LUẬN
ĐẠI TRÍ ĐỘ

Nguyên tác: Bồ tát Long Thọ
Hán dịch: Pháp sư Cưu Ma La Thập
Việt dịch: Tỳ kheo ni THÍCH NỮ DIỆU KHÔNG

 

TẬP III
QUYỂN 60

Phẩm thứ ba mươi tám
Giảo Lượng Pháp Thí
(So Sánh & Lượng Định về Pháp Thí)

KINH:

Lúc bấy giờ, Phật bảo vị Đế Thích rằng : Này Kiều Thi Ca ! Nếu có Thiện Nam, Thiện Nữ nào dạy cho hết thảy chúng sanh trong cõi Diêm Phù Đề tu tập 10 thiện đạo. Ý ông nghĩ sao ? Người này có được phước đức nhiều chăng ?

Ngài Thích Đề Hoàn Nhơn đáp : Bạch Thế Tôn ! Người ấy được phước đức rất nhiều.

Phật dạy : Này Kiều Thi Ca ! Chẳng phải như vậy. Nếu có Thiện Nam, Thiện Nữ nào biên chép kinh quyển Bát Nhã Ba La Mật cho người khác đọc tụng, và diễn nói cho người khác nghe, thì được phước đức thù thắng hơn.

Vì sao ?

Vì trong Bát Nhã Ba La Mật rộng giải về các pháp vô lậu. Thiện Nam, Thiện Nữ phải ở trong đó mà tu học. Người trước đã học dạy người nay học, người nay học dạy người sau học, để dần dần vào chánh pháp vị, được quả Tu Đà Hoàn… dẫn đến quả A La Hán, được Bích Chi Phật đạo… dẫn đến được Vô Thượng Bồ Đề.

Này Kiều Thi Ca ! Những gì gọi là vô lậu pháp ? Đó là 4 niệm xứ… dẫn đến 8 thánh đạo, là 4 thánh đế, là nội không… dẫn đến vô pháp hữu pháp không, là 10 Phật lực… dẫn đến 18 bất cộng pháp. Thiện Nam, Thiện Nữ tu tập các pháp này là người đã được, hoặc hiện được, hoặc sẽ được Vô Thượng Bồ Đề.

Này Kiều Thi Ca ! Thiện Nam, Thiện Nữ nào dạy cho 1 người tu được quả Tu Đà Hoàn được phước đức nhiều hơn là dạy cho nhiều người trong cõi Diêm Phù Đề tu tập 10 thiện đạo. Vì dạy cho người tu tập 10 thiện đạo chưa làm cho họ xa lìa được các khổ địa ngục, ngạ quỉ, ,súc sanh. Còn dạy cho người tu được quả Tu Đà Hoàn làm cho họ xa lìa được các khổ, địa ngục, ngạ quỉ, súc sanh. Dạy cho người tu được các quả Tư Đà Hàm, A Na Hàm, A La Hán, Bích Chi Phật cũng là như vậy.

Này Kiều Thi Ca ! Thiện Nam, Thiện Nữ nào dạy cho nhiều người được quả Tu Đà Hoàn, Tư Đà Hàm, A Na Hàm, A La Hán, Bích Chi Phật chẳng được phước đức bằng dạy cho 1 người tu được Vô Thượng Bồ Đề. Vì sao ? Vì do nhân duyên có Bồ Tát tu tập Bát Nhã Ba La Mật mới có các quả Tu Đà Hoàn… dẫn đến A La Hán, có Bích Chi Phật đạo, có Phật đạo.

Bởi nhân duyên vậy, , nên Thiện Nam, Thiện Nữ nào biên chép kinh quyển Bát Nhã Ba La Mật cho người khác đọc, thuyết giảng cho người khác nghe được vô lượng phước đức. Vì sao ? Vì trong Bát Nhã Ba La Mật rộng nói hết thảy các thiện pháp. Từ nơi các thiện pháp này, mà ở thế gian, xuất sanh các đại gia, đại tộc, các cõi trời Phi Hữu Tưởng Phi Vô Tưởng Thiên; xuất sanh 4 niệm xứ… dẫn đến nhất thiết chủng trí, xuất sanh quả Tu Đà Hoàn… dẫn đến quả Phật.

Này Kiều Thi Ca ! Nếu có Thiện Nam, Thiện Nữ nào dạy cho hết thảy chúng sanh trong 4 châu thiên hạ tu tập 10 thiện đạo. Ý ông nghĩ sao ? Người này có được phước đức nhiều chăng ?

Ngài Thích Đề Hoàn Nhơn đáp : Bạch Thế Tôn ! Người ấy được phước đức rất nhiều.

Phật dạy : Này Kiều Thi Ca ! Phước đức ấy chẳng sao bằng được phước đức của Thiện Nam, Thiện Nữ biên chép kinh quyển Bát Nhã Ba La Mật cho người khác đọc, và khai thị, thuyết giảng cho người khác nghe.

Chẳng luận dạy cho hết thảy chúng sanh trong 4 châu thiên hạ tu tập 10 thiện đạo, mà đến dạy cho hết thảy chúng sanh trong Tiểu Thiên thế giới, trong Trung Thiên thế giới, trong Đại Thiên thế giới… dẫn đến trong hằng sa thế giới tu tập 10 thiện đạo, thì phước đức ấy chẳng sao bằng được phước đức do biên chép kinh quyển Bát Nhã Ba La Mật cho người khác đọc, và khai thị, thuyết giảng cho người khác nghe.

Lại nữa, này Kiều Thi Ca ! Nếu có Thiện Nam, Thiện Nữ nào dạy cho hết thảy chúng sanh trong cõi Diêm Phù Đề trú nơi 4 thiền, 4 vô lượng tâm, 4 vô sắc định, được 5 thần thông. Ý ông nghĩ sao ? Người này có được phước đức nhiều chăng ?

Ngài Thích Đề Hoàn Nhơn đáp : Bạch Thế Tôn ! Thiện Nam, Thiện Nữ ấy được phước đức rất nhiều.

Phật dạy : Này Kiều Thi Ca ! Phước đức ấy chẳng sao bằng được phước đức của Thiện Nam, Thiện Nữ biên chép kinh quyển Bát Nhã Ba La Mật cho người khác đọc, và khai thị, thuyết giảng cho người khác nghe.

Chẳng luận dạy cho hết thảy chúng sanh trong cõi Diêm Phù Đề, mà dạy cho hết thảy chúng sanh trong Tiểu Thiên thế giới, trong Trung Thiên thế giới, trong Đại Thiên thế giới… dẫn đến trong hằng sa thế giới trú nơi 4 thiền, 4 vô lượng tâm, 4 vô sắc định, được 5 thần thông, thì phước đức ấy cũng chẳng sao bằng được phước đức do biên chép kinh quyển Bát Nhã Ba La Mật cho người khác đọc, và khai thị, thuyết giảng cho người khác nghe. Vì sao ? Vì trong Bát Nhã Ba La Mật rộng nói đến hết thảy các thiện pháp.

Này Kiều Thi Ca ! Thiện Nam, Thiện Nữ thọ trì, đọc tụng… dẫn đến chánh ức niệm, tu tập Bát Nhã Ba La Mật được phước đức thù thắng hơn người dạy cho hết thảy chúng sanh trong cõi Diêm Phù Đề tu tập 10 thiện đạo, 4 thiền, 4 vô lượng tâm, 4 vô sắc định, 5 thần thông. Vì sao ? Vì người này thọ trì… dẫn đến chánh ức niệm, tu tập Bát Nhã Ba La Mật chẳng trú trong “nhị pháp”, cũng chẳng trú trong “bất nhị pháp”. Người này thọ trì… dẫn đến chánh ức niệm, tu tập 5 Ba La Mật kia cũng chẳng trú trong “nhị pháp” và “bất nhị pháp” dẫn đến chánh ức niệm về Vô Thượng Bồ Đề và nhất thiết chủng trí, người này cũng chẳng trú trong “nhị pháp” và “bất nhị pháp”.

Lại nữa, này Kiều Thi Ca ! Nếu có Thiện Nam, Thiện Nữ nào dùng phương tiện, để vì người khác thuyết giảng về nghĩa Bát Nhã Ba La Mật, và khai thị, phân biệt cho người khác hiểu rõ về nghĩa Bát Nhã Ba La Mật, thì người này được vô lượng phước đức.

* Thế nào là nghĩa Bát Nhã Ba La Mật?

Này Kiều Thi Ca ! Nghĩa Bát Nhã Ba La Mật là chẳng phải “nhị tướng quán”, chẳng phải “bất nhị tướng quán”, chẳng phải có, chẳng phải không, chẳng phải nhập, chẳng phải xuất, chẳng phải tăng, chẳng phải giảm, chẳng phải cấu, chẳng phải tịnh, chẳng phải sanh, chẳng phải diệt, chẳng phải thủ, chẳng phải xả, chẳng phải trú, chẳng phải “bất trú”, chẳng phải thật, chẳng phải huư, chẳng phải hợp, chẳng phải tan, chẳng phải trước, chẳng phải “bất trước”, chẳng phải nhân, chẳng phải “bất nhân”, chẳng phải pháp, chẳng phải “bất pháp”, chẳng phải như, chẳng phải “bất như”, chẳng phải thật tế, chẳng phải chẳng thật tế.

Này Kiều Thi Ca ! Thiện Nam, Thiện Nữ nào y theo nghĩa Bát Nhã Ba La Mật như vậy, mà dùng phương tiện để phân biệt, khai thị, diễn nói cho người khác được rõ, thì được phước đức thù thắng hơn là tự mình thọ trì, đọc tụng… dẫn đến chánh ức niệm, tu tập Bát Nhã Ba La Mật.

Lại nữa, này Kiều Thi Ca ! Nếu Thiện Nam, Thiện Nữ nào tự mình thtrdtt dẫn đến chánh ức niệm, tu tập Bát Nhã Ba La Mật, lại cũng dùng phương tiện phân biệt, khai thị, diễn nói cho người khác được hiểu, thì được vô lượng, vô biên phước đức.

Ngài Thích Đề Hoàn Nhơn bạch Phật : Bạch Thế Tôn ! Thiện Nam, Thiện Nữ phân biệt, khai thị, diễn nói Bát Nhã Ba La Mật như vậy, làm cho người khác hiểu rõ về nghĩa của Bát Nhã Ba La Mật.

Phật dạy : Đúng như vậy, đúng như vậy ! Này Kiều Thi Ca !  Thiện Nam, Thiện Nữ nào dùng phương tiện phân biệt, khai thị, diễn nói Bát Nhã Ba La Mật, khiến người khác hiểu rõ về nghĩa của Bát Nhã Ba La Mật, được vô lượng, vô biên công đức.

Này Kiều Thi Ca ! Người dùng phương tiện để phân biệt, khai thị, diễn nói Bát Nhã Ba La Mật, khiến người khác được hiểu rõ về nghĩa của Bát Nhã Ba La Mật được công đức thù thắng hơn người trọn đời tôn trọng, cung kính, tán thán, cúng dường chư Phật 10 phương. Vì sao ? Chư Phật quá khứ và hiện tại do tu tập Bát Nhã Ba La Mật mà được Vô Thượng Bồ Đề; chư Phật vị lai cũng do tu tập Bát Nhã Ba La Mật, mà sẽ được Vô Thượng Bồ Đề.

Lại nữa, này Kiều Thi Ca ! Người dùng phương tiện để phân biệt, khai thị, diễn nói Bát Nhã Ba La Mật khiến người khác hiểu rõ về nghĩa của Bát Nhã Ba La Mật được công đức thù thắng hơn người, trong vô lượng, vô biên kiếp tinh càn hành bố thí. Vì sao ? Vì Thiện Nam, Thiện Nữ này, dụng tâm vô sở đắc, hành Bát Nhã Ba La Mật vậy.

Này Kiều Thi Ca ! Nếu dụng tâm hữu sở đắc mà bố thí, thì khi bố thí vẫn còn thấy ta là người bố thí, thấy có người thọ sự bố thí của ta, thấy có tài vật mà ta đem ra bố thí. Bố thí như vậy chẳng phải là Đàn Ba La Mật.

Cũng như vậy, nếu còn dụng tâm chấp ngã mà trì giới, thì chẳng được Thi La Ba La Mật; còn dụng tâm chấp ngã mà hành pháp nhẫn nhục, thì chẳng được Sẵn Đề Ba La Mật; còn dụng tâm chấp ngã mà hành tinh tấn, thì chẳng được Tỳ Lê Gia Ba La Mật; còn dụng tâm chấp ngã mà hành thiền định, thì chẳng được Thiền Ba La Mật; còn dụng tâm chấp ngã mà tu trí huệ, thì chẳng được Bát Nhã Ba La Mật.

Này Kiều Thi Ca ! Thiện Nam, Thiện Nữ nào, dụng tâm hữu sở đắc, hành bố thí… dẫn đến hành trí huệ như vậy, chẳng được đầy đủ Đàn Ba La Mật… dẫn đến chẳng được đầy đủ Bát Nhã Ba La Mật.

Ngài Thích Đề Hoàn Nhơn bạch Phật : Bạch Thế Tôn ! Phải tu tập như thế nào mới được đầy đủ Đàn Ba La Mật… dẫn đến được đầy đủ Bát Nhã Ba La Mật.

Phật dạy : Này Kiều Thi Ca ! Bố thí mà chẳng thấy ta là người bố thí, chẳng thấy có người thọ sự bố thí, chẳng thấy có tài vật mà ta dùng để bố thí, mới gọi là được đầy đủ Đàn Ba La Mật… dẫn đến tu trí huệ mà chẳng thấy ta đang tu trí huệ, chẳng thấy có pháp trí huệ, mới được gọi là được đầy đủ Bát Nhã Ba La Mật.

Thiện Nam, Thiện Nữ nào hành Bát Nhã Ba La Mật như vậy, là người dùng các phương tiện phân biệt, khai thị, diễn nói Bát Nhã Ba La Mật, khiến người khác hiểu rõ về nghĩa của Bát Nhã Ba La Mật. Hành 5 Ba La Mật kia cũng đề là như vậy.

Vì sao ?

Này Kiều Thi Ca ! Vì ở đời sau sẽ có hạng người muốn nói nghĩa Bát Nhã Ba La Mật, mà lại chỉ nói “tương tự nghĩa Bát Nhã Ba La Mật”, khiến cho các Thiện Nam, Thiện Nữ phát tâm Vô Thượng Bồ Đề vì nghe tương tợ nghĩa này, mà phải mất chánh đạo.

Bởi nhân duyên vậy, nên Thiện Nam, Thiện Nữ hành Bồ Tát đạo phải vì người khác, phân biệt, khai thị, diễn nói Bát Nhã Ba La Mật, khiến người khác hiểu rõ được nghĩa của Bát Nhã Ba La Mật.

Ngài Thích Đề Hoàn Nhơn bạch Phật : Bạch Thế Tôn ! Thế nào gọi là tương tợ Bát Nhã Ba La Mật ?

Phật dạy : Này Kiều Thi Ca ! Có Thiện Nam, Thiện Nữ hành “hữu sở đắc Bát Nhã Ba La Mật”. Ví như hành sắc vô thường… dẫn đến hành thức vô thường, mà cho đó là hành Bát Nhã Ba La Mật. Đây là hành “tương tợ Ba La Mật”.

Lại ví như hành nhãn… dẫn đến ý vô thường, sắc… dẫn đến pháp vô thường, nhãn thức… dẫn đến ý thức vô thường, nhãn xúc… dẫn đến ý xúc vô thường, nhãn xúc duyên sanh thọ… dẫn đến ý xúc duyên sanh thọ vô thường, địa chủng… dẫn đến thức chủng vô thường, mà cho đó là hành Bát Nhã Ba La Mật. Nói về “không, không và vô ngã” cũng đều là như vậy.

Đây cũng là hành “tương tợ Bát Nhã Ba La Mật”.

Có Thiện Nam, Thiện Nữ nói vì 5 ấm vô thường, khô, không, vô ngã mà tu bố thí… dẫn đến tu trí huệ, tu 4 niệm xứ… dẫn đến tu nhất thiết chủng trí, và dạy người khác tu như vậy

Đây là thuyết “tương tợ Bát Nhã Ba La Mật”.

Này Kiều Thi Ca ! Ở đời vị lai, có Thiện Nam, Thiện Nữ nghe nói “tương tợ Bát Nhã Ba La Mật”, rồi dạy người khác tu tập Bát Nhã Ba La Mật như vậy sẽ được vào Sơ Địa… dẫn đến Thập Địa. Nghe nói lời này, người tu sẽ y nơi tổng tướng, rồi dụng tâm hữu sở đắc, mà hành Bát Nhã Ba La Mật.

Đây cũng là thuyết “tương tợ Bát Nhã Ba La Mật”.

Lại có Thiện Nam, Thiện Nữ dạy người khác là tu tập Bát Nhã Ba La Mật như vậy sẽ thắng hơn hàng Thanh Văn và Bích Chi Phật.

Đây cũng là thuyết “tương tợ Bát Nhã Ba La Mật”.

Này Kiều Thi Ca ! Lại có Thiện Nam, Thiện Nữ, vì người cầu Phật đạo, mà nói tu tập Bát Nhã Ba La Mật như vậy sẽ được vào Bồ Tát vị, sẽ được vô sanh pháp nhẫn. Được vô sanh pháp nhẫn rồi sẽ trú thần thông, đi từ Phật độ này đến Phật độ khác, để cung kính, cúng dường, tán thán chư Phật.

Đây cũng là thuyết “tương tợ Bát Nhã Ba La Mật”.

Lại có Thiện Nam, Thiện Nữ, vì cầu Phật đạo, mà nói là thọ trì, đọc tụng… dẫn đến chánh ức niệm, tu tập Bát Nhã Ba La Mật như vậy sẽ được vô lượng, vô biên công đức.

Đây cũng là thuyết “tương tợ Bát Nhã Ba La Mật”.

Lại có Thiện Nam, Thiện Nữ, vì người cầu Phật đạo mà nói là chư Phật trong 3 đời, từ so phát tâm… dẫn đến khi thành đạo, đều đem hết thảy công đức mà tu tập Bát Nhã Ba La Mật như vậy, hồi hướng về Vô Thượng Bồ Đề.

Đây cũng là thuyết “tương tợ Bát Nhã Ba La Mật”.

Ngài Thích Đề Hoàn Nhơn bạch Phật : Bạch Thế Tôn ! Thiện Nam, Thiện Nữ, vì người cầu Phật đạo, phải nói như thế nào mới chẳng gọi là thuyết “tương tợ Bát Nhã Ba La Mật”.

Phật dạy : Này Kiều Thi Ca ! Thiện Nam, Thiện Nữ vì người cầu Phật đạo phải nên nói là khi hành Bát Nhã Ba La Mật chẳng nên quán sắc là vô thường… dẫn đến chẳng nên quán thức là vô thường. Vì sao ? Vì sắc… dẫn đến thức đều là tánh không. Vì là tánh không, nên sắc… dẫn đến thức đều là “phi pháp”, là chẳng phải pháp vậy. Phi pháp cũng tức là Bát Nhã Ba La Mật.

Trong Bát Nhã Ba La Mật, thì 5 ấm chẳng phải thường, chẳng phải vô thường. Vì sao ? Vì trong Bát Nhã Ba La Mật, 5 ấm còn bất khả đắc, huống nữa là thường hay vô thường.

Nói như vậy gọi là chẳng thuyết “tương tợ Bát Nhã Ba La Mật”. Thiện Nam, Thiện Nữ vì  người cầu Phật đạo, lại phải nên nói là : Khi hành Bát Nhã Ba La Mật nên “hữu sở trú”. Vì sao ? Vì trong Bát Nhã Ba La Mật chẳng có pháp có thể đắc (khả đắc), chẳng có pháp có thể trú (khả trú). Trong Bát Nhã Ba La Mật, thì hết thảy các pháp đều là tánh không. Vì là tánh không, nên các pháp đều là phi pháp, là chẳng phải pháp vậy. Phi pháp cũng tức là Bát Nhã Ba La Mật. Bởi vậy nên, trong Bát Nhã Ba La Mật, chẳng có pháp có thể được (khả đắc), có thể trú (khả trú), có thể nhập (khả nhập), có thể xuất (khả xuất), có thể sanh (khả sanh), có thể diệt (khả diệt). Như vậy, mới gọi là chẳng thuyết “tương tợ Bát Nhã Ba La Mật”.

Này Kiều Thi Ca ! Thiện Nam, Thiện Nữ, vì người cầu Phật đạo, phải thuyết nghĩa Bát Nhã Ba La Mật như vậy.

Thuyết nghĩa Bát Nhã Ba La Mật như vậy được vô lượng công đức.

LUẬN :

Phật muốn nêu rõ nghĩa Bát Nhã Ba La Mật là thâm diệu, thù thắng, nên hỏi vị Đế Thích rằng : Nếu có Thiện Nam, Thiện Nữ dạy hết thảy chúng sanh trong cõi Diêm Phù Đề hành 10 thiện đạo, thì có được phước đức nhiều chăng ?

Như trong kinh đã rộng nói : Trong tất cả các pháp tu, thì Bát Nhã Ba La Mật là pháp thù thắng hơn hết. Vì sao? Vì Bát Nhã Ba La Mật rộng nói các pháp vô lậu, thành tựu 3 thừa giáo, thành tựu Niết Bàn. Còn 10 thiện đạo chỉ là pháp hữu lậu; tu 10 thiện đạo chỉ hưởng được phước đức hữu lậu ở cõi Trời, Người, chưa thoát khỏi các khổ. Bởi vậy nên tu 10 thiện đạo chẳng thể sánh với “vô lậu giải thoát”. Thế nhưng, tùy theo căn trí của chúng sanh, nên trong kinh trình bày thứ lớp như sau :

Trước nói về “thế gian vô thường lạc”, sau mới nói đến “xuất thế gian thường lạc”.

Trước nói phàm phu cùng chư Thánh đồng tu tập 10 thiện đạo, sau mới nói đến các pháp xuất thế gian của chư Thánh là vô thường. Đó là 37 Phẩm Trợ Đạo… dẫn đến 18 bất cộng pháp.

Trước nói tổng quát về vô lượng Phật pháp, để người tu hành dễ hiểu, sau mới so sánh công đức dạy cho hết thảy chúng sanh trong cõi Diêm Phù Đề tu 10 thiện đạo với công đức dạy cho 1 người tu được quả Tu Đà Hoàn v.v…

Phật dạy: Tu 10 thiện đạo, dù được hưởng phước sanh lên cõi Trời, nhưng cũng chưa thoát ra khỏi 3 cõi; hơn nữa khi phước đức đã cạn mỏng, thì lại có thể bị rơi vào 3 đường ác. Cho nên chẳng sao bằng được tu để được quả Tu Đà Hoàn… dẫn đến quả A La Hán, được quả Bích Chi Phật. Thế nhưng, tu để được quả Tu Đà Hoàn… dẫn đến được quả A La Hán, quả Bích Chi Phật chẳng sao bằng được tu để được Vô Thượng Bồ Đề.Vì Bát Nhã Ba La Mật là nhân duyên dẫn đến Vô Thượng Bồ Đề, thành Phật đạo, nên biên chép Bát Nhã Ba La Mật được công đức thù thắng hơn dạy cho người tu 10 thiện đạo, tu được quả Tu Đà Hoàn… dẫn đến được quả A La Hán, quả Bích Chi Phật. Vì sao ? Vì 10 thiện đạo, Tu Đà Hoàn, Tư Đà Hàm, A Na Hàm, A La Hán, Bích Chi Phật đều xuất sanh từ Bát Nhã Ba La Mật.

Lại nữa, công đức dạy cho người khác tu được 4 thiền… dẫn đến được 5 thần thông chẳng bằng được công đức biên chép kinh quyển Bát Nhã Ba La Mật cho người khác được, và phân biệt, khai thị, diễn nói, để họ dễ hiểu rõ nghĩa Bát Nhã Ba La Mật. Người biên chép Bát Nhã Ba La Mật, và phân biệt, khai thị, diễn nói để người khác hiểu rõ nghĩa Bát Nhã Ba La Mật được vô lượng công đức, thù thắng hơn người tự mình hành Bát Nhã Ba La Mật.

Hỏi : Vì sao lại tán thán công đức chánh ức niệm hơn công đức thọ trì, đọc tụng ?

Đáp : Vì thọ trì, đọc tụng chỉ được phước đức mà thôi, còn chánh ức niệm vừa được phước đức, vừa được trí huệ, nên phải nói rõ hơn.

Thọ trì, đọc tụng ví như hòa hợp được các cây cỏ thuốc để trị bệnh, nhưng chưa sắc thuốc để uống, thì vẫn chưa lành bệnh được. Chánh ức niệm để biết rõ nghĩa Bát Nhã Ba La Mật mà tu tập mới dẫn đến giải thoát, ví như sắc thuốc để uống mới dẫn đến lành bệnh vậy.

Với chánh ức niệm, người tu sẽ rõ được thậm thâm nghĩa của Bát Nhã Ba La Mật là chẳng phải “nhị tướng quán”, chẳng phải “bất nhị tướng quán”, chẳng phải có, chẳng phải không, chẳng phải nhập, chẳng phải xuất, chẳng phải tăng, chẳng phải giảm, chẳng phải cấu, chẳng phải tịnh, chẳng phải sanh, chẳng phải diệt, chẳng phải thủ, chẳng phải xả v.v…

Trong kinh nói biên chép kinh quyển Bát Nhã Ba La Mật thù thắng hơn cúng dường xá lợi Phật; biên chép kinh quyển Bát Nhã Ba La Mật rồi cúng dường cho người khác đọc, thù thắng hơn tự mình thọ trì, đọc tụng Bát Nhã Ba La Mật; chánh ức niệm Bát Nhã Ba La Mật thù thắng hơn thọ trì, đọc tụng Bát Nhã Ba La Mật; phân biệt, khai thị, diễn nói cho người khác được hiểu rõ về nghĩa Bát Nhã Ba La Mật thù thắng hơn tự mình chánh ức niệm, tu tập Bát Nhã Ba La Mật.

—oOo—

Phật nói : Người cung kính, cúng dường các đức Phật chẳng có được phước đức bằng người giải rõ nghĩa Bát Nhã Ba La Mật cho người khác nghe. Vì sao ? Vì chư Phật trong 3 đời đều do tu tập Bát Nhã Ba La Mật mà được Vô Thượng Bồ Đề.

Phật lại nói : Dù tinh tấn hành Bát Nhã Ba La Mật trong vô lượng kiếp, mà tâm còn “hữu sở đắc”, thì chẳng có được công đức bằng người giải rõ nghĩa Bát Nhã Ba La Mật cho người khác nghe. Vì sao ? Vì còn “hữu sở đắc” là còn chấp ngã, chấp tướng.

Phật muốn rộng nói về chánh nghĩa Bát Nhã Ba La Mật, nên dạy vị Đế Thích rằng : Khi thật hành Bát Nhã Ba La Mật, Bồ Tát phải dụng tâm “vô sở đắc” mới được đầy đủ 6 Ba La Mật. Phật nói thêm : Ở đời vị lai, có người nó “tương tợ Bát Nhã Ba La Mật”, khiến người nghe chẳng thể phân biệt được chánh niệm hay tà niệm. Bởi vậy nên Phật nói rõ về tướng của “tương tợ Bát Nhã Ba La Mật” để người nghe dễ phân biệt chánh niệm và tà niệm, giúp họ hành chánh đạo, và xa lìa tà đạo.

Phật thương xót chúng sanh đời sau, vì chẳng được duyên lành gặp Phật và chư đại Bồ Tát, nên chỉ được học Bát Nhã Ba La Mật qua kinh điển, khiến có thể sanh tà ức niệm; rồi y vào danh tự, ngôn ngữ mà nói “tương tợ Bát Nhã Ba La Mật” cho người khác nghe.

Nếu chỉ xét về danh tự, ngữ ngôn bên ngoài, thì bên ngoài tưởng chừng như Bát Nhã Ba La Mật và tương tợ Bát Nhã Ba La Mật tương đồng với nhau. Nếu chánh ức niệm, tư duy, sẽ thấy rõ nghĩa Bát Nhã Ba La Mật thậm thâm, vi diệu, khác hẳn với “tương tợ Bát Nhã Ba La Mật”.

Người chấp tâm, chấp tướng nói 5 ấm là vô thường, khổ, không, vô ngã… dẫn đến nói 5 ấm là vô sanh, vô diệt, rồi hành 5 ấm như vậy, mà cho đó là hành Bát Nhã Ba La Mật.

Đây là hành “tương tợ Bát Nhã Ba La Mật”.

Trái lại, với người chẳng chấp tâm, chẳng chấp tướng cũng nói 5 ấm là vô sanh, vô diệt; nhưng nói như vậy chỉ nhầm phá các chấp điển đảo của phàm phu mà chẳng hề chấp trước. Như vậy mới đúng theo chánh nghĩa Bát Nhã Ba La Mật.

Lại nữa, người thuyết pháp để dạy người khác xả “tương tợ Bát Nhã Ba La Mật”, và tu tập “chánh Bát Nhã Ba La Mật” cũng thuyết đúng theo chánh nghĩa Bát Nhã Ba La Mật.

Người thuyết pháp đúng theo chánh nghĩa Bát Nhã Ba La Mật được công đức rất thù thắng.

KINH :

Phật dạy tiếp : Này Kiều Thi Ca ! Nếu có Thiện Nam, Thiện Nữ dạy chúng sanh trong cõi Diêm Phù Đề… dẫn đến dạy chúng sanh trong hằng sa thế giới khắp 10 phương đều được quả Tu Đà Hoàn, Tư Đà Hàm, A Na Hàm… dẫn đến được quả A La Hán, Bích Chi Phật. Ý ông nghĩ sao ? Người này có được phước đức nhiều chăng ?

Ngài Thích Đề Hoàn Nhơn bạch Phật : Bạch Thế Tôn ! Thiện Nam, Thiện Nữ ấy được phước đức rất nhiều.

Phật dạy : Này Kiều Thi Ca ! Phước đức ấy vẫn chẳng bằng được phước đức của Thiện Nam, Thiện Nữ dùng các phương tiện nhân duyên để phân biệt, khai thị, diễn nói Bát Nhã Ba La Mật cho người khác nghe, khiến họ rõ được nghĩa của Bát Nhã Ba La Mật; lại khuyên họ tinh tấn thọ trì, đọc tụng, chánh ức niệm Bát Nhã Ba La Mật, và y theo lời dạy trong Bát Nhã Ba La Mật mà tu hành. Vì sao ? Vì từ trong Bát Nhã Ba La Mật xuất sanh các quả Tu Đà Hoàn, Tư Đà Hàm, A Na Hàm, A La Hán và Bích Chi Phật.

Lại nữa, này Kiều Thi Ca ! Nếu có Thiện Nam, Thiện Nữ dạy chúng sanh trong cõi Diêm Phù Đề… dẫn đến dạy chúng sanh trong hằng sa thế giới khắp 10 phương đều pháp Bồ Đề tâm… dẫn đến đều vào được bất thối chuyển địa. Ý ông nghĩ sao ? Người này có được phước đức nhiều chăng ?

Ngài Thích Đề Hoàn Nhơn bạch Phật : Bạch Thế Tôn ! Thiện Nam, Thiện Nữ ấy được phước đức rất nhiều.

Phật dạy : Này Kiều Thi Ca !  Phước đức ấy vẫn chẳng bằng được phước đức của Thiện Nam, Thiện Nữ dùng các phương tiện nhân duyên để phân biệt, khai thị, diễn nói Bát Nhã Ba La Mật cho người khác nghe, khiến họ rõ được nghĩa của Bát Nhã Ba La Mật; lại khuyên họ tinh tấn thọ trì, đọc tụng, chánh ức niệm Bát Nhã Ba La Mật, và y theo lời dạy trong Bát Nhã Ba La Mật mà tu hành, thì sẽ được nhất thiết chủng trí, sẽ được Vô Thượng Bồ Đề. Vì sao ? Vì từ trong Bát Nhã Ba La Mật xuất sanh các Bồ Tát, từ Bồ Tát sơ phát tâm… dẫn đến Bồ Tát bất thối chuyển.

Lại nữa, này Kiều Thi Ca ! Ví như trong cõi Diêm Phù Đề… dẫn đến trong hằng sa thế giới khắp 10 phương, chúng sanh đều phát Bồ Đề tâm… dẫn đến đều được bất thối chuyển; lại trong đó có vị đã gần được Vô Thượng Bồ Đề. Nếu có Thiện Nam, Thiện Nữ dùng các phương tiện nhân duyên để phân biệt, khai thị, diễn nói khiến chư vị đó rõ nghĩa Bát Nhã Ba La Mật, mau chứng được Vô Thượng Bồ Đề, thì công đức sẽ thù thắng hơn hết.

Ngài Thích Đề Hoàn Nhơn bạch Phật : Bạch Thế Tôn ! Như vậy, Bồ Tát càng gần Vô Thượng Bồ Đề lại càng nên được giáo hóa thật hành Đàn Ba La Mật… dẫn đến Bát Nhã Ba La Mật, thật hành nội không… dẫn đến vô pháp hữu pháp không, thật hành 4 niệm xứ, 4 vô lượng tâm, 4 vô sắc định, 4 vô sở úy, 4 vô ngại trí… dẫn đến 18 bất cộng pháp; lại càng được cúng dường “tứ sự”1 theo nhu cầu.

Nếu Thiện Nam, Thiện Nữ nào dùng tài thí và pháp thí để cúng dường vị Bồ Tát gần được Vô Thượng Bồ Đề, thì sẽ được công đức thù thắng hơn hết. Vì sao ? Vì nhờ vậy mà vị Bồ Tát này sẽ mau được Vô Thượng Bồ Đề.

Lúc bấy giờ, ngài Tu Bồ Đề tán thán vị Đế Thích rằng : Lành thay, lành thay ! Thưa ngài Kiều Thi Ca ! Ngài vì chư Thánh đệ tử mà ngài đã an ủi chư Bồ Tát. Vì Vô Thượng Bồ Đề, nên cúng dường tài thì và pháp thí mới được nhiều lợi ích. Vì sao ? Vì từ trong hàng Bồ Tát xuất sanh chư Phật và Thánh chúng.

Nếu Bồ Tát chẳng phát tâm cầu Vô Thượng Bồ Đề, thì chẳng được đầy đủ 6 pháp Ba La Mật… dẫn đến chẳng được đầy đủ 18 bất cộng pháp, khiến chẳng có thể được Vô Thượng Bồ Đề.

Nếu chẳng có Bồ Tát được Vô Thượng Bồ Đề, thì chẳng chẳng có Thanh Văn đạo và Bích Chi Phật đạo.

Bởi nhân duyên vậy, nên Bồ Tát phải tu tập đầy đủ 6 pháp Ba La Mật… dẫn đến tu tập đầy đủ 18 bất cộng pháp mới đoạn được 3 đường ác; và ở thế gian mới có các đại gia, đại tộc, có các cõi Trời, từ cõi Tứ Thiên Vương… dẫn đến cõi Trời Phi Hữu Tưởng Phi Vô Tưởng. Cũng do vậy, mới có Đàn Ba La Mật… dẫn đến có Bát Nhã Ba La Mật, có nội không… dẫn đến vô pháp hữu pháp không, có 4 niệm xứ… dẫn đến có 18 bất cộng pháp, có Thanh Văn thừa, Bích Chi Phật thừa… dẫn đến có Phật thừa.

LUẬN :

Trong kinh nói : Dạy chúng sanh trong cõi Diêm Phù Đề… dẫn đến dạy chúng sanh trong hằng sa thế giới khắp 10 phương tu được quả Thanh Văn, quả Bích Chi Phật chẳng có được phước đức bằng phân biệt, khai thị, diễn nói Bát Nhã Ba La Mật cho người khác nghe, khiến họ rõ được nghĩa Bát Nhã Ba La Mật.

Lời kinh trên đây mật ý nói rằng : Hết thảy chư Thánh Hiền đều xuất sanh từ Bát Nhã Ba La Mật cả.

Bát Nhã Ba La Mật là thật tướng của hết thảy các pháp.

Đấng Giác Ngộ chánh biến tri thật tướng của pháp được gọi là Phật.

Do vậy, mà hàng Thanh Văn Tiểu Thừa chẳng sao bằng được hàng Bồ Tát Đại Thừa.

Vì từ trong Bát Nhã Ba La Mật xuất sanh chư Thánh Hiền, nên Bồ Tát thường ái niệm, cúng dường các bậc đã liễu ngộ thật tướng pháp, và thường thuyết giảng Bát Nhã Ba La Mật.

Bởi nhân duyên vậy, nên nói : Dù dạy chúng sanh trong cõi Diêm Phù Đề… dẫn đến trong hằng sa thế giới khắp 10 đều phát tâm cầu Vô Thượng Bồ Đề… dẫn đến đều được bất thối chuyển, cũng chẳng có công đức bằng thuyết chánh nghĩa Bát Nhã Ba La Mật.

Hỏi: Trước đây nói pháp phàm phu và pháp Nhị Thừa chẳng sao bằng được Bát Nhã Ba La Mật, thì còn hợp lý. Nay vì sao nói “người phát tâm cầu đạo Vô Thượng… dẫn đến người tu đã vào được bất thối chuyển địa chẳng bằng được người thuyết chánh nghĩa Bát Nhã Ba La Mật” ?

Đáp: Có 2 hạng người nói được chánh nghĩa Bát Nhã Ba La Mật. Đó là :

– “Nhục thân Bồ Tát” thị hiện thọ thân trong các nẻo đường sinh tử.

– “Pháp thân Bồ Tát” ứng hiện khắp 3 cõi.

Trong kinh nói đến người phát tâm cầu Vô Thượng Bồ Đề là nói về vị Bồ Tát sơ phát tâm; nói đến người vào được bất thối chuyển địa là nói về Bồ Tát giáo hóa chúng sanh, thanh tịnh Phật độ.

Trong kinh cũng phân biệt hết thảy các tâm hạnh, các nghiệp duyên của chúng sanh trong 3 cõi, và trong vô lượng kiếp, đồng thời cũng phân biệt có các cảnh giới có sanh, có diệt, có thành, có hoại, có nhiều, có ít, có đại từ đại bi, có nhất thiết chủng trí, có vô lượng Phật pháp, khiến chúng sanh phát tâm cầu Vô Thượng Bồ Đề… dẫn đến vào được bất thối chuyển địa, được thành Phật đạo.

Thế nhưng, nếu biết có vị Bồ Tát nào gần được Vô Thượng Bồ Đề, mà dùng chánh nghĩa Bát Nhã Ba La Mật dạy cho họ, khiến họ mau chứng được Vô Thượng Bồ Đề, thì sẽ được công đức thù thắng hơn hết.

Vì sao ? Vì là phước điền rất lớn, nên cúng dường phước điền này được công đức rất lớn vậy.

—oOo—

Theo pháp thế gian, thì:

– Xúc phạm đến một vị quan bị xử tội nặng hơn xúc phạm đến một người dân thường.

– Xúc phạm đến một vị thái từ bị xử tội nặng hơn xúc phạm đến một vị quan.

– Xúc phạm đến một vị vua bị xử tội nặng hơn xúc phạm đến một vị thái tử.

– Xúc phạm đến người ở địa vị càng cao, thì bị xử tội càng nặng. Cũng như vậy, theo pháp Phật thì:

Cúng dường một vị Thanh Văn, 1 vị Bích Chi Phật chẳng bằng được cúng dường 1 vị Bồ Tát bất thối chuyển.

Cúng dường một vị Bồ Tát bất thối chuyển chẳng bằng được cúng dường 1 vị Phật gần thành.

Cúng dường một vị Phật gần thành chẳng bằng được cúng dường 1 vị Phật đã thành.

Vì sao ? Vì chư Phật do tu tập Bát Nhã Ba La Mật mà được Vô Thượng Bồ Đề, độ thoát vô lượng chúng sanh.

Bát Nhã Ba La Mật là phước điền vô thượng. Cúng dường Bát Nhã Ba La Mật là cúng dường chư Phật và chư đại Bồ Tát, nên được công đức rất thù thắng.

—oOo—

Vị Đế Thích liễu thông được pháp Phật, nên bạch Phật : Bồ Tát càng gần được Vô Thượng Bồ Đề càng nên được giáo hóa và cúng dường.

Dùng tài thí để cúng dường, dùng pháp thí để giáo hóa được vô lượng công đức.

Ngài Tu Bồ Đề tán thán vị Đế Thích : Lành thay, lành thay ! Ngài khéo dùng thiện ngữ để khuyến tấn chư Bồ Tát; lại vì Vô Thượng Bồ Đề mà nói : nên dùng tài thí và pháp thí để cúng dường và giáo hóa chư đại Bồ Tát gần được Vô Thượng Bồ Đề.

Vị Đế Thích cũng liễu thông Vô Thượng Pháp Bảo, nên đã vì chư Thánh đệ tử, nói rằng : Từ trong Bát Nhã Ba La Mật xuất sanh chư Phật và Thánh Chúng.

Nếu Bồ Tát chẳng hành đầy đủ 6 pháp Ba La Mật, thì chẳng thể được Vô Thượng Bồ Đề. Nếu chẳng có Bồ Tát được Vô Thượng Bồ Đề, thì ở thế gian chẳng có Thanh

Văn đạo và Bích Chi Phật đạo… dẫn đến chẳng có Phật đạo.

Lại nữa, nếu Bồ Tát chẳng hành đầy đủ 6 pháp Ba La Mật, thì ở thế gian chẳng có 10 thiện đạo… dẫn đến chẳng có vô lượng Phật pháp. Nếu chẳng có 10 thiện đạo… dẫn đến chẳng có vô lượng Phật pháp, thì chẳng thể làm giảm thiểu số chúng sanh đọa vào 3 đường ác; cũng chẳng có các đại gia, đại tộc, chẳng có được các cõi Trời… dẫn đến chẳng có chư Hiền Thánh, chư đại Bồ Tát và chư Phật.

Bởi nhân duyên vậy, nên thuyết giảng Bát Nhã Ba La Mật, dạy người tu tập Bát Nhã Ba La Mật được vô lượng công đức, ở đời này và cả đời sau.

(Hết quyển 60)

Hết Tập III