phước đức ?

Phật dạy: Phước đức của sự tùy hỷ chẳng sao có thể suy lường mà biết được.

Thiên Đế Thích bạch Phật: Nguời nào biết được công đức của Bồ Tát mà chẳng tùy hỷ, đều là quyến thuộc của ma. Vì do tu tập ác tâm, nên chẳng tùy hỷ công đức của người tu Bồ Tát hạnh. Trái lại, người cầu Phật đạo là người đã quyết tâm phá cảnh giới ma, phá ái dục, thâm kính Tam Bảo, nên mới đem tâm tùy hỷ công đức của chư Bồ Tát, và hồi hướng về Vô Thượng Bồ Đề. Tâm tùy hỷ và tâm hồi hướng là chẳng phải một, và cũng chẳng phải hai.

Vì sao ? Vì các pháp chẳng có định tướng, và đều do nhân duyên sanh, nên nói 2 tâm là chẳng phải một. Nhưng tâm tùy hỷ chẳng có phân biệt với tâm hồi hướng, nên nói 2 tâm là chẳng phải hai.

Phật dạy: Người nào đem công đức của chư Bồ Tát, của chư Phật ở trong 10 phương mà tùy hỷ hồi hướng về Vô Thượng Bồ Đề, sẽ được sanh vào thời có Phật, trọn chẳng thấy ác sắc … dẫn đến chẳng chạm ác xúc, trọn chẳng xa rời chư Phật, chẳng đoạn Phật chủng.

Ở đây, Phật nói lên các nhân duyên người phát Bồ Đề tâm được đại quả báo, sẽ mau được Vô Thượng Bồ Đề, độ vô lượng chúng sanh.

Phật lại nói thêm rằng ; Nếu y nơi thật tướng pháp mà tùy hỷ hồi hướng, và biết rõ thật tướng tâm cũng là bất khả đắc, thì sẽ thấy rõ tâm tùy hỷ và tâm hồi hướng là chẳng phải một, chẳng phải hai, là chẳng phải tâm (phi tâm), là chẳng phải rời tâm (phi ly tâm).

Ngài Tu Bồ Đề bạch Phật: Tâm là chẳng phải tâm (phi tâm), là không, là vô sỡ hữu, là như huyễn. Như vậy, tâm đó làm sao được Vô Thượng Bồ Đề ?

Phật dạy: Ông có thấy tâm như huyễn chăng ?

Ngài Tu Bồ Đề nghĩ rằng, “Nếu tâm là không, là như huyễn, thì chẳng có thể thấy được; còn trái lại, nếu thấy được tâm, thì tâm đó chẳng phải là không, là như huyễn”. Nghĩ như vậy nên ngài đáp: Con chẳng thấy vậy.

Phật dạy : Nếu tâm là không, là vô sở hữu, là như huyễn, thì nơi đó có thấy CÓ, có thấy KhÔNG chăng ? Ngài Tu Bồ Đề đáp : Con chẳng thấy vậy.

Ngài Tu Bồ Đề đáp: Con chẳng thấy vậy.

Phật dạy: Ly huyễn và ly tâm như huyễn, ông có thấy có pháp nào được Vô Thượng Bồ Đề chăng ?

Ngài Tu Bồ Đề đáp: Con chẳng thấy có pháp nào được Vô Thượng Bồ Đề cả, chẳng thấy có pháp nào khả đắc cả. Vì các pháp là rốt ráo không, rốt ráo ly, nên chẳng đọa về CÓ, cũng chẳng đọa về KHÔNG. Nếu chẳng đọa về CÓ, chẳng đọa về KHÔNG, thì là vô sở hữu, nên chẳng có pháp được Vô Thượng Bồ Đề vậy.

Phật dạy: Bởi nhân duyên vậy, nên Bát Nhã Ba La Mật rốt ráo ly tướng. Thấy CÓ hoặc thấy KHÔNG đều là lỗi lầm cả. 5 Ba La Mật kia … dẫn đến Vô Thượng Bồ Đề cũng đều là như vậy cả. Nếu đều là rốt ráo ly tướng thì đều là bất khả đắc vậy.

Cho nên, thấy là bất khả đắc, tu là bất khả đắc, đoạn là bất khả đắc, chứng cũng là bất khả đắc vậy. Chứng đắc pháp như vậy là vô sở đắc, là rốt ráo ly vậy.

Ngài Tu Bồ Đề bạch Phật : Bát Nhã Ba La Mật rốt ráo ly, Vô Thượng Bồ Đề rốt ráo ly. Như vậy làm sao có thể dùng rốt ráo ly để được rốt ráo ly ? Nếu 1 pháp rốt ráo ly là đã chẳng được rồi, huống nữa là cả 2 pháp đều rốt ráo ly. Ví như lấy ngón tay chạm vào hư không, mà hư không chẳng có chỗ chạm xúc, thì ngón tay cũng chẳng có thể xúc được. Hơn thế nữa, nếu Bát Nhã Ba La Mật rốt ráo ly, Niết Bàn rốt ráo ly, Vô Thượng Bồ Đề rốt ráo ly, thì làm sao có thể dùng Bát Nhã Ba La Mật rốt ráo ly để được Niết Bàn rốt ráo ly, được Vô Thượng Bồ Đề rốt ráo ly?

Phật biết ngài Tu Bồ Đề đã dùng thật tướng pháp để nói, nên Phật tán thán, “Lành thay,lành thay ! Bát Nhã Ba Là Mật là rốt ráo ly và Vô Thượng Bồ Đề là rốt ráo ly, nên chẳng phải do nơi Bát Nhã Ba La Mật mà được Vô Thượng Bồ Đề, chẳng phải do nơi ly mà được ly”.

Vì sao ? Vì nếu pháp có định tướng, thì chẳng phải là không, tức là thường; mà đã là thường, thì chẳng có sanh tướng. Nếu các pháp ở quá khứ, hiện tại và vị lai là không thì cũng chẳng có sanh tướng. Nếu chẳng có sanh tướng thì cũng chẳng có diệt tướng. Nếu chẳng có sanh diệt tướng thì chẳng có 4 thánh đế “khổ, tập, diệt, đạo”’vậy.

Lại nữa, nếu nói “vô pháp” là thật pháp, là rốt ráo không, thì chẳng có Vô Thượng Bồ Đề, chẳng có Phật Bảo, chẳng có Pháp Bảo, chẳng có Tăng Bảo.

Bởi các lỗi lầm trên đây, nên nói là rốt ráo ly tướng vậy.

Bồ Tát biết rõ như vậy, nên ở nơi hết thảy pháp được thông đạt vô ngại. Rốt ráo ly là ly hết thảy tướng, kể cả “không tướng”. Vì sao ? Vì nếu chẳng ly “không”, thì chẳng gọi là rốt ráo ly được vậy.

Bởi vậy nên nói Bát Nhã Ba La Mật là rốt ráo ly, Vô Thượng Bồ Đề là rốt ráo ly, chẳng phải do nơi Bát Nhã Ba La Mật mà được Vô Thượng Bồ Đề, lại cũng chẳng phải do nơi ly mà được ly; Bồ Tát hành Bát Nhã Ba La Mật rốt ráo ly mà được Vô Thượng Bồ Đề rốt ráo ly; cả 2 pháp ly đó đều rốt ráo không, rốt ráo bất khả đắc cả.

Ngài Tu Bồ Đề biết rõ Phật dạy chỗ thâm tướng, nên bạch Phật : Bồ Tát hành đạo như vậy là hành thậm thâm nghĩa.

Phật dạy: Đúng như vậy, đúng như vậy ! Bồ Tát thường làm các việc rất khó làm, thường được thậm thâm nghĩa, nên chẳng tác chứng Nhị Thừa. Vì sao ? Vì Bồ Tát nhất tâm làm việc lợi ích cho chúng sanh thâm nhập vào pháp không, mà chẳng chứng Niết Bàn. Thật là việc rất khó làm vậy.

Ngài Tu Bồ Đề bạch Phật ; Như chỗ con hiểu, nương theo lời Phật dạy thì việc làm của Bồ Tát.chẳng phải là việc khó làm. Vì sao ? Vì Bồ Tát chẳng đắc thâm nghĩa đó để tác chứng, chẳng đắc Bát Nhã Ba La Mật để tác chứng, cũng chẳng phải là người tác chứng vậy. Người chứng được thâm nghĩa, mà chẳng tác chứng, mới là chứng thâm nghĩa vậy.

 Ngựời dụng vô sở đắc mà hành Bồ Tát đạo, mới là người sẽ được Vô Thượng Bồ Đề; Bồ Tát hành đạo như vậy, nên minh chiếu được hết thảy các pháp.

Hỏi: Phật nói Bồ Tát làm những việc rất khó làm; ngài Tu Bồ Đề lại nói việc làm của Bồ Tát chẳng phải là việc khó làm. Như vậy, giữa Phật và vị đại đệ tử của Phật có quan điểm sai khác nhau chăng ?

Đáp: Phật vì đại chúng đã dùng thế đế, nên nói là khó làm. Ngài Tu Bồ Đề dùng đệ nhất nghĩa đế, nên nói là chẳng khó làm. Phật vì chúng sanh nói, “Bồ Tát làm những việc rất khó làm’’. Có người nghe nói như vậy liền phát tâm. Nhưng cũng có người nghe nói đến việc khó làm, liền thối tâm.

Bởi vậy nên ngài Tu Bồ Đề nói, “Chỗ sở hành của Bồ Tát chẳng phải là khó”.

Bồ Tát dụng tâm vô sở đắc tu Bồ Tát hạnh, trú trong hạnh vô sở đắc, nên ở nơi hết thảy pháp được thông đạt vô ngại. Nếu có Bồ Tát nào nghe các pháp rốt ráo ly, chẳng có pháp khả chứng, chẳng có người thủ chứng, chẳng có Bát Nhã Ba La Mật cũng chẳng có Vô Thượng Bồ Đề, mà chẳng sanh tâm sợ hãi, thì phải biết vị Bồ Tát ấy, ở nơi hết thảy pháp, đều được thông đạt, vô ngại vậy. Hành Bát Nhã Ba La Mật như vậy là chánh hành thâm Bát Nhã Ba La Mật. Vì sao ? Vì hành như vậy, Bồ Tát chẳng thấy có Bát Nhã Ba La Mật, chẳng thấy mình hành Bát Nhã Ba La Mật, chẳng thấy có Vô Thượng Bồ Đề, chẳng thấy có pháp Vô Thượng Bồ Đề để đắc, vì hết thảy, pháp đều là vô phân biệt.

Bồ Tát trú trong thật tướng pháp, nên chẳng có dấy tâm phân biệt, chẳng nghĩ rằng, “Nhị Thừa xa ta; ta gần Phật đạo”. Ví như hư không, chẳng dấy niệm phân biệt, Bồ Tát hành Bát Nhã Ba La Mật cũng chẳng dấy niệm phân biệt, vì Bát Nhã Ba La Mật cũng như hư không đều là vô phân biệt. Ví như người thợ làm gỗ, do có chỗ đặt hàng mới làm ra các người gỗ, ngựa gỗ, dê gỗ v.v…; các tượng gỗ ấy tùy theo công việc mà được làm ra, nhưng đều là vô phân biệt. Cũng như vậy, do có chỗ tu tập mà thành tựu các công đức, nhưng Bát Nhã Ba La Mật là vô phân biệt vậy.

Đến đây, ngài Xá Lợi Phất hỏi ngài Tu Bồ Đề : Chỉ có Bát Nhã Ba La Mật là vô phân biệt, hay 5 Ba La Mật kia cũng là vô phân biệt ?

Ngài Tu Bồ Đề đáp : Tất cả 5 Ba La Mật kia cũng là vô phân biệt. Thế nhưng, đối với hàng Bồ Tát sơ phát tâm, do chưa được vô sanh pháp nhẫn, nên còn thấy có phân biệt. Ví như nhiều con sông chảy về biển; khi còn đang trên đường chảy về biển, thì mỗi con sông đều phân biệt, đều có tên riêng khác, khi đã chảy vào biển rồi, thì nước từ các con sông ấy đã hòa đồng với nhau, chẳng còn sai khác nhau nữa. Bồ Tát cũng như vậy, khi còn ở trong thế tục, thì còn thấy các pháp có sai khác; khi đã vào trong đệ nhất nghĩa đế rồi, thì chẳng còn thấy có sai khác nữa, chẳng còn có phân biệt nữa.

Ngài Xá Lợi Phất hỏi : Nếu sắc … dẫn đến Vô Thượng Bồ Đề, vô vi tánh đều vô phân biệt, thì làm sao phân biệt được chúng sanh trong 6 đường sanh tử ?

Ngài Tu Bồ Đề đáp : Tuy các pháp là rốt ráo không, là vô phân biệt, nhưng chúng sanh điên đảo tạo nên 3 nghiệp ở thân khẩu và ý, rồi tùy theo nghiệp dẫn mà thọ thân vào trong 6 đường chúng sanh vậy. Các nghiệp báo mà chúng sanh gây nên đều do tham dục làm gốc. Chỉ vì bị dục tâm bức bách, mà chúng sanh khởi tâm chấp, chẳng biết rằng các pháp vốn tà tự tướng không, chẳng có định tướng. Đã tạo nghiệp, thì phải thọ quả báo sanh vào 6 đường chúng sanh vậy.

Ngài Xá Lợi Phất lại hỏị : Làm sao phân biệt có quả Tu Đà Hoàn … dẫn đến có quả Phật ?

Ngài Tu Bồ Đề đáp : Tu Đà Hoàn là quả vị Thánh đầu tiên. Hành giả tu rốt ráo không, tu vô phân biệt, nên đoạn được 3 kiết sử, được quả Tu Đà Hoàn. Đoạn 3 kiết sử tức là đoạn tâm điên đảo, tức là vào được nơi không, nơi vô sở hữu, nơi vô phân biệt vậy.

Do thế đế mà giả danh nói có quả Tu Đà Hoàn, quả Tư Đà Hàm, quả A Na Hàm, quả A La Hán, quả Bích Chi Phật … dẫn đến quả vị Phật vậy. Do thế đế mà giả danh nói có quả Tu Đà Hoàn, quả Tư Đà Hàm, quả A Na Hàm, quả A La Hán, quả Bích Chi Phật … dẫn đến quả Phật vậy. Tất cả các quả vị đó đều là rốt ráo không, đều là vô phân biệt cả. Chẳng phải chỉ hiện tại là vô phân biệt, mà quá khứ và vị lai cũng đều như vậy cả. Chư Phật trong quá khứ cũng do vô phân biệt mà vào được Vô Dư Niết Bàn; chư Phật trong vị lai cũng sẽ do vô phân biệt, mà sẽ vào Vô Dư Niết Bàn. Chẳng có một pháp nào có thể phân biệt được, vì hết thảy pháp đều rốt ráo không. Nếu biết được như vậy là vào được nơi thật tướng pháp, nơi như pháp tánh thật tế vậy. Bởi vậy nên Bồ Tát phải hành vô phân biệt Bát Nhã Ba La Mật. Hành được vô phân biệt Bát Nhã Ba La Mật rồi, là liền được vô phân biệt Vô Thượng Bồ Đề.

***

Phẩm thứ sáu mươi lăm
Độ Hư Không

KINH:

Ngài Xá Lợi Phất hỏi ngài Tu Bồ Đề : Thưa ngài Tu Bồ Đề ! Bồ Tát hành Bát Nhã Ba La Mật là hành pháp chân thật; hay là hành pháp không chân thật?

Ngài Tu Bồ Đề đáp : Thưa ngài Xá Lợi Phất ! Bồ Tát hành Bát Nhã Ba La Mật là hành pháp không chân thật. Vì sao ? Vì Bát Nhã Ba La Mật là pháp không chân thật … dẫn đến nhất thiết chủng trí là pháp không chân thật.

Bồ Tát hành Bát Nhã Ba La Mật là hành pháp không chân thật, là hành pháp chẳng thể đắc … dẫn đến hành nhất thiết chủng trí là hành pháp không chân thật, là hành pháp chẳng thể đắc vậy.

Lúc bấy giờ, hàng chư Thiên cõi Dục và cõi Sắc nghĩ rằng : Các Thiện Nam, Thiện Nữ phát Vô Thượng Bồ Đề tâm, đúng như thuyết, hành thâm Bát Nhã Ba La Mật, trú nơi bình đẳng pháp, nên chẳng tác chứng thật tế, chẳng lạc về Thanh Văn và Bích Chi Phật địa. Những người như vậy đáng được chúng ta cung kính, đảnh lễ.

Ngài Tu Bồ Đề nói : Thưa chư vị Thiên Tử ! Chư Đại Bồ Tát trú nơi bình đẳng pháp, mà chẳng lạc về Thanh Văn và Bích Chi Phật địa chẳng có gì là khó. Chư đại Bồ Tát phát nguyện trang nghiêm “đại ngã”, là độ vô lượng vô biên chúng sanh; biết rõ chúng sanh là bất khả đắc, mà nguyện độ vô lượng vô biên chúng sanh như vậy mới thật là khó.

Thưa chư vị Thiên Tử ! Chư đại Bồ Tát phát Vô Thượng Bồ Đề tâm, thệ nguyện rằng, “Ta phải độ hết thảy chúng sanh”. Chúng sanh là bất khả đắc, mà Bồ Tát muốn độ hết thảy chúng sanh chẳng khác gì muốn độ hư không vậy.

Vì sao ? Vì hư không là ly, cho nên biết chúng sanh cũng là ly; hư không là không, cho nên biết chúng sanh cũng là không; hư không là chẳng kiên cố; cho nên biết chúng sanh cũng là chẳng kiên cố, hư không là hư vọng, cho nên biết chúng sanh cũng là hư vọng.

Này chư vị Thiên Tử ! Bởi nhân duyên vậy, nên biết chỗ làm của Bồ Tát rất khó. Chúng sanh là chẳng có, nên làm lợi ích cho chúng sanh là đại trang nghiêm. Bồ Tát vì chúng sanh mà kết thệ nguyện muốn cùng hư không đấu tranh. Khi đã kết thệ rồi, Bồ Tát rõ chúng sanh là bất khả đắc, mà vẫn vì chúng sanh kết thệ.

Vì sao ? Vì chúng sanh là ly, cho nên biết lời thệ nguyện cũng ly; vì chúng sanh là như hư không, cho nên biết lời thệ nguyện cũng như hư không.

Nếu Bồ Tát nào nghe như vậy, mà tâm chẳng sợ hãi, chẳng chìm đắm, thì phải biết đó là vị Bồ Tát hành Bát Nhã Ba La Mật.

Vì sao ? Vì 5 ấm ly tức là chúng sanh ly; 5 ấm ly tức là 6 pháp Ba La Mật ly; dẫn đến nhất thiết chủng trí ly tức là 6 pháp Ba La Mật ly.

Nếu Bồ Tát nào nghe như vậy, mà tâm chẳng sợ hãi, chằng chìm đắm, thì phải biết đó là vị Bồ Tát hành Bát Nhã Ba La Mật.

Phật dạy: Này Tu Bồ Đề ! Vì nhân duyên gì mà Bồ Tát ở nơi thâm Bát Nhã Ba La Mật chẳng sợ hãi, chẳng chìm đắm ?

Ngài Tu Bồ Đề bạch Phật : Bạch Thế Tôn ! Vì Bát Nhã Ba La Mật là vô sở hữu, nên Bồ Tát ở nơi thâm Bát Nhã Ba La Mật chẳng có chìm đắm. Vì Bát Nhã Ba La Mật là ly, là tịch diệt, nên Bồ Tát ở nơi Bát Nhã Ba La Mật chẳng có chìm đắm. Vì sao ? Vì Bồ Tát chẳng thấy có nhân duyên khả đắc, có pháp khả đắc, có trú xứ khả đắc, có người đắc pháp,vì hết thảy pháp đều là bất khả đắc.

Bạch Thế Tôn ! Nếu Bồ Tát nào nghe như vậy, mà tâm chẳng sợ hãi chẳng chìm đắm, thì phải biết đó là vị Bồ Tát hành Bát Nhã Ba La Mật.

Vì sao ? Vì người, việc và xứ đểu là bất khả đắc cả.

Nếu Bồ Tát nào y như vậy mà hành Bát Nhã Ba La Mật, thì các chư Thiên, cùng các vị Thiên Chủ đều phải đảnh lễ:

Phật dạy: Này Tu Bồ Đề ! Chẳng những hàng chư Thiên và chư Thiên Chủ đều đảnh lễ; mà hiện tại ở trong khắp 10 phương, chư Phật cũng đều hộ niệm vị Bồ Tát ấy.

Này Tu Bồ Đề ! Phải biết vị Bồ Tát ấy là như Phật rồi vậy.

Nếu trong hằng sa thế giới đều có vô lượng ma biến hoá ra các thân đến quấy nhiễu vị Bồ Tát hành Bát Nhã Ba La Mật ấy, thì cũng chẳng sao có thể gây lưu nạn được.

LUẬN:

Nghe nói pháp tướng là vô phân biệt, ngài Xá Lợi Phất hết sức vui mừng, và hỏi ngài Tu Bồ Đề rằng : Hành Bát Nhã Ba La Mật là hành pháp chân thật, hay là hành pháp chẳng chân thật?

Ngài Tu Bồ Đề nghĩ rằng, “Pháp chân thật là định pháp, chẳng có biến đổi, có thể thủ, có thế chấp; còn pháp chẳng chân thật là pháp hư dối. Lại nữa, ngài Tu Bồ Đề thường ưa hành pháp không, tâm chẳng chướng ngại, nên đáp lại : Hành Bát Nhã Ba La Mật tức là hành pháp chẳng chân thật ?

Vì sao ? Vì Bát Nhã Ba La Mật là chẳng có định tướng, là vô phân biệt, …  dẫn đến nhất thiết chủng trí cũng là như vậy. Bồ Tát đã từ nhiều đời trước tu tập Bát Nhã Ba La Mật, nên nay trở lại trong sanh tử cũng tiếp tục hành Bát Nhã Ba La Mật. Bồ Tát biết rõ pháp hữu vi là bất khả đắc, biết rõ 3 đời đều do nhân duyên sanh, đều là hư vọng, lại biết rõ Bát Nhã Ba La Mật chẳng phải là pháp chẳng thể chấp, nên quán hết thảy chúng sanh đều là chẳng chân thật, chẳng thể chấp. Bồ Tát cũng biết rõ Bát Nhã Ba La Mật, xét về thế đế, là pháp chân thật, còn xét về đệ nhất nghĩa đế là pháp bất khả đắc, chẳng chân thật.

Lúc bấy giờ, trong chúng hội có nhiều người phát Bồ Đề tâm, muốn đảnh lễ vị Bồ Tát làm việc khó làm, đó là hành đệ nhất thâm nghĩa mà chẳng tác chứng. Hành đệ nhất nghĩa, ở nơi đây, cũng là hành bình đẳng pháp vậy.

Ngài Tu Bồ Đề bèn nói với hàng chư Thiên( Thiên hay thên) rằng : Bồ Tát trú trong bình đẳng pháp mà chẳng tác chứng, chưa phải là việc khó; biết chúng sanh là bất khả đắc, mà muốn độ vô lượng chúng sanh mới thật là khó làm.  Vì sao ? Vì Bồ Tát muốn độ chúng sanh như độ hư không, mà hư không là ly, là không, là chẳng kiên cố, là hư vọng, nên chúng sanh cũng là như vậy.

Hỏi: “Trú nơi bình đẳng pháp mà chẳng tác chứng”, “Biết chúng sanh là bất khả đắc mà muốn độ vô lượng chúng sanh” đều là những việc làm rốt ráo không. Vì sao nói có việc dễ làm, có việc khó làm?

Đáp: Chúng sanh là hư dối, giả danh có, nên còn có chỗ chấp; bình đẳng pháp là vô vi, nên chẳng có chỗ chấp. Lại nữa, chúng sanh từ nơi hữu vi mà giả danh sanh; còn vô vi là đệ nhất nghĩa. Như vậy, ở nơi chỗ điên đảo chấp, mà thường chẳng chấp mới là khó; còn ở nơi vô chấp mà chấp là chẳng thể có được vậy.

Vì sao ? Vì chúng sanh là không, nên đại trang nghiêm cũng không. Nếu ở nơi đại trang nghiêm không, mà thường phát tâm mới thật là việc khó làm.

Bồ Tát nghe “đệ nhất bình đẳng nghĩa” và “đại trang nghiêm độ vô lượng chúng sanh” đều là rốt ráo không, mà chẳng sanh tâm sợ hãi.

Ví như chim đà điểu thấy bóng mình in trên mặt đất mà chẳng sợ hãi, vì biết rõ bóng từ nơi thân nó mà có.

Cũng như vậy, Bồ Tát biết rõ các pháp hữu vi do nhân duyên hòa hợp mà hư vọng được tạo lập ra, nhưng đều rốt ráo là không, là bất khả đắc, nên nghe nói đến các sự việc như trên mà chẳng sanh tâm sợ hãi.

Như vậy là Bồ Tát do hành Bát Nhã Ba La Mật mà biết rõ các sắc pháp đều là ly, nên chúng sanh cũng là ly. Ly có nghĩa không. Nếu chúng sanh không mà các pháp chẳng phải là không, thì mới sợ hãi. Nay biết chúng sanh cùng hết thảy pháp đều không, nên chẳng có sợ hãi vậy.

Bồ Tát nào nghe nói hết thảy pháp đều ly tướng mà chẳng sanh tâm sợ hãi, thì phải biết đó là vị Bồ Tát hành Bát Nhã Ba La Mật.

Hỏi: Các vị đệ tử của Phật đều là những bậc đại trí. Như vậy vì sao Phật còn nói, “Bồ Tát nào nghe như vậy mà chẳng sanh tâm sợ hãi mới là vị Bồ Tát hành Bát Nhã Ba La Mật” ?

Đáp: Vì trong chúng hội có nhiều người nghe nói đến chỗ sở hành của Bồ Tát như vậy, còn nghi, nhưng chẳng dám hỏi Phật, nên Phật phải nói như trên đây.

“Đệ nhất bình đẳng nghĩa” rất thâm sâu, khó biết, nên người nghe sanh tâm chìm đắm. Vì chẳng thấu hiểu được thâm nghĩa đó, nên người nghe sanh tâm sợ hãi. Chỉ có những bậc thượng trí mới biết chỗ nào cần thưa hỏi vậy.

Bởi nhân duyên vậy, nên Phật cử ngài Tu Bồ Đề làm vị pháp chủ, để những người tham dự pháp hội dễ dàng thưa hỏi.

Hỏi: Phật là bậc Nhất Thiết Trí, sao chẳng tự làm vị pháp chủ, mà lại cử ngài Tu Bồ Đề làm thay ?

Đáp: Vì trong chúng hội có nhiều người nghĩ rằng, “Phật có trí huệ vô lượng, vô biên, mà mình chỉ có trí huệ hạn lượng”, nên sợ chẳng dám thưa hỏi.

Lại nữa, có người nghĩ rằng, “Chư vị A La Hán và Bích Chi Phật đã được lậu tận, nói pháp dễ được người nghe theo; còn chư vị Bồ Tát, tuy đã tu tập vô lượng công đức, nhưng chưa sạch kiết sử, nên nói pháp ít được người nghe theo. Người độn căn nghe Bồ Tát nói pháp khó sanh tâm tín thọ”.

Hỏi: Ngài Xá Lợi Phất là bậc trí huệ đệ nhất. Vì sao Phật chẳng bảo ngài làm vị pháp chủ ?

Đáp: Vì ngài Tu Bồ Đề thường ưa nói về pháp không, mà Bát Nhã Ba La Mật giải rộng về pháp không, nên Phật bảo ngài Tu Bồ Đề làm vị pháp chủ, nói về pháp không.

–oOo–

Ngài Tu Bồ Đề bạch Phật : Hết thảy pháp đều là rốt ráo không, đều là vô sở hữu, nên đều là tự tướng ly. Vì là ly tướng, nên thường tịch diệt; vì là tịch diệt, nên chẳng có ức tưởng phân biệt vậy. Bồ Tát biết rõ như vậy, nên chẳng có sợ hãi, chẳng có chìm đắm. Bồ Tát nào biết rõ các pháp đều là bất khả đắc, mà chẳng có sợ hãi, chẳng có chìm đắm, thì phải biết đó là vị Bồ Tát hành Bát Nhã Ba La Mật. Bồ Tát hành như vậy, thì các hàng chư Thiên cùng các vị Thiên Chủ đều phải đảnh lễ.

Vì sao ? Vì chư Thiên ở cõi Dục gần với chúng sanh, và được chung sanh tôn kính, nên ngài Tu Bồ Đề nói, “Chư Thiên phải đảnh lễ”, để tạo niềm tin nơi chúng sanh, khiến họ sanh tâm tin kính chư vị Bồ Tát hành Bát Nhã Ba La Mật vậy.

Lại nữa, Bồ Tát bỏ niềm vui riêng của mình, để làm các việc lợi ích cho chúng sanh, khiến họ được an vui; còn hàng chư Thiên thì thường chỉ cầu lợi ích cho riêng mình. Bởi vậy nên Bồ Tát xứng đáng được sự cung kính, cúng dường của chư Thiên, xứng đáng được chư Thiên đảnh lễ vậy.

Phật dạy : Chẳng những hàng chư Thiên ở cõi Dục, mà chư Thiên ở các cõi khác, đã tu thanh tịnh hạnh, đều phải đảnh lễ chư Bồ Tát hành Bát Nhã Ba La Mật.

Vì sao ? Vì chư Thiên ở cõi Dục chỉ mới được Sơ Thiền, giác quán còn tán loạn, có đến đảnh lễ Bồ Tát hành Bát Nhã Ba La Mật, thì đó chưa thể gọi là diệu. Chư Thiên tu hành thanh tịnh ở các cõi khác, vì thán phục công đức của Bồ Tát ấy, mà đến chúc lễ, mới là vi diệu. Phật dạy thêm : Bồ Tát hành Bát Nhã Ba La Mật như vậy, được chư Phật ở khắp 10 phương thường hộ niệm. Bồ Tát tu tập như vậy được quả báo sẽ được làm Phật, nên được xem như là Phật rồi vậy. Bồ Tát tu tập như vậy, quyết định sẽ đến Vô Thượng Bồ Đề, trọn chẳng còn thối chuyển, khiến các ác ma chẳng còn có thể phá hoại được nữa.

(Hết Quyển 78)