LUẬN
ĐẠI TRÍ ĐỘ

Nguyên tác: Bồ tát Long Thọ
Hán dịch: Pháp sư Cưu Ma La Thập
Việt dịch: Tỳ kheo ni THÍCH NỮ DIỆU KHÔNG

 

TẬP III
QUYỂN 59

Phẩm thứ ba mươi bảy
Xá lợi

Kinh:

Phật bảo Ngài Thích Đề Hoàn Nhơn : Này Kiều Thi Ca ! Nếu lấy số lượng xá lợi Phật đầy khắp cả cõi Diêm Phù Đề làm 1 phần, và lấy người biên chép kinh quyển Bát Nhã Ba La Mật làm 1 phần, thì ở trong 2 phần đó, ông nhận phần nào ?

Ngài Thích Đề Hoàn Nhơn thưa : Bạch Thế Tôn ! Trong 2 phần đó con xin nhận lãnh phần viết chép kinh quyển Bát Nhã Ba La Mật. Vì sao ?

Bạch Thế Tôn ! Chẳng phải con chẳng có tôn trọng, cung kính xá lợi Phật, nhưng vì xá lợi Phật cũng xuất sanh từ Bát Nhã Ba La Mật. Do tu tập Bát Nhã Ba La Mật, mà chư Phật có được xá lợi; và xá lợi mới được tôn trọng, cung kính, cúng dường, tán thán vậy.

Lúc bấy giờ, ngài Xá Lợi Phất hỏi vị Đế Thích : Thưa ngài Kiều Thi Ca ! Bát Nhã Ba La Mật chẳng thể thủ, vì chẳng có sắc, chẳng có hình, chẳng có đối, chỉ là một tướng (nhất tướng), là chẳng có tướng (vô tướng). Dù ông muốn nhận lãnh cũng chẳng sao thủ lấy được. Vì sao ? Vì Bát Nhã Ba La Mật chẳng do thủ hay xả mà có, chẳng do tăng hay giảm mà có, chẳng do tụ hay tán mà có, chẳng do tổn hay ích mà có, chẳng do cấu hay tịnh mà có.

Bát Nhã Ba La Mật chẳng thủ Phật pháp mà cũng chẳng xả phàm phu pháp; chẳng thủ Thánh pháp mà cũng chẳng xả phàm phu pháp; chẳng thủ vô vi tánh mà cũng chẳng xả hữu vi tánh; chẳng thủ nội không… dẫn đến vô pháp hữu pháp không, chẳng thủ 4 niệm xứ… dẫn đến nhất thiết chủng trí, mà cũng chẳng xả phàm phu pháp.

Ngài Thích Đề Hoàn Nhơn nói : Đúng như vậy, đúng như vậy ! Thưa ngài Xá Lợi Phất ! Nếu có ai biết rõ Bát Nhã Ba La Mật chẳng thủ Phật pháp mà cũng chẳng xả phàm phu pháp,…, dẫn đến chẳng thủ nhất thiết chủng trí mà cũng chẳng xả phàm phu pháp, thì vị đó chính là Bồ Tát Ma Ha Tát hành Bát Nhã Ba La Mật và tu tập Bát Nhã Ba La Mật vậy. Vì sao ? Vì Bát Nhã Ba La Mật chẳng thủ 2 pháp tướng (nhị pháp tướng). Bát Nhã Ba La Mật là “bất nhị pháp tướng”. “Bất nhị pháp tướng” cũng là tướng của Đàn Ba La Mật… dẫn đến của Thiền Ba La Mật.

Phật tán vị Đế Thích : Lành thay, lành thay !

Này Kiều Thi Ca ! Bát Nhã Ba La Mật chẳng hành 2 pháp tướng; Bát Nhã Ba La Mật là “bất nhị pháp tướng”. “Bất nhị pháp tướng” cũng là tướng của Đàn Ba La Mật… dẫn đến của Thiền Ba La Mật.

Này Kiều Thi Ca ! Nếu ai muốn pháp tánh nhị tướng là người đó muốn Bát Nhã Ba La Mật nhị tướng. Vì sao ? Vì Bát Nhã Ba La Mật và pháp tánh là chẳng phải hai, chẳng phải khác.

Đàn Ba La Mật… dẫn đến Thiền bnl cũng là như vậy. Nếu ai muốn “thật tế bất khả tư nghì tánh” nhị tướng là người đó muốn Bát Nhã Ba La Mật nhị tướng. Vì sao ? Vì Bát Nhã Ba La Mật và “thật tế bất khả tư nghì tánh” là chẳng phải hai, chẳng phải khác.

Đàn Ba La Mật… dẫn đến Thiền Ba La Mật cũng là như vậy.

Ngài Thích Đề Hoàn Nhơn bạch Phật : Bạch Thế Tôn ! Hết thảy thế gian, Trời, Người và A Tu La đều phải lễ bái, cung kính, cúng dường Bát Nhã Ba La Mật. Vì sao ? Vì từ nơi Bát Nhã Ba La Mật mà chư đại Bồ Tát tu tập, được Vô Thượng Bồ Đề.

Bạch Thế Tôn ! Con thường ở tại Thiên Pháp Đường, nên chư vị Thiên Tử thường đến nơi đây để cúng dường con. Dù thấy con ngồi trên pháp tòa, hay chẳng thấy con ngồi trên pháp tòa, chư Thiên Tử vẫn hướng về pháp tòa, cúng dường, đảnh lễ, diễu quanh, rồi lui về. Vì sao ? Vì chư Thiên Tử nghĩ rằng : Tại pháp tòa này Đế Thích vẫn thường ngồi thuyết pháp cho chư Thiên Tử của 33 cõi Trời nghe.

Bạch Thế Tôn ! Cũng như vậy, chỗ nào có kinh quyển Bát Nhã Ba La Mật, chỗ nào có thọ trì, đọc tụng, thuyết giảng Bát Nhã Ba La Mật, thì chỗ ấy có các hàng Thiên Long bát bộ trong khắp cả 10 phương đến lễ bái, cung kính, cúng dường Bát Nhã Ba La Mật, rốt ráo rồi đi. Vì sao ? Vì từ nơi Bát Nhã Ba La Mật xuất sanh các đức Phật, cùng hết thảy các lạc pháp cho chúng sanh. Do vậy mà nói Bát Nhã Ba La Mật là trú xứ của xá lợi của các đức Phật, và cũng là trú xứ của nhất thiết chủng trí.

Bạch Thế Tôn ! Bởi nhân duyên vậy, nên trong hai phần con xin nhận lãnh phần Bát Nhã Ba La Mật.

Bạch Thế Tôn ! Khi con thọ trì, đọc tụng Bát Nhã Ba La Mật, nếu tâm con thâm nhập vào được vi diệu pháp này, thì con chẳng thấy có các tướng sợ hãi. Vì sao ? Vì Bát Nhã Ba La Mật chẳng có tướng mạo, chẳng có ngôn thuyết.

Bạch Thế Tôn ! Bát Nhã Ba La Mật là chẳng có tướng mạo, chẳng có ngôn thuyết, dẫn đến nhất thiết chủng trí cũng là như vậy.

Nếu Bát Nhã Ba La Mật mà có tướng mạo, có ngôn thuyết, thì chư Phật chẳng thể biết được hết thảy các pháp đều chẳng có tướng mạo, chẳng có ngôn thuyết, khiến chẳng có thể chứng được quả Vô Thượng Bồ Đề; và này chư Phật cũng chẳng có thể vì hàng đệ tử, thuyết giảng các pháp là chẳng có tướng mạo, chẳng có ngôn thuyết được vậy.

Bạch Thế Tôn ! Bát Nhã là chẳng có tướng mạo chẳng có ngôn thuyết, nên chư Phật mới biết rõ hết thảy các pháp đều chẳng có tướng mạo, chẳng có ngôn thuyết, mà chứng được quả Vô Thượng Bồ Đề ! Và nay chư Phật mới có thể vì hàng đệ tử thuyết giảng các pháp là chẳng có tướng mạo, chẳng có ngôn thuyết vậy.

Bởi nhân duyên vậy, nên hết thảy thế gian, Trời, Người và A Tu La đều phải tôn trọng, cung kính, tán thán Bát Nhã Ba La Mật, và dùng hoa hương, anh lạc, tràng phan, bảo cái cúng dường Bát Nhã Ba La Mật.

Bạch Thế Tôn ! Nếu có người nào thọ trì, đọc tụng, biên chép, cung kính, cúng dường… dẫn đến chánh ức niệm, tu tập Bát Nhã Ba La Mật, thì người ấy chẳng đọa vào địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh; chẳng lạc về Thanh Văn đạo và Bích Chi Phật đạo… dẫn đến người ấy sẽ được Vô Thượng Bồ Đề, sẽ thường thấy chư Phật, sẽ thường đi đến các cõi Phật để tôn trọng, cung kính, tán thán, cúng dường chư Phật.

Bạch Thế Tôn ! Bởi nhân duyên vậy, nên trong 2 phần, con xin nhận lãnh phần Bát Nhã Ba La Mật.

Vì sao ?

Vì từ nơi Bát Nhã Ba La Mật xuất sanh ra xá lợi Phật, nên xá lợi Phật mới được tôn trọng, cung kính, tán thán, cúng dường.

Các Thiện Nam, Thiện Nữ thọ trì, cung kính, cúng dường Xá Lợi Phất, cũng nhờ vậy mà được hưởng các phước lạc ở cõi trời, cõi người, chẳng bị đọa vào 3 đường ác, lại tùy theo sở nguyện dần dần được 3 thừa pháp, dẫn đến vào được Niết Bàn.

Bạch Thế Tôn ! Người được thấy Phật ở hiện đời và người được thấy kinh quyển Bát Nhã Ba La Mật cũng chẳng có gì khác nhau. Vì sao ? Vì Bát Nhã Ba La Mật và Phật là chẳng phải hai, chẳng phải.

LUẬN :

Hỏi : Ở phẩm trước đã lấy công đức xây bảo tháp đem so với công đức cúng dường Bát Nhã Ba La Mật. Sao nay lại đem xá lợi Phật so với kinh quyển Bát Nhã Ba La Mật ?

Đáp : Phẩm trước nói công đức thọ trì, tu tập Bát Nhã Ba La Mật thù thắng hơn công đức xây bảo tháp cúng dường xá lợi Phật. Phẩm này nói rõ thêm Bát Nhã Ba La Mật thù thắng hơn xá lợi Phật. Vì xá lợi Phật xuất sanh từ Bát Nhã Ba La Mật.

—oOo—

Nên biết người xuất gia cầu trí huệ, vì trí huệ là nhân giải thoát. Còn người tại gia phần nhiều tham đắm quả phước báo, vì phước báo là nhân an vui.

Người xuất gia cầu trí huệ, để liễu triệt thật tướng pháp. Trong lúc đó, thì người tại gia phần nhiều cần trí thức, để phân biệt các pháp tướng, dẫn đến đắm chấp các pháp tướng.

Ngài Thích Đề Hoàn Nhơn đã được nhiều phước báo. Ở trong hàng tại gia, ngài là bậc tối thắng, nên nay ngài cầu trí huệ.

Bởi vậy nên khi Phật hỏi : Trong 2 phần, ông nhận phần nào ? Ngài Thích Đề Hoàn Nhơn liền bạch Phật rằng: Trong 2 phần, con xin nhận lãnh phần Bát Nhã Ba La Mật. Chẳng phải con chẳng cung kính xá lợi Phật. Mặc dù cúng dường xá lợi Phật được vô lượng công đức, nhưng vì xá lợi Phật xuất sanh từ Bát Nhã Ba La Mật, nên con xin lãnh phần Bát Nhã Ba La Mật.

Hỏi : Ngài Xá Lợi Phất đã biết rõ vị Đế Thích còn thủ Bát Nhã Ba La Mật, vì còn ở nơi Thế Đế. Như vậy, vì sao ngài còn muốn vấn nạn ?

Đáp : Vị Đế Thích vẫn còn trong hàng tại gia, vẫn còn các phiền não trói buộc, vẫn còn bị 5 dục chi phối, mà lại nói được Bát Nhã Ba La Mật, nên là việc hy hữu. Do vậy mà ngài đã chất vấn vị Đế Thích, nhằm mục đích giúp vị Đế Thích thưa hỏi Phật đến chỗ thậm thâm hơn. Ngài Thích Đề Hoàn Nhơn đã thuận theo ý của ngài Xá Lợi Phất, mà đáp lại rằng : Hết thảy các pháp đều là “bất nhị tướng”, vậy chẳng nên nói Bát Nhã Ba La Mật là lớn, xá lợi Phật là nhỏ. Vì sao ? Vì Bát Nhã Ba La Mật là “bất nhị tướng”, là “vô phân biệt tướng”.

Ngài Thích Đề Hoàn Nhơn đã dùng Thế Đế để nói về Bát Nhã Ba La Mật, vì ngài muốn hàng sơ phát tâm Bồ Tát được thêm tăng ích, và muốn cho chúng hội được rõ lý “bất nhị”, chẳng còn sanh tâm phân biệt nữa. Vì sự lợi ích như vậy, nên ngài Thích Đề Hoàn Nhơn mới xin nhận lãnh Bát Nhã Ba La Mật.

Lúc bấy giờ, Phật tán thán vị Đế Thích rằng : Lành thay, lành thay ! Ông đã phân biệt rõ ràng các pháp tướng, mà cũng khéo nói Bát Nhã Ba La Mật là “bất nhị tướng”.

Nhân đây, Phật đã nêu lên thí dụ “Nếu có ai muốn phân biệt “pháp tánh”… dẫn đến muốn phân biệt “thật tế bất khả tư nghì tánh” là “nhị tướng”, thì người đó muốn Bát Nhã Ba La Mật “nhị tướng”.

Ngài Thích Đề Hoàn Nhơn nghe Phật dạy như vậy, liền được tín tâm thanh tịnh, nên ngài nói : Hết thảy Bồ Tát đều do tu tập Bát Nhã Ba La Mật, mà được Vô Thượng Bồ Đề.

Ngài lại lấy tự thân của ngài để dụ cho Phật, dụ cho Bát Nhã Ba La Mật, lấy pháp tòa của gài để dụ cho xá lợi Phật, và cuối cùng ngài kết luận là giữa xá lợi Phật và kinh quyển Bát Nhã Ba La Mật, ngài xin nhận lãnh phần Bát Nhã Ba La Mật.

Ngài lại bạch Phật tiếp rằng : Con vì thọ trì, đọc tụng Bát Nhã Ba La Mật mà được tâm an định, chẳng kinh, chẳng hãi, chẳng sợ. Người hành Bát Nhã Ba La Mật biết rõ thật tướng pháp là chẳng có tướng mạo, chẳng có ngôn thuyết, nên chẳng có gì để sợ hãi cả. Người thọ trì, đọc tụng… dẫn đến cúng dường Bát Nhã Ba La Mật chẳng đọa vào 3 đường ác, chẳng lạc về Thanh Văn đạo và Bích Chi Phật đạo, đời đời chẳng ly chư Phật, thường đi đến các cõi Phật để cúng dường chư Phật. Do vậy mà hết thảy thế gian, Trời, Người và A Tu La đều phải tôn trọng, cung kính, cúng dường Bát Nhã Ba La Mật.

—oOo—

Ngay từ đầu phẩm kinh, khi nghe Phật bảo chọn giữa 2 phần xá lợi Phật và kinh quyển Bát Nhã Ba La Mật, ngài tdhn đã liễu ngộ được lý bình đẳng của hết thảy các pháp.

Nay, vì hết thảy chúng sanh trong khắp cả 10 phương thế giới, và vì chính mình, ngài diễn đạt lý bình đẳng đó trong câu nói : Người được thấy Phật ở hiện đời, và người thấy được kinh quyển Bát Nhã Ba La Mật chẳng có khác gì nhau. Vs? Vì Bát Nhã Ba La Mật và Phật chẳng phải hai, chẳng phải khác.

KINH :

Ngài Thích Đề Hoàn Nhơn bạch Phật tiếp : Bạch Thế Tôn ! Như lai thị hiện trụ thế dùng 3 pháp sự để thuyết 12 bộ kinh, từ Tu Đa La… dẫn đến Ưu Bà Đề Xá. Nếu có Thiện Nam, Thiện Nữ nào thọ trì, đọc tụng, thuyết giảng Bát Nhã Ba La Mật, thì người này so với Phật trụ thế cũng đồng như nhau. Vì sao ? Vì Phật cũng như 12 bộ kinh, từ Tu Đa La… dẫn đến Ưu Bà Đề Xá, đều xuất sanh từ Bát Nhã Ba La Mật cả.

Bạch Thế Tôn ! Nếu chư Phật trong 10 phương thị hiện trụ thế thuyết  12 bộ kinh, từ Tu Đa La… dẫn đến Ưu Bà Đề Xá, thì so với Thiện Nam, Thiện Nữ thọ trì, đọc tụng, thuyết giảng Bát Nhã Ba La Mật cũng đồng như nhau, chẳng có sai khác. Vì sao ? Vì chư Phật trong 10 phương cũng như 12 bộ kinh, từ Tu Đa La… dẫn đến Ưu Bà Đề Xá, đều xuất sanh từ Bát Nhã Ba La Mật cả.

Bạch Thế Tôn ! Thiện Nam, Thiện Nữ nào biên chép, thọ trì, thân cận, đọc tụng… dẫn đến chánh ức niệm, tu tập Bát Nhã Ba La Mật, thì chẳng bị đọa vào 3 đường ác, chẳng bị lạc về Thanh Văn đạo và Bích Chi Phật đạo. Vì sao ? Vì Thiện Nam, Thiện Nữ này an trú trong bất thối chuyển địa, lại nhờ có Bát Nhã Ba La Mật lực hộ trì, nên xa lìa các khổ não.

Bạch Thế Tôn ! Thiện Nam, Thiện Nữ nào biên chép, thọ trì, thân cận, đọc tụng, tôn trọng, cung kính, cúng dường, tán thán kinh quyển Bát Nhã Ba La Mật, thì xa lìa được các sự khủng bố.

Ví như người, trước đây mang nợ, nhưng nay lại được gần gũi một vị quốc vương cung cấp cho tiền của dư thừa, thì người chủ nợ chẳng những không làm khó dễ mà trái lại còn sanh tâm cung kính người ấy nữa. Đây là nhờ nương oai lực của vị quốc vương, mà người ấy chẳng còn sợ hãi vậy.

Cũng nhờ vậy, nhờ nơi sự tu trì Bát Nhã Ba La Mật của chư Phật, mà xá lợi Phật được cung kính, cúng dường.

Bạch Thế Tôn ! Bởi nhân duyên vậy, nên trong 2 phần, con xin nhận lãnh phần Bát Nhã Ba La Mật.

Vì sao ?

Vì từ trong Bát Nhã Ba La Mật xuất sanh xá lợi Phật và 32 tướng tốt của Phật; xuất sanh 10 Phật lực, 4 vô sở úy, 4 vô ngại trí, 18 bất cộng pháp, đại từ, đại bi; xuất sanh 5 Ba La Mật kia và thành tựu danh tự Ba La Mật. Cũng từ trong Bát Nhã Ba La Mật xuất sanh chư Phật cùng nhất thiết chủng trí.

Bạch Thế Tôn ! Trong đại thiên thế giới, nếu có ai thọ trì, đọc tụng, tôn trọng, cung kính, cúng dường, tán thán Bát Nhã Ba La Mật, thì nơi chỗ người đó ở, tất cả các kẻ ác, hoặc là người, hoặc là quỷ thần, đều chẳng dám đến để làm hại được. Người đó dần dần sẽ được vào Niết Bàn.

Bạch Thế Tôn ! Bát Nhã Ba La Mật có đại lợi ích, thường tác hành Phật sự trong cả đại thiên thế giới. Bởi vậy, nên nào có Bát Nhã Ba La Mật là nơi đó có chính Phật vậy.

Ví như ngọc “ma ni bảo châu” ở nơi nào, thì nơi đó các hàng “phi nhân” chẳng dám đến quấy phá.

Nếu có người bị bệnh nóng lạnh, mà được đeo bảo châu này, tức thì được lành bệnh. Nếu có rắn độc cắn, mà có được bảo châu này đặt lên vết thương, ,tức thì nọc rắn độc được tiêu trừ. Nếu có người bị đau mắt đến mù lòa, mà được đến gần bảo châu này, tức thì được sáng mắt. Nếu có người bị bệnh phong cùi, ghẻ độc mà được đeo bảo châu này, tức thì được lành bệnh.

Lại nữa, để bảo châu này ở nơi nào, thì ở nơi đó khí hậu điều hòa, thời tiết thuận lợi; thả bảo châu này vào nước đục, thì nước đục liền trở thành trong; gói bảo châu này vào bao đựng hoặc xanh, hoặc vàng, hoặc đỏ, hoặc tím… rồi đem thả vào nước thì nước liền được nhuộm theo màu đó.

Lúc bây giờ, ngài A Nan hỏi vị Đế Thích : Thưa ngài Kiều Thi Ca, Ma Ni bảo châu là ngọc quí ở trên trời, hay là ngọc quí ở thế gian ?

Ngài Thích Đề Hoàn Nhơn đáp : Thưa Đại Đức ! Bảo châu đó là vật báu ở trên trời. Người ở cõi Diêm Phù Đề cũng có bảo châu tương tợ, nhưng công lực chẳng có thể sánh bằng được.

Bảo châu đó thanh khiết, nhẹ nhàng, đẹp đẽ, chẳng có thể lấy gì để so sánh được cả. Nếu đem bảo châu này bỏ vào trong hộp, đậy kín. Khi đã lấy bảo châu này ra khỏi hộp rồi, mà công lực của bảo châu còn lưu tồn, nên chiếp hộp vẫn còn được người tôn quí.

Rồi ngài Thích Đề Hoàn Nhơn bạch Phật : Bạch Thế Tôn ! Cũng như vậy, chỗ nào có người biên chép kinh quyển Bát Nhã Ba La Mật, thì chỗ đó cũng chẳng có sự não hại.

Bạch Thế Tôn ! Sau khi một vị Phật nhập Niết Bàn, mà xá lợi được cung kính, cúng dường, thì đó chính là nhờ công đức lực của Bát Nhã Ba La Mật, của Đàn Ba La Mật… dẫn đến của Thiền Ba La Mật, của nội không… dẫn đến của vô pháp hữu pháp không, của 4 niệm xứ… dẫn đến của 18 bất cộng pháp, của pháp tánh, của pháp tướng, của pháp vị, của thật tế bất khả tư nghì tánh… dẫn đến của nhất thiết chủng trí.

Bạch Thế Tôn ! Nếu Thiện Nam, Thiện Nữ nghĩ rằng xá lợi Phật là trú xứ của nhất thiết chủng trí, của đại từ, đại bi, thì liền đoạn trừ được các tập khí, kiết sử. Do vậy, mà xá lợi Phật được cung kính, cúng dường.

Bạch Thế Tôn ! Xá lợi Phật là trú xứ của “công đức bảo Ba La Mật”, của “bất cấu, bất tịnh Ba La Mật”, của “bất sanh, bất diệt Ba La Mật”, của “bất xuất, bất nhập Ba La Mật”, của “bất tăng, bất giảm Ba La Mật”, của “bất khứ, bất lai Ba La Mật”.

Xá lợi Phật cũng là trú xứ của các “pháp tướng Ba La Mật”. Do chư Phật huân tu các “pháp tướng Ba La Mật”, mà xá lợi Phật được tôn trọng, cung kính, cúng dường.

Bạch Thế Tôn ! Chẳng luận lấy số lượng xá lợi Phật đầy khắp cả đại thiên thế giới, mà cho đến lấy số lượng Xá Lợi Phật đầy khắp cả hằng sa thế giới trong 10 phương làm 1 phần, và lấy người biên chép kinh quyển Bát Nhã Ba La Mật làm 1 phần, thì trong 2 phần đó, con cũng xin nhận lãnh phần Bát Nhã Ba La Mật. Vì sao ? Vì Bát Nhã Ba La Mật xuất sanh ra xá lợi Phật; do chư Phật huân tu Bát Nhã Ba La Mật, mà xá lợi Phật được tôn trọng, cung kính, cúng dường.

Bạch Thế Tôn ! Nếu Thiện Nam, Thiện Nữ nào tôn trọng, cung kính, cúng dường xá lợi Phật, thì sẽ được vô lượng, vô biên công đức, được hưởng phước lại ở cõi Trời, cõi Người… dẫn đến nhờ nhân duyên phước đức này, mà sẽ tận diệt các khổ.

Nếu Thiện Nam, Thiện Nữ nào biên chép, thọ trì, thân cận, đọc tụng, thuyết giảng… dẫn đến chánh ức niệm, tu tập Bát Nhã Ba La Mật, thì sẽ được đầy đủ Đàn Ba La Mật… dẫn đến 18 bất cộng pháp, sẽ an trú Bồ Tát vị, thù thắng hơn hàng Thanh Văn và Bích Chi Phật. An trú nơi Bồ Tát vị, Thiện Nam, Thiện Nữ này sẽ được đầy đủ các thần thông, đi từ Phật độ này đến Phật độ khác để thành tựu chúng sanh, thanh tịnh Phật độ.

Bạch Thế Tôn ! Chẳng phải con khởi tâm bất kính đối với Xá Lợi Phật, mà chẳng nhận lãnh phần xá lợi. Vì sao ? Vì cúng dường Bát Nhã Ba La Mật cũng là cúng dường xá lợi Phật vậy.

Bạch Thế Tôn ! Nếu Thiện Nam, Thiện Nữ nào muốn thấy pháp thân của chư Phật hiện tại, ở trong khắp 10 phương thế giới, thì phải thọ trì, thân cận, đọc tụng… dẫn đến chánh ức niệm, tu tập Bát Nhã Ba La Mật, và còn phải vì người khác thuyết giảng Bát Nhã Ba La Mật.

Thiện Nam, Thiện Nữ này, khi thật hành Bát Nhã Ba La Mật, cũng phải y nơi pháp tướng, mà tu tập “niệm Phật tam muội”. Lại nữa, Thiện Nam, Thiện Nữ nào muốn thấy chư Phật hiện tại, thì cũng phải thọ trì, thân cận, đọc tụng… dẫn đến chánh ức niệm, tu tập Bát Nhã Ba La Mật, cũng như phải vì người khác thuyết giảng Bát Nhã Ba La Mật.

LUẬN:

Phật thị hiện trú nơi 3 pháp sự, để vì chúng sanh, thuyết 12 bộ kinh.

Hỏi : Phật thuyết đầy đủ 12 bộ kinh. Như vậy vì sao nói Thiện Nam, Thiện Nữ nào thọ trì, đọc tụng, thuyết giảng Bát Nhã Ba La Mật thì so với Phật trụ thế cũng đồng như nhau ?

Đáp : Phật muốn tán thán Bát Nhã Ba La Mật, nên nói trong 12 bộ kinh, thì Bát Nhã Ba La Mật là thù thắng hơn cả.

Lại nữa, người đã phát tâm hành Bồ Tát đạo, thì cũng phải thuyết 12 bộ kinh, bao gồm hết thảy các giáo pháp của cả 3 thừa, mà ở trong đó Bát Nhã Ba La Mật là pháp tối thượng. Vì sao ? Vì tất cả giáo pháp của cả 3 thừa giáo đều qui nhiếp về Bát Nhã Ba La Mật.

Bởi vậy nên người thọ trì, thân cận, đọc tụng… dẫn đến chánh ức niệm, tu tập Bát Nhã Ba La Mật, trọn chẳng ly Tát Bà Nhã tâm là như Phật vậy.

—oOo—

Thiện Nam, Thiện Nữ nào cung kính, cúng dường kinh quyển Bát Nhã Ba La Mật, thì xa lìa được các sự khủng bố.

Trong kinh nêu thí dụ người mang nợ, mà được một vị vua che chở, thì chẳng còn sợ hãi.

Nhà vua dụ cho Bát Nhã Ba La Mật, và người mang nợ dụ cho xá lợi Phật. Mang nợ, nói ở đây, dụ cho sự huân tập nghiệp tội từ đời trước, mà đời này phải thọ nghiệp báo. Sự che chở của nhà vua đối với người mang nợ dụ cho sự hộ trì của Bát Nhã Ba La Mật lực đối với người thọ trì Bát Nhã Ba La Mật, khiến các duyên nghiệp đời trước được tiêu trừ. Oai lực của nhà vua khiến cho người mang nợ chẳng còn sợ hãi, mà lại còn được tôn kính. Oai lực của Bát Nhã Ba La Mật khiến người thọ trì Bát Nhã Ba La Mật chẳng có sợ hãi, được tôn trọng, cung kính, cúng dường.

Trong kinh cũng nêu thí dụ “ma ni bảo châu” tiêu trừ được các bệnh. Cũng như vậy, Bát Nhã Ba La Mật tiêu trừ được các duyên nghiệp đời trước, khiến các thiện hạnh được thành tựu như ý nguyện.

Hỏi : Trong 7 thứ ngọc quí, thì ma ni bảo châu” này thuộc về loại nà0 ?

Đáp : Có thuyết nói rằng “ma ni bảo châu” này ở trong não của Long Vương. Người nào có dược loại ngọc quí này, thì các độc dược, độc trùng chẳng có thể làm hại được; ngược lại còn được hưởng nhiều phước đức.

Có thuyết nói rằng “ma ni bảo châu” ở trên Thiên giới. Khi Đế Thích giao tranh với A Tu La, đã đánh rơi ngọc quí này xuống cõi Diêm Phù Đề.

Có thuyết nói rằng “ma ni bảo châu” này chính là biến thể của xá lợi Phật. Khi Phật pháp gần đến thời kỳ diệt, thì xá lợi Phật biến thể thành loại ngọc quí này, để làm lợi ích cho chúng sanh.

Lại có thuyết nói rằng khi chúng sanh ở cõi Diêm Phù Đề đã được đầy đủ phước đức, thì “ma ni bảo châu” này trở thành “Như ý bảo châu”. Như trước đây đã nói, “Như ý bảo châu” thường hóa sanh hết thảy các thứ báu vật, áo quần, chăn mền, các thức ăn uống, các loại cây cỏ thuốc… đáp ứng đầy đủ nhu cầu của chúng sanh, tùy theo sự nguyện cầu của họ. Ngọc quý này lại có công năng tiêu trừ bệnh hoạn, khổ nạn. Bảo châu có 2 loại:

  1. Loại ở cõi Trời.
  2. Loại ở cõi Người.

Cả 2 loại bảo châu này đều đem lại nhiều phước đức, rất thù thắng.

Nếu để ngọc quí này ở trong nhà, thì các loài quỉ thần đều ủng hộ, khiến được rất nhiều oai đức.

Bát Nhã Ba La Mật cũng như vậy. Bát Nhã Ba La Mật thường ban bố phước lại cho chúng sanh. Người xuất gia cầu 3 thừa đạo, nhờ được Bát Nhã Ba La Mật hộ trì, mà được giải thoát lạc, được thành tựu như ý các hạnh nguyện. “Như ý bảo châu” trừ được 404 thứ bệnh căn bản. Cũng như vậy, Bát Nhã Ba La Mật trừ được 8 vạn 4 nghìn thứ bệnh do 3 độc “tham, sân, si” và cắc đẳng phần bệnh gây ra :

– Tham dục gây ra 2 vạn 1 ngàn bệnh.

– Sân nhuế gây ra 2 vạn 1 ngàn bệnh.

– Ngu si gây ra 2 vạn 1 ngàn bệnh.

Ngoài ra còn có 2 vạn 1 ngàn đẳng phần bệnh. Đây là những loại bệnh xen lẫn giữa tham, sân và si, hoặc tham với sân, hoặc tham với si, hoặc sân với si, hoặc cả tham, sân và si.

Ví như : pháp quán bất tịnh trừ được bệnh tham dục; pháp quân nhân duyên trừ được bệnh ngu si; 2 pháp quán này vừa trừ được bệnh tham dục, vừa trừ được bệnh ngu si v.v… Trừ các bệnh xen lẫn với như như vậy, gọi là trừ “đẳng phần bệnh”.

“Như ý bảo châu” trừ được các bệnh nóng, bệnh lạnh. Cũng như vậy, Bát Nhã Ba La Mật trừ được các bệnh vô minh, bất tín, bất kính, giải đãi. “Như ý bảo châu” để ở đâu, thì ở đó các độc trùng chẳng dám đến phá hoại. Cũng như vậy, Bát Nhã Ba La Mật ở đâu, thì ở đó có 3 độc “tham, sân và si” chẳng gây tác hại được.

Ví như người đang bệnh đau mắt mà gặp được “như ý bảo châu”, thì liền được lành bệnh. Cũng như người bị vô minh, tà kiến mê hoặc, nếu được Bát Nhã Ba La Mật soi sáng, thì liền được huệ nhãn.

“Như ý bảo châu” bỏ vào nước đục, thì nước ấy liền trở thành trong. Cũng như vậy, người có được Bát Nhã Ba La Mật lực, thì chẳng còn chấp các pháp, cũng chẳng còn sanh cấu tâm. Nhờ vậy, mà vào được 4 thiền, 4 vô lượng tâm, 4 vô sắc định; thành tựu được 4 quả Thanh Văn, và Bích Chi Phật đạo. Người tu tập Bát Nhã Ba La Mật quán các pháp đều là tự tánh không, nên mặc dù tùy thuận chúng sanh hành Bồ Tát đạo, phương tiện hành các pháp để làm lợi ích chúng sanh, mà tâm chẳng chấp (vô chấp), chẳng chướng ngại (vô ngại).

—oOo—

Thế nhưng, công đức của Bát Nhã Ba La Mật thù thắng hơn rất nhiều:

“Như ý bảo châu” chỉ trừ được ác quỉ, chẳng trừ được Thiên ma. Bát Nhã Ba La Mật trừ được ác quỷ lẫn Thiên ma.

“Như ý bảo châu” chỉ trừ được thân bệnh. Bát Nhã Ba La Mật trừ được cả thân bệnh lẫn tâm bệnh.

“Như ý bảo châu” chỉ giúp người trị thân bệnh. Bát Nhã Ba La Mật trị được hết thảy tâm bệnh và thân bệnh của người, cũng như của các Thiên Long, Quỷ Thần.

“Như ý bảo châu” chỉ chiếu sáng một vùng trong đêm tối. Bát Nhã Ba La Mật chiếu khắp đến vô lượng vô minh, hắc ám và bất cộng vô minh trị tận gốc hết thảy vô minh, si ám.

“Như ý bảo châu” phá được sự nóng bức của mặt trời. Bát Nhã Ba La Mật phá luôn cả sự nóng bức thiêu đốt thân, lẫn sự nóng bức thiêu đốt tâm do 3 độc “tham, sân và si” gây nên.

“Như ý bảo châu” trừ được gió lạnh lẽo. Bát Nhã Ba La Mật trừ được tâm bất tín, bất kính của chúng sanh đối với Tam Bảo, ngay khi vừa mống khởi.

“Như ý bảo châu” chẳng có thể trừ được các tà kiến ác độc. Bát Nhã Ba La Mật trừ được các tà kiến ác độc.

“Như ý bảo châu” chỉ trừ được bệnh của nhục nhãn, Bát Nhã Ba La Mật trừ được bệnh của tâm nhãn.

“Như ý bảo châu” trừ được bệnh của nhục nhãn mà nhục nhãn lại chẳng tạo ra “như ý bảo châu”. Bát Nhã Ba La Mật trừ được bệnh của tâm nhãn, mà huệ tâm nhãn lại có thể dẫn sanh Bát Nhã Ba La Mật.

“Như ý bảo châu” trị được bệnh của nhục nhãn, nhưng bệnh có thể lại tái phát. Bát Nhã Ba La Mật trị được bệnh của tâm nhãn, khiến huệ tâm nhãn luôn luôn được rốt ráo thanh tịnh.

“Như ý bảo châu” trị được bệnh trong 3 đời. Bát Nhã Ba La Mật trị được bệnh trong vô lượng đời.

“Như ý bảo châu” làm cho nước đục trở thành trong. Bát Nhã Ba La Mật làm cho 6 căn, 6 thức, cùng hết thảy các uế tâm trở thành thanh tịnh.

—oOo—

Bát Nhã Ba La Mật lực độ được vô lượng chúng sanh trong khắp 10 phương, khiến họ có được oai đức thù thắng.

Nếu biết có người huân tu Bát Nhã Ba La Mật, mà cung kính, cúng dường người ấy, thì cũng được Bát Nhã Ba La Mật công đức.

Phàm phu chỉ quý xá lợi. Các bậc Thánh Hiền quí Bát Nhã Ba La Mật. Vì sao ?

Vì ở trong Thánh pháp, thì Bát Nhã Ba La Mật là đệ nhất. Bởi vậy, người tu tập Bát Nhã Ba La Mật, trọn chẳng ly Tát Bà Nhã tâm, chắc chắn sẽ vào được Phật đạo.

Lại nữa, thấy được Bát Nhã Ba La Mật, mà nhất tâm cung kính, cúng dường thì cũng sẽ được vô lượng phước đức, dần dần sẽ vào được Phật đạo.

Hỏi : 4 nhóm bệnh, đã nêu trước đây, bao gồm hết thảy các bệnh. Nay vì sao chỉ nói riêng về bệnh của nhãn ?

Đáp : Vì dụng của nhãn rất nhiều, nên cần phải đề cập đến vậy. Ngoài nhục nhãn (mắt thịt), còn có Thiên Nhãn, Huệ Nhãn, Pháp Nhãn và Phật Nhãn. Đoạn kinh trên đây nói về nhục nhãn và huệ nhãn.

Hỏi : Xá lợi Phật là trú xứ của 6 pháp Ba La Mật, cũng là trú xứ của nhất thiết chủng trí. Vì sao giữa xá lợi Phật và Bát Nhã Ba La Mật, vị Đế Thích lại xin nhận lãnh phần Bát Nhã Ba La Mật ?

Đáp : Như trước đây đã nói : Xá lợi Phật xuất sanh từ Bát Nhã Ba La Mật. Do tu tập Bát Nhã Ba La Mật, mà chư Phật mới được nhất thiết chủng trí, mới được xá lợi; và xá lợi mới được cung kính, cúng dường.

Trong hết thảy các pháp, thì Bát Nhã Ba La Mật là pháp dẫn đạo. Bát Nhã Ba La Mật ví như vua, xá lợi Phật ví như vị thần tướng. Bởi vậy nên cúng dường, tán thán Bát Nhã Ba La Mật trước, rồi sau đó mới cúng dường, tán thán xá lợi Phật. Ngoài ra, cũng nên biết rằng cúng dường, tán thán Bát Nhã Ba La Mật là cúng dường, tán thán xá lợi Phật rồi vậy.

KINH :

Ngài Thích Đề Hoàn Nhơn tiếp : Bạch Thế Tôn ! Pháp tướng có 2 loại là : Hữu vi pháp tướng và vô vi pháp tướng.

* Thế nào là hữu vi pháp tướng ?

Đó là trí huệ trong nội không… dẫn đến trong vô pháp hữu pháp không, trong 4 niệm xứ, trong 8 thánh đạo, trong 10 lực, trong 4 vô sở úy, trong 4 vô ngại trí… dẫn đến trong 18 Bích Chi Phật. Đó cũng là trí huệ trong thiện pháp, trong bất thiện pháp, trong hữu lậu pháp, trong vô lậu pháp, trong thế gian pháp, trong xuất thế gian pháp…

Như vậy gọi là hữu vi pháp tướng.

* Thế nào là vô vi pháp tướng ?

Đó là tự tánh bất sanh, bất diệt, bất cấu, bất tịnh, bất tăng, bất giảm của hết thảy các pháp.

Như vậy gọi là vô vi pháp tướng.

* Thế nào là tự tánh của các pháp ?

Tánh vô sở hữu chính là tự tánh của các pháp. Đây cũng chính là vô vi pháp tướng vậy.

Phật dạy : Đúng như vậy, đúng như vậy ! Này Kiều Thi Ca ! Các đức Phật trong quá khứ do nơi Bát Nhã Ba La Mật mà được Vô Thượng Bồ Đề; hàng đệ tử của các đức Phật quá khứ do nơi Bát Nhã Ba La Mật mà được 4 quả Thanh Văn và Bích Chi Phật. Các đức Phật ở hiện tại và ở vị lai cũng do nơi Bát Nhã Ba La Mật mà được Vô Thượng Bồ Đề; hàng đệ tử của các đức Phật hiện tại và vị lai cũng do nơi Bát Nhã Ba La Mật mà được 4 quả Thanh Văn và Bích Chi Phật đạo.

Vì sao ?

Vì Bát Nhã Ba La Mật rộng nói nghĩa của cả 3 thừa giáo. Bát Nhã Ba La Mật là “vô tướng pháp”, vì là pháp vô sanh, vô diệt. Bát Nhã Ba La Mật là bất cấu, bất tịnh, bất tăng, bất giảm, bất tác, bất khởi, bất xuất, bất nhập, bất thủ, bất xả. Bởi vậy nên khi hành Bồ Tát hạnh, Bồ Tát thường y vào thế tục pháp, thay vì y vào đệ nhất nghĩa. Vì sao ? Vì Bát Nhã Ba La Mật chẳng có phân biệt bỉ thử (biên bờ này và biên bờ kia), chẳng có cao, thấp, chẳng có tướng cũng chẳng phải chẳng có tướng (phi tướng), chẳng phải thế gian cũng chẳng phải xuất thế gian, chẳng phải hữu vi cũng chẳng phải vô vi, chẳng phải thiện cũng chẳng phải bất thiện, chẳng phải hiện tại, quá khứ hay vị lai.

Này Kiều Thi Ca ! Bát Nhã Ba La Mật chẳng thủ Thanh Văn pháp và Bích Chi Phật pháp, mà cũng chẳng xả phàm phu pháp.

Ngài Thích Đề Hoàn Nhơn bạch Phật : Bạch Thế Tôn ! Bồ Tát hành Bát Nhã Ba La Mật biết rõ tâm của hết thảy chúng sanh cũng như chúng sanh đều là bất khả đắc… dẫn đến tri giả, kiến giả cũng bất khả đắc, Bồ Tát cũng bất khả đắc.

Bồ Tát cũng biết rõ sắc… dẫn đến thức bất đắc, nhãn… dẫn đến ý bất đắc, sắc… dẫn đến pháp bất đắc, nhãn thức… dẫn đến ý thức bất đắc, nhãn xúc… dẫn đến ý xúc bất đắc, nhãn xúc nhân duyên sanh thọ… dẫn đến ý xúc nhân duyên sanh tho bất đắc, 4 niệm xứ… dẫn đến 18 bất cộng pháp bất đắc, Phật pháp bất đắc, Vô Thượng Bồ Đề bất đắc… dẫn đến Phật bất đắc. Vì sao ?

Vì Bát Nhã Ba La Mật chẳng phải vì “đắc pháp” mà diễn xuất. Vì sao ? Vì tự tánh của Bát Nhã Ba La Mật là vô sở hữu, là bất khả đắc. Dẫn đến “bất khả đắc” đó cũng là bất khả đắc.

Phật dạy : Đúng như vậy, đúng như vậy ! Này Kiều Thi Ca ! Bồ Tát hành Bát Nhã Ba La Mật biết rõ Vô Thượng Bồ Đề còn bất khả đắc, huống nữa là Bồ Tát và Bồ Tát pháp.

Ngài Thích Đề Hoàn Nhơn bạch Phật : Bạch Thế Tôn ! Bồ Tát chỉ hành Bát Nhã Ba La Mật, mà chẳng có hành các Ba La Mật khác hay sao ?

Phật dạy : Này Kiều Thi Ca ! Bồ Tát hành đầy đủ 6 pháp Ba La Mật, mà vẫn biết rõ các Ba La Mật đều là bất khả đắc.

Ví như, khi thật hành Đàn Ba La Mật, Bồ Tát chẳng thấy có người thí, chẳng thấy có người thọ, cũng chẳng có tài vật dùng để bố thí; khi hành Thi La Ba La Mật, Bồ Tát cũng chẳng thấy có giới, chẳng thấy có người trì giới, cũng chẳng thấy có người phá giới… dẫn đến khi hành Bát Nhã Ba La Mật chẳng thấy có trí huệ, chẳng thấy người có trí huệ, cũng chẳng thấy người không có trí huệ.

Này Kiều Thi Ca ! Do được Bát Nhã Ba La Mật dẫn đạo, nên khi hnafh bố thí Bồ Tát mới được đầy đủ Đàn Ba La Mật, khi hành trì giới mới được đầy đủ Thi La Ba La Mật, khi hành nhẫn nhục mới được đầy đủ Sẵn Đề Ba La Mật, khi hành tinh tấn mới được đầy đủ Tỳ Lê Gia Ba La Mật, khi hành thiền định mới được đầy đủ Thiền Ba La Mật, khi quán các pháp mới được đầy đủ Bát Nhã Ba La Mật. Vì sao ? Vì Bồ Tát, dụng vô sở đắc, quán hết thảy các pháp, từ sắc… dẫn đến nhất thiết chủng trí đều là bất khả đắc cả.

Này Kiều Thi Ca ! Ví như các cây ở cõi Diêm Phù Đề có thân, có cành, có lá, có hoa sai khác nhau rất nhiều, nhưng bóng im mát của cây chẳng có gì sai khác nhau. Cũng như vậy, các Ba La Mật tuy có sai khác nhau, nhưng khi đã vào trong Bát Nhã Ba La Mật, vào trong nhất thiết chủng trí rồi, thì chẳng còn có sai khác nhau nữa, vì đều là bất khả đắc cả.

Ngài Thích Đề Hoàn Nhơn bạch Phật : Bạch Thế Tôn ! Bát Nhã Ba La Mật thành tựu đại công đức, vô lượng công đức, vô biên công đức, vô đẳng đẳng công đức.

Bạch Thế Tôn ! Nếu có Thiện Nam, Thiện Nữ biên chép kinh quyển Bát Nhã Ba La Mật, rồi thọ trì, đọc tụng, tôn trọng, cung kính, cúng dường, tán thán, chánh ức niệm, đúng như pháp mà tu tập Bát Nhã Ba La Mật; lại nếu có Thiện Nam, Thiện Nữ biên chép kinh quyển Bát Nhã Ba La Mật, rồi đem cúng dường cho người khác. Bạch Thế Tôn ! Trong hai người nêu trên đây, người nào có được phước đức nhiều hơn ?

Phật dạy : Này Kiều Thi Ca ! Ta hỏi lại ông, tùy ý ông đáp. Ý ông nghĩ sao ? Nếu có người cung kính, cúng dường, tán thán xá lợi Phật; lại có người tán xá lợi Phật thành hạt nhỏ, rồi đem cúng dường người khác. Trong hai người đó, người nào có phước đức nhiều hơn ?

Ngài Thích Đề Hoàn Nhơn đáp : Bạch Thế Tôn ! Theo như nghĩa mà con được nghe Phật dạy, thì giữa người cung kính, cúng dường, tán thán xá lợi Phật, và người tán xá lợi Phật thành hạt nhỏ chia đều cho người khác, ắt người sau có phước đức nhiều hơn.

Bạch Thế Tôn ! Vì phước lợi cho hết thảy chúng sanh, mà Phật nhập “hỏa châu tam muội” phá nát “kim cang thân” thành nhiều hạt xá lợi. Vì sao ? Vì sau khi Phật diệt độ, người cúng dường xá lợi Phật, dù nhỏ như hạt cải, cũng có được vô lượng, vô biên phước đức, dẫn đến đoạn tận được các khổ.

Phật dạy : Đúng như vậy, đúng như vậy ! Này Kiều Thi Ca ! Nếu có Thiện Nam, Thiện Nữ biên chép kinh quyển Bát Nhã Ba La Mật, rồi cung kính, cúng dường, tán thán, lại nếu có Thiện Nam, Thiện Nữ biên chép kinh quyển Bát Nhã Ba La Mật, rồi đem cho người khác đọc, thì người sau được công đức nhiều hơn người trước. Nếu có Thiện Nam, Thiện Nữ đúng như nghĩa trong Bát Nhã Ba La Mật mà diễn nói cho người khác nghe, khai thị, phân biệt khiến cho người khác dễ hiểu, thì công đức của người sau này lại còn nhiều hơn hai người trước nữa. Vì sao ? Vì Thiện Nam, Thiện Nữ này nghe Bát Nhã Ba La Mật, rồi đúng như nghĩa khai thị, diễn nói cho người khác nghe, là người có phạm hạnh cao siêu. Phải xem người đó như Phật. Vì Bát Nhã Ba La Mật tức là Phật, Bát Nhã Ba La Mật chẳng khác Phật, Phật chẳng khác Bát Nhã Ba La Mật.

Chư Phật trong 3 đời do tu tập Bát Nhã Ba La Mật, mà được Vô Thượng Bồ Đề. Người có phạm hạnh cao siêu chính là bậc đại Bồ Tát bất thối chuyển, cũng do tu tập Bát Nhã Ba La Mật, mà sẽ được Vô Thượng Bồ Đề.

Hàng Thanh Văn do tu tập Bát Nhã Ba La Mật, mà sẽ được A La Hán đạo. Người cầu Bích Chi Phật đạo cũng do tu tập Bát Nhã Ba La Mật, mà sẽ được Bích Chi Phật đạo. Hàng Bồ Tát cũng do tu tập Bát Nhã Ba La Mật, mà sẽ vào được Bồ Tát vị.

Này Kiều Thi Ca ! Bởi nhân duyên vậy, nên Thiện Nam, Thiện Nữ nào muốn tôn trọng, cung kính, cúng dường Phật hiện tại thì phải tôn trọng, cung kính, cúng dường Bát Nhã Ba La Mật.

Này Kiều Thi Ca ! Ngay khi ta vừa được Vô Thượng Bồ Đề, nghĩ đến lợi ích này, ta tự hỏi : Ta nên y chỉ nơi pháp nào; ta nên tôn trọng, cung kính, cúng dường pháp nào ?

Này Kiều Thi Ca ! Trong thế gian, chẳng ai bằng Phật, nên ta lại tự niệm : Phật của ta đạt được đã đem lại cho ta quả vị Phật.

Ta đã cung kính, cúng dường pháp ấy, y chỉ và an trú nơi pháp ấy. Pháp ấy là gì ? Đó chính là Bát Nhã Ba La Mật.

Này Kiều Thi Ca ! Phật còn tôn trọng, cung kính, cúng dường Bát Nhã Ba La Mật. Phật còn y chỉ và an trú nơi Bát Nhã Ba La Mật.

Như vậy, Thiện Nam, Thiện Nữ nào muốn được Vô Thượng Bồ Đề, thì phải tôn trọng, cung kính, cúng dường Bát Nhã Ba La Mật; y chỉ và an trú nơi diệu pháp đó. Vì sao ? Vì Bát Nhã Ba La Mật xuất sanh chư đại Bồ Tát và chư Phật vậy.

Bởi nhân duyên vậy, nên Thiện Nam, Thiện Nữ nào muốn cầu Thanh Văn đạo, muốn cầu Bích Chi Phật đạo… dẫn đến muốn cầu Phật đạo, phải tôn trọng, cung kính, cúng dường Bát Nhã Ba La Mật; phải y chỉ nơi Bát Nhã Ba La Mật.

LUẬN :

Hỏi : Vì nhân duyên gì mà nói về hữu vi pháp tướng và vô vi pháp tướng ?

Đáp : Khi vị Đế Thích tán thán Bát Nhã Ba La Mật nhiếp hết thảy các pháp, ngài muốn tạo duyên khởi để nói về “hữu vi pháp tướng”.

Vị Đế Thích nói rằng “hữu vi pháp tướng” là trí huệ trong nội không… dẫn đến vô pháp hữu pháp không, trong 4 niệm xứ, trong 8 thánh đạo, trong 10 lực, trong 4 vô sở úy, trong 4 vô ngại trí… dẫn đến trong 18 bất cộng pháp. Đó cũng là trí huệ trong thiện pháp, trong bất thiện pháp, trong hữu lậu pháp, trong vô lậu pháp, trong thế gian pháp, trong xuất thế gian pháp.

Trái với “hữu vi pháp tướng” là “vô vi pháp tướng”.

Hết thảy “hữu vi pháp tướng” và “vô vi pháp tướng” đều nhiếp trọn trong Bát Nhã Ba La Mật.

Hữu vi pháp là chỗ hiển dụng; vô vi thiện pháp là chỗ tâm y chỉ.

Vô vi thiện pháp là pháp căn bản, mà các Bồ Tát sơ phát tâm phải tu tập mới vào được Bát Nhã Ba La Mật, mới được vô sanh pháp nhẫn. Vì sao ? Vì có tu tập như vậy, mới tránh được ái nhiễm pháp, chẳng tăng hay xả pháp, chẳng y chỉ vào Niết Bàn, chẳng ly hữu vi pháp, mà vẫn được vô vi pháp. Bởi vậy nên trong Đại Thừa Ma Ha Diễn, Bát Nhã Ba La Mật mới dụng “vô tướng pháp” mà rộng nói cả 3 thừa giáo.

Ví như, khi nói về các pháp vô sanh, vô diệt… Bồ Tát thường y vào thế tục đế, thay vì y vào đệ nhất nghĩa đế.

Bồ Tát hành thật tướng pháp, tuy thường quán hết thảy chúng sanh, mà vẫn biết chúng sanh là bất khả đắc; tuy thường hành hết thảy pháp, mà vẫn biết rõ các pháp đều là tự tánh không. Vì sao ? Vì dụng tâm vô sở đắc hành các pháp, mới thật là hành Bát Nhã Ba La Mật.

—oOo—

Phật ấn chứng và tán thán lời trình bày của vị Đế Thích, và nói rằng : Bồ Tát nên tu tập như vậy, mới được Vô Thượng Bồ Đề, nhưng chẳng nên chấp Vô Thượng Bồ Đề. Vì sao ? Vì Vô Thượng Bồ Đề cũng là bất khả đắc.

Lúc bấy giờ, ngài Thích Đề Hoàn Nhơn tự niệm : Nếu nói Bát Nhã Ba La Mật là pháp rốt ráo, thì người tu chỉ cần hành Bát Nhã Ba La Mật, mà chẳng cần phải hành các pháp Ba La Mật khác hay sao?

Phật dạy : Bồ Tát phải tu tập 6 pháp Ba La Mật, nhưng cũng phải dùng Bát Nhã Ba La Mật dẫn đạo, tức là phải dụng tâm vô sở đắc, mới hòa hợp được các Ba La Mật. Ngược lại, nếu chỉ tu Bát Nhã Ba La Mật, mà chẳng tu 5 Ba La Mật kia, thì chẳng sao có thể có được đầy đủ các công đức. Ví như kẻ vô trí nghe nói muối là gia vị chủ yếu của tất cả các món ăn, mà bèn bốc cả nắm muối cho vào món ăn, khiến chẳng sao ăn được, hoặc ăn vào phải mang bệnh vậy.

Cũng như vậy, người tu hành muốn trừ tâm chấp, phải hnafh Bát Nhã Ba La Mật. Thế nhưng, nếu khởi tâm chấp “không”, thì sẽ rơi vào tà kiến, khiến chẳng có thể tu các thiện pháp được; trái lại, nếu biết dùng Bát Nhã Ba La Mật lực để hòa hợp 5 Ba La Mật kia, thì công đức mới được đầy đủ. Như vậy, nếu được Bát Nhã Ba La Mật soi sáng, dẫn đạo, thì bố thí… dẫn đến thiền định mới được gọi là Đàn Ba La Mật… dẫn đến mới được gọi là Thiền Ba La Mật.

Bởi nhân duyên vậy, nên nói 6 pháp Ba La Mật đều bình đẳng, đều chỉ là một tướng (nhất tướng). Ví như cõi Diêm Phù Đề có hồ A Na Bà Đạt Na chảy ra 4 con sông lớn. Con sông Đại Hà, lớn nhất trong 4 con sông có đến 500 sông nhánh. Nước từ khắp nơi, theo các sông nhánh chảy dồn về sông Đại Hà, rồi chảy ra biển. Khi đã vào biển, thì tất cả các dòng nước này đều chẳng còn là nước riêng của bất cứ sông nào, mà trở thành nước của biển, đều cùng một vị.

Cũng như các cây có thân, cành, lá, hoa… khác nhau, nhưng bóng cây đều cùng một tánh im mát như nhau.

Hỏi : Thọ trì, đọc tụng… dẫn đến chánh ức niệm, tu tập Bát Nhã Ba La Mật là việc khó làm. Còn biên chép Bát Nhã Ba La Mật để cúng dường cho người khác là việc dễ làm hơn. Vì sao nói công đức biên ché Bát Nhã Ba La Mật, rồi cúng dường cho người khác thù thắng hơn ?

Đáp : Thọ trì, đọc tụng… dẫn đến chánh ức niệm, tu tập Bát Nhã Ba La Mật, tuy là việc khó làm, nhưng là việc làm lợi ích cho riêng mình, nên chỉ được ít công đức. Còn biên chép kinh điển, cúng dường cho người khác đọc tụng, là việc làm lợi tha, là vận hành vô ngã, nên công đức thù thắng hơn.

Bởi vậy nên, khi Phật hỏi vị Đế Thích về các trường hợp tự mình cúng dường xá lợi Phật, và phân bố xá lợi Phật cho nhiều người khác được cúng dường, bên nào có phước đức nhiều hơn, thì vị Đế Thích trả lời ngay rằng : Phân bố xá lợi Phật cho nhiều người khác cúng dường, được phước đức thù thắng hơn nhiều. Vì sao ? Vì đây là vận hành tâm vô ngã, tâm từ bi, mới có thể làm được vậy.

—oOo—

Phật từ bi vô lượng, nên đã dùng “hỏa châu tam muội” để phá nát “thân kim cang” của ngài thành xá lợi, khiến chúng sanh có được xá lợi Phật để cung kính, cúng dường. Do cúng dường xá lợi Phật, mà được thiện căn tăng trưởng, dần dần vào được Vô Thượng Bồ Đề.

Hỏi : Phước đức tại tâm. Như vậy cần gì Phật phải dùng “hỏa châu tam muội” làm nát “thân kim cang” thành xá lợi để cho chúng sanh cúng dường làm gì ? Vì sao nói người biên chép kinh điển cho người khác xem, lại có phước đức thù thắng hơn người cúng dường xá lợi ?

Đáp : Tín tâm thanh tịnh thường được phát khởi từ 2 duyên. Đó là :

  1. Nơi nội tâm có chánh ức niệm Tam Bảo.
  2. Nương theo ngoại duyên, cầu phước điền vô lượng.

Ví như hạt giống tốt gieo vào ruộng tốt, ắt sẽ thâu hoạch được mùa gặt tốt.

Xá lợi Phật là phước điền tốt. Nếu phát tâm tinh tấn cúng dường xá lợi Phật, ắt sẽ được đại phước báu.

Thế nhưng, người biên chép kinh điển đem cho người khác, để họ thọ trì, đọc tụng, cung kính, cúng dường… dẫn đến chánh ức niệm, tu tập, hoặc người rộng giải nghĩa kinh cho đại chúng nghe, thì sẽ được phước đức thù thắng hơn nữa. Bởi vậy nên phải xem người đó như là vị Phật sẽ thành trong đời vị lai.

—oOo—

Phật dùng 2 nhân duyên để minh chứng rằng Bát Nhã Ba La Mật là pháp thù thắng nhất trong tất cả các pháp. Đó là :

– Chư Thánh Hiền, trong cả 3 đời, đều do tu tập Bát Nhã Ba La Mật, mà vào được Thánh đạo.

– Chư Phật, trong cả 3 đời, đều do tu tập Bát Nhã Ba La Mật, mà thành Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác.

Nay Phật cũng tôn Bát Nhã Ba La Mật làm mẹ, làm thầy. Vì sao ? Vì Bát Nhã Ba La Mật chính là thật tướng các pháp.

Đây là một đại sự nhân duyên. Phật muốn khai thị cho chúng sanh rõ Bát Nhã Ba La Mật là pháp căn bản của Bồ Tát. Do tu tập Bát Nhã Ba La Mật, mà chư đại Bồ Tát hanh đạt được quả vị Vô Thượng, hiển dụng đại bi tâm làm các việc lợi ích, để an lạc chúng sanh.

Bởi nhân duyên vậy, nên người tu Thanh Văn đạo và Bích Chi Phật đạo, muốn mau được an định trong 3 giải thoát môn, đều phải tín thọ, tu tập, cung kính, cúng dường Bát Nhã Ba La Mật. Chư Bồ Tát phải thật hành đầy đủ Bát Nhã Ba La Mật, nghĩa là phải nhất tâm tín thọ, cung kính, cúng dường… dẫn đến chánh ức niệm, tu tập Bát Nhã Ba La Mật; lại còn phải biên chép kinh quyển Bát Nhã Ba La Mật cho người khác đọc; đúng như nghĩa trong Bát Nhã Ba La Mật, mà diễn nói cho người khác nghe, khai thị, phân biệt, khiến họ dễ hiểu. Chư Bồ Tát phải thật hành đầy đủ Bát Nhã Ba La Mật như vậy, mới mau được Vô Thượng Bồ Đề.

(Hết quyển 59)