LUẬN
ĐẠI TRÍ ĐỘ

Nguyên tác: Bồ tát Long Thọ
Hán dịch: Pháp sư Cưu Ma La Thập
Việt dịch: Tỳ kheo ni THÍCH NỮ DIỆU KHÔNG

 

TẬP III
QUYỂN 54

Phẩm thứ hai mươi bảy
Thiên Vương
(Vua trời)

KINH:

Lúc bấy giờ, từ 3000 đại thiên thế giới, chư vị Tứ Thiên Vương đồng đến pháp hội. Lại có chư vị Đao Lợi Thiên Vương, Dạ Ma Thiên Vương, Đâu Suất Thiên Vương, Hoá Lạc Thiên Vương, Tự Tại Thiên Vương, Đại Tự Tại Thiên Vương, Phạm Thiên Vương, cùng vô số trăm, ngàn, vạn ức chư Thiên  đồng đến pháp hội.

Chư Thiên và chư Thiên Vương đều phóng quan minh, thế nhưng, trước quang minh của Phật, quang minh của chư Thiên và của chư Thiên Vương chẳng thể nào hiển bày ra được.

Ngài Thích Đề Hoàn Nhơn, vị Thiên Vương ở cõi Trời Đao Lợi nói với ngài Tu Bồ Đề rằng: Thưa Đại Đức! Từ khắp 3000 đại thiên thế giới, chư Thiên và chư Thiên Vương chúng tôi đều hội về đây để được nghe Đại Đức thuyết về Bát Nhã Ba La Mật.

Thưa Đại Đức! Bồ Tát Ma Ha Tát làm thế nào để an trú trong Bát Nhã Ba La Mật? làm thé nào để thật hành Bát Nhã Ba La Mật?

Ngài Tu Bồ Đề đáp: Thưa ngài Kiều Thi Ca! Tôi nay nương theo Phật tâm, nhờ Phật lực gia bị mà thuyết Bát Nhã Ba La Mật cho chư Bồ Tát, khuyên chư Bồ Tát an trú trong Bát Nhã Ba La Mật.

Nay có vị chư Thiên nào chưa pháp Vô Thượng Bồ Đề tâm, thì xin hãy phát tâm trước đã. Vì sao? Vì chư vị đã nhập chánh vị Thanh văn vẫn còn bị sanh tử làm chướng ngại, nên chẳng có thể phát được Vô Thượng Bồ Đề tâm.

Nếu có vị nào đã phát Vô Thượng Bồ Đề tâm, thì tôi xin tuỳ hỷ tán thán. Vì sao? Vì “thượng nhân” phải cầu “thượng pháp”.

* Bồ Tát thật hành Bát Nhã Ba La Mật như thế nào chăng?

Thưa ngài Kiều Thi Ca! Bồ Tát, đúng theo Tát Bà Nhã tâm, dụng vô sở đắc, quán sắc… dẫn đến thức, quán nhãn… dẫn đến ý, quán sắc… dẫn đến pháp, quán địa chủng… dẫn đến thức chủng đều là vô thường, khổ, không, vô ngã, lại quán sắc… dẫn đến thức quán địa chủng… dẫn đến thức chủng đều là như bệnh, như ung nhọt, như vết thương do mũi tên ghim vào thân, gây đau nhức, tán thán hoại, lo sợ, lại quán sắc… dẫn đến thức,  quán nhãn… dẫn đến ý, quán sắc… dẫn đến pháp, quán địa chủng… dẫn đến thức chủng đều là tịch diệt, là ly, là bất sanh, bất diệt, bất cấu, bất tịnh. Vì sao? Vì đều là bất khả đắc.

Thưa ngài Kiều Thi Ca! Bồ Tát đúng theo Tát Bà Nhã tâm, dụng vô sở đắc, quán vô minh duyên hành… dẫn đến sanh duyên lão tử đều là những nhân duyên tạo ra các ưu bi, khổ não, lại quán vô minh diệt thì hành diệt… dẫn đến sanh diệt, thì lão tử diệt, khiến các ưu bi khổ não cũng đều diệt theo. Vì sao? Vì đều là bất khả đắc.

Thưa ngài Kiều Thi Ca! Khi thật hành Bát Nhã Ba La Mật, Bồ Tát quán hết thảy các pháp đều là cộng tướng, đều tác duyên cho nhau, nhuận ích và tăng trưởng cho nhau. Nếu tư duy phân biệt thì biết rõ hết thảy các pháp đều là vô ngã và vô ngã sở.

Thưa ngài Kiều Thi Ca! tâm hồi hướng chẳng phải là tâm Vô Thượng Bồ Đề, tâm Vô Thượng Bồ Đề cũng chẳng phải là tâm hồi hướng. Vì sao? Vì ở nưoi tâm vô Thượng Bồ Đề thì tâm hồi hướng là bất khả đắc, ở nơi tâm hồi hướng thì tâm Vô Thượng Bồ Đề là bất khả đắc.

Bồ Tát tuy quán hết thảy các pháp mà biết rõ hết thảy các pháp đều là bất khả đắc  cả. Như vậy, gọi là Bồ Tát Ma Ha Tát thật hành Bát Nhã Ba La Mật.

Ngài Thích Đề Hoàn Nhơn hỏi: Thưa ngài Đại Đức! Vì sao tâm hồi hướng chẳng phải là tâm Vô Thượng Bồ Đề, tâm Vô Thượng Bồ Đề chẳng phải là tâm hồi hướng? Vì sao ở nơi tâm Vô Thượng Bồ Đề thì tâm hồi hướng là bất khả đắc, ở nơi tâm hồi hướng thì tâm Vô Thượng Bồ Đề là bất khả đắc?

Ngài Tu Bồ Đề đáp: Thưa ngài Kiều Thi Ca! Tâm hồi hướng và tâm Vô Thượng Bồ Đề là phi tâm (chẳng phải tâm), phi tâm tướng (chẳng phải tâm tướng). ở nơi phi tâm tướng chẳng có thể hồi hướng phi tâm tướng được. Phi tâm tướng (chẳng phải tâm tướng) là bất khả tư nghì tướng (tướng chẳng thể nghĩ bàn). Mà bất khả tư nghì tướng chính là Bát Nhã Ba La Mật tướng vậy.

Như vậy, gọi là Bồ Tát Ma Ha Tát thật hành Bát Nhã Ba La Mật.

Lúc bấy giờ, Phật tán thán ngài Tu Bồ Đề: Lành thay, lành thay! Này Tu Bồ Đề! Ông đã vì chư Bồ Tát khéo thuyết về Bát Nhã Ba La Mật để an ổn tâm Bồ Tát.

Ngài Tu Bồ Đề thưa: Bạch Thế Tôn! Vì báo đền ơn Phật mà con đã vì chư Bồ Tát thuyết 6 pháp Ba La Mật, nhằm khai thị lợi ích cho hết thảy chúng sanh.

Bạch Thế Tôn! Trong quá khứ, chư Phật cùng chư đại đệ tử đã nói 6 pháp Ba La Mật cho hàng Bồ Tát nghe, khiến họ được vào Vô Thượng Bồ Đề. Hôm nay, con cũng vì hàng Bồ Tát nói 6 pháp Ba La Mật, khai thị các lợi ích, nhằm giúp họ vào được đạo Vô Thượng Bồ Đề.

Luận:

Hỏi: ở phẩm trước đã có nói đến Phật phóng quang minh, và đã có nói chư Thiên nương theo ánh quang minh của phật, mà đến dự Pháp hội. Nay vì sao còn nói nữa?

Đáp: có thuyết nói đây là lần thứ hai, chư Thiên vân tập về dự pháp hội. Cũng có thuyết nói đây chỉ mới là lần thứ nhất.

Tưu trung, sự kiện chư Thiên vân tập dự pháp hội được nhắc lại nơi phẩm này có mục đích nêu rõ tầm quan trọng của pháp hội thuyết kinh Bát Nhã Ba La Mật vậy.

Trong kinh có nói rằng, khi ngài Tu Bồ Đề nói kinh Bát Nhã Ba La Mật, thì chư Thiên đều hoan hỷ, phóng quang minh và vân tập về pháp hội.

Phật mỉm cười phóng đại quang minh, khiến cho các quang minh của chư Thiên chẳng có thể hiển lộ ra được.

Nên biết rằng chư Thiên đến dự pháp hội đều có quang minh rực rỡ. Đặc biệt chư thiên cõi Sắc, do thường tu thiền định, do đã ly dục và thường tu tập “Hoả tam muội” nên thân thường xuất diệu sắc quangm inh. Quang minh của chư Thiên tuy toả rộng, nhưng đối trước quang minh của Phật chẳng có thể hiển lộ ra được.

Ngài Thích Đề Hoàn Nhơn, vị Thiên Vương ở cõi Trời Đao Lợi thấy quang minh của Phật như vậy, tự nghĩ rằng: Quang minh của Phật che lấp hết các quang minh của chư Thiên. Đây chính là trí huệ lực của Phật, có công năng phá trừ hết vô minh, si ám của chúng sanh.

Bởi nhân duyên vậy, nên khi Phật bảo ngài Tu Bồ Đề nói Bát Nhã Ba La Mật, chư thiên ở khắp 10 phương liền vân tập về pháp hội để nghe pháp.

Ngài Thíc Đề Hoàn Nhơn đại diện cho hàng chư thiên, đã hỏi ngài Tu Bồ Đề về thể của Bát Nhã Ba La Mật, về cách thật hành Bát Nhã Ba La Mật, về các phương tiện dẫn vào Bát Nhã Ba La Mật và an trú trong Bát Nhã Ba La Mật.

Ngài Tu Bồ Đề đã đáp lại với nội dụng: Ví như người phát tâm thành bố thí Ba La Mật, thấy người đói khát liền cho ăn uống, thấy người cần thuốc men liền cung cấp thuốc men…  Bồ Tát cũng như vậy, khi đã phát tâm cầu Phật đạo, thì phải vì mọi người mà nói Bát Nhã Ba La Mật, nhằm đem lại lợi ích cho họ. Như vậy mới gọi là báo đáp thâm ân của Phật.

Ngài lại nói thêm rằng: Nếu vị nào chưa phát tâm Vô Thượng Bồ Đề, thì phải nên phát tâm trước đã. Vì sao? Vì các vị đã nhập chánh vị Thanh văn vẫn còn bị sanh tử làm chướng ngại, nên chẳng có thể phát tâm Vô Thượng Bồ Đề được. Các vị đã phat tâm Vô Thượng Bồ Đề vẫn còn phải cần khổ tu tập để được lậu tận, mới mong thoát ly được nghiệp báo tương tục sanh thân. Phải có đủ các nhân duyên như vậy mới có thể hành Bồ Tát đạo được.

Hỏi: ngài Tu Bồ Đề tự mình đã nói chẳng kham nhận Bát Nhã Ba La Mật. Nay vì sao ngài lại nói “có vị nào phát tâm Vô Thượng Bồ Đề, thì tôi xin tuỳ hỷ tán thán”? Vì sao ngài nói “thượng nhân phải cầu thượng pháp”?

Đáp: Ngài Tu Bồ Đề tuy ở trong hàng Thanh Văn, nhưng thường tu hạnh “không”, nên ngài chẳng chấp đắm Thanh Văn địa. Bởi vậy nên ngài mới nói như trên đây.

Có 2 lý do khiến ngài Tu Bồ Đề nói như trên. Đó là:

• Ngài chẳng muốn làm chướng ngại tâm tu phước của chư Thiênn, nên nói “có vị nào phát tâm Vô Thượng Bồ Đề thì thôi xin tuỳ hỷ, tán thán”.

• Ngài muoons khuyến khích chư thiên phát tâm Vô Thượng Bồ Đề, nên nói “thượng nhân phải cầu thượng pháp”.

Vô Thượng Bồ Đề chính là chỗ sở cầu của bậc thượng nhân vậy.

Ngài Tu Bồ Đề lại khuyên chư Thiên quán 5 ấm là vô thường, khổ, không, vô ngã, quán 5 ấm như bệnh, như ung nhọt khó chữa lành, như vết thương do mũi tên ghim vào thân gây đau nhức. Nếu tuỳ thuộc vào 5 ấm thì chẳng sao có được an ổn, vì 5 ấm ví như sư tử, hổ beo, lang sói… thưognf làm cho người sợ hãi lo âu.

Hỏi: Có thuyết nói 5 ấm có 15 pháp đáng sợ. Chỉ có 15 pháp thôi, hay còn có pháp nào đáng sợ khác nữa?

Đáp: nói hẹp thì có 15 pháp tội lỗi do 5 ấm gây ra. Nói rộng thì có vô lượng pháp tội lỗi. Như trong kinh Tạp A Hàm nói 5 ấm có 100 pháp tội lỗi.

Hỏi: Vì sao phải nói 5 ấm là vô thường, khổ, không, vô ngã, vì sao phải nó đến 8 nỗi khổ (bát khổ)*?

Đáp: Nên phân biết có 3 hạng người. Đó là:

• Hạng thượng căn

• Hạng trung căn.

• Hạng hạ căn.

Hạng thượng căn vừa nghe nói đến “sanh khổ”, “lão khổ”, “bệnh khổ”, “tử khổ” là liền vào được “Khổ Thánh Đế”

Hạng trung căn nghe nói đến các khổ của sanh già bệnh chết cũng vẫn chưa sanh được tâm nhàm chán thế gian. Bởi vậy phỉa nói 5 ấm như bệnh, như ung nhọt, như vết thương do mũi tên ghim vào thân… mới khiến họ sanh nhàm chán.

Hạng hạ căn phải nói đến 8 thứ khổ lớn, dẫn đến phải nói đến hàng trăm thứ khổ khác nữa mới khiến họ sanh nhàm chán thế gian được vậy.

Các bậc Thánh chỉ quán 4 đế là đã nhiêp đủ cả 16 thánh hạnh rồi. Bởi vậy nên nói thuyết Bát Nhã Ba La Mật là thuyết về các thánh hạnh, để cho các bậc thượng căn được thâm nhập.

Nay chư Thiên hỏi về bước đầu hành pháp Ba La Mật, nên phải nói 12 nhập, 18 giới… dẫn đến nói hết thảy các pháp đều do 5 ấm duyên khởi tác thành.

Nếu hành giả quán 5 ấm là tịch diệt, là viễn ly, thì biết rõ được hết thảy các pháp đều là bất sanh, bất diệt, bất cấu, bất tịnh.

Hàng Thanh Văn do chưa được đầy đủ lực trí huệ, nên khi quán 5 ấm chưa vào được các pháp viễn ly, tịch diệt, mà chỉ quán 5 ấm là vô thường, khổ, không, vô ngã.

Bồ Tát do lợi căn, lại đã đầy đủ lực trí huệ, nên khi quán 5 ấm liền biết rõ 5 ấm là tịch diệt, là viễn ly, là bất khả đắc. Bởi vậy nên Bồ Tát thường dùng “vô sở đắc không huệ” mà quán các pháp tướng.

Ngài Thích Đề Hoàn Nhơn chỉ hỏi về “Bát Nhã Ba La Mật tướng”, chẳng hỏi về “5 ấm tướng”, nhưng ngài Tu Bồ Đề lại đáp rằng: Bát Nhã Ba La Mật tướng chẳng ly 5 ấm tướng, đó chính là Niết Bàn tướng. Vì sao? Vì thật tướng của 5 ấm chính là Niết Bàn tướng vậy.

Đối với những người căn trí còn yếu kém, thì trước hết phải quán 5 ấm là vô thường, khổ, không, vô ngã, rồi sau đó mới quán 5 ấm là viễn ly, là tịch diệt, là bất khả đắc. Quán các nhân duyên tác pháp khác cũng đều là như vậy cả. Sau đó mới tu 4 niệm xứ… dẫn đến 8 thánh đạo v.v…

Bồ Tát do lợi căn, thượng trí, nên khi quán các pháp tướng, khi tu các pháp môn đều dụng vô sở đắc, đúng theo Tát Bà Nhã tâm. Bồ Tát hành Bồ Tát đạo như vậy là hành Bát Nhã Ba La Mật tướng, dẫn đến Vô Thượng Bồ Đề.

Hỏi: đang nói về hành Bát Nhã Ba La Mật tướng, vì sao ở đoạn giữa lại nói về các nhân duyên pháp nhuận ích, tăng trưởng?

Đáp: Ngài Tu Bồ Đề trước nói hết thảy các pháp đều vô thường, khổ, không, vô ngã. Sau mới nói hết thảy pháp đều viễn ly, tịch diệt, bất khả đắc.

Ngài cũng nói hết thảy pháp đều rốt ráo không, nhưng do nhân duyên hoà hợp mà có.

Ngài cũng nói về tu 4 niệm xứ… dẫn đến 8 thánh đạo, 18 bất cộng pháp, nói về hành Bồ Tát đạo, để cho hết thảy chúng sanh thấy rõ rằng: Tuy các pháp đều là rốt ráo không, đều là vô ngã, vô sanh, nhưng có các duyên hoà hợp tác thành mà có 4 đại, có 6 thức… dẫn đến có hết thảy các pháp. Khi đã có 4 đại, có 6 thức rồi, thì 10 pháp này có lực “năng sanh”, “năng khởi” biến hoá ra sơn hà vũ trụ.

Chúng sanh do tâm điên đảo, dùng thức phân biệt mà chấp có các sự vật. Có lẻ lầm tưởng rằng tất cả các sự vật đều do một vị chủ tể nào đó lập ra, mà chẳng biết rằng các sự các vật, từ núi cao rừng rậm… đến ruộng vường cây cỏ v.v… dẫn đến sắc thân của chúng sanh cũng do 4 đại, 4 đại tạo sắc và 6 thức tạo thành, mà có đi, đứng, nằm, ngồi, nói năng v.v…

Ví như nhà huyễn thuật hoá tác ra nào người, nào vật… trên sân khấu, khiến người xem lầm tưởng là thật có. Thật ra các cảnh vật trên sân khấu đều là huyễn cảnh, huyễn vật, đều chẳng thật có.

Hết thảy các pháp đều do duyên hoà hợp sanh, hoặc cộng sanh, hoặc do tương ưng nhân duyên sanh, hoặc do quả báo nhân duyên sanh.

Nếu thường tu, thường quán thì thiện quả báo sẽ được tăng trưởng. Ví như gieo hạt giống đúng thời tiết, có đầy đủ phân bón, nước tưới, lại chăm sóc chu đáo thì cây sẽ được xanh tốt, sẽ đơm hoa kết trái. Cũng như vậy, người tu hành dùng lực trí huệ quán hết thảy các pháp đều như huyễn, như hoá, đều chẳng có chủ tác… nên dõng mãnh phát tâm cầu đạo Vô Thượng. Tuy nay mới phát tâm, nhưng chắc chắn về sau sẽ được đạo Vô Thượng Bồ Đề vậy.

Hỏi: Nếu nói tâm hồi hướng chẳng có trong tâm Vô Thượng Bồ Đề, thì tâm ấy là như thế nào?

Đáp: khi đã vào trong Bát Nhã Ba La Mật rồi, thì biết rõ hết thảy các pháp đều là phi thường tướng (chẳng phải tướng thường), phi vô thường tướng (chẳng phải tướng vô thường), phi hữu tướng (chẳng phải tướng có), phi vô tướng (chẳng phải tướng không).

Như vậy chẳng nên nạn vấn về tướng của tâm hồi hướng làm gì nữa.

Hỏi: Tâm đã chứng diệt thì làm sao phát được tâm Vô Thượng Bồ Đề? Lại nữa, nếu hết thảy các pháp đều chẳng sanh, chẳng diệt, cũng chẳng phải chẳng sanh, chẳng phải chẳng diệt, thì làm sao có thể phát được tâm Vô Thượng Bồ Đề, và như vậy phải hồi hướng tâm về đâu?

Đáp: Phật dạy: Bồ Đề tướng chẳng phải ở vị lai, chẳng phải ở hiện tại.

Trong phẩm Như Tướng, Phật dạy: Quá khứ chẳng rời vị lai, vị lai chẳng rời hiện tại. Vì sao? Vì là nhất như, là chẳng phải hai, chẳng phải khác vậy.

Bởi vậy nên nói: Tâm Vô Thượng Bồ Đề chẳng có trong tâm hồi hướng, tâm hồi hướng cũng chẳng có trong tâm Vô Thượng Bồ Đề. Cả hai tâm ấy đều là bất khả đắc cả. Chẳng nên nạn vấn phải hồi hướng tâm về đâu làm gì nữa.

— oOo —

Lại nữa, khi nghe tán thán Phật đạo, Bồ Tát liền phát tâm làm các công đức, và hồi hướng hết thảy các công đức về Phật đạo. Bởi vậy nên Bồ Tát làm hết thảy các công đức, chẳng bao giờ ngưng nghỉ.

Bồ Tát lại thường dụng tâm như huyễn, tâm vô sở đắc khi hành các pháp, như vậy mới gọi là Bồ Tát hành Bát Nhã Ba La Mật . Vì sao? Vì Bồ Tát biết rõ hết thảy các pháp đều do các duyên hoà hợp sanh, chẳng có định tướng, nên chẳng thủ chấp các pháp tướng, cũng chẳng thủ chấp tâm chứng diệt vậy.

— oOo —

Bởi vậy nên khi nghe ngài Thíc Đề Hoàn Nhơn nêu lên câu hỏi “vì sao nói tâm Vô Thượng Bồ Đề chẳng có trong tâm hồi hướng, và tâm hồi hướng chẳng có trong tâm Vô Thượng Bồ Đề?” thì ngài Tu Bồ Đề chẳng dùng Thế Đế để trả lời, mà ngài phải dùng Đệ Nhất Nghĩa Đế.

Ngài Tu Bồ Đề nói: cả 2 tâm đều là không, là phi tâm tướng (là chẳng có tâm tướng). Vì sao? Vì các pháp tướng rốt ráo là không. Trong tánh không chẳng có tướng tâm, nên là phi tâm tướng. Hết thảy các pháp đều là không, là vô tướng.

Như vậy nếu nói đến hồi hướng, thì phải đề cập đến hai pháp đối đãi. Như xe chạy từ hướng Nam, nghỉ ở hướng Tây, rồi quay trở về hướng Nam, thì mới gọi là hồi hướng được. Nếu xe chẳng thật có, phương cũng chẳng thật có, thì cũng chẳng thật có hồi hướng vậy.

Cũng như vậy, vì tâm là bất khả đắc, Vô Thượng Bồ Đề cũng là bất khả đắc, thì tâm hồi hướng về Vô Thượng Bồ Đề cũng là bất khả đắc.

— oOo —

Ngài Tu Bồ Đề đã nói rằng: Tâm là thường trú, là bất sanh, bất diệt, là phi tâm tướng, là bất khả tư nghì tướng. đã là bất khả tư nghì tướng thfi chẳng thể tư duy, trù lượng. chẳng thể chấp thủ tướng tâm được vậy.

Phật biết rõ ngài Tu Bồ Đề đã thâm nhập Bát Nhã Ba La Mật, đã biết rõ Bát Nhã Ba La Mật chỉ là danh tự, biết rõ hết thày pháp đều do duyên hoà hợp mà có cũng chỉ là danh tự, biết rõ hết thảy các pháp tướng cùng Bát Nhã Ba La Mật tướng là chẳng phải hai, chẳng phải khác. Bởi nhân duyên vậy, nên giữa đại chúng Phật đã tán thán ngài Tu Bồ Đề rằng: Lành thay, lành thay! ông là Thanh Văn mà thuyết được thâm nghĩa của Bát Nhã Ba La Mật cho hàng Bồ Tát nghe, làm an ổn tâm của các Bồ Tát. Ông chớ nên nghĩ rằng mình chưa sạch các tập khí, phiền não mà sanh tâm giải đãi. nếu ở nơi ccs pháp mà được vô chướng ngại, thì sẽ biết rõ rằng sơ tâm (tâm ban đầu) và hâu tâm (tâm sau cùng) chẳng có gì riêng khác cả. hãy tinh tấn tu tập, ắt sẽ viên thành phật đạo.

Ngài Tu Bồ Đề tự nghĩ: vào được thật tướng pháp mới thoát khỏi các khổ “sanh, già, bênh, chết”, liễu đạt được thật tướng pháp mới thành tựu được vô lượng công đức. Bởi vậy nên ta phải lạc thuyết Bát Nhã Ba La Mật. Lại nữa, do Phật hiển dụng đại bi tâm, chuyển pháp luâ độ thoát vô lượng chúng sanh, mà ta được thiện duyên nương theo pháp Phật vào đạo. Nay đức Thế Tôn cũng do nơi Bát Nhã Ba La Mật mà được Vô Thượng Bồ Đề. Bởi vậy nên ta phải nhất tâm tôn kính ba ngôi Tam Bảo, phải thường lạc thuyết Bát Nhã Ba La Mật.

Tự niệm như vậy rồi, ngài Tu Bồ Đề bạch Phật rằng: Bạch Thế Tôn! trong quá khứ, chư Phật cùng chư đại đệ tử đã nói 6 pháp Ba La Mật cho hàng Bồ Tát nghe, khiến họ vào được đạo Vô Thượng Bồ Đề. Hôm nay con cũng vì hàng Bồ Tát, nói 6 pháp Ba La Mật, khai thị lợi ích, nhằm giúp họ vào được đạo Vô Thượng Bồ Đề. Con nương theo Phật tâm, nhờ Phật lực gia bị mới có thể lạc thuyết được Bát Nhã Ba La Mật tại chúng hội này.

— oOo —

Cũng nên biết, ba ngôi Tam Bảo mà ngài Tu Bồ Đề nói trên đây là:

– Phật bảo gồm chư Phật quá khứ, hiện tại và vị lai.

– Pháp bảo gồm 6 pháp Ba La Mật.

– Tăng b ảo gồm chư vị đại đệ tử của chư Phật và chư vị Bồ Tát.

6 pháp Ba La Mật là diệu pháp, khai thị cho chúng sanh được thoát ly sanh tử. Bồ Tát phân biệt nói về 6 pháp Ba La Mật nhằm giáo hoá chúng sanh xả ác, hành thiện, dìu dắt chúng sanh tu hành nhằm viễn ly các khổ. Người nghe được Bát Nhã Ba La Mật, dù ở hiện đời chưa được Phật đạo, nhưgn quyết định về sao sẽ được Phật đạo vậy.

Bồ Tát tán thán người tu tập Bát Nhã Ba La Mật, nhằm khuyến tấn họ mau thành Phật đạo.

Tóm lại, Bồ Tát hành đầy đủ 6 pháp Ba La Mật để tự trang nghiêm, thuyết giảng 6 pháp Ba La Mật nhằm đem lại lợi ích cho chúng sanh vậy.

KINH:

Lúc bấy giừo ngài Tu Bồ Đề nói với ngài Thích Đề hoàn Nhơn rằng: Thưa ngài Kiều Thi Ca! ngài có biết rõ Bồ Tát hành Bát Nhã Ba La Mật phải nên trú, và chẳng nên trú như thế nào chăng?

* Thế nào là nên trú?

Thưa ngài Kiều Thi Ca! khi hành Bát Nhã Ba La Mật, Bồ Tát biết rõ sắc là không… dẫn đến thức là không, biết rõ Bồ Tát cũng là không. Bồ Tát lại biết rõ sắc không… dẫn đến thức không và Bồ Tát không chẳng phải hai, chẳng phải khác.

Bồ Tát Ma Ha Tát khi hành Bát Nhã Ba La Mật, nên trú như vậy.

Bồ Tát biết rõ nhãn… dẫn đến ý, sắc… dẫn đến pháp, địa chủng… dẫn đến thức chủng là không, biết rõ Bồ Tát cũng là không. Bồ Tát lại biết rõ nhãn không… dẫn đến ý không, sắc không… dẫn đến pháp không, địa chùng không… dẫn đến thức chủng không và Bồ Tát không là chẳng phải hai, chẳng phải khác. Bồ Tát biết rõ vô minh… dẫn đến lão tử, vô minh diệt… dẫn đến lão tử diệt là không, biết rõ Bồ Tát là không, lại biết rõ vô minh không, vô minh diệt không… dẫn đến lão tử không, lão tử diệt không và Bồ Tát không là chẳng phải hai, chẳng phải khác. Bồ Tát Ma Ha Tát khi hành Bát Nhã Ba La Mật nên trú như vậy.

Đối với Đàn Ba La Mật… dẫn đến Bát Nhã Ba La Mật, nôi không… dẫn đến vô pháp hữu pháp không, 4 niệm xứ… dẫn đến 18 bất cộng pháp, hết thảy các tam muội, hết thảy các đà la ni, Thanh Văn thừa, Bích Chi Phật thừa, Phật thừa, Bồ Tát cũng biết rõ như vậy.

Thưa ngài Kiều Thi Ca! Bồ Tát Ma Ha Tát khi hành Bát Nhã Ba La Mật, nên trú như vậy.

* Thế nào là chẳng nên trú?

Thưa ngài Kiều Thi Ca! khi hành Bát Nhã Ba La Mật, Bồ Tát chẳng nên trú trong sắc… dẫn đến chẳng nên trú trong thức, chẳng nên trú trong nhãn… dẫn đến chẳng nên trú trong ý, chẳng nên trú trong sắc… dẫn đến chẳng nên trú trong pháp, chẳng nên trú trong nhãn thức… dẫn đến chẳng nên trú trong ý thức, chẳng nên trú trong nhãn xúc… dẫn đến chẳng nên trú trong ý xúc, chẳng nên trú trong nhãn xúc nhân duyên sanh thọ… dẫn đến chẳng nên trú trong ý xúc nhân duyên sanh thọ. Vì sao? Vì trú như vậy là có sở đắc.

Bồ Tát chẳng nên trú trong Đàn Ba La Mật… dẫn đến chẳng nên trú trong Bát Nhã Ba La Mật, chẳng nên trú trong 4 niệm xứ… dẫn đến chẳng nên trú trong 18 bất cộng pháp. Vì sao? Vì trú như vậy là có sở đắc.

Bồ Tát chẳng nên trú trong Thanh Văn đạo, Bích Chi Phật đạo, Bồ Tát đạo, Phật đạo… dẫn đến chẳng nên trú trong nhất thiết chủng trí. Vì sao? Vì trú như vậy là có sở đắc.

Lại nữa, thưa ngài Kiều Thi Ca! Dù sắc… dẫn đến thức là thường, là vô thường, là lạc, là khổ, là tịnh, là bất tịnh, là ngã, là vô ngã, là không, là bất không, là tịch diệt, là bất tịch diệt, là ly, là bất ly… Bồ Tát cũng chẳng nên trú. Vì sao? Vì trú như vậy là có sở đắc.

Lại nữa, thưa ngài Kiều Thi Ca! Ở nơi vô vi tướng của quả vị Tu Đà Hoàn… dẫn đến ở nưoi vô vi tướng của quả vị Phật, ở nơi phước điển Tu Đà Hoàn… dẫn đến ở nơi phước điền Phật, Bồ Tát cũng đều chẳng nên trú. Vì sao? Vì trú như vậy là có sở đắc.

Từ sơ địa… dẫn đến thập địa, Bồ Tát cũng đều chẳng nên trú. Vì sao? Vì trú như vậy là có sở đắc.

Lại nữa, thưa ngài Kiều Thi Ca! Từ sơ phát tâm, Bồ Tát nói: “Ta phải đầy đủ Đàn Ba La Mật… dẫn đến đầy đủ Bát Nhã Ba La Mật, ta phải vào Bồ Tát vị, ta phải vào bất thối chuyển địa, ta phải đầy đủ 5 thần thông”. Bồ Tát nói mà chẳng nên trú. Vì sao? Vì trú như vậy là có sở đắc.

Bồ Tát nói: “Ta sẽ được đầy đủ 5 nhãn, được hết thảy các đà la ni môn, hết thảy các tam muội môn; ta sẽ được đầy đủ 10 lực, 4 vô sở uý, 4 vô ngại trí, 18 bất cộng pháp, ta sẽ đầy đủ đại từ, đại bi; ta sẽ đầy đủ 32 tướng tốt”. Bồ Tát nói, mà chẳng nên trú. Vì sao? Vì trú như vậy là có sở đắc.

Bồ Tát nói: “ta sẽ trang nghiêm quốc độ của ta như các quốc độ của chư PHật, ta sẽ thành tựu chúng sanh, khiến họ vào được Phật đạo, ta sẽ đi đến vô lượng cõi Phật, để tán thán và cúng dường chư Phật, ta sẽ độ vô lượng chúng sanh, khiến họ phát tâm Vô Thượng Bồ Đề”. Bồ Tát nói mà chẳng nên trú. Vì sao? Vì trú như vậy là có sở đắc.

Bồ Tát nói: “ta sẽ ở trong 8 hạng người tín hành và pháp hành. ta sẽ là Tu Đà Hoàn, 7 phen sanh lại, ta sẽ là Tu Đà Hoàn, khi mạng chung được sạch phiền não, trung gian nhập Niết Bàn, ta sẽ là Tu Đà Hoàn hướng Tư Đà Hàm quả chứng, ta sẽ à Tư Đà Hàm hướng A Na Hàm quả chứng, ta sẽ là A Na hàm hướng A La Hán quả chứng, ta sẽ là A La Hán nhập Vô Dư Niết Bàn”. Bồ Tát nói mà chẳng nên trú. Vì sao? Vì trú như vậy là có sở đắc.

Bồ Tát nói: “Ta sẽ là Bích Chi Phật, ta sẽ trú Bồ Tát địa, vượt hơn hàng Thanh Văn, Bích Chi Phật, ta sẽ được đạo chủng trí, sẽ được nhất thiết chủng trí, sẽ đắc Vô Thượng Bồ Đề, sẽ chuyển pháp luân, sẽ hành Phật sự, sẽ độ vô lượng chúng sanh”. Bồ Tát nói mà chẳng nên trú. Vì sao? Vì trú như vậy là có sở đắc.

Bồ Tát nói: “Ta sẽ đầy đủ 4 như ý túc, sẽ trú trong các tam muội, sẽ thọ hằng sa kiếp, sẽ đầy đủ 32 tướng tốt, mối tướng có đủ 100 phước đức trang nghiêm”. Bồ Tát nói mà chẳng nên trú. Vì sao? Vì trú như vậy là có sở đắc.

Bồ Tát nói: “Thế giới của ta, hắng a thế giới trong đại thiên thế giới của ta ở khắp trong 10 phương, sẽ thuần là kim cương, cây Bồ Đề của ta sẽ phát ra vô lượng diệu hương, khiến chúng sanh nào hưởng được sẽ dứt sạch thân bệnh và tâm bệnh, dứt sạch tham sân si, chẳng có tam Thanh Văn và Bích Chi Phật, và sẽ được Vô Thượng Bồ Đề”. Bồ Tát nói mà chẳng nên trú. Vì sao? Vì trú như vậy là có sở đắc.

Bồ Tát nói: “Trong thế giới của ta sẽ chẳng có danh tự sắc… dẫn đến thức, chẳng có danh tự Đàn Ba La Mật… dẫn đến Bát Nhã Ba La Mật, chẳng có danh tự 4 niệm xứ… dẫn đến 18 bất cộng pháp, chẳng có danh tự Tu Đà Hoàn… dẫn đến Phật”. Bồ Tát nói mà chẳng nên trú. Vì sao? Vì trú như vậy là có sở đắc, vì chư Phật đắc Vô Thượng Bồ Đề, mà Vô Thượng Bồ Đề là pháp vô sở đắc vậy.

Thưa ngài Kiều Thi Ca! Bởi vậy nên Bồ Tát hành Bát Nhã Ba La Mật, chẳng nên trú, vì Bát Nhã Ba La Mật là vô sở đắc vậy.

Lúc bấy giờ ngài Xá Lợi Phất tự niệm rằng: như vậy thì Bồ Tát hành Bát Nhã Ba La Mật an trú nới đâu?

Ngài Tu Bồ Đề hỏi: theo ý của ngài thì chư Phật an trú nơi đâu?

Ngài Xá Lợi Phất đáp: chư Phật trú nơi “vô sở trú”. Chư Phật chẳng trú trong sắc… dẫn đến chẳng trú trong thức, chẳng trú trong pháp hữu vi, chẳng trú trong pháp vô vi, chẳng trú trong 4 niệm xứ… dẫn đến chẳng trú trong 18 bất cộng pháp, chẳng trú trong nhất thiết chủng trí.

Ngài Tu Bồ Đề nói: Thưa ngài Xá Lợi Phất! Khi thật hành Bát Nhã Ba La Mật, Bồ Tát Ma Ha Tát phải an trú như chư Phật, có nghĩa là an trú nới pháp phi trú (chẳng trú), chúng chẳng phải chẳng trú (phi bất trú).

Khi thật hành Bát Nhã Ba La Mật, Bồ Tát Ma Ha Tát phải học như vậy, phải an trú nơi pháp “vô sở trú”.

LUẬN:

Khi hành Bát Nhã Ba La Mật, Bồ Tát dùng “18 không”, quán rõ 5 ấm đều là không. Phàm phu điên đảo chấp có “5 ấm tướng”, có “Bồ Tát tướng”.

Khi hành Bát Nhã Ba La Mật, Bồ Tát biết rõ chúng sanh là không, nên chẳng thấy có Bồ Tát tướng, lại biết rõ các pháp đều không, nên chẳng có 5 ấm tướng.

Bởi vậy nên nói “5 ấm không” và “Bồ Tát không” là chẳng phải hai, chẳng phải khác. Dẫn đến nhất thiết chủng trí cũng là như vậy.

Ví như Chiên Đàn Ba La Mật là một loại cây gỗ rất quý, rất thơm, mà người ta thường đốt lấy hương cúng Phật; lại có dược tánh cao, thường làm thuốc trị bệnh. Thế nhưng, sau khi một cây chiên Đàn Ba La Mật và một cây gỗ tạp bị lửa thiêu rụi, huỷ diệt rồi, thì hai pháp ấy chẳng còn khác nhau nữa. Lúc bấy giờ, hai pháp diệt đó là chẳng phải hai, chẳng phải khác vậy.

Người vô trí chấp các pháp tướng ở thời kỳ chưa bị huỷ diệt và ở thời kỳ bị huỷ diệt rồi có khác nhau. Thế nhưng, khi đã bị huỷ diệt rồi, thì các pháp chẳng còn khác nhau nữa.

Bởi nhân duyên vậy, nên kinh dạy “chẳng nên trú” đây là nói “chẳng nên trú nơi 5 ấm tướng” vậy.

Hỏi: nói về nghĩa “trú” là đủ rồi, sao còn nói nghĩa “bất trú” làm gì nữa?

Đáp: Ở nơi 5 ấm mà chẳng sanh tâm chấp đắm, thì đó nghĩa là “bất trú” vậy. Trước đây, chỉ nói về bất trú nơi 5 ấm mà chưa nói đến bất trú nơi hết thảy pháp.

Nay nói rôgnj thêm rằng, ở nơi hết thảy pháp, dù là hữu vi, là vô vi, là thường, là vô thường… dẫn đến là viễn ly, là tịch diệt cũng đều chẳng nên trú. Vì sao? Vì trú là có sở đắc rồi vậy.

Hỏi: ở nơi vô vi tướng của quả Tu Đà Hoàn chẳng nên trú, ở nơi phước điền chẳng nên trú… nghĩa ấy như thế nào?

Đáp: vì Niết Bàn là vô vi tướng, là vô pháp, nên quả Tu Đà Hoàn cũng là vô vi tướng, là vô pháp, chẳng nên trú.

Nói quả Tu Đà Hoàn là vô vi tướng, là vô pháp, chẳng nên trú nhằm phá các chấp về pháp tưogns. Vì sao? Vì khi hành giả quán hết thảy các pháp là không, là vô thường rồi, thì thường sanh tâm nhàm chán, chẳng còn muốn hành các thiện pháp, chẳng còn muốn cứu độ chúng sanh nữa, mà chỉ muốn thủ chấp Niết Bàn, nên phải nói như vậy để phá các chấp về pháp tướng.

Lại nữa, dù nói quả Tu Đà Hoàn là hữu vi tướng, thì tướng hữu vi đó cũng là hư vọng, chẳng thật có, nên cũng chẳng nên trú. Dẫn đến quả Phật cũng là vô vi tướng, chẳng nên trú.

Bồ Tát muốn vào Phật đạo, trước hết phải hành bố thí Ba La Mật để cầu phước điền. Vì sao? vì có nhân duyên phước điền mới được đầy đủ đạo nghiệp. Ví như trồng lúa ở nơi ruộng tốt mới thu hoạch được mùa lúa tốt vậy.

Bồ Tát lúc ban đầu phải tu tập như vậy, nhưng phải biết rõ chẳng nên trú nơi phước điền Tu Đà Hoàn. Vì sao? Vì trú như vậy là có sở đắc. Dẫn đến ở nơi phước điên Phật, Bồ Tát cũng chẳng nên trú.

Hỏi: Phước điền nhị thừa chẳng nên trú còn hiểu được. còn ở nơi phước điền Phật, vì sao cũng chẳng nên trú?

Đáp: ở nơi hết thảy Pháp, Bồ Tát phải dụng tâm bình đẳng. Dù phước điền Phật là lớn, phước điền chúng sanh là nhỏ, Bồ Tát vẫn xem bình đẳng như nhau.

Lại nữa, hết thảy xứ đều là không, nên chẳng nên trú. Bồ Tát dụng tâm bình đẳng mà hành bố thí, nên cẳng có phân biệt phước điền. Vì mống tâm phân biêt phước điền là liền phá huỷ tâm đại bi, và cũng phá luôn cả pháp bố thí thanh tịnh. Ví như rời Sơ Địa mới vào được Nhị Địa, xả các lợi nhỏ mới cầu được lợi lớn vậy.

Bởi vậy nên, nếu vẫn còn chấp tâm, còn thủ tướng thì chẳng có thể đến được đạo quả Vô Thượng.

Hỏi: Bồ Tát phá tâm tu 6 Ba La Mật, vào Bồ Tát vị, vào bất thối chuyển địa, hiển dụng các thần thông, cúng dừng chư Phật… như vậy vì sao nói “ở nơi hết thảy pháp, Bồ Tát đều chẳng trú”?

Đáp: đây chẳng phải nhằm phá “thanh tịnh trú”, mà chỉ nhằm phá chấp ngã và chấp tà kién, nghĩa là phá chấp tâm, thủ tướng. Ví như phải làm sạch cỏ dại, thì ruộng lúa mới được tốt tươi.

Cũng như vậy, do muốn đoạn sạch các sự ái pháp mà nói “chẳng nên trú”. Lại nữa, y theo lời Phật dạy, thì Bát Nhã Ba La Mật là rốt ráo không, nên chẳng nên trú vậy.

— oOo —

Bồ Tát vì thương xót chúng sanh mà hành các thiện pháp, dùng các lực phương tiện để hoá độ chúng sanh, nhưng chẳng có chấp tâm, thủ tướng. Vì có chấp tâm, có thủ tướng là có sở đắc rồi vậy.

Từ sơ phát tâm, Bồ Tát đã nói: Ta sẽ tu tập các thiện pháp, được 5 nhãn, được hết thảy các tam muội, các đà la ni, được đầy đủ 32 tướng tốt, 80 vẻ đẹp, ta sẽ ở trong 8 hạng người tín hành và pháp hành, từ Tu Đà Hoàn… dẫn đến A La Hán, ta sẽ nhập Vô Dư Niết Bàn, ta sẽ là Bích Chi Phật, ta sẽ trú Bồ Tát địa, vượt hết thảy hàng Thanh Văn và Bích Chi Phật, ta sẽ được đạo chủng trí, được nhất thiết chủng trí, dẫn đến được quả Vô Thượng Bồ Đề.

Bồ Tát nói như vậy, hành như vậy mà tâm thường chẳng trú, Vì sao? Vì trú là có sở đắc rồi vậy.

Hỏi: Nói chẳng trú nơi các thiện pháp thì còn có thể tin được. Còn nói chẳng có danh tự thọ, tưởng, hành, thức, chẳng có danh tự Đàn Ba La Mật… dẫn đến chẳng có danh tự Bát Nhã Ba La Mật, chẳng có danh tự Tu Đà Hoàn… dẫn đến chẳng có danh tự Phật, thì làm sao có thể tin được?

Đáp: Người tu hành kh đã được phước huệ trang nghiêm, thì sẽ được ở nơi các quốc độ, mà nơi đó cây cỏ, dẫn đến núi rừng, sông biển… đều diễn xuất âm thanh vi diệu. Những chúng sanh nào mà có đầy đủ túc duyên sanh vào các quốc độ này mà nghe được các âm thanh vi diệu đó, thì liền được vô sanh pháp nhẫn, liền biết rõ các pháp đều là không, là vô tướng, là vô tác, liền vào được nơi thật tướng bất sanh, bất diệt, bất cấu, bất tịnh… của các pháp.

Ở các quốc độ này chẳng có các danh pháp 5 ấm, 12 nhập, 18 giới, chẳng có các danh pháp Đàn Ba La Mật… dẫn đến Bát Nhã Ba La Mật, chẳng có các danh pháp 4 niệm xứ… dẫn đến 18 bất cộng pháp, chẳng có các danh pháp Tu Đà Hoàn… dẫn đến Phật. Chúng sanh ở các quốc độ này đều có đầy đủ 32 tướng tốt, 80 vẻ đẹp trang nghiêm, được vô lượng quang minh, được đạo chủng trí, được nhất thiết chủng trí. Thế nhưng Bồ Tát cũng chẳng trú tâm nơi các quốc độ đó, vì biết rằng trú như vậy là có sở đắc, dẫn sanh cao tâm, chẳng thể vào được đạo Vô Thượng Bồ Đề.

— oOo —

Ngài Tu Bồ Đề nói: do nhân duyên bất trú mà chư Phật được đạo. Khi đã được đạo rồi, thì biết rõ các pháp đều là vô sở trú cả.

Ngài Xá Lợi Phất nghe như vậy, tự niệm rằng: Nếu các pháp đều là vô sở trú, thì phải trú nơi đâu để được đạo?

Ngài Tu Bồ Đề biết tâm niệm của ngài Xá Lợi Phất, nên đã nói với ngài Xá Lợi Phất rằng: Chư Bồ Tát đều là pháp tử của Phật. Đã là pháp tử thì phải giống pháp sư. Phật thường hành “vô sở trú pháp”, chẳng tú nơi sắc… dẫn đến chẳng trú nơi thức, chẳng trú nơi nhãn… dẫn đến chẳng trú nơi ý, chẳng trú nơi sắc… dẫn đến chẳng trú nơi pháp, chẳng trú nơi Đàn Ba La Mật… dẫn đến chẳng trú nơi Bát Nhã Ba La Mật, chẳng trú nơi 4 niệm xứ… dẫn đến chẳng trú nơi 18 bất cộng pháp, chẳng trú nơi hết thảy các tam muội, nơi hết thảy các đà la ni… dẫn đến chẳng trú nơi nhất thiết chủng trí. Bồ Tát thật hành Bát Nhã Ba La Mật, phải dụng tâm vô sở đắc như chư Phật vậy. ở nưoi hết thảy các Pháp, chẳng trú cũng chẳng phải chẳng trú mới gọi là “vô sở trú”. Được như vậy thì tâm mới thật rốt ráo thanh tịnh. Bồ Tát thật hành Bát Nhã Ba La Mật, phải nương theo Phật tâm mà tu tập như vậy.

KINH:

Lúc bấy giờ, trong pháp hội vị Thiên Tử tự nghĩ rằng: Ngữ ngôn, danh tự của hàng Dạ Xoa còn có thể biết được. Nay Đại Đức Tu Bồ Đề dùng ngữ ngôn danh tự rõ ràng để thuyết giảng Bát Nhã Ba La Mật, nhưng sao tôi chẳng hiểu, chẳng biết gì cả vậy?

Ngài Tu Bồ Đề biét rõ tâm niệm của vị Thiên Tử, bèn hỏi rằng: Ngài thật chẳng hiểu, chẳng biết gì cả hay sao?

Vị Thiên Tử đáp: Thưa Đại Đức! Chúng tôi thật chẳng hiểu, chẳng biết gì cả.

Ngài Tu Bồ Đề đáp: Thưa chư vị Thiên Tử! Thật tướng các pháp là bất khả tri (chẳng thể biết). Tôi chẳng luận nghị, chẳng nói ra một lời nào cả, dẫn đến cũng chẳng có người nghe. Vì sao?

Thưa chư vị Thiên Tử! Vì danh tự chẳng phải là Bát Nhã Ba La Mật. Trong Bát Nhã Ba La Mật chẳng có người nghe. Vô Thượng Bồ Đề của chư Phật chẳng có chữ, chẳng có lời để diễn đạt ra được.

Thưa chư vị Thiên Tử! Như chư PHật biến hoá ra có người. Trong số người được biến hoá ra đây, có đủ 4 bộ chúng Tỷ kheo, Tỷ Kheo Ni, Ưu Bà Tắc, Ưu Bà di. Trong các bộ chúng này lại có người nói pháp. Ý các ngài nghĩ sao? Trong số các người được biến hoá này, thật sự có người thuyết pháp, có người nghe pháp, có người hiểu pháp, có người biết pháp chăng?

Vị Thiên Tử đáp: Thưa Đại Đức! chẳng có vậy.

Ngài Tu Bồ Đề nói: Thưa chư vị Thiên Tử! Hết thảy các pháp đều là như huyễn, như hoá. Bởi vậy nên ở nơi các pháp đều chẳng có người nói, chẳng có người nghe, chẳng có người hiểu, chẳng có người biết vậy.

Thưa chư vị Thiên Tử! ví như có người nằm mộng thấy có đức Phật đang thuyết pháp. Ý các ngài nghĩ sao? ở trong cảnh mộng ấy thật sự có người thuyết pháp, có người nghe pháp, có người hiểu pháp, có người biết pháp chăng?

Vị Thiên Tử đáp: Thưa Đại Đức! chẳng có vậy.

Ngài Tu Bồ Đề nói: Thưa chư vị Thiên Tử! Hết thảy các pháp đều như mộng, nên ở nơi các pháp chẳng có người thuýet, chẳng có người nghe, chẳng có người hiểu, chẳng có người biết vậy.

Thưa chư vị Thiên Tử! ví như ở trong đại giảng đường này, có 2 người phát ra cùng lúc hai âm hưởng, nhằm tán thán Phật, Pháp và Tăng. Ý các ngài nghĩ sao? Hai âm hưởng đó có hiẻu được nhau chăng?

Vị Thiên Tử đáp: Thưa Đại Đức! Chẳng được vậy.

Ngài Tu Bồ Đề nói: Thưa chư vị Thiên Tử! Ví như có nhà huyễn thuật, ở giữa ngã tư đường, hoá làm Phật, và hoá tác ra 4 bộ chúng, rồi ở trong đó thuyết pháp. Ý các ngài nghĩ sao? Trong huyễn cảnh đó, thật sự có người thuyết pháp, có người nghe pháp, có người hiểu pháp, có người biết pháp chăng?

Vị Thiên Tử đáp: Thưa Đại Đức! Chẳng có vậy.

Ngài Tu Bồ Đề nói: thưa chư vị Thiên Tử! Hết thảy các pháp đều như huyễn, nên ở nơi các pháp chẳng có người thuyết, chẳng có người nghe, chẳng có người hiểu, chẳng có người biết.

Lúc bấy giờ chứ Thiên Tử nghĩ rằng: Ngài Tu Bồ Đề thuyết pháp, chẳng những muốn làm cho chúng ta dễ hiểu mà ngài còn là cho bài pháp càng thêm thâm diệu hơn nhiều.

Ngài Tu Bồ Đề biết tâm niệm của chư Thiên Tử, nên nói: Thưa chư vị Thiên Tử! Sắc chẳng phải thâm, chẳng phải diệu, sắc tánh… dẫn đến thức tánh chẳng phải thâm, chẳng phải diệu. nhãn tánh… dẫn đến ý tánh chẳng phải thâm, chẳng phải diệu. sắc tánh… dẫn đến pháp tánh chẳng phải thâm, chẳng phải diệu. nhãn giới tánh… dẫn đến ý thức giới tánh chẳng phải thâm, chẳng phải diệu. nhãn xúc… dẫn đến ý xúc chẳng phải thâm, chẳng phải diệu. nhãn xúc nhân duyên sanh thọ… dẫn đến ý xúc nhân duyên sanh thọ chẳng phải thâm, chẳng phải diệu.

Thư chư vị Thiên Tử! Lại nữa, Đàn Ba La Mật… dẫn đến Bát Nhã Ba La Mật, nội không… dẫn đến vô pháp hữu pháp không cchẳng phải thâm, chẳng phải diệu, 4 niệm xứ… dẫn đến 18 bất cộng pháp, hết thảy các tam muội, hết thảy các đà la ni… dẫn đến nhất thiết chủng trí cũng đều chẳng phải thâm, chẳng phải diệu.

Chư Thiên Tử lại nghĩ rằng: trong các pháp đã được thuyết ra, thật sự cũng chẳng có nói đến sắc… dẫn đến chẳng có nói đến thức, chẳng có nói đến nhãn… dẫn đến chẳng có nói đến ý, chẳng có nói đến sắc… dẫn đến chẳng có nói đến pháp, chẳng có nói đến nhãn thức… dẫn đến chẳng nói đến ý thức, chẳng nói đến nhãn xúc… dẫn đến chẳng nói đến ý xúc, chẳng nói đến chẳng nói đến nhãn xúc nhân duyen sanh thọ… dẫn đến chẳng nói đén ý xúc nhân duyên sanh thọ, chẳng nói đén Đàn Ba La Mật… dẫn đến chẳng nói đến Bát Nhã Ba La Mật, chẳng nói đến nội không… dẫn đến chẳng nói đến vô pháp hức pháp không, chẳng nói đến 4 niệm xứ… dẫn đến chẳng nói đến 18 bất cộng pháp, chẳng nói đến các tam muội, chẳng nói đến các đà la ni… dẫn đến chẳng nói đến nhất thiết chủng trí, chẳng nói đến 4 quả Thanh Văn… dẫn đến chẳng nói đến quả Phật, chẳng nói đến đạo Vô Thượng Bồ Đề. Vì sao? Vì ở nơi thật tướng thì các pháp chẳng có danh tự, ngữ ngôn vậy.

Ngài Tu Bồ Đề biết tâm niệm của chư Thiên Tử, nên nói: Thưa chư vị Thiên Tử! Đúng như vậy, đúng như vậy!

Thưa chư vị Thiên Tử! Hết thảy các pháp tướng, từ sắc tướng… dẫn đến Vô Thượng Bồ Đề tướng đều là “bất khả thuyết tướng”, là những tướng chẳng thể nói ra được. Bởi vậy nên nói chẳng có người thuyết, chẳng có người nghe, chẳng có người hiểu, chẳng có người biết.

Thưa chư vị Thiên Tử! Vì nghĩa nêu trên đây nen các Thiện Nam, Thiện Nữ muốn an trí quả Tu Đà Hoàn, quả Tư Đà Hàm, quả A Na Hàm, quả A La Hán, quả Bích Chi Phật… dẫn đến muốn an trú trong Phật đạo, đều phải là những ngời chẳng ly “trí nhẫn” vậy.

Thưa chư vị Thiên Tử! Bồ Tát Ma Ha Tát từ sơ phát tâm, đã an trú như vậy trong Bát Nhã Ba La Mật. Vì sao? Vì Bát Nhã Ba La Mật là chẳng thuyết, chẳng nghe (vô thuyết, vô thính).

LUẬN:

HỎI: Ngôn ngữ, danh tự của loài Dạ Xoa là mờ ám, bất chánh, còn Bát Nhã Ba La Mật là rõ ràng, thanh tịnh. Như vậy vì sao lại đem so sánh pháp Dạ Xoa với Bát Nhã Ba La Mật là pháp thậm thâm vi diệu?

Đáp: Đây là chư Thien muốn so sánh chỗ chưa rõ và chỗ chưa ngộ. Do vậy mà đã lấy danh tự, ngữ ngôn của loài Dạ Xoa để làm dụ.

–oOo–

Chư Thiên nghĩ rằng ở cõi Trời có đến 99 cửa, mỗi cửa đều có 6 Thanh Y Dạ Xoa canh giữ. Ngôn ngữ của các loài Dạ Xoa khác nhau, rất khó nghe được lời, khó hiểu được ý của chúng. Vậy mà còn có thể biết được. Lại nữa, sông dù sâu, mà có thuyền lớn thì vẫn có thể vượt qua được.

Còn ngài Tu Bồ Đề thuyết Bát Nhã Ba La Mật, nghĩa lý quá sâu xa và chẳng có định tướng, nên chẳng thể nào thủ ý, chẳng thẻ nào truyền dụng được. Vì sao? Vì chẳng liễu ngộ thì chẳng làm sao có thể diễn bày được. Lại nữa, nói “có” cũng chẳng được, nói “không” cũng chẳng được, đến chỗ tột cùng ấy, hết thảy các tâm hành đều diệt, hết thảy các ngôn ngữ đều đoạn. Bởi vậy nên chư Thiên mờ mịt, sanh tâm sợ hãi vậy.

–oOo–

Ngài Tu Bồ Đề giải thích rằng: chính chỗ chẳng rõ ấy là thật tướng của các Pháp. Hết thảy các pháp tướng đều là như vậy cả. Vì sao? Vì các pháp rốt ráo là “vô sở thuyết”, chẳng có thể dùng danh tự, ngữ ngôn mà nói ra được vậy. Cho nên là chẳng có người thuyết, chẳng có người nghe, chẳng có người hiểu, chẳng có người biết.

Phật đạo chẳng thể thuyết (vô thuyết), chẳng thể chấp (vô chấp), chẳng có danh tự để nói ra được (vô tự). Vì sao? vì danh tự vốn là “không”, là hư vọng vậy.

–oOo–

Chư Thiên lại nghĩ rằng: Nếu chẳng có người thuyết, chẳng có người thuyết, chẳng có người nghe, chẳng có người hiểu, chẳng có người biết, thì nay đại chúng vân tập về pháp hội để nghe thuyết Bát Nhã Ba La Mật cũng chẳng được lợi ích gì cả hay sao?

Ngài Tu Bồ Đề muốn giải nghĩa Bát Nhã Ba La Mật, nên đã dùng nhiều thí dụ để làm cho sáng nghĩa thêm. Thế nhưng chư Thiên lại nghĩ rằng: Ngài Tu Bồ Đề dùng nhiều thí dụ để làm cho rõ nghĩa, mà càng thí dụ lại càng thấy thậm thâm, vi diệu hơn. Vì sao? Vì dùng “thô” để chỉ “tế”, khiến chẳng sao có thể lường được.

Ngài Tu Bồ Đề biết rõ chư Thiên, ở nơi Bát Nhã Ba La Mật tâm còn mê muội, chưa được liễu đạt nên ngài nói: Bát Nhã Ba La Mật chẳng khác 5 ấm, vì thật tướng của 5 ấm chính là Bát Nhã Ba La Mật. Bởi vậy nên 5 ấm chẳng phải thâm, chẳng phải diệu… dẫn đến nhất thiết chủng trí cũng chẳng phải thâm, chẳng phải diệu.

Lúc bấy giờ chư Thiên mới liễu đạt được rằng, dù nói sắc… dẫn đến nói Vô Thượng Bồ Đề, các pháp ấy cũng vẫn là “vô sở thuyết”, chẳng thể dùng ngữ ngôn, danh tự mà diễn nói ra được.

Ngài Tu Bồ Đề biết tâm niệm của chư Thiên, biết chư Thiên đã được liễu thông, nên nói: Đúng như vậy, đúng như vậy! Chẳng phải chỉ riêng tôi, mà chư Phật khi đã được đạo rồi, cũng chẳng nói về “tịch diệt tướng”. Do vậy mà nói là chẳng có người thuyết, chẳng có người nghe, chẳng có người hiểu, chẳng có người biết.

Lại nữa, từ quả Tu Đà Hoàn… dẫn đến quả Phật, ở nơi thật tướng cũng đều là rốt ráo là không, là bất khả đắc. Nếu ly pháp nghĩa ấy thì chẳng  có thể được vô sanh pháp nhẫn… dẫn đến chẳng có thể được Phật đạo.

Trong khoảng giữa từ sơ phát tâm, dẫn đến khi thành Phật, ở nơi hết thảy các pháp, Bồ Tát đều chẳng trú, nên đều chẳng thấy có người thuyết, chẳng thấy có người nghe, chẳng thấy có người hiểu, chẳng thấy có người biết. Vì sao? Vì đến chỗ tột cùng ấy thì hết thảy các tâm hành đều diệt, hết thảy các ngôn ngữ đều đoạn.

Do vì thật tướng pháp là chẳng thể nói ra được (bất khả thuyết), nên là chẳng thể nghe được (bất khả thính), vì là chẳn thể nghe, nên là chẳng thể biết được (bất khả tri) vậy.

Ở nơi hết thảy pháp đều chẳng thọ (vô thọ), đều chẳng vướng mắc (vô trước), là nhập vào “Vô Dư Y Niết Bàn” vậy.

(Hết quyển 54)