LUẬN
ĐẠI TRÍ ĐỘ

Nguyên tác: Bồ tát Long Thọ
Hán dịch: Pháp sư Cưu Ma La Thập
Việt dịch: Tỳ kheo ni THÍCH NỮ DIỆU KHÔNG

 

TẬP III
QUYỂN 53

Phẩm thứ hai mươi sáu
Vô sanh tam quán
(Ba Pháp Quán Vô Sanh)

KINH:

Lúc bấy giờ ngài Tu Bồ Đề hỏi ngài Xá Lợi Phất: ngài nói rằng Bồ Tát thật hành Bát Nhã Ba La Mật nên quán hết thảy các pháp. Như vậy thì:

• Thế nào gọi là Bồ Tát?
• Thế nào gọi là Bát Nhã Ba La Mật?
• Bồ Tát phải quán các pháp như thế nào?

Ngài Tu Bồ Đề đáp: Thưa ngài Xá Lợi Phất!

* Thế nào là Bồ Tát chăng?

Người nào phát đại tâm cầu Vô Thượng Bồ Tát Đề, biết rõ hết thảy các pháp tướng mà chẳng chấp, biết rõ tướng của sắc… dẫn đến biết rõ tướng của 18 bất cộng pháp mà chẳng chấp, thì người đó được gọi là Bồ Tát

Thế nào gọi là biết rõ hết thảy các pháp tướng?

Đó là biết rõ đây là sắc, là thanh, là hương, là vị, là xúc, là pháp; đây là pháp hữu vi, đây là pháp vô vi v.v… lại biết rõ hết hảy cá pháp đều do duyên hào hợp tác thành, chỉ là giả dah tướng. lại biết rõ hết thảy các pháp tướng đều là như như, bình đẳng.  Biết rõ như vậy, gọi là biết rõ hết thảy các pháp tướng.

* Thế nào là Bát Nhã Ba La Mật chăng?

Bát Nhã Ba La Mật là viễn ly, là giải thoát.

Viễn ly những pháp gì? Đó là viễn ly 5 ấm, 12 nhập, 18 giới; viễn li Đàn Ba La Mật… dẫn đến viễn ly Bát Nhã Ba La Mật, viễn ly nội không… dẫn đến viễn ly vô pháp hữu pháp không, viễn ly 4 niệm xứ… dẫn đến viễn ly 18 bất cộng pháp.

Bơi nhân duyên vậy, nên nói Bát Nhã Ba La Mật là viễn ly, là giải thoát.

* Bồ Tát phải quán các pháp như thế nào chăng?

Bồ Tát hành Bát Nhã Ba La Mật nên quá sắc… dẫn đến quán thức chẳng phải thường, chẳng phải vô thường, chẳng phải lạc, chẳng phải khổ, chẳng phải ngã, chẳng phải vô ngã, chẳng phải khôgn, chẳng phải bất không, chẳng phải có tướng, chẳng phải vô tướng, chẳng phải có tác, chẳng phải vô tác, chẳng phải tịch diệt, chẳng phải chẳng tịch diệt, chẳng phải ly, chẳng phải chẳng ly. Quán Đàn Ba La Mật… dấn đến quán Bát Nhã Ba La Mật, quán nội không… dấn đến quán vô pháp hữu pháp không, quán 4 niệm xứ… dẫn đến quán 18 bất côgnj pháp, quán các tam muội môn, quán các đà la ni môn… dẫn đến quán nhất thiết chủng trí cũng đều là như vậy cả.

Như vậy gọi là Bồ Tát hành Bát Nhã Ba La Mật quán hết thảy các pháp.

Luận:

Hỏi: trước đã nói về nghĩa của Bồ Tát, của Bát Nhã Ba La Mật, và nghĩa của các  pháp quán rồi. Sao nay còn hỏi nữa?

Đáp: Trước đây đã nói rằng muốn đốn hạ một cây lớn, ngời tiều phu phải dùng cưa, dùng rìu, để cưa để chặt nhiều lần, lại còn phải đào, phải xới nhiều lần đến tận sâu mới có thể đoạn đứt nó đến tận gốc rễ.

Cũng như vậy, Bát Nhã Ba La Mật có vô lượng nghĩa thâm diêu nên phải nói đi nói lại nhiều lần mới hiểu được.

Trong phẩm Đàm Vô Yét có dụ Bát Nhã Ba La Mật mênh mông, sâu thẳm như biển lớn, cao vòi vọi như núi Tu Di, trang nghiêm vô cùng tận. Bởi vậy nên chỗ hỏi tuy đồng mà chỗ đáp lại có rất nhiều nghĩa sai khác nhau.

Phật chẳng có ái pháp, chẳng muốn lập kinh thơ, nhưng chỉ vì cứu độ chúng sanh mà thị hiện chuyển pháp luân.

Pháp phật ví như nước Cam Lồ, khiến chúng sanh hưởng dụng được tăng ích phước lạc. Bởi vậy người nghe pháp Phật được vô lượng lợi ích.

Lại nữa, người nghe pháp Phật mà tinh tấn Tu Bồ Đề hành thì quyết định sẽ được tâm vô cấu, được quả vị Bồ Đề.

–oOo–

Nên biết, ở cả 3 thừa đều có quả vị Bồ Đề:

– Bồ Đề Nhị Thừa.
– Bồ Đề Bích Chi Phật thừa.
– Bồ Đề Bồ Tát và Phật thừa.

Bồ Đề của Bồ Tát và Phật thừa còn được gọi là Bồ Đề Tát Đoả.

Vị Bồ Tát nào, dù đã có được trí huệ lớn mà chưa dứt trừ hết các tập khí phiền não, thì vẫn chưa được gọi là Bồ Đề Phật thừa, chưa được gọi là Bồ Đề Tát Đoả.

Người phát đại tâm tinh tấn Tu Bồ Đề hành, cần cầu đạo Vô Thượng thì mới được gọi là Bồ Đề Tát Đoả.

Trong kinh dạy: Người phát đại tâm cầu đạo Vô Thượng, lại biết rõ hết thảy các pháp tướng mà chẳng thủ chấp, gọi là Bồ Tát. Do vì biết rõ hết thảy các pháp tướng đều là rốt ráo không, nên Bồ Tát ở nơi chân đế cũng như ở nơi tục đế vẫn thường tự tại, vẫn thưognf dùng các lực phương tiện để hiện hành các pháp, mà vẫn chẳng hề thủ chấp các tướng.

–oOo–

Lại nữa, do thật hành Bát Nhã Ba La Mật, nên Bồ Tát ở nơi sắc mà vẫn ly sắc, nơi thọ, tưởng, hành, thức mà vẫn ly thọ, tưởng, hành, thức, dẫn đến ở nơi hết thảy các pháp mà vẫn ly hết thảy các pháp. Vì sao? Vì Bát Nhã Ba La Mật là viễn ly, là giải thoát vậy.

Phải viễn ly 5 ấm, 12 nhập, 18 giới, viễn ly các pháp Ba La Mật, viễn ly nhất thiết chủng trí… dẫn đến viễn ly hết thảy các pháp, thì mới gọi là được Bát Nhã Ba La Mật. Bồ Tát dùng lực phương tiện Bát Nhã Ba La Mật để quán các pháp, mà vẫn xả ly các pháp quán.

Kinh:

Ngài Xá Lợi Phất hỏi: Vì nhân duyên gì mà nói sắc bất sanh là phi sắc… dẫn đến nói nhất thiết chủng trí bất sanh là phi nhất thiết chủng trí?

Ngài Tu Bồ Đề đáp: sắc và sắc tướng đều là tánh không. Trong tánh không thì sắc chẳng sanh, nên là phi sắc. Dẫn đén thức và thức tướng đều là tánh không, và trong tánh không thì thức chẳng sanh, nên là phi thức. Đàn Ba La Mật và Đàn Ba La Mật tướng… dẫn đến Bát Nhã Ba La Mật và Bát Nhã Ba La Mật tướng, nội không và nội không tướng… dẫn đến vô pháp hữu pháp và vô pháp hữu pháp không tướng, 4 niệm xứ và 4 niệm xứ tướng v.v… dẫn đến nhất thiết chủng trí và nhất thiết chủng trí tướng cũng đều là như vậy cả.

Bởi nhân duyên vậy, nên nói sắc bất sanh là phi sắc… dẫn đến nhất thiết chủng trí bất sanh là phi nhất thiết chủng trí.

Ngài Xá Lợi Phất hỏi: vì nhân duyên gì mà nói sắc bất nhị là phi sắc… dẫn đến nhất thiết chủng trí bất nhị là phi nhất thiết chủng trí?

Ngài Tu Bồ Đề đáp: Hết thày các pháp đều chẳng có tập, chẳng có tán, chẳng có sắc, chẳng có hình, chẳng có đối, nên đều chẳng phải hai (bất nhị), chẳng phải khác, đều là nhất tướng, là vô tướng.

Bởi nhân duyên vậy, nên nói sắc bất nhị là phi sắc… dẫn đến nhất thiết chủng trí bất nhị là phi nhất thiết chủng trí.

Ngài Xá Lợi Phất hỏi: Vì nhân duyên gì mà nói sắc.. dẫn đến nhất thiết chủng trí đều nhập vào trong “pháp số bất nhị”?

Ngài Tu Bồ Đề đáp: sắc chẳng khác vô sanh, vô sanh chẳng khác sắc, sắc tức là vô sanh, vô sanh tức là sắc… dẫn đến nhất thiết chủng trí chẳng khác vô sanh, vô sanh chẳng khác nhất thiết chủng trí. Nhất thiết chủng trí tức là vô sanh, vô sanh tức là nhất thiết chủng trí.

Bởi nhân duyên vậy, nên nói sắc… dẫn đến nhất thiết chủng trí đều nhập vào trong “pháp số bất nhị”.

Luận:

Hỏi: Vì sao nói sắc bất sanh là phi sắc… dẫn đến nói nhất thiết chủng trí bất sanh là phi nhất thiết chủng trí?

Đáp: Vì sắc là tánh không. Trong tánh không chẳng có sắc tướng.

Nếu được “Vô Sanh Trí” thì biết rõ sắc rốt ráo là vô sanh. Nếu biết rõ được sắc là vô sanh, thì biết rõ được thật tướng của sắc.

Bởi vậy nên nói sắc vô sanh là phi sắc. Tánh của sắc vốn là vô sanh, chẳng phải do lực trí huệ mà khiến sắc trở thành vô sanh. Nếu dùng lực trí huệ quán để chia chẻ sắc thành hư không, rồi lại thủ chấp “hư không tướng” đó, thì chẳng khác gì người đã ra khỏi “nhà xí”, mà còn tường đến cảnh bất tịnh của nàh xí vậy. Nếu quán nhà xí là như huyễn, như hoá, thì tưởng về bất tịnh kia sẽ chẳng còn nữa.

Người tu hành cũng là như vậy. Nếu biết rõ sắc vốn tự vô sanh, thì chẳng còn thủ chấp sắc tướng nữa. Bởi vậy nên nói sắc vô sanh là phi sắc… dẫn đến nói nhất thiết chủng trí vô sanh là phi nhất thiết chủng trí.

Hỏi: trước đã nói sắc “vô sanh” là “bất nhị” rồi. Vì sao ngài Xá Lợi Phất còn hỏi nữa?

Đáp: nghĩa tuy đồng mà chõ quán khác nhau.

Trước đây nhằm phá chấp “trong quả có nhân” nên nói các pháp là vô sanh, vô chủ tác, cho thấy rõ về nhâ sanh pháp cũng là vô sanh. Nay nhằm phá cả hai chấp “hữu” và “vô” về  “nhân sanh pháp” nên mới nói đến “bất nhị môn”.

Người Tu Bồ Đề hành trước vào “vô sanh quán”, rồi sau mới vào “bất nhị môn”, hoặc trước vào “bất nhị môn” rồi sau mới vào “vô sanh quán”. Đây chỉ nhằm phá chấp về sắc pháp mà phân biệt nói có 2 pháp môn riêng rẽ, nhưng cả hai pháp môn đó cũng chỉ là một vậy.

— oOo–

Lại nữa, trước đây nhằm phá nhân duyên sanh sắc, nên nói sắc là vô sanh, nghĩa là nói sắc cũng như nhân duyên sanh sắc đều là vô sanh cả. Như vậy là nói các pháp đều là “tự tướng không”. Nay nói “bất nhị môn” để cho thấy rõ rằng hết thảy pháp đều chẳng có hợp, chẳng có tan, đều là nhất tướng, là vô tướng cả.

Như vậy, nghĩa tuy đồng một thể là “không”, nhưng vì muốn pháp luôn chấp về “tự tướng khôgn” của các pháp mà phải nói về “bất nhị môn” vậy.

Người Tu Bồ Đề hành, trước phải quán sắc là bất sanh, bất diệt, rồi sau mới quán sắc là vô sanh. Bởi vậy nên nói sắc “vô sanh” là “bất nhị”. Vì sao? Vì khi sắc đã rốt ráo vô sanh, thì là bất sanh, bất diệt vậy.

Tóm lại, trước nói sanh là bất khả đắc, nay nói vô sanh cũng bất khả đắc, bởi vậy nên nói: sắc.. dẫn đến nhất thiết chủng trí đều nhập vào trong “pháp số bất nhị”.

–oOo–

Sau khi hai ngài Tu Bồ Đề và Xá Lợi Phất đã luận nghị xong, bài Tu Bồ Đề liền bạch Phật để xin Phật minh chứng.

Kinh:

Lúc bấy giờ, ngài Tu Bồ Đề bạch Phật: Bạch Thế Tôn! Khi thật hành Bát Nhã Ba La Mật, Bồ Tát quán các pháp như vậy, nên thấy sắc vô sanh là rốt ráo thanh tịnh… dẫn đến thấy thức vô sanh là rốt ráo thanh tịnh… dẫn đến thấy thức vô sanh là rốt ráo thanh tịnh. Bồ Tát cũng thấy ngã tướng, nhân tướng vô sanh đều là rốt ráo thanh tịnh. Bồ Tát cũng thấy ngã tướng, nhân tướng vô sanh đều là rốt ráo  thanh tịnh, thấy Đàn Ba La Mật vô sanh… dẫn đến Bát Nhã Ba La Mật vô sanh đều là rốt ráo thanh tịnh, thấy nội không vô sanh… dẫn đến vô pháp hữu pháp không vô sanh đều là rốt ráo thanh tịnh, thấy 4 niệm xứ vô sanh… dẫn đến 18 bất cộng pháp vô sanh đều là rốt ráo thanh tịnh, thấy các tam muội môn vô sanh, các đà la ni môn vô sanh… dẫn đến thấy nhất thiết chủng trí vô sanh đều là rốt ráo thanh tịnh, thấy 4 quả Thanh Văn vô sanh, quả Bích Chi Phật vô sanh… dẫn đế quả Phật vô sanh đều là rốt ráo thanh tịnh, thấy pháp A La Hán vô sanh, pháp Bích Chi Phật vô sanh… dẫn đến pháp Phật vô sanh đều là rốt ráo thanh tịnh.

Ngài Xá Lợi Phất hỏi: theo nghĩa mà tôi được nghe thì sắc vô sanh, thọ, tưởng, hành, thức cũng vô sanh… dẫn đến Phật và Phật pháp cũng vô sanh. Như vậy thì chẳng cần phải nói đến quả Tu Đà Hoàn, quả Tư Đà Hàm, quả A Na Hàm, quả A La Hán, quả Bích Chi Phật, chẳng cần nói đến Thanh Văn đạo, Bích Chi Phật đạo, Bồ Tát đạo, và Phật đạo, chẳng cần nói đến 6 đạo chúng sanh, dẫn đến chẳng có đại Bồ Tát, chẳng có 5 quả Bồ Đề.

Thưa ngài Tu Bồ Đề! Nếu hết thảy các pháp tướ đều vô sanh thì vì sao Tu Đà hoàn phải tu đạo đế để đoạn 3 kiết sử? Vì sao Tư Đà Hàm phải tu đạo đế để làm mỏng tham, sân, si? Vì sao A Na Hàm phải tu đạo đế để dứt 5 hạ phần kiết sử? Vì sao A La Hán phải Tu Bồ Đề đạo đế để dứt 5 thượng phần kiết sử? Vì sao có Bích Chi Phật đạo và Bích Chi Phật pháp? Vì sao có Bồ Tát thọ khổ thay cho chúng sanh, làm những việc khó làm? Vì sao có Phật chứng quả Vô Thượng Bồ Đề? Vì sao có Phật chuyển pháp luân?

Ngài Tu Bồ Đề đáp: Thưa ngài Xá Lợi Phất! Tôi chẳng nghĩ rằng trong pháp vô sanh, mà lại có chỗ sở đắc. Tôi chẳng nghĩ rằng trong pháp vô sanh, mà lại có các quả vị Tu Đà Hoàn, Tư Đà Hàm, A Na Hàm, A La Hán, có quả Bích Chi Phật và đạo Bích Chi Phật. Tôi chẳng nghĩ rằng trong pháp vô sanh, mà có Bồ Tát thọ khổ thay chúng sanh để làm những việc khó làm. Tôi chẳng nghĩ rằng trong vô sanh, mà có Bồ Tát dụng “tâm nan hành” (khó làm), để hành đạo.

Vì sao? Vì nếu Bồ Tát sanh “tâm nan hành” là đã tự thấy mình có thọ khổ rồi. như vậy thì chẳng có thể làm việc lợi ích cho chúng sanh được.

Thưa ngài Xá Lợi Phất! Dò vì Bồ Tát xem chúng sanh như cha mẹ, anh em, thân thuộc, thương xót chúng sanh như cha mẹ thương con, như thương chính bản thân mình, nên mới thường dụng “tâm vô sở đắc” để  làm các việc lợi ích cho hết thảy chúng sanh.

Bồ Tát biết rõ “ngã” là bất khả đắc, nên ở nơi hết thảy xứ, ở nơi hết thảy thời, ở nơi hết thảy chủng, đối với hết thảy pháp, Bồ Tát đều chẳng thọ.

Lại nữa, thưa ngài Xá Lợi Phất! tôi cũng chẳng nghĩ rằng trong pháp vô sanh, mà có phật chứng Vô Thượng Bồ Đề, có Phật chuyển pháp luân; cũng chẳng nghĩ trong pháp vô sanh, mà có được các đạo quả.

Luận:

Quán vô sanh có hai pháp quán. Đó là:

• Nhu thuận nhẫn quán.
• Vô sanh nhẫn quán.

Khi bắt đầu quán vô sanh, hành giả phải tu tập về “nhu thuận nhẫn quán”. Vì sao? Vì tâm chưa rốt ráo thanh tịnh, nên phải tu tập “nhu thuận nhẫn quán” cho thuần thục. Khi tâm đã thuần thục, đã rốt ráo thanh tịnh rồi, mới vào được “vô sanh nhẫn quán”.

Hỏi: Bồ Tát chưa tận đoạn kiết sử, chưa được Phật đạo, chưa được thật trí huệ. Như vậy, làm sao có được tâm rốt ráo thanh tịnh?

Đáp: dù chưa tận đoạn kiết sử, nhưng khi Bồ Tát đã an lập được đạo tràng, thì tâm chẳng còn gì ngăn ngại nữa, nên được rốt ráo thanh tịnh.

Bồ Tát vào được “vô sanh nhẫn”, tận trừ hết các kiết sử, phiền não là vào “Bồ Tát vị”.

–oOo–

Lại nữa, ở nơi “nhu thuận nhẫn”, mặc dù chưa được Phật đạo, Bồ Tát cũng đã được tâm rốt ráo thanh tịnh rồi. ngoài ra, do thường quán chúng sanh không và pháp không, nên Bồ Tát thấy rõ sắc vô sanh là rốt ráo thanh tịnh… dẫn đến thẫy rõ Phật và Phật pháo là vô sanh, là rốt ráo thanh tịnh.

Hỏi: ngài Tu Bồ Đề nói hết thảy các pháp tướng đều rốt ráo là vô sanh, khiến ngài Xá Lợi Phất phải nêu lên câu hỏi có liên quan đến Hiền Thánh pháp và Tối Thượng Thừa pháp, là Phật pháp vậy. Nếu các pháp đều là vô sanh, thì ở các bậc Thánh chẳng có phân biệt Đại Thánh và Tiểu Thánh riêng khác; ở trong 6 đạo chúng sanh cũng chẳng có sự phân biệt riêng khác.

Như vậy, thì sao lại có nói đến 5 quả Bồ Đề?

Đáp: trong kinh nói có 5 quả Bồ Đề. Đó là:

• Nhu thuận nhẫn Bồ Đề.
• Vô sanh nhẫn Bồ Đề.
• Thanh Văn Bồ Đề.
• Bích Chi Phật Bồ Đề.
• Bồ Tát Bồ Đề.

Riêng Bồ Tát Bồ Đề phải hội đủ 5 pháp. Đó là:

Phát tâm Bồ Đề: là phát tâm cầu đạo quả vô thượng Bồ Đề; nguyện ở trong vô lượng kiếp sanh tử, tinh tấn hành đạo Bồ Tát làm lợi ích cho chúng sanh. Đây là gieo nhân Bồ Đề, dẫn đến quả phật.

Hàng phục tâm Bồ Đề: là hành các pháp Ba La Mật.

Minh tâm Bồ Đề: là biết rõ các pháp trong cả ba đừoi, từ trước đến sau, từ tổng tướng đến biệt tướng; biết rõ thật tướng của các pháp là rốt ráo thanh tịnh.

Xuất đáo Bồ Đề: là được đầy đủ các lực phương tiện Bát Nhã Ba La Mật, nên chẳng còn chấp Bát Nhã Ba La Mật, chẳng còn chấp có hành Bát Nhã Ba La Mật. Do vậy mà diệt sạch các phiền náo, thấy được các thế giới Phật ở khắp 10 phương, được vô sanh pháp nhẫn, vượt ra khỏi ba cõi, thẳng tiến đến nhất thiết chủng trí.

Vô thượng Bồ Đề: là an lập đạo tràng, đoạn hết các vi tế tập khí kiết sử, chuyển thanh tịnh pháp luân, độ thoát hết thảy chúng sanh.

Hỏi: vì sao chẳng nói đến đạo Thanh Văn và đạo Bích Chi Phật, mà chỉ nói nhiều về đạo Bồ Tát?

Đáp: đạo Bích Chi Phật so với đào Thanh Văn chẳng có sai khác nhiều. Bích Chi Phật, dù có phước đức, có lợi căn hơn hàng Thanh Văn, nhưng vẫn chưa có thể sánh với Bồ Tát được.

Vì sao? Bồ Tát phát đại tâm rộng độ hết thảy chúng sanh, phát đại nguyện thọ khổ thay cho chúng sanh, làm các việc rất khó làm, mà tâm vẫn chẳng hề chấp trước.

–oOo–

Trong kinh có nêu mẫu chuyện đối thoại giữa hai ngài Xá Lợi Phất và Tu Bồ Đề như sau:

Ngài Xá Lợi Phất nêu câu hỏi, với nội dung: các pháp là vô sanh, là thanh tịnh, là tịch diệt; còn chúng sanh thì ham vui, chẳng ai muốn chịu khổ thay cho kẻ khác cả. Như vậy, vì sao Bồ Tát lại vì chúng sanh, chịu thọ khổ thay họ?

Ngài Tu Bồ Đề đáp: Vì chư Phật và chư đại Bồ Tát đã rốt ráo thanh tịnh, chẳng còn ái pháp, lại biết rõ các pháp đều là vô sanh, vô lai, vô khứ, nên vẫn thường làm những việc khó làm vậy.

Ngài Tu Bồ Đề giữa đại chúng đã nói rằng, hết thảy các pháp tướng đều rốt ráo vô sanh, và ngài đã được Phật ấn chứng cho lời nói ấy, nên ngài quyết định đáp câu hỏi của ngài Xá Lợi Phất.

Ngài nói: tôi chẳng nghĩ rằng trong pháp vô sanh mà còn có chỗ sở đắc. Tôi chẳng nghĩ rằng trong pháp vô sanh mà còn có 6 đạo chúng sanh, chỉ do chúng sanh chẳng biết rõ các pháp là vô sanh, mà vọng tạo tác ra có 6 đạo chúng sanh. Bởi vậy nên vì bổn nguyện độ sanh mà Bồ Tát hiện thân vào 6 đường để độ tháo chúng sanh.

Bồ Tát biết rõ chỉ có các bậc Thánh mới liễu đạt được pháp vô sanh, biết rõ trong vô sanh thì hết thảy các pháp đều là vô sở hữu: các Thánh quả vô sở hữu, các Thánh đạo vô sở hữu, 6 đạo chúng sanh vô sở hữu… dẫn đến nhất thiết chủng trí cũng là vô sở hữu.

Trái lại, phàm phu do vì chẳng biết rõ các pháp là vô sanh, nên ở trong vô sanh mà vọng khởi tác pháp, thủ pháp, khiến thường rơi vào 2 trường hợp lỗi lầm:

Lỗi thô: như sát sanh, trộm cướp, tà dâm… dẫn dắt chúng sanh vào 3 ác đạo.

Lỗi tế: như khởi tâm chấp có bố thí, có trì giới, có tu phước v.v… dẫn dắt chúng sanh vào 3 thiện đạo.

–oOo–

Lại nữa, nếu Bồ Tát khởi “nan tâm” (tâm nghĩ mình làm việc khó làm), khởi “khổ tâm” (tâm nghĩ mình thọ khổ) thì độ thoát chúng sanh còn chẳng được, huống nữa là vào được đạo Vô Thượng.

Bởi nhân duyên vậy, nên Bồ Tát phát đại tâm thương chúng sanh như cha mẹ thương con, như thương chính bản thân mình vậy. Bồ Tát khéo tu đại bi tâm, nên đói với hết thảy chúng sanh, dù thân, dù sơ, đều thương tưởng như nhau. Bồ Tát vì lợi ích chúng sanh, sẵn sàng bố thí tất cả các nội ngoại vật sở hữu của mình, bố thí như vậy mà chẳng khởi tâm chấp, vì biết rõ người thí, người thọ và vật thí đều là bất khả đắc cả.

Bởi nhân duyên vậy, nên ở nưoi hết thảy pháp, Bồ Tát đều vô sở đắc.

–oOo–

Lại nữa, từ sơ phát tâm, Bồ Tát thường quán “chúng sanh không”, nên biết rõ chúng sanh là vô ngã, lại cũng thường quán “pháp không” nên biết rõ các pháp đều là rốt ráo không. Do nhân duyên quán về chúng sanh không và pháp không mà Bồ Tát phát đại bi tâm, hành bố thí Ba La Mật, chẳng tiếc các vật nội ngoại sở hữu của mình, lại thường hành các thiện pháp đem lại lợi ích cho chúng sanh.

Bồ Tát làm các việc khó làm như vậy, mà chẳng hề khởi “nan tâm”, “khổ tâm”, vì biết rõ hết thảy pháp đều là không, là vô tướng, là vô lai, vô khứ. Thế nhưng dù biết rõ các pháp là bất khả tư nghì (chẳng thể nghĩ bàn được), bất khả thuyết (chẳng thể nói ra được) mà Bồ Tát vẫn thuyết ra các diệu pháp, nhằm phá trừ tâm điên đảo chấp trước của chúng sanh. Như vậy gọi là Bồ Tát vì chúng sanh mà chuyển pháp luân vậy.

KINH:

Ngài Xá Lợi Phất hỏi: Thưa ngài Tu Bồ Đề! Ngài nghĩ rằng nên dùng pháp sanh để được đắc đạo, hay dùng pháp vô sanh để được đắc đạo?

Ngài Tu Bồ Đề đáp: thưa ngài Xá Lợi Phất! tôi chẳng nghĩ rằng dùng pháp sanh mà được đắc dạo, cũng chẳng nghĩ rằng dùng pháp vô sanh mà được đắc đạo.

Ngài Xá Lợi Phất hỏi: theo như lời ngài nói thì là vô tri, vô đắc (chẳng biết, chẳng được) hay sao?

Ngài Tu Bồ Đề đáp: hữu tri, hữu đắc (có biết, có được) và vô tri, vô đắc chẳng phải là những pháp riêng khác.

Do tuỳ thuận thế gian mà nói có biết, có được, có Tu Đà Hoàn, có Tư Đà Hàm, có A Na Hàm, có A La Hán, có Bích Chi Phật, có Bồ Tát có Phật. Thế nhưng theo đệ nhất nghĩa thì chẳng có biết, chẳng có được, chẳng có Tu Đà hoàn… dẫn đến chẳng có Phật vậy.

Ngài Xá Lợi Phất nói: Nếu theo danh tự ngôn ngữ thế gian mà nói hữu tri (có biết) hữu đắc (có được), thì 6 đạo chúng sanh sai khác cũng chỉ là thế gian danh tự, chẳng phải là đệ nhất nghĩa đế.

Ngài Tu Bồ Đề đáp: đúng như vậy. Đây là y theo thế gian danh tự mà nói hữu tri, hữu đắc. 6 đạo chúng sanh sai khác cũng chỉ là thé gian danh tự, chẳng phải là đệ nhất nghĩa đế.

Vì sao? Vì trong đệ nhất nghĩa đế là vô nghiệp (chẳng có nghiệp), vô báo (chẳng có báo), là bất sanh (chẳng có sanh), bất diệt (chẳng có diệt), bất cấu (chẳng có dơ), bất tịnh (chẳng có sạch).

Ngài Xá Lợi Phất hỏi: như vậy thì “pháp vô sanh” sanh hay “pháp sanh” sanh?

Ngài Tu Bồ Đề đáp: tôi chẳng nghĩ rằng “vô sanh pháp” sanh, lại cũng chẳng nghĩ rằng “sanh pháp”sanh.

Ngài Xá Lợi Phất hỏi: Vì sao ngài chẳng nghĩ rằng “vô sanh pháp” sanh?

Ngài Tu Bồ Đề đáp: Sắc là “vô sanh pháp”. Là tự tánh không, chẳng thể tự sanh. Thọ, tưởng, hành, thức đều là “vô sanh pháp”, đều là tự tánh không, chẳng thể tự sanh. Dẫn đến Vô Thượng Bồ Đề cũng là như vậy.

Ngài Xá Lợi Phất hỏi: Như vậy thì “sanh” sanh hay “bất sanh” sanh?

Ngài Tu Bồ Đề đáp: chẳng phải “sanh” sanh cũng chẳng phải “bất sanh” sanh. Vì sao? Vì “sanh” và “bất sanh” là hai pháp chẳng hợp, chẳng tan, chẳng có sắc (vô sắc), chẳng có hình (vô hình), chẳng có đối (vô đối), chỉ là một tướng (nhất tướng), là chẳng có tướng (vô tướng).

Bởi vậy nên nói chẳng phải “sanh” sanh, chẳng phải “bất sanh” sanh.

Ngài Xá Lợi Phất hỏi: như vậy vì sao ngài lại thường thuyết về “vô sanh pháp” và “vô sanh tướng”?

Ngài Tu Bồ Đề đáp: Tôi thích nói về “vô sanh pháp”, cũng thích nói về “vô sanh tướng”. Vì sao? Vì hết thảy các pháp đều là “vô sanh pháp”, hết thảy các pháp tướng đều là “vô sanh tướng”.

Lại nữa, vì danh tự, ngôn ngữ, cugnf hết thảy các pháp đều là chẳng hợp, chẳng tan, chẳng có sắc, chẳng có hình, chẳng có đối, đều chỉ là nhất tướng, là vô tướng vậy.

Ngài Xá Lợi Phất hỏi: Ngài thường nói về “vô sanh pháp”, thường nói về “vô sanh tướng”. Như vậy thì sự thích nói của ngài, các danh tự và ngôn ngữ mà ngài nói ra cũng là vô sanh cả hay sao?

Ngài Tu Bồ Đề đáp: Đúng như vậy. Sắc vô sanh… dẫn đến thức vô sanh, nhãn vô sanh… dẫn đến ý vô sanh, địa chủng vô sanh… dẫn đến thức chủng vô sanh, thân hành, khẩu hành, ý hành vô sanh, Đàn Ba La Mật vô sanh… dẫn đến Bát Nhã Ba La Mật vô sanh, 4 niệm xứ vô sanh… dẫn đến nhất thiết chủng trí cũng vô sanh.

Thưa ngài Xá Lợi Phất! bởi nhân duyên vậy, nên tôi thường nói về “vô sanh pháp”, thường nói về “vô sanh tướng”. Sự thích nói của tôi, các danh tự, ngữ ngôn mà tôi dùng để nói ra cũng đều là vô sanh cả.

LUẬN:

Theo lời kinh trên đây thì ngài Xá Lợi Phất biết rõ ngài Tu Bồ Đề thường hay nói về “pháp không”, nên mới nêu lên câu hỏi: Nếu hết thảy pháp là vô sanh tướng thì làm sao mà chứng dụng được, làm sao có sanh pháp được?

Nếu dùng “vô sanh pháp mà sanh pháp thì “sanh pháp” ấy cũng chỉ là hư vọng. Cho nên chẳng có thể dùng “sanh pháp” để chứng dụng “vô sanh pháp” được. Vì sao? Vì đã là “vô sanh pháp thì chẳng có pháp tướng.

Hơn nữa, theo ngài Tu Bồ Đề thì nói “sanh” sanh hay nói “vô sanh” sanh thì cũng đều có lỗi cả.

Ngài Xá Lợi Phất nghĩ rằng: Phật thường dạy “hữu vi pháp” và “vô vi pháp” nhiếp hết thảy các pháp. Lại nữa, sanh pháp là hữu vi pháp, vô sanh pháp là vô vi pháp, nay ngài Tu Bồ Đề nói phải ly cả  hai pháp đó. Như vạy làm sao mà được đạo?

Nghĩ vậy rồi, ngài Xá Lợi Phất hỏi ngài Tu Bồ Đề: Như vậy chẳng có người được đạo hay sao?

Ngài Tu Bồ Đề là bậc đại A La hán, thường hành “vô tránh tam muội”, đã thường thuyết “vô sanh pháp” cho hàng Bồ Tát nghe, chẳng thể nào ngài lại bị rơi vào tà kiến được. Khi nghe ngài Xá Lợi Phất nêu lên câu hỏi, ngài minh định rằng: chẳng phải hữu tri (có biết), hữu đắc (có được), mà cũng chẳng phải vô tri (chẳng biết) vô đắc (chẳng được). Vì sao? Vì hữu tri hữu đắc và vô tri vô đắc chẳng phải là những pháp riêng khác. Do tuỳ thuận thế gian mà nói có biết, có được, có Tu Đà Hoàn, có Tư Đà  Hàm, có A Na Hàm, có A La Hán, có Bích Chi Phật, có Bồ Tát, có Phật. Thế nhưng theo đệ nhất nghĩa thì chẳng có biết, chẳng có được, chẳng có 4 quả Thanh Văn… dẫn đến chẳng có quả Phật. Vì sao? Vì hết thảy pháp tướng đều là hư vọng, đều chẳng phải là định pháp, đều chẳng phải thật có. Các quả Thánh, quả Phật đều là như vậy, huống nữa là 6 nghiệp đạo và 6 nghiệp đạo quả báo.

Hỏi: Ngài Tu Bồ Đề đã nhiều lần thuyết về vô sanh pháp rồi, nay vì sao ngài Xá Lợi Phất còn hỏi nữa?

Đáp: trước đây ngài muốn khai thị các nhân duyên để được đạo, nên đã nói về “vô sanh pháp”, nhằm phá các chấp về pháp tướng.

Thế nhưng vì “vô sanh pháp” quá thậm thâm, khó giải, khó phá, sợ người nghe rồi liền chấp “vô sanh pháp” ấy, khiến phải bị rơi vào đoạn diệt, nên ngài Xá Lợi Phất mới nêu lên câu hỏi. Sở dĩ ngài Xá Lợi Phất gạn hỏi ngài Tu Bồ Đề như trên đây vì ngài muốn tạo cơ hội để ngài Tu Bồ Đề nói rộng thêm, nhằm giúp chúng hội được liễu tri về “vô sanh pháp” và phá chấp về “vô sanh pháp” vậy.

Hỏi: ở thế gian có người hành đạo, và có người được đạo. Như vậy vì sao lại nói hết thảy các pháp đều vô sanh? Nếu hết thảy pháp đều là vô sanh, thì làm sao có được sanh dụng

Đáp: người đã được huệ nhãn, biết ró các pháp đều là vô sanh. Còn phàm phu vì chẳng có trí huệ nên thấy các pháp đều có sanh. Do vậy mà ngài Xá Lợi Phất mứoi nêu lên câu hỏi: Nếu là vô sanh pháp thì làm sao có được sanh dụng?

Ngài Tu Bồ Đề cho biết rõ rằng “sanh” và “vô sanh” đều là rốt ráo không. Nếu “sanh” mà sanh, thì “sanh pháp” đã sanh rồi, chẳng lẽ lại sanh nữa. Còn nếu “vô sanh: mà sanh, thì chưa có pháp, làm gì có sanh. Lại nữa, nếu nói khi sanh là có nửa sanh và nửa vô sanh, thì như vậy cũng là vô sanh. Vì sao? Vì nửa phần sanh đã là sanh rồi nên là vô sanh, còn nửa phần vô sanh là tự vô sanh rồi vậy.

Ngài Tu Bồ Đề biết rõ chúng sanh chẳng thể dùng nhục nhãn để thấy được “sanh” sanh hay “vô sanh: sanh cũng đều là chẳng thật có, nên ngài nói cả 2 pháp đều bất thọ (chẳng thọ).

Ngài Xá Lợi Phất lại hỏi: Vì sao nói cả 2 pháp đều bất thọ?

Ngài Tu Bồ Đề đáp: vì sắc… dẫn đến nhất thiết chủng trí đều rốt ráo là vô sanh, là vô tướng. Chỉ vì tuỳ thuận thé gian mà nói có sanh pháp, có sanh tướng vậy thôi. Thế nhưng sanh pháp ấy cũng là như huyễn, như hoá, vì ở nơi đệ nhất nghĩa thì hết thảy các pháp đều chẳng có hợp, chẳng có tan, chẳng có sắc, chẳng có hình, chẳng có đối, đều chỉ là một tướng (nhất tướng), đều chăng có tướng (vô tướng) cả.

–oOo–

Lại có thuyết nói “sanh” là thường, còn “sanh pháp” là vô thường. Bởi vậy nên ngài Tu Bồ Đề nó rõ rằng “sanh” và “sanh pháp” cũng chẳng khác nhau. Vì sao? Vì nếu nói có “sanh pháp” thì mặc nhiên công nhận có “sanh tướng”. Bởi vậy ngài trả lời ngài Xá Lợi Phất rằng” sanh” và “vô sanh” cũng đều bất thọ cả.

Ngài Xá Lợi Phất khi nghe ngài Tu Bồ Đề nói như vậy, cho rằng ngài Tu Bồ Đề thích thuyết về “vô sanh pháp”. Ngài Tu Bồ Đề liền tự nhận ngay. Ngài tự vấn tâm chẳng có gì lỗi lầm, vì những loài ngài nói ra chẳng phá luận nghị vậy. Ngài nói: “vô sanh pháp” chẳng có hợp, chẳng có tan, chẳng có sắc, chẳng có hình, chẳng có đối, “vô sanh pháp” là rốt ráo không, là nhất tướng, là vô tướng. Bởi vậy nên chẳng có gì để thọ. Đã chẳng thọ hết thày pháp thì “sự thích nói vô sanh pháp” của ngài cũng chẳng thọ vậy.

–oOo–

Ngài Xá Lợi Phất tán thán ngài Tu Bồ Đề: Ngài thật là người thích nói về vô sanh pháp, thích nói về vô sanh tướng, mà danh tự và ngôn ngữ của ngài nói ra, cùng sự thích nói của ngài cũng là vô sanh. Tâm ngài thật là rốt ráo thanh tịnh vậy.

Sau khi nhận lời tán thán của ngài Xá Lợi Phất, ngài Tu Bồ Đề đáp lại rằng: chẳng phải tôi thích thuyết về vô sanh pháp và vô sanh tướng, mà danh tự và ngôn ngữ tôi dùng để nói ra cùng sự thích thuyết vô sanh pháp của tôi cũng là vô sanh cả. Vì sao? Vì sắc là vô sanh… dẫn đến nhất thiết chủng trí cũng là vô sanh.

KINH:

Lúc bấy giờ ngài Xá Lợi Phất nói: thưa ngài Tu Bồ Đề! Trong hàng Thanh Văn thuyết pháp, ngài là người đáng tôn trọng hơn cả. Vì sao? Vì có ai hỏi điều gì ngài cũng đều giải đáp được Ngài Tu Bồ Đề đáp: Sở dĩ tôi giải đáp được các câu hỏi vì các pháp đều chẳng có chỗ sở y (vô sở y).

Ngài Xá Lợi Phất hỏi: vì sao nói các pháp đều là chẳng có sở y (vô sở y)?

Ngài Tu Bồ Đề đáp: sắc tánh… dẫn đến thức tánh thường không, chẳng y trong, chẳng y ngoài, chẳng y vào chặng giữa. Nhãn tánh, dẫn đến ý tánh thường không, chẳng y trong, chẳng y ngoài, chẳng y vào chặng giữa. Sắc tánh… dẫn đến pháp tánh thường không, chẳng y trong, chẳng y ngoài, chẳng y vào chặng giữa.

Đàn Ba La Mật tánh… dẫn đến Bát Nhã Ba La Mật tánh thường không, chẳng y trong, chẳng y ngoài, chẳng y vào chặng giữa. Nội không tánh… dẫn đến vô pháp hữu pháp không tánh thường không, chẳng y trong, chẳng y ngoài, chẳng y vào chặng giữa. 4 niệm xứ tánh… dẫn đến nhất thiết chủng trí thường không, chẳng y trong, chẳng y ngoài, chẳng y vào chặng giữa.

Bởi nhân duyên vậy, nên nói các pháp đều chẳng có sở y (vô sở y).

Thưa ngài Xá Lợi Phất! Bồ Tát khi thật hành 6 pháp Ba La Mật, phải tịnh sắc, thọ tưởng, hành , thức… dẫn đến phải tịnh nhất thiết chủng trí.

Ngài Xá Lợi Phất hỏi: Thế nào gọi là Bồ Tát thật hành 6 pháp Ba La Mật thanh tịnh Bồ Tát đạo?

Ngài Tu Bồ Đề đáp: Đàn Ba La Mật có thế gian và xuât thế gian… dẫn đến Bát Nhã Ba La Mật cũng có thế gian và xuất thế gian vậy.

Ngài Xá Lợi Phất hỏi: thế nào gọi là Ba La Mật thế gian và thế nào gọi là Ba La Mật xuất thế gian?

Ngài Tu Bồ Đề đáp: Thưa ngài Xá Lợi Phất! Nếu Bồ Tát hành bố thí,  thì phải bố thí rộng khắp, từ Sa Môn, Bà La Môn… dẫn đến hạng người cùng khổ: ai cần ăn thì cho họ ăn, ai cần uống thì cho họ uống, ai cần mặc thì cho họ mặc, ai cần chỗ ở, tiền bạc, châu báu, thuốc men v.v… thì cho họ chỗ ở, tiền bạc, châu báu, thuốc men v.v… Bồ Tát phải sẵn sàng cho họ tất cả các vật nội ngoại sở hữu của mình, mà chẳng mống tâm hối tiếc.

Khi hành bố thí, Bồ Tát phải tự nghĩ rằng: hành bố thí là để trừ xan tham, bỏn xẻn, nên ta phải xả thí tất cả, phải y theo lời phật dạy mà hành Đàn Ba La Mật.

Khi bố thí xong, Bồ Tát phải đem pháp bố thí thanh tịnh đó để cùng với hết thảy chúng sanh đồng hồi hướng về vô thượng Bồ Đề.

Bồ Tát lại phải tự nghĩ rằng: do nhân duyên bố thí này mà chúng sanh có thể có được sự an lạc ở Niết Bàn, hoặc ở đời này, hoặc ở đời sau.

Ngài Xá Lợi Phất hỏi: thế nào gọi là Đàn Ba La Mật thế gian?

Ngài Tu Bồ Đề đáp: nếu hành bố thí mà còn chấp ngã tướng, tha tướng và thí tướng, nghĩa là còn chấp có tướng ta hành thí, có tướng người thọ thí, và có tướng vật mà ta dùng để thí là chẳng phải tịnh thí. Do bố thí mà còn chấp 3 tướng ấy nên chỉ gọi là Đàn Ba La Mật thế gian.

Ngài Xá Lợi Phất hỏi: thế nào gọi là Đàn Ba La Mật xuất thế gian?

Ngài Tu Bồ Đề đáp: Nếu bố thí mà chẳng còn chấp chấp ngã tướng, tha tướng và thí tướng, nghĩa là chẳng còn chấp có tướng ta hành thí, có tướng người thọ thí, và có tướng vật mà ta dùng để thí, cũng chẳng hề nghĩ đến sự đền ơn đáp nghĩa, thì mới gọi là được 3 phần thanh tịnh Đàn Ba La Mật.

Lại nữa, khi hành Đàn Ba La Mật, Bồ Tát phải biết rõ hết thảy chúng sanh đều là bất khả đắc, phải đem pháp bố thí thanh tịnh đó, để cùng với hết thảy chúng sanh đồng hồi hướng về Vô Thượng Bồ Đề… dẫn đến phải chẳng còn thấy vi tế pháp tướng nữa.

Như vậy mới gọi là hành Đàn Ba La Mật xuất thế gian.

Thưa ngài Xá Lợi Phất! Bồ Tát nào hành đầy đủ 6 Ba La Mật xuất thế gian như vậy thì gọi là Bồ Tát thanh tịnh Bồ Tát đạo.

Ngài Xá Lợi Phất hỏi: thế nào gọi là Bồ Tát tu tập vì đạo Vô Thượng Bồ Đề?

Ngài Tu Bồ Đề đáp: Bồ Tát tu 4 niệm xứ.. dẫn đến tu 8 thánh đạo là vì đạo Vô Thượng Bồ Đề, tu 3 giải thoát môn là vì đạo Vô Thượng Bồ Đề, tu nội không… dẫn đến tu vô pháp hữu pháp không là vì đạo vô thượng Bồ Đề, tu các tam muội môn, các đà la ni môn, 10 lực, 4 vô sở uý, 4 vô ngại trí, 18 bất cộng pháp, đại từ, đại bi v.v… đều là vì đạo Vô Thượng Bồ Đề cả.

LUẬN:

Hỏi: Trong 500 vị A La Hán đã được đức Phật thọ ký, thì ngài Xá Lợi Phất là bậc trí huệ đệ nhất, ngài Mục Kiền Liên là bậc thần thông đệ nhất, Ngài Ma Ha Ca Diếp là bậc đầu đà đệ nhất, ngài Tu Bồ Đề là bậc vo tránh tam muội đệ nhất, ngài Ma Ha Ca Chiên Diên là bậc phân biệt kinh điển đệ nhất, ngài Phú Lâu Na là bậc thuyết pháp đệ nhất. Như vậy vì sao ngài Xá Lợi Phất lại tán thán ngài Tu Bồ Đề là người thuyết pháp “không” đệ nhất, đáng được xưng dương, tôn trọng hơn cả?

Đáp: Phật dùng Phật nhãn quán hết thảy chúng sanh, thấy có người lợi căn, có người độn căn, rồi y theo sự đắc pháp của từng người mà thọ ký. Chẳng bao giờ có sự lầm lạc.

Như ngài Phú Lâu Na, ở trong đại chúng, khéo dùng các nhân duyên, các thí dụ, các phương tiện thiện xảo khác để thuyết pháp, khiến người nghe được nhiều lợi lạc. Do vậy mà ngài được gọi là người thuyết pháp đệ nhất.

Còn ngài Tu Bồ Đề thường hành vô tránh tam muội, nên đã tương ưng với Bồ Tát đạo. Ngài còn dùng các phương tiện thiện xảo để thuyết về “vô tướng pháp”.

Ví như người thông thạo nhiều nghề, có thể làm tốt nhiều việc mà vẫn có nghề chẳng đạt đến mức tinh xảo so với các người thợ chuyên môn, giàu kinh nghiệm về một nghề vậy.

Cũng như vậy, do thường hành pháp “không”, thường thuyết về pháp “không”, nên khi vừa nghe ngài Xá Lợi Phất nêu lên các câu hỏi, ngài Tu Bồ Đề liền đáp ngay chẳng chút e ngại.

Bởi vậy nên ngài Xá Lợi Phất tán thán ngài Tu Bồ Đề là người  thuyết pháp “không” đệ nhất, đáng được xưng dương, đáng được tôn trọng.

–oOo–

Khi nghe bài Xá Lợi Phất tán thán, ngài Tu Bồ Đề chẳng có từ chối, cũng chẳng có thọ nhận. Vì sao? Vì ngài Tu Bồ Đề đã được tâm an định nên chẳng bị dấy động vậy.

Ví như bậc toàn thiện, chẳng có tự tán thán, chẳng có tự huỷ báng, lại cũng chẳng có tán thán người chưa xứng được tán thán, cũng chẳng huỷ báng người khác vậy. Bậc toàn thiện dù được tán thán vẫn chẳng sanh tâm tự mãn, chẳng bao giờ cho mình tốt hơn người.

Nên biết rằng tự tán thán là cao mạn, chẳng phải là cách xử sự của bậc đại nhân, tự huỷ báng là dối tría, tán thán người chưa đáng được tán thán là nịnh bợ, là chẳng có thành thật.

Ngài Xá Lợi Phất khi nghe ngài Tu Bồ Đề thuyết về “vô sanh pháp”, liến tín thành tán thán, chẳng phải vì ngài thiên vị ngài Tu Bồ Đề mà tán thán vậy.

Còn ngài Tu Bồ Đề nghe ngài Xá Lợi Phất tán thán mà chẳng từ chối, chẳng thọ nhận. Vì sao? Vì ngài đã đoạn trừ tâm ái pháp nên chẳng sanh cao tâm, cũng chẳng sanh nhiễm trước lời tán thán, khiến các lời giải đáp của ngài đều được vô ngại, vô chướng.

Sở dĩ ngài được vô ngại, vô chướng như vậy vì ngài biết rõ hết thảy các pháp đều chẳng có chỗ sở y (vô sở y), vì vô sở y nên là vô ngại, vô chướng vậy.

Ngài nói: Sắc tánh là thường không, chẳng y trong, chẳng y ngoài, chẳng y vào chặng giữa. Vì sao? Vì trong, ngoài, chặng giữa đều là vô sơ hữu. Dẫn đến nhất thiết chủng trí cũng là như vậy.

Ngài lại nói: Bồ Tát biết rõ 3 cõi đều là vô thường, là không nên chẳng có y chỉ vào 3 cõi. Do vậy mà dứt sạch được các phiền não… dẫn đến thanh tịnh được Bồ Tát đạo. Bồ Tát do thật hành 6 pháp Ba La Mật, mà được tịnh sắc… dẫn đến được tịnh nhất thiết chủng trí.

Hỏi: ngài Xá Lợi Phất đã biết rằng tịnh sắc… dẫn đến tịnh nhất thiết chủng trí là tịnh Bồ Tát đạo. Vì sao ngài còn hỏi nữa?

Đáp: Bồ Tát biết rõ sắc là rốt ráo không, nên thường hành các tịnh hạnh, thâm nhập diệu pháp. Phàm phu dùng nhục nhãn, chẳng thể thấu rõ được.

Bởi vạy nên ngài Xá Lợi Phất đã vì các tân học Bồ Tát nêu lên câu hỏi: các tân học Bồ Tát phải dùng phương tiện gì để khai mở đường vào đạo Bồ Tát?

Ngài Tu Bồ Đề đáp: nếu Bồ Tát dụng vô sở đắc, hành 6 pháp Ba La Mật, thì đó là khai mở đạo Bồ Tát vậy.

Cũng nên biết rằng “tịnh Bồ Tát đạo” có nghĩa là “khai Bồ Tát đạo”, tức là khai mở đường vào Bồ Tát đạo. Ví như phá sạch hết các chướng ngại vật, dọn dẹp hết các gai góc để mở đường thì gọi là “khai đạo”.

–oOo–

Lại nữa, trước đây ngài Tu Bồ Đề đã phân biệt rõ Đàn Ba La Mật thế gian với Đàn Ba La Mật xuất thế gian rồi. Ngài cho biết:

• Nếu bố thí mà ly thật trí huệ thì tâm lực rất yếu. Do tâm lực yếu nên thường chấp có ta là người thí, có người thọ thí của ta, có vật mà ta đem ra bố thí. Do còn chấp như vậy nên tâm còn động, dễ sanh kiêu mạn. Bố thí như vậy chỉ là Đàn Ba La Mật thế gian.

• Nếu bố thí mà xả hết các tướng thì mới gọi là tịnh thí. Bố thí như vậy rồi, lại đen pháp tịnh thí đó để cùng với hết thảy cúng sanh đồnghooij hướng về Vô Thượng Bồ Đề, mới gọi là Đàn Ba La Mật xuất thế gian.

• Tu 5 pháp Ba La mật kia cũng là như vậy

Ngài lại cho biết:

• Người tu hành phải giữ tâm bất động mới vào được “nhu thuận nhẫn”, dẫn đến vào được “vô sanh pháp nhẫn”.

• Trong hàng Thanh Văn thì hàng hữu học tâm vẫn còn động, chỉ có hàng vô học mới có được tâm bất động.

–oOo–

Bởi nhân duyên vậy, nên ngài Xá Lợi Phất đã nêu lên các câu hỏi để ngài Tu Bồ Đề phân biệt đáp, nhằm cho chúng hội biết rõ về các phương tiện khai mở đạo Bồ Tát.

Hỏi: Đạo Bồ Tát cũng tức là đạo Vô Thượng Bồ Đề rồi. như vậy vì sao còn hỏi nữa?

Đáp: đúng như vậy, đạo Bồ Tát cũng tức là đạo Vô Thượng Bồ Đề. Khi thật hành 6 pháp Ba La Mật, Bồ Tát phải dụng vô sở đắc, mới là hành đạo Vô Thượng Bồ Đề.

–oOo–

Phật tuỳ theo căn trí của chúng sanh mà phương tiện dẫn dắt họ vào đạo:

• Đối với các bậc thượng căn, thì Phật dạy hành Bồ Tát đạo, đó là dụng vô sở đắc, hành 6 pháp Ba La Mật.

• Đối với hàng trung và hạ căn, thì Phật dạy hành Niết Bàn đạo. Đó là tu 37 phẩm trợ đạo. Vì sao? Vì tu 37 phẩm trợ đạo sẽ khai mở trí huệ và dẫn đường vào thiền định, khiến hàng trung căn và hạ căn dễ tu hơn.

Cũng nên biết rằng 6 pháp Ba La Mật dung nhiếp cả thế gian pháp và xuất thế gian pháp, nên rất khó tu. Còn 37 phẩm trợ đạo dẫn đến 3 giải thoát môn, đến đại từ, đại bi, nên dễ tu hơn.

Hơn nữa, suốt trong  quá trình tu tập 6 pháp Ba La Mật, từ sơ phát tâm đến khi vào Kim Cang tam muội, hành giả phải cần khổ, làm những việc khó làm, nên khó tu hơn rất nhiều.

KINH:

Lúc bấy giờ, ngài Xá Lợi Phất tán thán ngài Tu Bồ Đề: Lành thay, lành thay!  Đây là Bát Nhã Ba La Mật lực chăng?

Ngài Tu Bồ Đề đáp: Đúng như vậy, đúng như vậy. đây chính là Bát Nhã Ba La Mật lực. Vì sao? Vì Bát Nhã Ba La Mật lực hay sanh hết thảy các thiện pháp, từ Thanh Văn Pháp… dẫn đến Phật pháp, cũng dung nhiếp hết thảy các thiện pháp, từ Thanh Văn pháp… dẫn đến Phật pháp.

Thưa ngài Xá Lợi Phất! Chư Phật trong quá khứ đã hành Bát Nhã Ba La Mật, mà được Vô Thượng Bồ Đề, chư Phật ở vị lai sẽ hành Bát Nhã Ba La Mật, để được Vô Thượng Bồ Đề, chư phật ở hiện tại cũng hành Bát Nhã Ba La Mật, mà được Vô Thượng Bồ Đề.

Thưa ngài Xá Lợi Phất! nếu có Bồ Tát nào nghe Bát Nhã Ba La Mật, mà chẳng khở tâm nghi, chẳng cho là khó, thì phải biét đó là Bồ Tát Ma Ha Tát đã dụng vô sở đắc tu tập Bát Nhã Ba La Mật, hành Bồ Tát đạo. Bồ Tát này đã phát đại nguyện cứu độ hết thảy chúng sanh trọn chẳng ly đại bi niệm, trọn chẳng rời bỏ chúng sanh.

Ngài Xá Lợi Phất hỏi: theo chỗ tôi nghĩ thì Bồ Tát trọn chẳng ly đại bi niệm, vì muốn cứu độ hết thảy chúng sanh. Vì sao? Vì biết rõ hết thảy chúng sanh cũng sẽ thành Bồ Tát, nên Bồ Tát trọn chẳng ly đại bi niệm hết thảy chúng sanh.

Ngài Tu Bồ Đề nói: Lành thay, lành thay! Thưa ngài Xá Lợi Phất! Ngài đã chất vấn tôi mà nay chính ngài lại nêu lên đúng nghĩa mà tôi muốn nói vậy.

Vì sao? Chúng sanh là không nên niệm cũng là không. Chúng sanh tánh là không, nên niệm tánh cũng là không. Chúng sanh pháp là không, nên niệm pháp cũng là không. lại nữa, chúng sanh là ly, là không, là bất khả tri (chẳng thể biết được), nên niệm cũng là ly, là không, là bất khả tri. Thưa ngài Xá Lợi Phất! sác, sắc tánh, sắc pháp… dẫn đến thức, thức tánh, thức pháp là không, nên niệm, niệm tánh, niệm pháp cũng là không. Lại nữa, sắc… dẫn đến pháp là ly, là không, là bất khả tri. Nhãn… dẫn đến ý, sắc… dẫn đến pháp, địa chủng… dẫn đến thức chủng, Đàn Ba La Mật… dẫn đến Bát Nhã Ba La Mật, nội không… dẫn đến 18 bất cộng pháp, hết thảy các tam muội, hết thảy các đà la ni, nhất thiết trí, nhất thiết chủng trí… dẫn đến Vô Thượng Bồ Đề cũng đều là ly, là không, là bất khả tri, nên niệm cũng là như vậy.

Bởi nhân duyên vậy, nên Bồ Tát Ma Ha Tát dụng vô sở đắc, hành Bồ Tát đạo, trọn chẳng ly đại bi niệm chúng sanh.

Lúc bấy giờ, Phật tán thán thán ngài  Tu Bồ Đề: lành thay, lành thay! Này Tu Bồ Đề! Ai muốn nói về Bồ Tát Ma Ha Tát hành Bát Nhã Ba La Mật, thì nên nói đúng như lời ông vậy. Ông đã nói về Bát Nhã Ba La Mật đung theo Phật tâm. Bởi vậy, Bồ Tát học Bát Nhã Ba La Mật phải theo đúng như lời ông mà học.

Khi ngài Tu Bồ Đề vừa nói xong ý nghĩa của Bát Nhã Ba La Mật, thì cả 3000 đại thiên thế giới đều chấn động.

Lúc bấy giờ, đức thế tôn mỉm cười.

Ngài Tu Bồ Đề bạch Phật: Bạch Thế Tôn! Vì nhân duyên gì mà Thế Tôn mỉm cười?

Phật dạy: này Tu Bồ Đề! Như ta đang nói Bát Nhã Ba La Mật ở thế giới này, thì ở vô lượng thế giới khác, trong khắp cả 10 phương, chư vị Phật khác cũng đang nói Bát Nhã Ba La Mật vậy.

Lúc Phật thuyết phẩm Bát Nhã Ba La Mật này xong, có 12 na do tha trong hàng Trời, Người được Vô Sanh Pháp Nhẫn.

Cùng lúc, chư Phật ở khắp trong 10 phương cũng nói Bát Nhã Ba La Mật, khiến vô lượng vô số chúng sanh phát tâm Vô Thượng Bồ Đề.

Bởi nhân duyên vậy, nên Phật mỉm cười.

LUẬN:

Theo lời kinh trên đây, thì ngài Xá Lợi Phất tự nghĩ rằng: Ngài Tu Bồ Đề đã phân biệt rõ ràng Ba La Mật thế gian và Ba La Mật xuất thế gian, lại nói rõ các nhân duyên để được đạo Vô Thượng Bồ Đề. Đây là những pháp đại lợi ích cho chúng sanh, nên ngài Xá Lợi Phất sanh tâm hoan hỷ, tán thán thán ngài Tu Bồ Đề.

Ngài Xá Lợi Phất hỏi ngài Tu Bồ Đề: nhờ lực gì mà phân biệt được các pháp một cách rành rẽ như vậy?

Ngài Tu Bồ Đề chẳng chút ngần ngại đáp rằng: Đây là do được Bát Nhã Ba La Mật soi sáng. Do lực của Bát Nhã Ba La Mật mới có thể phân biệt các pháp rành rẽ được như vậy. Nếu ly Bát Nhã Ba La Mật, thì thành tựu các thiện pháp, thành tựu các Ba La Mật  khác còn chẳng được huống nữa là phân biệt, giải đáp về ý nghĩa của Bát Nhã Ba La Mật.

Tự niệm như vậy nên ngài đã trả lời ngài Xá Lợi Phất rằng: đây là nhờ lực Bát Nhã Ba La Mật.

–oOo–

Trước đây, ngài Tu Bồ Đề đã nói rằng Bát Nhã Ba La Mật lực ở nơi các pháp là chẳng có ngã (vô ngã), chẳng biết (vô tri), chẳng thấy (vô kiến), chẳng có ai biết (vô tri giả), chẳng có ai thấy (vô kiến giả). Nay ngài nói thêm răgnf Bát Nhã Ba La Mật là ly “hữu – vô”, ly “đoạn – thường”. Bát Nhã Ba La Mật hay sanh các thiện pháp, dung nhiếp các thiện pháp, nên chẳng thể phá hoại được. Bát Nhã Ba La Mật là vô lượng vô biên, dung nhiếp hết thảy pháp, ví như biển lớn dung chứa được các nguồn nước từ nhiều sông chảy đến vậy.

–oOo–

Lại nữa, ba đời, 10 phương chư Phật đều hành Bát Nhã Ba La Mật mà được Vô Thượng Bồ Đề.

Trong 6 pháp Ba La Mật, thì Bát Nhã Ba La Mật là tối tôn, tối trọng hơn cả. Bát Nhã Ba La Mật có lực phân biệt được hết thảy các pháp. Bát Nhã Ba La Mật có lực dung hợp được các Ba La Mật khác. Bát Nhã Ba La Mật có lực phá được các tà kiến, các phiền não, cùng các hý luận.

Bát Nhã Ba La Mật được tán thán là vi diệu, thậm thâm. Chư Bồ Tát dù trải qua vô lượng kiếp tu hành, đã được vô lượng phước đức, đá dứt trừ các phiền não, đã vào được bất thối chuyển, nhưng khi vừa nghe được Bát Nhã Ba La Mật là liền tín thọ, dẫn đến liền thâm nhập và thông đạt các pháp tướng.

Bởi nhân duyên vậy, nên chư Bồ Tát tu tập Bát Nhã Ba La Mật, hành Bồ Tát đạo chì nhằm cứu độ chúng sanh, khiến họ ly được các khổ ở thế gian. Bồ Tát chẳng ly đại bi niệm, vì biết rõ hết thảy các pháp tướng đều là rốt ráo không, nên niệm cũng rốt ráo không. Do vậy mà Bồ Tát phá trừ được các tham ưu thế gian, dẫn dắt chúng sanh vào đạo, dạy cho họ hành các thiện pháp, khiến họ được lợi ích.

–oOo–

Sau đó ngài Xá Lợi Phất lại nêu thêm nhiều câu hỏi để chất vấn ngài Tu Bồ Đề, với nội dung như: nếu nói Bồ Tát chẳng ly đại bi niệm, vì biết rõ niệm và chúng sanh đều rốt ráo không, thì niệm rốt ráo không là vô niệm, vô tướng chăng? Chẳng lẽ Bồ Tát là có, mà chúng sanh là không hay sao? Nếu chúng sanh là có thì vì sao lại nói Bồ Tát là không?

Do các câu hỏi cảu ngài Xá Lợi Phất, mà ngài Tu Bồ Đề giải rộng thêm về Bát Nhã Ba La Mật.

Ngài nói: Vì các pháp tướng đều rốt ráo không, nên chúng sanh cũng rốt ráo không. Vì chúng sanh là vô sở hữu, nên niệm cũng là vô sở hữu. vì chúng sanh là không, là ly, là bất khả tri, nên niệm cũng là không, là ly, là bất khả tri vậy.

Sắc… dẫn đến Vô Thượng Bồ Đề cũng đều là như vậy.

Hỏi: ở đoạn kinh trên đây có nói rằng Bồ Tát chẳng ly đại bi niệm chúng sanh. Như vậy là có niệm, sao lại nói là vô niệm?

Đáp: Bồ Tát chẳng ly đại bi niệm chúng sanh, nghĩa là Bồ Tát trọn chẳng rời bỏ chúng sanh. Thế nhưng, Bồ Tát đại bi niệm chúng sanh với tâm vô sở đắc, mà cũng chẳng chấp thủ tướng tâm vô sở đắc đó, nên được “vô sở đắc không”.

Ở đây cũng nên biết rằng “bất khả đắc không” và “rốt ráo không” chăng có khác nghĩa nhau, chỉ khá nhau về danh tự. “Bất khả đắc không” thường được nêu lên ở giai đoạn đầu, còn “rốt ráo không” thường được nêu nên ở giai đoạn cuối.

Khi Bồ Tát đã liễu đạt được “rốt ráo không” rồi, là thành tựu được “đại tâm”. Từ “đại tâm” dẫn sanh “đại bi tâm”, “đại bi niệm”. Trong kinh có nói đến 3 thứ duyên của “đại bi tâm”. Đó là:

• Duyên chúng sanh.
• Duyên pháp.
• Vô duyên.

“Vô duyên đại bi” mới thật rốt ráo là “đại bi”. Vì sao? Vì “vô duyên đại bi” là từ nơi “rốt ráo không” mà sanh vậy. Đây chính là chỗ mà ngài Xá Lợi Phất muốn ngài Tu Bồ Đề cho biết. Do vậy, ngài Tu Bồ Đề đã nương theo tâm Phật để giải đáp vấn đề này.

Phật ấn chứng lời giải của ngài Tu Bồ Đề, và tán thán thán rằng: Lành thay, lành thay! Này Tu Bồ Đề! Ai muốn nói về Bồ Tát Ma Ha Tát hành Bát Nhã Ba La Mật thì nên nói đúng như lời ông vậy. Ông đã nói về Bát Nhã Ba La Mật đúng theo tâm Phật.

–oOo–

Lúc bấy giờ, ở trong chúng hội, các hàng Trời, Người đều nghĩ rằng: Bát Nhã Ba La Mật là pháp thậm thâm vi diệu. Chư Phật trong cả 3 đời đều từ nơi Bát Nhã Ba La Mật sanh ra cả. Đến như ngài Bồ Tát Di Lặc và hết thảy các Bồ Tát khác, hết thảy các vị Phạm Thiên Vương, nếu chẳng có nương theo Phật lực, thì đặt các nạn vấn về Bát Nhã Ba La Mật còn chẳng được, huống nữa là lạc thuyết về Bát Nhã Ba La Mật. Ngài Tu Bồ Đề chỉ là Thanh Văn, mà ở trước Phật và đại chúng dã lạc thuyết về Bát Nhã Ba La Mật như vậy, thật là rất xứng đáng được Phật tán thán. Ngài Tu Bồ Đề đã thuyết Bát Nhã Ba La Mật đúng theo tâm Phật. Bồ Tát tu tập Bát Nhã Ba La Mật phải theo đúng chỗ ngài Tu Bồ Đề thuyết mà tu tập vậy.

–oOo–

Khi thuyết xong về ý nghĩa của Bát Nhã Ba La Mật, thì cả 3000 đai thiên thế giới đều chấn động, có vô lượng chúng sanh trong khắp 10 phương phát Vô Thượng Bồ Đề tâm, lại có 12 na do tha trong hàng Trời, Người được Vô Sanh Pháp Nhẫn.

Sau đây là những nguyên nhân khiến 3000 đại thiên thế giới dấy lên 6 điệu chấn động:

• Bát Nhã Ba La Mật là pháp thậm thâm vi diệu, khó giải, khó biết. nen Phật dùng Phật lực làm cho đại địa chấn động, khiến chúng sanh phát khởi tín tâm thanh tịnh nơi Bát Nhã Ba La Mật, dẫn đến tinh tấn tu hành Bát Nhã Ba La Mật. Chư Phật, chư Thiên, chư đại Chủng Địa Thần… ở trong khắp 10 phương đều hoan hỷ chưa từng có, khiến đại địa chấn động.

• Có vô lượng chúng sanh, do đã nhiều kiếp tu tập nên phát tâm tín thọ Bát Nhã Ba La Mật, cho là pháp hy hữu chưng từng có. Do phát tâm như vậy mà chiêu cảm đến phong đại, phong đại chiêu cảm đến thuỷ đại, thuỷ đại chấn động nên địa đại cũng chấn động theo.

• Ở tận dưới biển sâu, Long Vương phát tâm muốn nghe Bát Nhã Ba La Mật từ dưới nước phóng lên làm cho thuỷ động, thuỷ động tác duyên làm cho địa động.

• Lại nữa, khi nghe xong Bát Nhã Ba La Mật, có vô lượng chúng sanh trong khắp 10 phương phát Vô Thượng Bồ Đề tâm, có 12 na do tha trong hàng trời, người được Vô Sanh Pháp Nhẫn, vào Bồ Tát vị. Do tín lực mạnh mẽ nhe vậy chiêu cảm mà đại địa chấn động.

–oOo–

Lúc bấy giờ, chư Thiên đem hoa trời, hương trời, kỹ nhạc trời, bảo cái đến cúng dường Phật, lại có các Long vương từ 4 biển sâu, có các Dạ Xoa, La Sát,… phát khởi tín tâm, chấp tay tán thán Phật.

–oOo–

Do đại sự nhân duyên Phật thuyết kinh Bát Nhã Ba La Mật, thuyết về thật tướng các pháp mà có các hiện tượng chấn động hy hữu của đại địa hiện ra, nên Phật mỉm cười, phóng vô lượng quang minh chiếu khắp cả 10 phương thế giới.

(Hết quyển 53)