LUẬN
ĐẠI TRÍ ĐỘ

Nguyên tác: Bồ tát Long Thọ
Hán dịch: Pháp sư Cưu Ma La Thập
Việt dịch: Tỳ kheo ni THÍCH NỮ DIỆU KHÔNG

 

TẬP IV
QUYỂN 74

Phẩm thứ năm mươi sáu
(Tiếp theo)
Chuyển, Bất chuyển
(Tiếp theo)

KINH:

Này Tu Bồ Đề! Nay ta sẽ nói về hạnh loại và tướng mạo của bậc Bồ Tát bất thối chuyển. Ông hãy nhất tâm lắng nghe.

Bồ Tát hành Bát Nhã Ba La Mật thường chẳng xa lìa Vô Thượng Bồ Đề, nên:

– Chẳng ưa nói các sự việc về 5 ấm, 12 nhập, 18 giới. Vì sao? Vì thường quán 5 ấm, 12 nhập, 18 giới là tự tướng không.

– Chẳng ưa nói các sự việc về vua quan. Vì sao? Vì an trú nơi pháp tướng không, nên chẳng thấy có cao hạ, có sang hèn.

– Chẳng ưa nói các sự việc về trộm cướp. Vì sao? Vì an trú nơi pháp tướng không nên chẳng thấy có được, có mất.

– Chẳng ưa nói các sự việc vể đấu tranh, giặc giã.

Vì sao? Vì an trú nơi pháp tướng không, nên chẳng thây có thương, có ghét.

Chẳng ưa nói các sự việc về phái nữ. Vì sao? Vì an trú nơi pháp tướng không nên chẳng thấy có đẹp, có xấu.

Chẳng ưa nói các sự việc vệ tụ lạc, thành ấp, xóm làng. Vì sao? Vì an trú nơi pháp tướng không nên chẳng thấy có hợp, có tan.

Chẳng ưa nói về quốc sự. Vì sao? Vì an trú nơi thật tế nên chẳng thấy có gì hệ thuộc nơi đó, hay chẳng hệ thuộc nơi đó.

Chẳng ưa nói các sự việc về thành bại. Vì sao? Vì an trú nơi thật tế, nên chẳng thấy có hơn, có thua.

Chẳng ưa nói các sự việc về chính mình. Vì sao? Vì an trú nơi pháp tánh, nên chẳng thấy có ngã, có vô ngã… dẫn đến chẳng thây có tri giả, có kiến giả.

Như vậy, này Tu Bồ Đề! Bồ Tát Chẳng ưa nói các sự việc thế gian, mà chỉ ưa nói Bát Nhã Ba La Mật nên chẳng xa lìa Tát Bà Nhã tâm.

Bồ Tát hành Đàn Ba La Mật nên chẳng có xan tham, hành Thi La Ba La Mật nên chẳng có phá giới, hành Sẵn Đề Ba La Mật nên chẳng có sân nhuế, hành Tỳ Lê Gia Ba La Mật nên chẳng có giải đãi, hành Thiền Na Ba La Mật nên chẳng có tá loạn, hành Bát Nhã Ba La Mật nên chẳng có ngu si.

Bồ Tát tuy hành tất cả các pháp không, nhưng vẫn ưa chánh pháp và mến chánh pháp, tuy hành pháp tánh, nhưng vẫn tán thán bất hoại pháp, vẫn mến chư thiện tri thức, chư Thanh Văn, chư Bích Chi Phật, chư Bồ Tát và chư Phật, là những vị đã giáo hóa mình, đẫn dắt mình đến Vô Thượng Bồ Đề.

Bồ Tát thường nguyện được thấy chư Phật, nên khi nghe ở quốc độ nào có Phật, là liền nguyện vãng sanh về cõi nước đó, để ngày đêm thường được niệm Phật.

Bồ Tát thường ở trong định, từ Sơ Thiền… dẫn đến Phi Hữu Tưởng Phi Vô Tưởng định, dùng lực phương tiện Bát Nhã Ba La Mật phá hủy dục giới tâm, vì biết rõ ở đâu có chúng sanh tu tập 10 thiện đạo là ở nơi đó có Phật.

Nếu Bộ Tát nào có hạnh loại và tướng mạo như trên đây, thì phải biết đó là bậc đại Bồ Tát bất thối chuyển.

Lại nữa, này Tu Bồ Đề! Khi thật hành Bát Nhã Ba La Mật, Bồ Tát an trú nơi nội không… dẫn đến nơi vô pháp hữu pháp không, an trú nơi 4 niệm xứ … dẫn đến nơi 3 giải thoát môn “không, vô tướng và vô tác”. Ở nơi tự địa của mình, Bồ Tát tự biết rõ, chẳng chút nghi ngờ rằng mình là, hay mình chẳng phải là bậc bất thối chuyển. Vì sao? Vì ở nơi Vô Thượng Bồ Đề, Bồ Tát chẳng thấy có pháp chuyển hay bất chuyển.

Này Tu Bồ Đề! Ví như người được quả Tu Đà Hoàn, an trú nơi tự địa của mình tự biết rõ ràng, chẳng chút nghỉ ngờ gì cả. Cũng như vậy, Bồ Tát bất thối chuyển an trú nơi tự địa của mình, tự biết rõ ràng, chẳng chút nghi ngờ gì cả.

Này Tu Bồ Đề! Ví như người phạm tội “ngũ nghịch” thì tâm tội đó chẳng bao giờ rời bỏ người ấy, đù đến chết cũng chẳng thôi dứt được. Cũng như vậy, Bồ Tát an trú trong bất thối chuyển địa thường giữ tâm bất động, chẳng gì lay chuyển được. Tất cả các hàng Trời, Người, A Tu La, ở trong khắp 3 cõi chẳng có thể làm lay động tâm Bồ Tát được. Vì sao? Vì Bồ Tát này vượt lên trên tất cả hàng Trời, Người và A Tu La, vào chánh pháp vị, an trú nơi bất thối chuyển địa, đầy đủ các lực thần thông, thường thành tựu chúng sanh, thanh tịnh Phật độ. Bồ Tát này lại chu du khắp 10 phương, đi từ Phật độ này đến Phật độ khác để gieo trồng thiện căn, tìm gặp chư thiện tri thức, thân cận và thưa hỏi chư Bồ Tát và chư Phật. Bồ Tát này an trú như vậy nên khi có ma sự dấy khởi liền hay biết, chẳng tùy theo ma sự, mà lại dùng lực phương tiện Bát Nhã Ba La Mật đặt ma sự vào nơi pháp tánh thật tế, tự chứng giải thoát cho chính mình. Vì sao? Vì ở nơi pháp tánh thật tế chẳng có nghi tướng, thật tế là chẳng phải 1, chẳng phải 2. Bởi vậy nên khi chuyển thân, Bồ Tát này vẫn chẳng lạc về Thanh Văn và Bích Chi Phật địa. Ở nơi các pháp tự tướng không, Bồ Tát này chẳng thấy có pháp sanh hay diệt, cũng chẳng thấy có pháp cấu hay tịnh.

Này Tu Bồ Đề! Bồ Tát chuyển thân mà trọn chẳng chút nghi ngờ rằng mình sẽ được, hay sẽ chẳng được Vô Thượng Bồ Đề. Vì sao? Vì các pháp tự tướng không đó cũng chính là Vô Thượng Bồ Đề.

Này Tu Bồ Đề! Bồ Tát bất thối chuyển chẳng nghe theo lời người khác, nên chẳng ai có thể phá hoại được. Vì sao? Vì Bồ Tát này đã thành tựu được trí huệ bất động.

Nếu Bồ Tát nào có hạnh loại và tướng mạo như trên đây, thì phải biết đó là bậc đại Bồ Tát bất thối chuyển.

Lại nữa, này Tu Bồ Đề! Có ác ma hiện thân Phật đến nói với Bồ Tát rằng: Ông nên tu chứng quả vị A La Hán. Ông chưa được vô sanh pháp nhẫn, chẳng có thể được thọ ký Vô Thượng Bồ Đề đâu.

Bồ Tát bất thối chuyển nghe nói như vậy, trọn chẳng kinh, chẳng hãi, chẳng sợ, cũng chẳng nghi mà quyết định tự biết là mình sẽ được thọ ký Vô Thượng Bồ Đề. Vì sao? Vì Bồ Tát tự niệm rằng: Trong quá khứ chư Bồ Tát đã tu pháp như vậy mà đã được thọ ký, nay ta tu pháp như vậy ắt sẽ được thọ ký vậy.

Này Tu Bồ Đề! Có ác ma hiện thân Phật đến thọ ký quả Thanh Văn, quả Bích Chi Phật cho Bồ Tát.

Bồ Tát bất thối chuyển thấy như vậy, liền tự niệm rằng: Đây là ma giả hiện thân Phật để tác pháp như vậy. Chư Phật chẳng bao giờ khuyên Bồ Tát xả ly Vô Thượng Bồ Đề để an trú nơi các quả Thanh Văn và Bích Chi Phật.

Nếu Bồ Tát nào có hạnh loại và tướng mạo như trên đây, thì phải biết đó là bậc đại Bồ Tát bất thối chuyển.

Này Tu Bồ Đề! Có ác ma hiện thân Phật đến chỗ Bồ Tát mà nói rằng: Kinh sách mà ông học bấy lâu nay chẳng phải là do Phật thuyết ra.

Bồ Tát bất thối chuyển nghe nói như vậy, liền tự niệm rằng: Đây là ma giả hiện thân Phật đến bảo ta xả ly Vô Thượng Bồ Đề.

Nếu Bồ Tát nào có hạnh loại và tướng mạo như trên đây, thì phải biết đó là bậc đại Bồ Tát bất thối chuyển.

Này Tu Bồ Đề! Phải biết vị Bồ Tát này đã được chư Phật quá khứ thọ ký, đã an trú trong Bất Thối Chuyển địa. Vị Bồ Tát này khi hành Bát Nhã Ba La Mật, thường hộ trì chánh pháp chẳng tiếc thân mạng, tự niệm rằng: Ta hộ trì chánh pháp của một đức Phật là hộ trì chánh pháp của 10 phương 3 đời chư Phật. Bởi vậy nên ta phải xả thân làm các việc lợi ích cho chúng sanh, chẳng nên tiếc thân mạng.

Này Tu Bồ Đề! Phật thuyết hết thảy pháp đều rốt ráo không. Người vô trí chẳng hiểu được thâm diệu nghĩa, nên chẳng tín thọ, cho đó chẳng phải là lời Phật. Bồ Tát hộ trì pháp “không” mà chẳng tiếc thân mạng, vì tự niệm rằng, vào đời vị lai ta cũng sẽ được thọ ký làm Phật. Pháp chân thật đó cũng chính là pháp của ta. Bởi vậy nên ta phải hộ trì pháp ấy mà chẳng tiếc thân mạng.

Nếu Bồ Tát nào có hạnh loại và tướng mạo như trên đây, thì phải biết đó là bậc đại Bồ Tát bất thối chuyển.

Này Tu Bồ Đề! Bồ Tát bất thối chuyển vừa nghe Phật thuyết pháp, liền thọ trì, chẳng nghi, nghe xong là liền ghi nhớ, chẳng có quên sót. Vì sao? Vì đã được đà la ni vậy.

Ngài Tu Bồ Đề bạch Phật: Bạch Thế Tôn! Bồ Tát được đà la ni gì mà vừa nghe Phật thuyết là liền ghi nhớ, chẳng nghi, chẳng quên sót?

Phật dạy: Này Tu Bồ Đề! Bồ Tát này được “văn trì đà la ni” nên nghe kinh pháp của ta liền ghi nhớ, chẳng nghi, chẳng quên sót.

Ngài Tu Bồ Đề bạch Phật: Bạch Thế Tôn! Bồ Tát này chẳng nghi, chẳng quên kinh pháp của Phật dạy. Thế thì các kinh pháp của Thanh Văn và Bích Chi Phật, các lời nói của hàng Thiên Long Bát Bộ thì Bồ Tát này nghi và quên chăng?

Phật dạy: Này Tu Bồ Đề! Do được “văn trì đà la ni”, nên khi nghe kinh pháp nào rồi, nghe lời nói nào rồi thì Bồ Tát này liền ghi nhớ, chẳng nghi, chẳng quên sót nữa.

Nếu Bồ Tát nào có hạnh loại và tướng mạo như trên đây, thì phải biết đó là bậc đại Bồ Tát bất thối chuyển.

LUẬN:

Phật muốn nói rõ thêm về hạnh loại và tướng mạo của Bồ Tát bất thối chuyển, nên đã bảo ngài Tu Bồ Đề hãy nhất tâm lắng nghe cho kỹ.

Bồ Tát bất thối chuyển thường chẳng xa rời Vô Thượng Bồ Đề, chỉ ưa tu tập pháp “không”, chẳng ưa nghe nói các sự việc về 5 ấm, về 12 nhập, về 18 giới, chẳng ưa nghe nói các sự việc thế gian, như về vua quan, quyền thế, giặc giã v.v…

Bồ Tát biết rõ thế gian là vô thường, là nhà lửa thiêu đốt chúng sanh. Vì thương xót chúng sanh nên Bồ Tát tự niệm: Ta chưa thành đạo, chưa có đầy đủ các lực phương tiện để cứu độ chúng sanh, thì ta chớ nên buông lung, phóng tâm theo các việc thế gian, vô ích.

Bồ Tát biết rõ hết thảy pháp đều là “không”, là bất khả đắc, nên dù vẫn dùng 6 thức mà vẫn thường hướng về pháp “không”, thường hành và thường thuyết pháp “không”. Bồ Tát vẫn thường dụng tâm vô sở đắc, tu tập thiền định, trí huệ, hướng về Vô Thượng Bồ Đề.

Bồ Tát vẫn thứ lớp tu tập các pháp, trú trong pháp tánh không để phân biệt rõ các pháp, mà vẫn chẳng phá hoại các pháp tướng. Bồ Tát chẳng chấp pháp tánh, nhưng vì thương xót chúng sanh, mà phân biệt nói có thiện pháp, có bất thiện pháp v.v… Bồ Tát vì chúng sanh nói rõ như vậy, mà vẫn tán thán thật tướng pháp tánh bất hoại.

Vì muốn đưa chúng sanh vào nơi thật tướng pháp tánh, nên Bồ Tát vẫn thường an trú nơi thật tướng pháp tánh, thân cận với những người có công đức, có trí huệ, để tùy phương tiện đưa họ an trú nơi thật tướng pháp tánh.

Bồ Tát tuy thường hằng ở trong thiền định, nhưng thương xót chúng sanh nên phát thệ nguyện, thị hiện sanh về cõi Dục, lưu hoặc, để độ thoát chúng sanh.

Bồ Tát thông đạt nội ngoại không, mà chẳng chấp “không”. Do đã thâm nhập Bát Nhã Ba La Mật nên Bồ Tát vào được Bất Thối Chuyển địa.

-o0o-

Nên biết rằng, người chẳng thấy được chỗ chuyển và chỗ bất chuyển của các pháp thì mới sanh nghi tâm, trái lại, Bồ Tát đã thấy rõ chỗ chuyển và chỗ bất chuyển của các pháp rồi, nên chẳng sanh nghi tâm nữa.

Ví như người đi trong đêm tối, vừa thấy có bóng đen trước mặt đã nghi là có người đứng chận đường mình. Trái lại, Bồ Tát hành “vô tướng tam muội”, nên chẳng còn chấp tướng, chẳng khởi nghi tâm.

Phật nêu thí dụ hàng Thanh Văn, khi đã vào được sơ quả Tu Đà Hoàn, đã đoạn được 3 phần kiết sử, nên tự biết rõ là mình đã được vô lậu huệ, khiến ở nơi pháp Tứ Đế chẳng còn khởi nghi tâm nữa. Cũng như vậy, hàng Bồ Tát bất thối chuyển đã vào được nơi thật tướng pháp, đã biết rõ hết thảy pháp đều là rốt ráo không, đều là vô sở hữu xứ, nên chẳng còn khởi nghi tâm nữa.

Bồ Tất an trú nơi thật tướng pháp, mà giáo hóa chúng sanh, thanh tịnh Phật độ. Tâm Bồ Tát kiên cố, chẳng gì lay chuyển được, chẳng có ma sự gì có thể phá hoại được.

Phật nêu thí dụ người phạm tội “ngũ nghịch”, trọn đời bị tâm tội ấy ám ảnh, mãi cho đến khi chết cũng chẳng thôi dứt được. Cũng như vậy, Bồ Tát khi đã vào nơi Bất Thối Chuyển địa rồi, thì tâm trở nên kiên cố, bất động, khiến hàng Trời, Người, A Tu La chẳng có thể làm lay động được.

Bồ Tát này dùng lực Bát Nhã Ba La Mật quán hết thảy pháp, ở nơi thật tướng, đều là nhất tướng, là vô tướng, quán thân mình như thân Phật, nên đời đời chẳng lạc về Nhị Thừa địa.

Bồ Tát này lại biết rõ là mình sẽ được thọ ký Vô Thượng Bồ Đề, nên khi thấy ác ma giả hiện thân Phật đến thọ ký cho mình được quả Thanh Văn hay quả Bích Chi Phật, liền biết rõ đó chỉ là ma sự.

Bồ Tát này lại biết rõ là mình đã được vô sanh pháp nhẫn, đã được Phật thọ ký bất thối chuyển, nên khi thấy ác ma giả hiện thân Phật đến khuyên vứt bỏ các kinh sách đã học bấy lâu nay, cho rằng đó chẳng phải là lời Phật dạy, thì cũng liền biết ngay đó là ma sự.

Bồ Tát này, trong nhiều đời đã ái lạc Bát Nhã Ba La Mật, đã hộ trì thậm thâm pháp này, nên khi thấy có kẻ cuồng si manh tâm phá hoại, phỉ báng Bát Nhã Ba La Mật, liền thệ nguyện xả thân nhằn phá tán các tà kiến đó, đưa chúng sanh vào chánh đạo. Trên bước đường hành Bồ Tát đạo, nếu bị kẻ tà kiến đến hành hung, giết hại, Bồ Tát cũng nhẫn chịu, chẳng chút sợ hãi. Vì sao? Vì Bồ Tát nhất tâm hộ pháp, biết chắc đời sau mình sẽ được gặp Phật, nghe pháp, nên tự niệm rằng: Nếu vì lợi ích cho chúng sanh, vì hộ trì Phật pháp, mà ta phải xả bỏ thân mạng này, thì ta phải nên hoan hỷ nhẫn thọ. Chết như vậy thù thắng hơn là sống mà chẳng làm được lợi ích gì cho chúng sanh, chẳng hộ trì được Phật pháp.

Bồ Tát này đã được “văn trì đà la ni”, nên khi nghe Phật thuyết pháp, cũng như khi nghe các lời nói của hàng Thanh Văn, Bích Chi Phật, của các hàng Thiên Long Bát Bộ, đều liền ghi nhớ, chẳng có nghi, chẳng có quên sót.

-o0o-

Dựa theo lời dạy của Phật trên đây, nếu có vị Bồ Tát nào có các hạnh loại và tướng mạo như vậy, thì phải biết đó là bậc Bồ Tát bất thối chuyển.

Hỏi: Bồ Tát thành tựu những pháp sự gì mới vào được Bất Thối Chuyển địa?

Đáp: Kinh A Tỳ Đàm và luận Tỳ Bà Sa có nói. Bồ Tát trải qua 3 a tăng tỳ kiếp tu tập mới vào được Bất Thối Chuyển địa.

Lại có thuyết nói: Phải như tiền thân đức Phật Thích Ca Mâu Ni, thấy đức Phật Nhiên Đăng liền phát tâm cúng dường hương hoa và trải tóc để rước Phật đi qua, mới được thọ ký bất thối chuyển.

-o0o-

Các điều ghi trên đây mật ý nói rằng: Bồ Tát nghe Bát Nhã Ba La Mật rồi, tinh tấn tu tập 6 pháp Ba La Mật, có lực phương tiện Bát Nhã Ba La Mật, trú ở trong pháp không mà chẳng chấp không. Lại nữa, phải quán hết thảy pháp đều là bất sanh, bất diệt, bất cấu, bất tịnh, bất tăng, bất giảm, bất khứ, bất lai, bất nhất, bất dị, bất thường, bất đoạn, phi hữu, phi vô. Lại nữa, phải dùng trí huệ quán, phải phá sanh diệt quán, phá vô thường quán; ở nơi bất sanh, bất diệt cũng chẳng chấp, chẳng đọa về không, về vô sở hữu. Được như vậy, Bồ Tát sẽ thông đạt mười phương ba đời chư Phật, được vô sanh pháp nhẫn, vào Bồ Tát vị, an trú nơi Bất thối chuyển địa.

Nếu Bồ Tát nào chưa được đầy đủ các tướng mạo như trên đây, thì chưa được Phật thọ ký, chưa có thể an trú nơi Bất Thối Chuyển địa.

Ở đây, cũng nên phân biệt hai hạng Bồ Tát. Đó là:

– Nhục thân Bồ Tát.

– Pháp tánh thân Bồ Tát.

Về nhục thân Bồ Tát, cũng nên phân biệt có hai hạng. Đó là:

Hạng nhục thân Bồ Tát ra đời vào thời có Phật, và được Phật thọ ký.

Hạng nhục thân Bồ Tát ra đời vào thời không có Phật, mà được vô sanh pháp nhẫn.

Hỏi: Người đọc tụng, thọ trì… dẫn đến chánh ức niệm, tu tập Bát Nhã Ba La Mật, đã tùy thuận vô sanh pháp nhẫn, nhưng chưa có được đầy đủ thiền định, còn có nghi tâm, thì cũng được bất thối chuyển chăng?

Đáp: Người chưa có đầy đủ thiền định còn khởi nghi tâm thì chưa vào được vô sanh pháp nhẫn, chưa được bất thối chuyển.

Trong số người tu hành, nên phân biệt có hai hạng. Đó là:

  1. Hạng người tin ít mà nghi nhiều,
  2. Hạng người nghi ít mà tin nhiều.

Người tu hành đọc tụng, thọ thì… tu tập Bát Nhã Ba La Mật, mà nghi ít, tin nhiều, thì rất dễ được thiền định, dễ được “nhu thuận nhẫn”.

Thế nhưng phải đoạn dứt “ái pháp”, mới được vô sanh pháp nhẫn, vào Bồ Tát vị, được bất thối chuyển.

***

Phẩm thứ năm mươi bảy
Thâm áo

(Sâu thẳm)

KINH:

Ngài Tu Bồ Đề bạch Phật: Bạch Thế Tôn! Như vậy là Bồ Tát bất thối chuyển thành tựu đại công đức, thành tựu vô lượng công đức, thành tựu vô biên công đức.

Phật dạy: đúng như vậy, này Tu Bồ Đề! Bồ Tát bất thối chuyển thành tựu đại công đức, thành tựu vô lượng công đức, thành tựu vô biên công đức. Vì sao?

Vì Bồ Tát bất thối chuyển được vô lượng vô biên trí huệ, nên thù thắng hơn hàng Thanh Văn và Bích Chi Phật. Bồ Tát an trú nơi trí huệ, nên khởi sanh 4 vô ngại trí, Do có được 4 vô ngại trí, nên tất cả hàng Trời, Người, chẳng có ai có thể sánh kịp.

Ngài Tu Bồ Đề bạch Phật: Bạch Thế Tôn! Nếu khen ngợi các hạnh loại và tướng mạo của bậc Bồ Tát bất thối chuyển, thì trải qua hằng sa kiếp cũng chẳng sao nói hết được.

Bạch Thế Tôn! Bồ Tát bất thối chuyển an trú nơi chỗ thâm áo nào, mà khi thật hành 6 pháp Ba La Mật, thường được đầy đủ 4 niệm xứ… dẫn đến nhất thiết chủng trí?

Phật dạy: lành thay, lành thay! Này Tu Bồ Đề! Ông đã khéo vì hàng Bồ Tát mà thưa hỏi về chỗ thâm áo đó.

Này Tu Bồ Đề! Chỗ thâm áo có nghĩa là chỗ không, vô tướng, vô tác, vô khởi, vô sanh, vô diệt, vô nhiễm; là chỗ ly, tịch diệt; là chỗ pháp như, pháp tánh, thật tế; là Niết Bàn. Nghĩa của chỗ thâm áo là như vậy.

Ngài Tu Bồ Đề bạch Phật: Bạch Thế Tôn! Có phải chỉ có không, vô tướng, vô tác… dẫn đến Niết Bàn là chỗ thâm áo, hay còn có các pháp nào nữa?

Phật dạy: này Tu Bồ Đề! hết thảy các pháp đều là chỗ thâm áo cả. Sắc… dẫn đến thức, nhãn… dẫn đến ý, sắc… dẫn đến pháp, nhãn thức… dẫn đến ý thức, nhãn giới… dẫn đến ý thức giới, đàn Ba La Mật… dẫn đến Bát Nhã Ba La Mật, 4 niệm xứ… dẫn đến Vô Thượng Bồ Đề đều là chỗ thâm áo.

Ngài Tu Bồ Đề bạch Phật: Bạch Thế Tôn! Vì sao nói sắc… dẫn đến Vô Thượng Bồ Đề đều thâm áo?

Phật dạy: Này Tu Bồ Đề! Vì sắc như là thâm áo, nên nói sắc là thâm áo,… dẫn đến vì Vô Thượng Bồ Đề như là thâm áo, nên nói Vô Thượng Bồ Đề là thâm áo.

Ngài Tu Bồ Đề bạch Phật: Bạch Thế Tôn! Vì sao sắc như là thâm áo… dẫn đến Vô Thượng Bồ Đề như là thâm áo?

Phật dạy: Này Tu Bồ Đề! vì sắc như chẳng phải là sắc, mà cũng chẳng ly sắc… dẫn đến Vô Thượng Bồ Đề như chẳng phải là Vô Thượng Bồ Đề mà cũng chẳng ly Vô Thượng Bồ Đề.

Ngài Tu Bồ Đề bạch Phật: Thật hy hữu bạch Thế Tôn! Do có lực phương tiện vi diệu mà Bồ Tát bất thối chuyển ly sắc xứ Niết Bàn… dẫn đến thức xứ Niết Bàn; cũng ly hết thảy pháp xứ Niết Bàn, dù là thế gian hay xuất thế gian, hữu tránh hay vô tránh, hữu lậu hay vô lậu pháp xứ Niết Bàn.

Phật dạy: Đúng như vậy, đúng như vậy! Này Tu Bồ Đề! Do có lực phương tiện vi điệu mà Bồ Tát bất thối chuyển ly sắc xứ Niết Bàn… dẫn đến ly hữu lậu pháp xứ Niết Bàn, ly vô lậu pháp xứ Niết Đàn.

Này Tu Bồ Đề! Bồ Tát bất thối chuyển hành các pháp thâm áo như vậy là cùng với Bát Nhã Ba La Mật tương ưng. An trú nơi Bát Nhã Ba La Mật, Bồ Tát quán sát tư duy, trù lượng, rồi tự niệm rằng: Ta phải hành như vậy, phải học như vậy, mới đúng như lời Phật dạy trong Bát Nhã Ba La Mật.

Này Tu Bồ Đề! Nếu Bồ Tát nào đúng như pháp mà hành, đúng như pháp mà học, đúng như pháp mà quán sát, lại đầy đủ tinh tấn và nhất tâm, thì chỉ phát khởi một niệm lợi sanh là vị ấy đã dược vô lượng vô biên phước đức, siêu việt vô lượng kiếp, đến gần Vô Thượng Bồ Đề. Bởi vậy nên nay vị Bồ Tát ấy hành Bát Nhã Ba La Mật đúng với niệm Vô Thượng Bồ Đề.

Này Tu Bồ Đề! Ví như có người đam mê dâm dục chuẩn bị cuộc hẹn hò với một cô gái xinh đẹp, nhưng đến giờ hẹn nàng gặp trở ngại, chẳng đến được. Ý ông nghĩ sao? Người ấy sẽ niệm tưởng như thế nào về cô gái ấy?

Ngài Tu Bồ Đề bạch Phật: Bạch Thế Tôn! Người ấy luôn luôn niệm tưởng đến cô gái ấy mong sớm được gặp lại, để cùng nhau ân ái, thỏa mãn dục tính.

Phật dạy: Này Tu Bồ Đề! Trong 1 ngày đêm, người ấy khởi bao nhiêu niệm tưởng về người con gái?

Ngài Tu Bồ Đề bạch Phật: Bạch Thế Tôn! Trong 1 ngày đêm, người ấy khởi rất nhiều niệm tưởng.

Phật dạy: Này Tu Bồ Đề! Bồ Tát niệm tưởng về Bát Nhã Ba La Mật cũng là như vậy. Nếu thật hành đúng như lời Phật dạy, trong Bát Nhã Ba La Mật, thì chỉ trong 1 niệm cũng đã siêu việt được vô lượng kiếp.

Này Tu Bồ Đề! Khi thật hành Bát Nhã Ba La Mật, nếu Bồ Tát nào xả ly được hết thảy các chấp, thì chỉ trong 1 ngày cũng đã thành tựu được vô lượng vô biên thiện căn công đức. Người hành Bát Nhã Ba La Mật trong vô lượng kiếp mà còn tâm chấp, tuy có nhiều công đức, nhưng công đức của người này chẳng sao bì kịp công đức của vị Bồ Tát hành Bát Nhã Ba La Mật với tâm ly chấp, dù chỉ trong 1 ngày, trong trăm, ngàn, muôn ức phần… chẳng sao bằng được 1, … dẫn đến chẳng có toán số thí dụ nào có thể đem ra so sánh được.

LUẬN:

Trước đây ngài Tu Bồ Đề đã được nghe Phật nói đầy đủ về hạnh loại và tướng mạo của Bồ Tát bất thối chuyển. Nay ngài lại được nghe Phật nói về các công đức của hàng Bồ Tát bất thối chuyển, nên ngài sanh tâm hoan hỷ, bạch Phật rằng: Bạch Thế Tôn! Bồ Tát bất thối chuyển thành tựu vô lượng vô biên công đức.

Phật tán thán lời tác bạch của ngài Tu Bồ Đề, rồi lần lượt nói về các công đức của hàng Bồ Tát bất thối chuyển, như: Bồ Tát có vô lượng trí huệ, vượt lên trên hàng Thanh Văn và Bích Chi Phật, Bồ Tát an trú trong Bát Nhã Ba La Mật, thường sanh 4 vô ngại trí, biết rõ thật tướng các pháp, nên chẳng còn nghi ngại.

-o0o-

Do được “từ vô ngại trí” và “nghĩa vô ngại trí” nên Bồ Tát phân biệt được danh tự và nghĩa lý của các pháp một cách vô ngại.

Khi đã được “từ vô ngại trí” và “nghĩa vô ngại trí” rồi, thì thông đạt hết thảy các pháp và thuyết giảng thật nghĩa của hết thảy các pháp một cách vô ngại, nên Bồ Tát cũng thành tựu viên mãn “pháp vô ngại trí” và “lạc thuyết vô ngại trí” vậy.

Bồ Tát an trú trong 4 vô ngại trí, nên gặp bất cứ ai đến cầu pháp hay đến vấn nạn, Bồ Tát đều lý giải thông suốt, rõ ràng, chẳng có gì ngăn ngại. Trí huệ của Bồ Tát tợ như biển lớn mênh mông, sâu thẳm, chẳng bao giờ khô cạn.

-o0o-

Ngài Tu Bồ Đề nghe Phật khai thị về 4 vô ngại trí cũng là tướng mạo của Bồ Tát bất thối chuyển, vì Bồ Tát này được trí huệ vô lượng vô biên, thù thắng hơn hàng Thanh Văn và Bích Chi Phật, nên ngài đã hoan hỷ bạch Phật rằng: Nếu khen ngợi các hạnh loại và tướng mạo của Bồ Tát bất thối chuyển, thì trải qua hằng sa kiếp cũng chẳng sao nói hết được.

Phật tán thán lời ngài Tu Đồ Đề, và dạy rằng: Ông đã khéo vì hàng Bồ Tát, mà thưa hỏi ta về chỗ thâm áo đó. Hết thảy các pháp, từ sắc … dẫn đến Vô Thượng Bổ Đề đều là “không”, là “như” và đều là chỗ thâm áo cả.

Hỏi: các pháp hữu vi có thể chia chẻ đến chỗ vi tế mà người thế gian chẳng sao có thể biết được, nên gọi đó là chỗ thâm áo. Còn các pháp “không” đều là vô sở hữu. Vì sao lại gọi pháp “không” là chỗ thâm áo?

Đáp: Chẳng có thể dùng ngữ ngôn, danh tự mà diễn bày nghĩa của pháp “không”. Vì sao? Vì muốn giải rõ nghĩa về tướng “có”, mà phương tiện nói đến tướng “không”.

Tướng “không” cũng như tướng “có” chỉ là hai pháp đối đãi, chẳng thật có. Quán được như vậy thì sẽ biết rõ hết thảy các pháp tướng đều là hư vọng. Cho nên khi đã dứt trừ hết các chấp, thì dù nguyện sanh vào trong 3 cõi cũng vẫn được đạo, cũng vẫn thành tựu được pháp “không”.

Nếu vào được “không” rồi mà còn chấp “không”, thì còn có lỗi lầm, chẳng đến được chỗ thâm áo.

Nếu trú trong “không” mà chẳng chấp “không”, thì mới gọi là thâm áo. Nếu dùng “không” nhằm phá các tà kiến chấp về “có – không” thì mới đến được chỗ thâm áo vậy.

Bồ Tát quán 5 ấm sanh diệt, nhằm phá chấp thường, rồi quán 5 ấm rốt ráo không, nhằm phá chấp sanh diệt. Vì sao? Vì nơi tánh “không”, chẳng có vô thường hay thường, nên là bất sanh diệt.

Nơi đây nên biết có 2 nghĩa về “bất sanh diệt”. Đó là:

  1. Do tà kiến, mà cho rằng thế gian là thường còn, là bất sanh diệt.
  2. Do muốn phá chấp về “sanh diệt”, nên nói “bất sanh diệt”.

Nếu phá được chấp về “sanh diệt” rồi mà cũng chẳng chấp “bất sanh diệt” thì mới gọi là thâm áo. Lại nữa, cũng nên biết:

Phiền não khó đoạn mà đoạn được, thì gọi là thâm áo.

Đam mê dục lạc thì dễ, mà ly dục thì rất khó, nên hành ly dục là thâm áo.

Phóng tâm theo tà kiến thì dễ, mà định tâm hướng về thật tướng pháp, về chân thật pháp tánh thì rất khó, nên vào được pháp tánh thật tế là vào được chỗ thâm áo.

96 pháp ngoại đạo chẳng đưa đến giải thoát, chỉ có Niết Bàn đạo đưa đến giải thoát, nên Niết Bàn đạo là chỗ thâm áo. v.v…

Hỏi: Trên đây nói các pháp “không’’ đều là chỗ thâm áo. Như vậy nghĩa “không” là như thế nào?

Đáp: Có thuyết nói các tâm và các tâm sở đề có định tướng. Còn đối với các ngoại pháp, thì nếu dùng các tam muội “không, vô tướng và vô tác” để quán sát, sẽ thấy rõ các ngoại pháp đều là không.

Có thuyết nói: Ngoài tâm duyên sắc, thì các pháp đều là không. Các thuyết trên đây đều nói về “ngoại không”, nếu dùng các tam muội “không, vô tướng và vô tác” mà quán sát, thì sẽ thấy hết thảy các ngoại pháp đều là không.

Chẳng thể như vậy được. Vì sao? Vì nếu các ngoại pháp chẳng phải là thật không, mà phải dùng “không tam muội” quán sát mới thấy rõ là “không”, thì đó vẫn chỉ là hư vọng. Trái lại, nếu ngoại duyên thật sự là “không”, thì chẳng có sanh “không tam muội” nữa. Vì nếu sanh “không tam muội” thì ngoại duyên chẳng phải là “không”

-o0o-

Ở đây Phật dạy về “trung đạo”, ly cả hai chấp “có – không”. Vì sao? Vì các pháp đều do duyên hòa hợp sanh, chẳng phải là định pháp, nên nói các pháp đề là tự tánh không.

Các nhân duyên sanh pháp đều chẳng có tự tánh, nên hết thảy các pháp, ở nơi thật tướng đều rốt ráo không. Từ vô thỉ đến nay các pháp bản lai đều là không, chẳng phải do Phật làm ra, cũng chẳng phải do ai khác làm ra cả.

Vì thương xót chúng sanh mà chư Phật giải rõ về tánh không của các pháp. Tánh không đó chính là pháp tánh thật tế của hết thảy pháp.

Cũng nên biết rằng chẳng phải do quán “nội pháp” hay “ngoại pháp” mà biết được tướng “không” của các pháp. “Không tướng” cũng chỉ là danh tự. Đã là danh tự thì “không tướng” là chẳng phải trú, chẳng phải bất trú, nên là vô tướng, là tịch diệt, là ly, là Niết Bàn vậy.

Ngài Tu Bồ Đề tuy biết rõ các Bồ Tát đến phó hội đều rất lợi căn, nhưng vẫn có thể thâm chấp Niết Bàn, nên ngài bạch Phật: Bạch Thế Tôn! Có phải chỉ có Không, vô tướng, vô tác,… dẫn đến Niết Bàn là thâm áo, hay còn có các pháp khác nữa?

Phật dạy: Chánh quán hết thảy các sắc pháp là thành tựu được Niết Bàn. Hết thảy các pháp đều là nhân dẫn đến Niết Bàn, nên đều là chỗ thâm áo cả.

Hết thảy các pháp đều là như, nên đều là thâm áo.

Nghĩa “thâm áo” là “như”, là chẳng phải thị, cũng chẳng phải phi.

Sắc như là thâm áo, vì chẳng phải là sắc cũng chẳng phải ly sắc… dẫn đến Vô Thượng Bồ Đề như là thâm áo, vì chẳng phải là Vô Thượng Bồ Đề, cũng chẳng phải ly Vô Thượng Bồ Đề.

-o0o-

Ngài Tu Bồ Đề biết rõ “như” là chỗ thâm áo của các pháp, vào được trong pháp “như” là vào được trong biển lớn của trí huệ, nên ngài bạch Phật rằng: Thật là hy hữu! Bạch Thế Tôn! Phật đã dùng lực phương tiện vi diệu, khiến chư Bồ Tát bất thối chuyển xả ly sắc, vào Niết Bàn mà chẳng chấp Niết Bàn … dẫn đến xả ly hết thảy pháp vào Niết Bàn mà chẳng chấp Niết Bàn. Bồ Tát trú trong thế gian mà chẳng nhiễm chấp các dục lạc ở thế gian. Bồ Tát thường tư duy như vậy, thường quán như vậy, thường hành như vậy nên có được đầy đủ các lực phương tiện vi diệu.

Phật ấn chứng lời tán thán của ngài Tu Bồ Đề, và dạy: Bồ Tát hành các pháp thâm áo như vậy nên được cùng với Bát Nhã Ba La Mật tương ưng. Khi quán sát, tư duy, Bồ Tát thường nhất niệm, bình đẳng, nên vừa hiển thị pháp lợi sanh là liền được vô lượng vô biên phước đức.

Hỏi: Hàng Nhị Thừa tu vô lậu pháp còn chẳng có được quả báo phước đức. Nay vì sao nói Bồ Tát quán pháp không mà được vô lượng vô biên phước đức?

Đáp: Hàng Nhị Thừa khi đã được vô lậu tâm, thì đã đoạn dứt phiền não, nên chẳng nói đến phước đức. Còn Bồ Tát, vì phải lưu hoặc để độ sanh, mà chưa dứt sạch phiền não, nên mới nói đến thành tựu quả báo phước đức.

Lại nữa, hàng Nhị Thừa thủ chứng Niết Bàn, nên đã tiêu hủy các quả báo phước đức. Còn Bồ Tát chẳng thủ chứng thật tế, vẫn còn khởi tâm niệm chúng sanh, nên còn có quả báo phước đức.

Người thế gian còn tà hạnh, nên chỉ được phước đức ít. Còn Bồ Tát thường an trú nơi chánh hạnh, nên được vô lượng vô biên phước đức.

Ví như bố thí cho hàng súc sanh được phước đức 100 lần hơn bố thí cho hàng người; bố thí cho người ác được phước đức 1000 lần hơn bố thí cho người thiện, 10000 lần hơn bố thí cho người đã ly dục, 100000 lần hơn bố thí cho người đã chứng được quả Thánh.

Người tu hành đã ly dục, đã hành từ bi tâm, nhưng nếu chưa vào được nơi thật tướng pháp, thì vẫn chưa có được phước đức vô lượng. Còn Bồ Tát bất thối chuyển, đã thâm nhập vào thật tướng pháp, nên chỉ vừa tác niệm lợi sanh, là đã có được vô lượng vô biên phước đức.

Ví như chúng sanh, do niệm niệm sanh diệt, mà phải mãi trầm luân trong dòng sanh tử. Ví như người khát vọng dâm dục, mà dục tính chưa được thỏa mãn, thì cứ khởi niệm tưởng nhớ mãi, tưởng chừng như thời gian chờ đợi kéo dài đến vô tận.

Bồ Tát niệm tưởng về Bát Nhã Ba La Mật cũng là như vậy. Do Bồ Tát thật hành đúng như lời Phật dạy trong Bát Nhã Ba La Mật, nên chỉ trong 1 niệm đã siêu xuất được vô lượng kiếp.

Lại ví như người lâm bệnh cần phải uống thuốc. Nếu dùng loại thuốc xấu, thì người ấy phải trải qua thời gian lâu dài mới có thể lành bệnh được. Trái lại, nếu biết dùng thuốc tốt, đúng bệnh, thì sẽ có được hiệu quả cao hơn rất nhiều; có thể chỉ trong thời gian rất ngắn là có thể được lành bệnh.

Bồ Tát hành 6 pháp Ba La Mật cũng là như vậy. Nếu chẳng có được lực phương tiện Bát Nhã Ba La Mật hộ trì, thì phải trải qua nhiều a tăng kỳ kiếp mới thành Phật được. Trái lại, nếu có được lực phương tiện Bát Nhã Ba La Mật hộ trì, thì sẽ rất mau đến được Vô Thượng Bồ Đề.

Bởi nhân duyên vậy, nên ở đoạn kinh trên đây có ghi rõ: Khi thật hành Bát Nhã Ba La Mật, nếu Bồ Tát nào xả ly được hết thảy các chấp, thì chỉ trong 1 ngày cũng đã thành tựu được vô lượng vô biên thiện căn công đức. Người hành Bát Nhã Ba La Mật trong vô lượng kiếp mà còn tâm chấp, tuy có nhiều công đức; nhưng công đức của người này chẳng sao bì kịp công đức của vị Bồ Tát hành Bát Nhã Ba La Mật với tâm ly chấp, dù chỉ trong 1 ngày. Trong trăm, ngàn, muôn, ức phần … chẳng sao bằng được 1, … dẫn đến chẳng có toán số thí dụ nào có thể dùng để so sánh được.

***

KINH:

Lại nữa, này Tu Bồ Đề! Nếu có người xa lìa Bát Nhã Ba La Mật, mà cúng dường 3 ngôi Tam Bảo trong hằng sa kiếp. Do nhân duyên cúng dường như vậy, người ấy có được phước đức nhiều chăng?

Ngài Tu Bồ Đề bạch Phật: Bạch Thế Tôn! Người ấy được phước đức rất nhiều.

Phật dạy: Này Tu Bồ Đề! Phước đức của người ấy chẳng sao bằng được phước đức của vị Bồ Tát đúng như pháp mà hành Bát Nhã Đa La Mật, dù chỉ trong 1 ngày. Vì sao? Vì Bát Nhã Ba La Mật là đạo của chư đại Bồ Tát; nương theo Thừa đạo này mà tu tập sẽ mau đến Vô Thượng Bồ Đề.

Lại nữa, này Tu Bồ Đề! Nếu có người xa lìa Bát Nhã Ba La Mật, mà trải qua hằng sa kiếp cúng dường các bậc Tu Đà Hoàn, Tư Đà Hàm, A Na Hàm, A La Hán, Bích Chi Phật, Bồ Tát và Phật. Ý ông nghĩ sao? Do nhân duyên cúng dường như vậy, người ấy có được phước đức nhiều chăng?

Ngài Tu Bồ Đề bạch Phật: Bạch Thế Tôn! Người ấy được phước đức rất nhiều.

Phật dậy: Này Tu Bồ Đề! Phước đức của người ấy chẳng sao bằng được phước đức của vị Bồ Tát đúng như pháp mà hành Bát Nhã Ba La Mật, dù chỉ trong 1 ngày. Vì sao? Vì Bồ Tát hành Bát Nhã Ba La Mật thù thắng hơn hàng Thanh Văn và Bích Chi Phật, lại mau đến được Vô Thượng Bồ Đề.

Lại nữa, này Tu Bồ Đề! Nếu có người xa lìa Bát Nhã Ba La Mật, mà trải qua hằng sa kiếp hành bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền định. Ý ông nghĩ sao? Do nhân duyên hành 5 pháp Ba La Mật như vậy, người ấy có được phước đức nhiều chăng?

Ngài Tu Bồ Đề bạch Phật: Bạch Thế Tôn! Người ấy được phước đức rất nhiều.

Phật dạy: Này Tu Bồ Đề! Phước đức của người ấy chẳng sao bằng được phước đức của vị Bồ Tát đúng như pháp hành Bát Nhã Ba La Mật, dù chỉ trong 1 ngày. Vì sao? Vì Bồ Tát ấy chẳng xa lìa Bát Nhã Ba La Mật tức là chẳng xa lìa nhất thiết chủng trí vậy. Bởi vậy nên, muốn được Vô Thượng Bồ Đề, thì chẳng nên xa lìa Bát Nhã Ba La Mật.

Lại nữa, này Tu Bồ Đề! Nếu có người xa lìa Bát Nhã Ba La Mật, mà trải qua hằng sa kiếp tu tập 4 niệm xứ … dẫn đến tu tập nhất thiết chủng trí. Ý ông nghĩ sao? Do nhân duyên tu tập như vậy, người ấy có được phước đức nhiều chăng?

Ngài Tu Bồ Đề bạch Phật: Bạch Thế Tôn! Người ấy được phước đức rất nhiều.

Phật dạy: Này Tu Bồ Đề! Phước đức của người ấy chẳng sao bằng được phước đức của vị Bồ Tát chẳng xa lìa Bát Nhã Ba La Mật mà tu tập 4 niệm xứ … dẫn đến tu tập nhất thiết chủng trí, dù chỉ trong 1 ngày. Vì sao? Vì Bồ Tát ấy chẳng xa lìa Bát Nhã Ba La Mật, nên chẳng bao giờ thối chuyển nhất thiết chủng trí.

Trái lại, nếu tu tập mà xa lìa Bát Nhã Ba La Mật, thì rất dễ bị thối tâm.

Bởi vậy nên trong quá trình tu tập chẳng xa lìa Bát Nhã Ba La Mật.

Lại nữa, này Tu Bồ Đề! Nếu có người xa lìa Bát Nhã Ba La Mật, mà trải qua hằng sa kiếp hành tài thí, pháp thí và thiền định, rồi tùy hỷ hồi hướng công đức về Vô Thượng Bồ Đề. Ý ông nghĩ sao! Người ấy có được phước đức nhiều chăng?

Ngài Tu Bồ Đề bạch Phật: Bạch Thế Tôn! Người ấy được phước đức rất nhiều.

Phật dạy: Này Tu Bồ Đề! Phước đức của người ấy chẳng sao bằng được phước đức của vị Bồ Tát chẳng xa lìa Bát Nhã Ba La Mật mà hành tài thí, pháp thí và thiền định, rồi tùy hỷ hồi hướng công đức về Vô Thượng Bồ Đề, dù chỉ trong 1 ngày. Vì sao? Vì chẳng xa lìa Bát Nhã Ba La Mật mà hồi hướng mới là đệ nhất hồi hướng.

Lại nữa, này Tu Bồ Đề! Nếu có người xa lìa Bát Nhã Ba La Mật, mà trải qua hằng sa kiếp hòa hợp các thiện căn công đức của chư Phật trong 3 đời của chư đệ tử Phật, rồi tùy hỷ hồi hướng các thiện căn công đức ấy về Vô Thượng Bồ Đề. Ý ông nghĩ sao? Người ấy có được phước đức nhiều chăng?

Ngài Tu Bồ Đề bạch Phật: Bạch Thế Tôn! Người ấy được phước đức rất nhiều.

Phật dạy: Này Tu Bồ Đề! Phước đức của người ấy chẳng sao bằng được phước đức của vị Bồ Tát chẳng xa lìa Bát Nhã Ba La Mật, mà tùy hỷ hồi hướng các thiện căn công đức của chư Phật và của chư đệ tử Phật về Vô Thượng Bồ Đề, dù chỉ trong 1 ngày. Vì sao? Vì chẳng xa lìa Bát Nhã Ba La Mật mà hồi hướng mới là đệ nhất hồi hướng vậy.

Bởi vậy nên, muốn tùy hỷ hồi hướng các thiện căn công đức về Vô Thượng Bồ Đề, thì phải dùng lực phương tiện Bát Nhã Ba La Mật để tùy hỷ hồi hướng vậy.

Ngài Tu Bồ Đề bạch Phật: Bạch Thế Tôn! Theo như lời Phật dạy, thì các pháp do nhân duyên khởi tác đều từ vọng tưởng sanh, đều là chẳng thật có. Như vậy, vì sao các Thiện Nam, Thiện Nữ lại có được đại phước đức?

Bạch Thế Tôn! Nếu dùng pháp do nhân duyên tác khởi, thì chẳng được chánh kiến, chẳng vào được pháp vị, chẳng được 4 quả Thanh Văn … dẫn đến chẳng được Vô Thượng Bồ Đề.

Phật dạy: Đúng như vậy, đúng như vậy! Này Tu Bồ Đề! Nếu dùng pháp do nhân duyên tác khởi thì chẳng được chánh kiến, chẳng vào được pháp vị, chằng được 4 quả Thanh Văn … dẫn đến chẳng được Vô Thượng Bồ Đề.

Này Tu Bồ Đề! Bồ Tát hành Bát Nhã Ba La Mật biết rõ các pháp do nhân duyên tác khởi cũng là không, là chẳng kiên cố, là hư vọng, là chẳng thật có. Vì Bồ Tát khéo học nội không… dẫn đến học vô pháp hữu pháp không, an trú trong 18 pháp không, quán các pháp do nhân duyên tác khởi đều là không, nên chẳng xa lìa Bát Nhã Ba La Mật. Bồ Tát tu tập như vậy, lần lần đến được vô số, vô lượng, vô biên phước đức.

Ngài Tu Bồ Đề bạch Phật: Vô số, vô lượng, vô biên có gì khác nhau chăng?

Phật dạy: Này Tu Bồ Đề!

Nói “vô số” là nói chẳng ở trong danh số các pháp, dù là hữu vi tánh, dù là vô vi tánh.

Nói “vô lượng” là nói chẳng thể lường được, vì lượng là bất khả đắc dù là ở quá khứ, ở hiện tại hay ở vị lai.

Nói “vô biên” là nói các pháp chẳng có bờ mé, biên bờ.

Ngài Tu Bồ Đề bạch Phật: Bạch Thế Tôn! Các nhân duyên sanh ra sắc, thọ, tưởng, hành, thức là vô số, vô lượng, vô biên chăng?’

Phật dạy: Đúng như vậy, đúng như vậy! Này Tu Bồ Đề! Các nhân duyên sanh ra sắc, thọ, tưởng, hành, thức là vô số, vô lượng, vô biên.

Ngài Tu Bồ Đề bạch Phật: Bạch Thế Tôn! Vì sao các nhân duyên sanh ra sắc, thọ, tưởng, hành, thức là vô số, vô lượng, vô biên?

Phật dạy: Này Tu Bồ Đề! Vì “sắc không” … dẫn đến “thức không” là vô số, vô lượng, vô biên.

Ngài Tu Bồ Đề bạch Phật: Bạch Thế Tôn! Chi có 5 ấm là không, hay là hết thảy các pháp cũng đều là không?

Phật dạy: Này Tu Bồ Đề! Chẳng phải ta đã thường nói hết thảy các pháp đều là “không” ư?

Ngài Tu Bồ Đề bạch Phật: Bạch Thế Tôn! Phật đã dạy “hết thảy các pháp đều là không”. Đã là “không”, thì các pháp đều là bất khả tận, đều là vô số, vô lượng, vô biên.

Bạch Thế Tôn! Trong “không”, thì “số”, “lượng” và “biên” đều là bất khả đắc. Bởi vậy nên nói “bất khả tận” cùng với “vô số”, “vô lượng” và “vô biên” là chẳng khác nghĩa với nhau.

Phật dạy: Đúng như vậy, đúng như vậy! Này Tu Bồ Đề! Các nghĩa ấy chẳng có sai khác nhau.

Pháp nghĩa ấy là bất khả thuyết, chẳng thể dùng lời để diễn đạt ra được. Phật dùng lực phương tiện mà phân biệt nói đó là bất khả tận, là vô số, là vô lượng, là vô biên, là vô trước, là không, là vô tướng, là vô tác, là vô khởi, là vô sanh, là vô diệt, là vô nhiễm, là Niết Bàn v.v…

Ngài Tu Bồ Đề bạch Phật: Thật là hy hữu! Bạch Thế Tôn! Thật tướng các pháp là bất khả thuyết, mà Phật đã dùng lực phương tiện Bát Nhã Ba La Mật để tuyên thuyết ra.

Bạch Thế Tôn! Theo như chỗ con được hiểu qua lời Phật dạy, thì hết thảy các pháp đều là bất khả thuyết.

Phật dạy: Đúng như vậy, đúng như vậy! Này Tu Bồ Đề! Hết thảy các pháp đều là bất khả thuyết, đều chẳng thể nói ra dược. Vì sao? Vì hết thảy các pháp đều là tự tướng không, mà “tướng không” là chẳng thể nói ra được vậy.

Ngài Tu Bồ Đề bạch Phật: Bạch Thế Tôn! Nếu là bất khả thuyết, thì pháp nghĩa có tăng, có giảm chăng?

Phật dạy: Này Tu Bồ Đề! Pháp nghĩa bất khả thuyết là chẳng có tăng, chẳng có giảm.

Ngài Tu Bồ Đề bạch Phật: Bạch Thế Tôn! Nếu pháp nghĩa bất khả thuyết, thì 4 niệm xứ … dẫn đến 8 thánh đạo, Đàn Ba La Mật … dẫn đến Bát Nhã Ba La Mật, 10 Phật lực … dẫn đến 18 bất cộng pháp v.v… cũng đều chẳng tăng chẳng giảm.

Bạch Thế Tôn! Nếu 6 pháp Ba La Mật … dẫn đến 18 bất cộng pháp đều chẳng tăng, chẳng giảm, thì làm sao Bồ Tát tu các pháp này mà đến được Vô Thượng Bồ Đề?

Phật dạy: Đúng như vậy, đúng như vậy! Này Tu Bồ Đề! Vì pháp nghĩa bất khả thuyết là chẳng tăng, chẳng giảm, nên Bồ Tát dùng lực phương tiện Bát Nhã Ba La Mật tự niệm rằng mình chẳng có thể làm tăng Đàn Ba La Mật … dẫn đến chẳng có thể làm tăng Bát Nhã Ba La Mật. Vì sao? Vì Bồ Tát biết rõ các pháp Ba La Mật đều chỉ là danh tự.

Này Tu Bồ Đề! Ví như khi hành Đàn Ba La Mật, Bồ Tát tự niệm rằng: Tâm bố thí, thiện căn công đức hành bố thí, Vô Thượng Bồ Để, tùy hỷ hồi hướng thiện căn công đức hành bố thí về Vô Thượng Bồ Đề đều chỉ là danh tự cả.

Ngài Tu Bồ Đề bạch Phật: Pháp gì là Vô Thượng Bồ Đề?

Phật dạy: Này Tu Bồ Đề! Tất cả các pháp như tướng là Vô Thượng Bồ Đề.

Ngài Tu Bồ Đề bạch Phật: Bạch Thế Tôn! Vì sao nói tất cả các pháp như tướng là Vô Thượng Bồ Đề?

Phật dạy: Này Tu Bồ Đề! sắc như tướng … dẫn đến Niết Bàn như tướng đều là Vô Thượng Bồ Đề cả. Vì sao? Vì tướng “như” là chẳng tăng, chẳng giảm.

Này Tu Bồ Đề! Bồ Tát Ma Ha Tát, trọn chẳng ly Bát Nhã Ba La Mật, thường quán “pháp như” ấy là chẳng tăng, chẳng giảm.

Bởi nhân duyên vậy, nên “bất khả thuyết” cũng có hàm nghĩa là bất tăng, bất giảm; Đàn Ba La Mật cũng bất tăng, bất giảm … dẫn đến 18 bất cộng pháp cũng bất tăng, bất giảm.

Bồ Tát Ma Ha Tát quán các pháp bất tăng, bất giảm như vậy, nên được tương ưng với Bát Nhã Ba La Mật hạnh.

LUẬN:

Đoạn kinh trên đây nói rằng: Nếu xa Lìa Bát Nhã Bạ La Mật, thì dù trải qua hằng sa kiếp cúng dường 3 ngôi Tam Bảo, tu tập các thiện pháp, hành 6 pháp Ba La Mật, gieo trồng thiện căn, tùy hỷ hồi hướng về Vô Thượng Bồ Đề v.v… cũng chẳng sao bằng được hành Bát Nhã Ba La Mật đúng như pháp, dù chỉ trong 1 ngày.

Nơi đây, Phật nói lên các nhân duyên Bồ Tát đúng như pháp mà hành Bát Nhã Ba La Mật, dù chỉ trong 1 ngày, cũng đã có vô lượng công đức, thù thắng hơn hàng Nhị Thừa. Vì Bát Nhã Ba La Mật là pháp tối diệu, đưa Bồ Tát thẳng vào Vô Thượng đạo. Nếu xa lìa Bát Nhã Ba La Mật, thì dù trải qua hằng sa kiếp tu tập 6 pháp Ba La Mật cũng chẳng sao có thể bằng được 1 ngày an trú trong Bát Nhã Ba La Mật.

Bát Nhã Ba La Mật là pháp tối thượng, vi diệu đệ nhất. Vì sao? Vì Bát Nhã Ba La Mật là mẹ của chư Phật; từ nơi Bát Nhã Ba La Mật xuất sanh ra 3 đời 10 phương chư Phật.

Bồ Tát an trú Bát Nhã Ba La Mật được đầy đủ các Phật pháp. Do được lực Bát Nhã Ba La Mật hộ trì, nên Bồ Tát tu tập 4 niệm xứ … dẫn đến nhất thiết chủng trí đều được công đức thù thắng, vi diệu. Trái lại, người xa lìa Bát Nhã Ba La Mật mà tu tập 4 niệm xứ … dẫn đến nhất thiết chủng trí chẳng sao có được công đức như vậy.

-o0o-

Liên hệ đến vấn đề này, ngài Tu Bồ Đề đã nêu lên các câu hỏi, và đã được Phật giải đáp, với nội dung như sau:

Pháp hữu vi là hư vọng, nên chẳng có thể dùng pháp hư vọng để được chánh kiến, vào chánh vị … dẫn đến chứng quả Vô Thượng Bồ Đề được. Khi đã vào được chánh đạo rồi, Bồ Tát trở lại ở thế gian, để hành phước đức, nhưng vẫn biết rõ pháp hữu vi là hư vọng, là chẳng thật có, nên chẳng trú chấp phước đức hữu vi.

Bởi vậy nên nói phước đức vô lậu, thanh tịnh thù thắng hơn phước đức hữu lậu. Ví như kim cương tuy nhỏ, mà có thể phá vỡ được cả tảng đá lớn.

Bồ Tát tu tập 18 pháp không, quán các pháp không, mà chẳng chấp “không” lại thường hành các công đức; tuy biết rõ Niết Bàn, biết rõ Vô Thượng đạo là không, mà vì thương xót chúng sanh, vẫn thường tu tập các phước đức; tuy biết rõ hết thảy pháp đều bất khả thuyết, mà vẫn thường dùng các lực phương tiện, để vì chúng sanh thuyết pháp; tuy biết rõ pháp tánh là vô phân biệt, là nhất tướng, là vô tướng, nhưng vì thương xót chúng sanh mà vẫn phương tiện phân biệt thuyết có ác, có thiện, có tội, có phước, có thủ, có xả v.v…….

Nếu Bồ Tát chẳng ly Bát Nhã Ba La Mật, mà hành Bồ Tát đạo như vậy, thì sẽ được vô số, vô lượng, vô biên công đức. Vì sao? Vì khi Bồ Tát mới bắt đầu tu tập Bát Nhã Ba La Mật, thì thế lực các phiền não còn hùng mạnh, khiến lực Bát Nhã Ba La Mật còn rất yếu kém, chưa có công năng tiêu trừ giặc phiền não; thế nhưng, khi Bồ Tát đã tu tập thuần thục Bát Nhã Ba La Mật rồi, thì lực phương tiện Bát Nhã Ba La Mật trở nên hùng mạnh, tận diệt hết phiền não. Đến lúc bấy giờ, Bồ Tát mới thành tựu được vô số vô lượng, vô biên phước đức.

Như trong kinh đã nói:

Vô số là chẳng có trong danh số các pháp, dù là hữu vi hay là vô vi.

Vô lượng là chẳng có thể lượng được.

Vô biên là chẳng có bờ mé, biên bờ.

Chẳng phải chỉ có các nhân duyên sanh ra 5 ấm là vô số, vô lượng, vô biên, mà hết thảy các nhân duyên sanh pháp đều là vô số, vô lượng, vô biên. Vì sao? Vì hết thảy pháp đều là tự tướng “không”. Pháp “không” là bất khả tận, nên là vô số, vô lượng, vô biên. Ở nơi “không”, thì “số”, “lượng” và “biên” đều là bất khả đắc, nên nói là vô số, vô lượng, vô biên vậy.

Pháp “không” là bất khả thuyết, chẳng thể nói ra được. Thế nhưng, vì thương xót chúng sanh, Phật đã phương tiện dùng ngôn ngữ và danh tự mà phân biệt thuyết ra các nghĩa về pháp “không”, để chúng sanh được biết rõ. Phật dạy nghĩa ấy là vô số, vô lượng, vô biên, là thật tướng bất sanh, bất diệt, bất khởi, bất tác … của các pháp, nên nói nghĩa ấy là bất khả tận vậy.

Các bậc Thánh đã vào nơi thật tướng pháp, nên chẳng còn đọa vào trong 6 đường chúng sanh.

Lại nữa, các bậc Thánh dùng thật trí huệ quán sát, biết rõ hết thảy pháp, ở nơi thật tướng, đều là rốt ráo “không”, nên chẳng đọa vào danh số hữu vi cũng như vô vi; đây là nghĩa “vô số”. Các ngài biết rõ pháp “không” là bất khả lượng, nên mặc dù vẫn phương tiện dùng trí huệ xứng lượng các pháp có tốt, có xấu, có lớn, có nhỏ, có nhiều có ít, có thị có phi … nhưng vẫn chẳng chấp các pháp tướng; đây là nghĩa “vô lượng”. Các ngài biết rõ pháp “không” là tịch diệt, nên chẳng còn chấp biên tế; đây là nghĩa “vô biên”.

Lại nữa, ở nơi thật tướng pháp, thì ngã và ngã sở đều là “không”. Vì là “không” nên nói các pháp đều là vô tướng, vô tác, vô khởi. Tuy là “không”, nhưng các pháp vẫn thường trú, bất hoại, nên nói là vô sanh, vô diệt.

Lại nữa, vì ở trong 3 cõi, mà vẫn tự tại, nên nói là vô nhiễm; vì các phiền não nghiệp báo là hư vọng, chẳng thật có, nên nói là Niết Bàn.

Như vậy là có rất nhiều danh từ chỉ rõ về thật tướng pháp vậy.

Ngài Tu Bồ Đề lại hỏi Phật: Nếu các pháp đều là bất khả thuyết, thì có tăng, có giảm chăng? Nếu các pháp chẳng có tăng, chẳng có giảm, thì làm sao Bồ Tát tu 6 pháp Ba La Mật, mà đến được Vô Thượng Bồ Đề?

Phật đáp lại ngài Tu Bồ Đề, với nội dung như sau:

Nơi “bất khả thuyết” có hàm nghĩa bất tăng, bất giảm. Bồ Tát dùng lực phương tiện Bát Nhã Ba La Mật hành 6 pháp Ba La Mật … dẫn đến hành 18 bất cộng pháp, mà vẫn thường quán các pháp ấy chẳng tăng, chẳng giảm. Ví như khi hành Đàn Ba Mật, nhằm phá chấp ngã, chấp pháp, tiêu trừ xan tham, kiêu mạn, Bồ Tát chẳng nên nghĩ rằng “hành như vậy là đã làm tăng Đàn Ba La Mật”. Vì sao? Vì ở nơi thật tướng, thì các pháp đều bình đẳng, chẳng còn phân biệt nội pháp hay ngoại pháp.

Ở nơi đây, tâm bố thí, công đức bố thí, hồi hướng công đức bố thí về Vô Thượng Bồ Đề … dẫn đến Vô Thượng Bồ Đề đều chỉ là danh tự, đều là như tướng cả. Các pháp như tướng là Vô Thượng Bồ Đề, vì tướng “như” là chẳng tăng, chẳng giảm, chẳng động, chẳng hoại, là tịch diệt tướng vậy.

Bồ Tát thường niệm Vô Thượng Bồ Đề là như tướng, là tịch diệt tướng nên biết rõ hết thảy pháp cũng là như tướng, là tịch diệt tướng cả.

Bồ Tát thường quán “bất khả thuyết” có hàm nghĩa bất tăng, bất giảm, nên thấy 6 pháp Ba La Mật… dẫn đến 18 bất cộng pháp đều chẳng có tăng, chẳng có giảm.

Bồ Tát dùng lực phương tiện Bát Nhã Ba La Mật hành pháp như vậy sẽ mau được Vô Thượng Bồ Đề.

(Hết Quyển 74)