LUẬN
ĐẠI TRÍ ĐỘ

Nguyên tác: Bồ tát Long Thọ
Hán dịch: Pháp sư Cưu Ma La Thập
Việt dịch: Tỳ kheo ni THÍCH NỮ DIỆU KHÔNG

 

TẬP III
QUYỂN 51

Phẩm thứ hai mươi hai
Thắng Xuất
(Vượt Lên Trên Hết Thảy)

KINH:

Ngài Huệ Mạng Tu Bồ Đề bạch Phật : Bạch Thế Tôn ! Ma Ha Diễn và người hành Ma Ha Diễn thắng xuất (vượt lên trên) hết thảy thế gian, Trời, Người và A Tu La.

Bạch Thế Tôn ! Ma Ha Diễn ví như hư không, dung thọ vô lượng, vô biên chúng sanh, chẳng thấy chỗ đi, chẳng thấy chỗ đến, chẳng thấy chỗ trú. Vì sao ? Vì quá khứ là bất khả đắc, hiện tại là bất khả đắc, vị lai cũng là bất khả đắc; cả ba đời bình đẳng, đều là bất khả đắc cả.

Bởi nhân duyên vậy, nên gọi là Ma Ha Diễn.

Phật dạy : Này Tu Bồ Đề ! Đúng như vậy, đúng như vậy, Bồ Tát Ma Ha Tát hành đầy đủ sáu pháp Ba La Mật, từ Đàn Ba La Mật, … dẫn đến Bát Nhã Ba La Mật, mới gọi là Bồ Tát Ma Ha Tát hành Ma Ha Diễn.

Lại nữa, Bồ Tát Ma Ha Tát hành Ma Ha Diễn có đầy đủ hết thảy các Đà La Ni môn, hết thảy các Tam Muội môn, từ Thủ Lăng Nghiêm tam muội, … dẫn đến Ly Trước Như Hư Không Bất nhiễm tam muội, … dẫn đến Ly Trước Như Hư Không Bất Nhiễm tam muội.

Lại nữa, Bồ Tát Ma Ha Tát hành Ma Ha Diễn có đầy đủ mười tám không, từ nội không, … dẫn đến vô pháp hữu pháp không; có đầy đủ ba mươi bảy pháp trợ đạo, từ bốn niệm xứ, … dẫn đến tám thánh đạo; có đầy đủ mười  lực, … dẫn đến mười tám bất cộng pháp.

Này Tu Bồ Đề ! Đúng như lời ông nói, Ma Ha Diễn thắng xuất hết thảy thế gian, Trời, Người và A Tu La.

Này Tu Bồ Đề ! Nếu cõi Dục là thật có, là thường hằng, là bất hoại, chẳng phải là hư vọng, chẳng phải là điên đảo, chẳng phải là vô pháp (pháp chẳng có), thì Ma Ha Diễn chẳng có thể thắng xuất hết thảy thế gian, Trời, Người và A Tu La được.

Bởi cõi Dục là hư vọng, là ức tưởng, là hoà hợp, là danh tự, là vô thường, là tán hoại, là vô pháp, nên Ma Ha Diễn thắng xuất hết thảy thế gian, Trời, Người và A Tu La.

Này Tu Bồ Đề ! Nếu cõi Sắc và cõi Vô Sắc là thật có, là thường hằng, là bất hoại, chẳng phải là hư vọng, chẳng phải là điên đảo, chẳng phải là vô pháp, thì Ma Ha Diễn chẳng có thể xuất hết thảy thế gian, Trời, Người và A Tu La được.

Bởi cõi Sắc và cõi Vô Sắc là hư vọng, là ức tưởng, là hoà hợp, là danh tự, là vô thường, là tán hoại, là vô pháp, nên Ma Ha Diễn thắng xuất hết thảy thế gian, Trời, Người và A Tu La.

Này Tu Bồ Đề ! Nếu sắc … dẫn đến thức, sắc … dẫn đến pháp, nhãn …dẫn đến ý, nhãn thức … dẫn đến ý thức, nhãn xúc… dẫn đến ý xúc, nhãn xúc nhân duyên sanh thọ … dẫn đến ý xúc nhân duyên sanh thọ là thật có, là thường hằng, là bất hoại, chẳng phải là hư vọng, chẳng phải là điên đảo, chẳng phải là vô pháp, thì Ma Ha Diễn chẳng có thể thắng xuất hết thảy thế gian, Trời, Người và A Tu La được.

Bởi sắc … dẫn đến thức, sắc … dẫn đến pháp, nhãn dẫn đến ý, nhãn thức … dẫn đến ý thức, nhãn xúc dẫn đến ý xúc, nhãn xúc nhân duyên sanh thọ … dẫn đến ý xúc nhân duyên sanh thọ là hư vọng, là ức tưởng, là hoà hợp, là danh tự, là vô thường, là tán hoại, là vô pháp, nên Ma Ha Diễn thắng xuất hết thảy thế gian, Trời, Người và A Tu La.

Này Tu Bồ Đề ! Nếu như pháp tánh thật tế, bất khả tư nghì tánh là hữu pháp (pháp có), chẳng phải là vô pháp (pháp chẳng có), thì Ma Ha Diễn chẳng có thể thắng xuất hết thảy thế gian, Trời, Người và A Tu La được.

Bởi như pháp tánh thật tế, bất khả tư nghì tánh là vô pháp (pháp chẳng có), là phi pháp (chẳng phải pháp) nên Ma Ha Diễn thắng xuất hết thảy thế gian, Trời, Người và A Tu La.

Này Tu Bồ Đề ! Nếu sáu pháp Ba La Mật, từ Đàn Ba La Mật … dẫn đến Bát Nhã Ba La Mật là hữu pháp, chẳng phải là vô pháp, thì Ma Ha Diễn chẳng có thể thắng xuất hết thảy thế gian, Trời, Người và A Tu La được.

Bởi sáu pháp Ba La Mật là vô pháp, là phi pháp, nên Ma Ha Diễn thắng xuất hết thảy thế gian, Trời, Người và A Tu La.

Này Tu Bồ Đề ! Nếu mười tám không, từ nội không … dẫn đến vô pháp, hữu pháp không là hữu pháp, chẳng phải là vô pháp, thì Ma Ha Diễn chẳng có thể thắng xuất hết thảy thế gian, Trời, Người và A Tu La được.

Bởi mười tám không là vô pháp, là phi pháp, nên Ma Ha Diễn thắng xuất hết thảy thế gian, Trời, Người và A Tu La.

Này Tu Bồ Đề ! Nếu bốn niệm xứ … dẫn đến mười tám bất cộng pháp là hữu pháp, chẳng phải là vô pháp, thì Ma Ha Diễn chẳng có thể thắng xuất hết thảy thế gian, Trời, Người và A Tu La được.

Bởi bốn niệm xứ … dẫn đến mười tám bất cộng pháp là vô pháp, là phi pháp, nên Ma Ha Diễn thắng xuất hết thảy thế gian, Trời, Người và A Tu La.

Này Tu Bồ Đề ! Nếu nhân pháp tánh, Tu Đà Hoàn pháp tánh, Tư Đà Hàm pháp tánh, A Na Hàm pháp tánh, A La Hán pháp tánh, Bích Chi Phật pháp tánh, Bồ Tát pháp tánh, Phật pháp tánh đều là hữu pháp chẳng phải là vô pháp, thì Ma Ha Diễn chẳng có thể thắng xuất hết thảy thế gian, Trời, Người và A Tu La được.

Bởi nhân tánh, Tu Đà Hoàn tánh … dẫn đến Phật tánh đều là vô pháp, là phi pháp, nên Ma Ha Diễn thắng xuất hết thảy thế gian, Trời, Người và A Tu La.

Này Tu Bồ Đề ! Nếu hết thảy thế gian, Trời, Người, A Tu La đều là hữu pháp, chẳng phải là vô pháp, thì Ma Ha Diễn chẳng có thể thắng xuất hết thảy thế gian, Trời, Người và A Tu La được.

Bởi hết thảy thế gian, Trời, Người và A Tu La đều là vô pháp, là phi pháp, nên Ma Ha Diễn thắng xuất hết thảy thế gian, Trời, Người và A Tu La.

Này Tu Bồ Đề ! Nếu trong khoảng thời gian từ khi Bồ Tát phát tâm đến khi toạ đạo tràng, mà tâm là hữu pháp, chẳng phải là vô pháp, thì Ma Ha Diễn chẳng có thể thắng xuất hết thảy thế gian, Trời, Người và A Tu La được.

Bởi trong khoảng thời gian từ khi Bồ Tát sơ phát tâm, đến khi toạ đạo tràng, tâm là vô pháp, là phi pháp, nên Ma Ha Diễn thắng xuất hết thảy thế gian, Trời, Người và A Tu La.

Này Tu Bồ Đề ! Nếu “như kim cang huệ” của Bồ Tát là hữu pháp, chẳng phải là vô pháp, thì Bồ Tát chẳng có thể biết được hết thảy các kiết sử và tập khí là vô pháp, là phi pháp, dẫn đến chẳng có thể được Nhất Thiết Chủng Trí, khiến Ma Ha Diễn chẳng có thể thắng xuất hết thảy thế gian, Trời, Người và A Tu La được.

Bởi “như kim cang huệ” của Bồ Tát là vô pháp, là phi pháp nên Bồ Tát biết rõ hết thảy các kiết sử và tập khí đều là vô pháp, là phi pháp, khiến Ma Ha Diễn thắng xuất hết thảy thế gian, Trời, Người và A Tu La.

Này Tu Bồ Đề ! Nếu ba mươi hai tướng tốt trang nghiêm thân Phật là hữu pháp, chẳng phải là vô pháp, thì oai đức của Phật chẳng có thể vang lừng, rộng khắp cả hằng sa thế giới được.

Bởi ba mươi hai tướng tốt trang nghiêm thân Phật là vô pháp, là phi pháp, nên oai đức của Phật vang lừng, rộng khắp cả hằng sa thế giới ở trong mười phương.

Này Tu Bồ Đề ! Nếu quang minh của Phật là hữu pháp, chẳng phải là vô pháp, thì quang minh của Phật chẳng có thể chiếu khắp cả hằng sa thế giới được.

Bởi quang minh của Phật là vô pháp, là phi pháp, nên chư Phật thường phóng quang minh đến vô lượng hằng sa thế giới.

Này Tu Bồ Đề ! Nếu âm thanh của Phật với sáu mươi âm điệu trang nghiêm là hữu pháp, thì âm thanh trang nghiêm của Phật chẳng có thể biến khắp cả mười phương thế giới được.

Bởi âm thanh của Phật, với sáu mươi âm điệu trang nghiêm là vô pháp, là phi pháp nên chư Phật dùng âm thanh trang nghiêm nói pháp, khiến chúng sanh ở khắp mười phương thế giới đều được nghe pháp.

Này Tu Bồ Đề ! Nếu pháp luân là hữu pháp, chẳng phải là vô pháp thì chư Phật chẳng có thể chuyển pháp luân được.

Bởi Pháp luân là vô pháp, là phi pháp nên chư Phật thường chuyển pháp luân, đưa chúng sanh vào Vô Dư Niết Bàn.

Các đức Phật quá khứ, hiện tại và vị lai đều làm như vậy cả.

LUẬN :

Ngài Tu Bồ Đề nêu lên 5 câu hỏi về Ma Ha Diễn, và đều đã được Phật giải đáp rất đầy đủ rõ ràng. Bởi vậy nên ngài rất vui mừng và tán thán rằng Ma Ha Diễn có đại lực phá hết thảy các chấp về pháp tướng, thắng xuất hết thảy thế gian, Trời, Người và A Tu La.

Ví như ở thế gian, những người bị giam cầm trong ngục tối, có thể vượt ra khỏi ngục tù bằng ba cách :

Hạng thứ nhất, nhờ nương theo đêm tối mà trốn thoát.

Hạng thứ hai nhờ lo lót tiền bạc mà thoát được khỏi ngục.

Hạng thứ ba nhờ có sức mạnh bên ngoài giúp đỡ, phá ngục mà được thoát khỏi ngục.

Cũng như vạy, ba thừa giáo tuy đều có thể giải thoát chúng sanh ra khỏi ngục tù ba cõi, ra khỏi sanh tử luân hồi, nhưng vẫn có chỗ sai khác nhau:

A La Hán chưa biết rõ tổng tướng và biệt tướng của các ma sự, chưa được đầy đủ các lực phương tiện để phá ngoại đạo, chưa sanh bi tâm nhằm lợi sanh, mà chỉ cầu Niết Bàn do vì nhàm chán sanh tử.

Bích Chi Phật tuy đã có bi tâm, có lực thần thông khiến phá được các ác ma, ngoại đạo, nhưng vẫn chưa bằng được Bồ Tát.

Bồ Tát từ sơ phát tâm, đã khởi hành đại bi tâm thương xót hết thảy chúng sanh, nên dù chưa thành Phật, cũng đã có vô lượng công đức, làm lợi lạc cho chúng sanh

Lại nữa, Bồ Tát đã quyết định biết rõ thật tướng các pháp, đã được đầy đủ sáu pháp Ba La Mật, nên có đại lực phá các ma vương và ngoại đạo, tận đoạn các kiết sử phiền não. Bồ Tát biết rõ tổng tướng và biệt tướng của hết thảy các pháp, nên được Nhất Thiết Chủng Trí, dẫn đến được quả Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác

–oOo–

Ngài Tu Bồ Đề tán thán Ma Ha Diễn có đại lực phá hết thảy các chấp về pháp tướng, nên thắng xuất hết thảy thế gian, Trời, Người và A Tu La.

Ví như hư không bao trùm cả vạn vật mà hư không vẫn bất tận. Cũng như vậy, Đại Thừa Ma Ha Diễn bao trùm hết thảy các pháp Phật trong cả ba đời mà vẫn như như, vẫn thường hằng, nên nói Ma Ha Diễn chẳng có tướng xuất, chẳng có tướng nhập, chẳng có tướng trú, chẳng có quá khứ, chẳng có hiện tại, chẳng có vị lai. Vì sao ? Vì cả ba đời đều nhiếp trọn trong Ma Ha Diễn cả vậy.

Bởi nhân duyên vậy, nên ngài Tu Bồ Đề được Phật tán thán.

Hỏi : Ngài Tu Bồ Đề đã tán thán Ma Ha Diễn rồi. Như vậy vì sao Phật còn tán thán thêm nữa ?

Đáp : Phật tán thán chỗ ngài Tu Bồ Đề đã tán thán. Vì sao ? Vì nghĩa lý của Ma Ha Diễn quá sâu xa, nên trước phải nói rõ về tướng của Ma Ha Diễn, rồi sau mới nói đến các pháp Ba La Mật, các đà la ni, các tam muội, mười tám không, bốn niệm xứ dẫn đến mười tám bất cộng pháp.

Đúng như lời ngài Tu Bồ Đề nói. Ma Ha Diễn đã thật sự phá hết thảy các chấp về pháp tướng, và thắng xuất hết thảy thế gian, Trời, Người và A Tu La.

Do nghiệp lực mới có năm ấm, mười hai nhập, mười tám giới … dẫn đến mới có xúc, có thọ. Nếu các pháp thế gian nầy đều là hữu pháp, đều chẳng phải là vô pháp, thì Ma Ha Diễn chẳng có thể thắng xuất thế gian được. Nhưng bởi các pháp thế gian đều là vô pháp, là phi pháp nên Ma Ha Diễn thắng xuất hết thảy thế gian, Trời, Người và A Tu La vậy.

Hỏi : Nói các pháp hữu vi do duyên hoà hợp sanh, đều là pháp chẳng có, là vô pháp, thì còn hợp lý. Còn “như pháp tánh thật tế”, “bất khả tư nghi tánh” là những pháp vô vị, sao cũng nói là tự tánh không, là vô pháp, là phi pháp ?

Đáp : “Vô vi” là tánh không, nên là pháp chẳng có, là chẳng phải pháp, tức là vô pháp, là phi pháp vậy.

Phật dạy : Nếu ly pháp hữu vi thì chẳng có được pháp vô vi. Pháp vô vi là bất khả đắc. Vì sao ? Vì thật tướng của “hữu vi” là “vô vi”. Người nào quán được pháp hữu vi là hư vọng, là chẳng thật có thì có thể biết rõ “pháp tánh thật tế” là như như.

Ví phàm phu ở nơi “pháp tánh như như” mà khởi chấp tướng, thủ tướng nên phải nói “vô pháp tánh” vậy. Thế nhưng dù nói có pháp tánh hay nói chẳng có pháp tánh, thì đó cũng chỉ là các phương tiện nhân duyên để phá trừ các chấp về pháp tướng cả.

Như pháp tánh thật tế, bất khả tư nghì tánh cũng là như vậy.

Ví như Đàn Ba La Mật là pháp vô vi, nhưng đối với người sơ học thì phải nói có pháp Đàn Ba La Mật, nhằm phá xan tham, còn đối với các bậc Thánh thì nói Đàn Ba La Mật là không. Bởi vậy nên nói có Đàn Ba La Mật thế gian và Đàn Ba La Mật xuất thế gian. Vì sao ? Vì nếu chúng sanh là thật có, là hữu pháp, chẳng phải là vô pháp thì chẳng thể độ họ vào Vô Dư Niết Bàn được.

Hỏi : Kể từ ba mươi hai tướng tốt của Phật trở về sau, vì sao chẳng nói Ma Ha Diễn thắng xuất hết thảy thế gian nữa ?

Đáp : ba mươi hai tướng tốt của Phật dẫn đến chuyển pháp luận cũng chỉ là danh tự. Trước đây nói Ma Ha Diễn thắng xuất hết thảy thế gian là nói về tổng tướng, còn từ ba mươi hai tướng tốt của Phật trở về sao đều nhiếp về biệt tướng, nhằm so sánh các pháp xuất thế gian này với các pháp thế gian ngoại đạo. Phật có ba mươi hai tướng tốt, có quang minh chiếu diện, có âm thanh trang nghiêm, có chuyển pháp luân lợi ích cho hết thảy chúng sanh. Đây là những pháp vô thượng mà thế gian ngoại đạo chẳng sao có thể sánh kịp được.

Sở dĩ trong đoạn kinh trên đây, Phật nhắc đi nhắc lại nhiều lần rằng Ma Ha Diễn thắng xuất hết thảy thế gian, vì Phật muốn phá tâm điên đảo của chúng sanh vọng chấp có ngã, có pháp.

Hỏi : Ở trong khắp mười phương có đến sáu đạo chúng sanh. Vì sao chỉ nói thắng xuất Trời, Người và A Tu La mà thôi ?

Đáp : Trong sáu đạo chúng sanh thì Ma Ha Diễn đều thắng xuất tất cả.

Hỏi : Trong kinh Long Vương có nêu trường hợp loài rồng cũng được đạo Bồ Tát. Như vậy vì sao xếp loài rồng vào trong ác đạo ?

Đáp : Trong vô lượng vô biên loài chúng sanh thì loài rồng được đạo rất ít.

Nên biết rằng có kinh nói : Do muốn hoá độ Long Vương mà có đại Bồ Tát làm thân rồng, sống chung với loài rồng vậy.

***

Phẩm thứ hai mươi ba
Đẳng Không
(Bằng Với Hư Không)

KINH :

Phật bảo ngài Tu Bồ Đề : Này Tu Bồ Đề ! Ông nói Ma Ha Diễn và hư không đồng đẳng chăng ?

Đúng như lời ông nói, Ma Ha Diễn đồng đẳng với hư không.

Vì sao ? Này Tu Bồ Đề ! Ông nên biết :

Hư không chẳng có mười phương ( phương Đông, phương Tây, phương Nam, phương Bắc, bốn phương chéo, phương Trên và phương Dưới). Ma Ha Diễn cũng như vậy.

Hư không chẳng phải dài, chẳng phải ngắn, chẳng phải tròn, chẳng phải vuông … Ma Ha Diễn cũng như vậy.

Hư không chẳng xanh, chẳng đỏ, chẳng đen … Ma Ha Diễn cũng như vậy.

Hư không chẳng phải quá khứ, chẳng phải hiện tại, chẳng phải vị lai. Ma Ha Diễn cũng như vậy.

Hư không chẳng có tăng, chẳng có giảm. Ma Ha Diễn cũng như vậy

Hư không chẳng có cấu, chẳng có tịnh. Ma Ha Diễn cũng như vậy.

Hư không chẳng sanh, chẳng trú, chẳng diệt. Ma Ha Diễn cũng như vậy.

Hư không chẳng thiện, chẳng bất thiện, chẳng vô ký, chẳng phải chẳng thiện, chẳng phải chẳng bất thiện, chẳng phải chẳng vô ký. Ma Ha Diễn cũng như vậy.

Hư không chẳng thấy, chẳng nghe, chẳng biết. Ma Ha Diễn cũng như vậy.

Hư không chẳng có tướng nhiễm, chẳng có tướng ly. Ma Ha Diễn cũng như vậy.

Hư không chẳng có lệ thuộc vào ba cõi. Ma Ha Diễn cũng như vậy.

Hư không chẳng có sơ phát tâm … dẫn đến chẳng có Phật tâm. Ma Ha Diễn cũng như vậy.

Hư không chẳng có địa tánh. Ma Ha Diễn cũng như vậy.

Hư không chẳng có Thanh Văn quả, Bích Chi Phật quả, … dẫn đến chẳng có Phật quả. Ma Ha Diễn cũng như vậy.

Hư không chẳng có Thanh Văn địa, Bích Chi Phật địa, … dẫn đến chẳng có Phật địa. Ma Ha Diễn cũng như vậy.

Bởi nhân duyên vậy, nên nói Ma Ha Diễn đồng đẳng với hư không.

Này Tu Bồ Đề ! Lại nữa :

Hư không chẳng phải sắc, chẳng phải vô sắc, chẳng phải thấy được (khả kiến), chẳng phải chẳng thấy được (bất khả kiến), chẳng phải có đối (hữu đối), chẳng phải chẳng có đối (vô đối), chẳng phải hợp, chẳng phải tan. Ma Ha Diễn cũng như vậy.

Hư không chẳng phải thường, chẳng phải vô thường, chẳng phải khổ, chẳng phải lạc, chẳng phải ngã, chẳng phải vô ngã. Ma Ha Diễn cũng như vậy.

Hư không chẳng phải không, chẳng phải chẳng không, chẳng phải vô tướng, chẳng phải chẳng vô tướng, chẳng phải vô tác, chẳng phải chẳng vô tác. Ma Ha Diễn cũng như vậy.

Hư không chẳng phải tịch diệt, chẳng phải chẳng tịch diệt, chẳng phải ly, chẳng phải chẳng ly. Ma Ha Diễn cũng như vậy.

Hư không chẳng phải có thể được (khả đắc), chẳng phải chẳng có thế được (bất khả đắc). Ma Ha Diễn cũng như vậy.

Hư không chẳng phải có thể nói ra (khả thuyết), chẳng phải chẳng có thể nói ra được (bất khả thuyết). Ma Ha Diễn cũng như vậy.

Bởi nhân duyên vậy, nên nói Ma Ha Diễn đồng đẳng với hư không.

LUẬN :

Ngài Tu Bồ Đề tán thán Ma Ha Diễn cùng hư không bình đẳng.

Phật nói rộng thêm cho sáng nghĩa. Ví như nói : Hư không chẳng có mười phương; Ma Ha Diễn cũng chẳng có mười phương …

Hỏi : Nói hư không như vậy là đúng, vì hư không là pháp vô vị, nên chẳng có sắc, thanh, hương, vị … Còn như tu theo Đại Thừa Ma Ha Diễn, thì hành giả có các hành pháp hữu vi, có hành các sắc pháp, như hành bố thí, hành các Ba La Mật khác … Như vậy, làm sao có thể nói Ma Ha Diễn cùng hư không bình đẳng được ?

Đáp : Phải nên xem xét sáu pháp Ba La Mật về cả hai mặt : thế gian và xuất thế gian.

Ba La Mật thế gian là pháp hữu vi, có nhiếp sắc pháp, nên chẳng có đồng với hư không. Còn Ba La Mật xuất thế gian là như pháp tánh thật tế, do trí tuệ hoà hợp mà có, nên tợ như hư không; cứ y theo đó mà tu, thì sẽ được vô sanh pháp nhẫn. Khi vào được vô sanh pháp nhẫn rồi, thì chẳng còn phân biệt nữa, nên là như hư không vậy.

Lại nữa, Phật dùng vô ngại trí, quán thật tướng pháp như hư không. Người chưa được trí huệ thanh tịnh chẳng có thể làm như vậy được. Trước sau, Phật đều nói rốt ráo không. Ví như nói Vô Dư Niết Bàn tướng đồng như hư không, thì chẳng ai có thể nghi ngờ gì được nữa.

Hỏi : Nói Ma Ha Diễn là vô sở hữu, nên là như hư không, là đủ rồi. Vì sao còn dẫn chứng thêm nhiều thí dụ khác làm gì nữa ?

Đáp : Vì các Bồ Tát sơ phát tâm vẫn còn chấp tâm, còn chấp các nội ngoại nhân duyên sanh pháp, nên chưa thấy rõ Ma Ha Diễn là vô sở hữu, là như hư không. Bởi vậy, nên Phật phải nêu thêm nhiều thí dụ cho thấy rõ Ma Ha Diễn cùng hư không bình đẳng, nhằm tận trừ các chấp về pháp tướng.

KINH :

Này Tu Bồ Đề ! Đúng như lời ông nói, hư không dung thọ vô lượng, vô biên chúng sanh; Ma Ha Diễn cũng như vậy, dung thọ vô lượng, vô biên chúng sanh.

Đúng như vậy. Chúng sanh là vô sở hữu, nên hư không cũng vô sở hữu; hư không vô sở hữu nên Ma Ha Diễn cũng vô sở hữu. Bởi vậy, nên nói Ma Ha Diễn dung thọ vô lượng, vô biên chúng sanh. Vì sao ? Vì chúng sanh, hư không, Ma Ha Diễn, cùng hết thảy các pháp đều là vô sở hữu, là bất khả đắc cả.

Lại nữa, ngã vô sở hữu, … dẫn đến tri giả, kiến giả cũng đều là vô sở hữu. Bởi vậy, nên như pháp tánh thật tế cũng là vô sở hữu … dẫn đến vô lượng, vô biên pháp cũng đều là vô sở hữu cả. Vì sao ? Vì hết thảy các pháp đều do duyên hoà hợp mà có.

Này Tu Bồ Đề ! Ma Ha Diễn dung thọ vô lượng, vô biên chúng sanh. Vì sao ? Vì chúng sanh bất khả đắc, dẫn đến tri giả, kiến giả, … thật tế, cùng vô lượng, vô biên pháp đều bất khả đắc.

Lại nữa, ngã vô sở hữu, dẫn đến tri giả, kiến giả vô sở hữu. Bất khả tư nghì tánh cũng vô sở hữu, nên hư không vô sở hữu, Ma Ha Diễn vô sở hữu, dẫn đến vô lượng, vô biên pháp cũng đều vô sở hữu.

Này Tu Bồ Đề ! Ma Ha Diễn dung thọ vô lượng, vô biên chúng sanh. Vì sao ? Vì ngã và chúng sanh bất khả đắc, dẫn đến vô lượng, vô biên pháp cũng đều bất khả đắc.

Lại nữa, ngã và chúng sanh vô sở hữu, nên nhãn dẫn đến ý vô sở hữu. Nhãn dẫn đến ý vô sở hữu, nên hư không vô sở hữu, Ma Ha Diễn vô sở hữu, dẫn đến vô lượng, vô biên pháp cũng đều vô sở hữu.

Này Tu Bồ Đề ! Ma Ha Diễn dung thọ vô lượng, vô biên chúng sanh. Vì sao ? Vì ngã và chúng sanh bất khả đắc, dẫn đến vô lượng, vô biên pháp cũng đều bất khả đắc.

Lại nữa, ngã và chúng sanh vô sở hữu, dẫn đến tri giả, kiến giả vô sở hữu, nên nội không vô sở hữu, dẫn đến vô pháp không vô sở hữu. Vô pháp hữu pháp không vô sở hữu, nên hư không vô sở hữu, Ma Ha Diễn vô sở hữu, dẫn đến vô lượng, vô biên pháp cũng đều vô sở hữu.

Này Tu Bồ Đề ! Ma Ha Diễn dung thọ vô lượng, vô biên chúng sanh. Vì sao ? Vì ngã và chúng sanh bất khả đắc, dẫn đến vô lượng, vô biên pháp cũng đều bất khả đắc.

Lại nữa, ngã và chúng sanh vô sở hữu, dẫn đến tri giả, kiến giả vô sở hữu, nên niệm bốn xứ vô sở hữu dẫn đến mười tám bất cọng pháp vô sở hữu. Bốn niệm xứ dẫn đến mười tám bất cọng pháp vô sở hữu, nên hư không vô sở hữu, Ma Ha Diễn vô sở hữu, dẫn đến vô lượng, vô biên pháp cũng đều vô sở hữu.

Này Tu Bồ Đề ! Ma Ha Diễn dung thọ vô lượng, vô biên chúng sanh. Vì sao ? Vì ngã và chúng sanh bất khả đắc, dẫn đến vô lượng, vô biên pháp cũng đều bất khả đắc.

Lại nữa, ngã và chúng sanh vô sở hữu, dẫn đến tri giả, kiến giả vô sở hữu, nên “tánh địa” vô sở hữu, dẫn đến “dĩ tác địa” vô sở hữu. “Tánh địa” dẫn đến “dĩ tác địa” vô sở hữu, nên hư không vô sở hữu, Ma Ha Diễn vô sở hữu, dẫn đến vô lượng, vô biên pháp cũng đều vô sở hữu.

Này Tu Bồ Đề ! Ma Ha Diễn dung thọ vô lượng, vô biên chúng sanh. Vì sao ? Vì ngã và chúng sanh bất khả đắc, dẫn đến vô lượng, vô biên pháp cũng đều bất khả đắc.

Lại nữa, ngã và chúng sanh vô sở hữu, dẫn đến tri giả, kiến giả vô sở hữu, nên bốn quả Thanh Văn vô sở hữu. Bốn quả Thanh Văn vô sở hữu, nên hư không vô sở hữu, Ma Ha Diễn vô sở hữu, dẫn đến vô lượng, vô biên pháp cũng đều vô sở hữu.

Này Tu Bồ Đề ! Ma Ha Diễn dung thọ vô lượng, vô biên chúng sanh. Vì sao ? Vì ngã và chúng sanh bất khả đắc, dẫn đến vô lượng, vô biên pháp cũng đều bất khả đắc.

Lại nữa, ngã và chúng sanh vô sở hữu, dẫn đến tri giả, kiến giả vô sở hữu, nên Thanh Văn thừa, Bích Chi Phật thừa, Bồ Tát thừa, Phật thừa vô sở hữu. Thanh Văn thừa, Bích Chi Phật thừa, Bồ Tát thừa, Phật thừa vô sở hữu nên Nhất Thiết Chủng Trí vô sở hữu, hư không vô sở hữu, Ma Ha Diễn vô sở hữu, dẫn đến vô lượng, vô biên pháp cũng đều vô sở hữu.

Này Tu Bồ Đề ! Ma Ha Diễn dung thọ vô lượng, vô biên chúng sanh. Vì sao ? Vì ngã và chúng sanh bất khả đắc, dẫn đến vô lượng, vô biên pháp cũng đều bất khả đắc.

Lại nữa, vì như “Niết Bàn tánh” dung thọ vô lượng, vô biên chúng sanh, thì Ma Ha Diễn cũng dung thọ vô lượng, vô biên chúng sanh, vì như hư không dung thọ vô lượng, vô biên chúng sanh, thì Ma Ha Diễn cũng dung thọ vô lượng vô biên chúng sanh vậy.

LUẬN :

Hỏi : Vì sao chẳng nói hư không quảng đại, mà lại nói hư không vô sở hữu, dung thọ vạn vật và cùng với Ma Ha Diễn bình đẳng ?

Đáp : Vì ai cũng đều biết hư không là vô sở hữu, và dung thọ vạn vật.

Hỏi : Tâm và tâm sở cũng vô sắc, vô hình. Vì sao chẳng nói các tâm và tâm sở dung thọ vạn vật ?

Đáp : Tướng của các tâm và tâm sở là hay biết, chẳng phải là tướng dung thọ.

Lại nữa, tâm và tâm sở chẳng có trú xứ, chẳng có trong, có ngoài, có gần, có xa, ….

Do phàm phu chấp “sắc pháp” có tướng, nên mới phân biệt “sắc pháp” với “tâm pháp”. Rồi từ đó, khởi sanh ý niệm về trú xứ vậy. Lại do chấp “sắc xứ” mà khởi chấp có hư không.

Nên biết tánh của hư không là dung thọ. Trái với hư không là sắc, cũng như trái với vô minh là minh vậy. Chỗ nào chẳng có vô minh, thì minh hiện ra; chỗ nào chẳng có khổ là có lạc. Cũng như vậy, chỗ nào chẳng có sắc, là có hư không.

Tâm và tâm sở chẳng có nghĩa dung thọ, như tà kiến chẳng dung thọ chánh kiến vậy. Còn tánh của hư không là dung thọ hết thảy các vật.

Tâm và tâm sở có sanh, có diệt khiến người tu hành có thể tu đoạn được các chấp đó. Còn hư không chẳng phải như vậy, vì hư không là trường tồn, là chẳng có đoạn diệt.

Bởi vậy nên, mặc dù tâm và tâm sở cũng là vô sắc vô hình như hư không, nhưng vẫn khác với hư không. Tâm và tâm sở chẳng dung thọ vạn vật, còn hư không thì dung thọ tất cả.

Hỏi : Vì sao chẳng nói hư không là vô lượng vô biên, dung thọ vạn vật, mà lại nói hư không là vô sở hữu, dung thọ vạn vật ?

Đáp : Hư không chẳng có tự tướng. chỉ do đối đãi với “sắc tướng” mà nói có “hư không tướng” vậy thôi. Đã chẳng có tự tướng thì “hư không tướng” cũng chẳng thật có. Bởi vậy nên chẳng có thể nói hư không là vô lượng vô biên được.

Hỏi : Trước đây nói rằng hư không có tướng dung thọ vạn vật. Vì sao nay lại nói “hư không tướng” là chẳng thật có ?

Đáp : “Dung thọ tướng” là “vô sắc tướng”. Vì sao ? Vì chỗ nào chẳng có “sắc tướng” thì “hư không tướng” liền hiện ra vậy.

Như vậy nếu chưa có “sắc” mà đã có “hư không” rồi thì hư không là chẳng có tướng, là vô tướng vậy. Vì sao ? Vì do đối đãi với “sắc” mà nói có “hư không”. Như vậy hư không cũng là tác pháp, chẳng phải là chân pháp, nên nói hư không là vô tướng, là bất khả đắc.

Hỏi : Trước nói “hư không tướng” là vô tướng, rồi sau đó lại nói chỗ nào chẳng có “sắc tướng” thì “hư không tướng” liền hiện ra. Như vậy là có “hư không tướng”, sao lại nói “hư không tướng” chẳng thật có.

Đáp : Hư không là chẳng có tướng, tức là vô tướng. Hư không chẳng có chỗ trú, tức là vô sở trú. Cho nên dù nói hư không có tướng thì tướng ấy cũng chẳng phải tướng (vô sở tướng), chẳng phải trú (vô sở trú) rồi vậy.

Lại nữa, nếu nói rằng tướng của hư không là “vô sở trú” thì “vô sở trú tướng” ấy cũng là không. Vì sao ? Vì “ly tướng” tức là “ly trú xứ tướng”, tức là vô tướng, là “vô sở trú tướng” vậy.

Bởi vậy nên nói hư không chẳng có tướng, tức là vô tướng, hư không chẳng chẳng phải hữu pháp, tức là phi pháp, là vô pháp vậy.

Phải đoạn hết ngôn ngữ, phải dứt sạch các tâm hành xử mới thấy rõ “hư không tướng” là “Niết Bàn tướng”, là vô tướng vậy. Hết thảy các pháp tướng cũng đều là như vậy cả.

Hỏi : Nếu nói như vậy thì hết thảy các pháp cũng là hư không rồi. Sao còn lấy hư không làm dụ để làm gì nữa ?

Đáp : Các pháp đều do duyên hoà hợp mà có, nên đều là hư dối. Chúng sanh do vô minh che tâm, mà khởi chấp có các pháp, chấp có sáu căn, sáu trần, sáu thức… Do điên đảo chấp như vậy mà tâm trí của chúng sanh bị mê mờ, nên Phật lấy hư không làm dụ để phá các chấp vi tế về có pháp (hữu pháp).

Do đối đãi với sắc mà nói có hư không, nhưng hư không cũng chỉ là giả danh, chẳng thật có. Cũng như vậy, do năm ấm hoà hợp mà giả danh có chúng sanh, nhưng chúng sanh là chẳng thật có. Chúng sanh cũng như hư không đều chẳng thật có, chẳng phải là định pháp. Ma Ha Diễn cũng là như vậy.

Nếu chẳng có chúng sanh thì cũng chẳng có Bồ Tát, chẳng có Phật, dẫn đến chẳng có Ma Ha Diễn.

Bởi nhân duyên vậy, nên nói Ma Ha Diễn dung thọ vô lượng vô biên chúng sanh. Vì sao ? Vì nếu Ma Ha Diễn là hữu pháp thì chẳng thể dung thọ vô lượng vô biên chúng sanh được. Do vì Ma Ha Diễn là vô pháp, là phi pháp nên mới dung thọ vô lượng vô biên chúng sanh.

Hỏi : Nếu hư không là chẳng thật có, thì làm sao có thể lấy hư không làm dụ, làm sao có thể ví Ma Ha Diễn với hư không dung thọ vô lượng vô biên chúng sanh được ?

Đáp : Phật nói : Ma Ha Diễn là tánh không, vô lượng vô biên chúng sanh là tánh không, hết thảy các pháp cũng là tánh không. Bởi nhân duyên vậy, nên Ma Ha Diễn có thể dung thọ vô lượng vô biên chúng sanh. Vì sao ? Vì hư không, Ma Ha Diễn, dẫn đến hết thảy chúng sanh đều là bất khả đắc cả.

–oOo–

Có thuyết nói : Do mười phương hư không đều bất khả đắc, nên “vô số” cũng bất khả đắc, đồng đẳng với hư không. Chỉ do phân biệt mà nói có một số, có nhiều số, có một pháp Ba La Mật, dẫn đến có sáu pháp Ba La Mật, …

Lại có thuyết nói : Do lúc ban đầu chấp có số một, nên mới có vô số các số hoà hợp, dẫn đến vô số các pháp hoà hợp. Như vậy thì biết rằng “vô số” chỉ là danh tự, chẳng phải là định pháp. Vì sao ? Vì một pháp đã là không thì vô số pháp cũng là không.

Lại có thuyết nói : Mỗi “số”, mỗi “pháp” đều do phân biệt, do suy lường mà có. Các pháp đã là không thì vô số, vô lượng, vô biên đều chẳng thật có.

–oOo–

Nên biết : Nói lượng là nói về tổng tướng, nói biên là nói về biệt tướng. Vì sao ? Vì có trù lượng mới dẫn đến có biên tế.

Lại nữa, ngã và chúng sanh, dẫn đến tri giả, kiến giả đều là không, thật tế cũng là không, nên “vô số” cũng là không. Vô số đã là không thì vô lượng, vô biên, dẫn đến hết thảy pháp đều là không cả.

Bởi nhân duyên vậy, nên nói Ma Ha Diễn có thể dung thọ vô lượng, vô biên chúng sanh, vì hết thảy các pháp đều rốt ráo không cả.

–oOo–

Lại cũng nên biết Sự và Tướng chẳng rời nhau. Nếu chẳng có chúng sanh thì chẳng có pháp, và ngược lại, nếu chẳng có pháp thì cũng chẳng có chúng sanh.

Trước nói về tổng tướng là nói hết thảy pháp đều không, sau nói về biệt tướng là nói về pháp không, pháp như, pháp tánh, thật tế …

Như vậy là trước sau đều trình bày “diệu pháp”. Vì sao ? Vì nói các pháp là không, có nghĩa nói hết thảy các pháp, ở nơi bất khả tư nghì tánh đều là diệu pháp cả. Dẫn đến Vô Dư Niết Bàn tánh cũng là như vậy.

KINH :

Phật bảo tiếp : Này Tu Bồ Đề ! Ông nói Ma Ha Diễn chẳng thấy chỗ đến, chẳng thấy chỗ đi, chẳng thấy chỗ trú chăng ?

Đúng như lời ông nói, Ma Ha Diễn chẳng có đến (vô lai), chẳng có đi (vô khứ), chẳng có trú (vô trú).

Vì sao ? Sắc dẫn đến thức chẳng từ đâu đến, cũng chẳng đi về đâu nên là vô sở trú.

Sắc pháp dẫn đến thức pháp, sắc như dẫn đến thức như, sắc tánh dẫn đến thức tánh, sắc tướng dẫn đến thức tướng chẳng từ đâu đến cũng chẳng đi về đâu, nên đều là vô sở trú.

Cũng như năm ấm, tất cả mười hai nhập, mười tám giới, sáu đại chủng … đều như vậy cả.

Này Tu Bồ Đề ! Nhãn dẫn đến ý, nhãn pháp dẫn đến ý pháp, nhãn như dẫn đến ý như, nhãn tánh dẫn đến ý tánh, nhãn tướng dẫn đến ý tướng chẳng từ đâu đến, cũng chẳng đi về đâu, nên đều là vô sở trú.

Địa chủng…, dẫn đến thức chủng, địa chủng pháp dẫn đến thức chủng pháp, địa chủng như dẫn đến thức chủng như, địa chủng tánh dẫn đến thức chủng tánh, địa chủng tướng dẫn đến thức chủng tướng chẳng từ đâu đến, cũng chẳng đi về đâu, nên đều là vô sở trú.

Này Tu Bồ Đề ! Như, như pháp, như tánh, như tướng chẳng từ đâu đến, cũng chẳng đi về đâu, nên đều là vô sở trú.

Thật tế, thật tế pháp, thật tế như, thật tế tánh, thật tế tướng chẳng từ đâu đến, cũng chẳng đi về đâu, nên đều là vô sở trú.

Bất khả tư nghì, bất khả tư nghì pháp, bất khả tư nghì tánh, bất khả tư nghì tướng chẳng từ đâu đến, cũng chẳng đi về đâu, nên đều là vô sở trú.

Đàn Ba La Mật, … dẫn đến Bát Nhã Ba La Mật, Đàn Ba La Mật pháp dẫn đến Bát Nhã Ba La Mật pháp, Đàn Ba La Mật như dẫn đến Bát Nhã Ba La Mật như, Đàn Ba La Mật tánh dẫn đến Bát Nhã Ba La Mật tánh, đàn Ba La Mật tướng dẫn đến Bát Nhã Ba La Mật tướng chẳng từ đâu đến, cũng chẳng đi về đâu, nên đều là vô sở trú.

Bốn niệm xứ dẫn đến mười tám bất cộng pháp cũng đều là như vậy.

Này Tu Bồ Đề ! Bồ Tát, Bồ Tát pháp, Bồ Tát như, Bồ Tát tánh, Bồ Tát tướng chẳng từ đâu đến, cũng chẳng đi về đâu, nên đều là vô sở trú.

Phật, Phật pháp, Phật như, Phật tánh, Phật tướng chẳng từ đâu đến, cũng chẳng đi về đâu, nên đều là vô sở trú.

Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác pháp, Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác như, Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác tánh, Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác tướng chẳng từ đâu đến, cũng chẳng đi về đâu, nên đều là vô sở trú.

Này Tu Bồ Đề ! Hữu vi, hữu vi pháp, hữu vi như, hữu vi tánh, hữu vi tướng chẳng từ đâu đến, cũng chẳng đi về đâu, nên đều là vô sở trú.

Vô vi, vô vi pháp, vô vi như, vô vi tánh, vô vi tướng chẳng từ đâu đến, cũng chẳng đi về đâu, nên đều là vô sở trú.

Này Tu Bồ Đề ! Bởi nhân duyên vậy, nên nói Ma Ha Diễn chẳng có chỗ đến (vô lai), chẳng có chỗ đi (vô khứ), chẳng có chỗ trú (vô trú).

LUẬN :

Đoạn kinh trên đây tán than Ma Ha Diễn là chẳng có chỗ đến, chẳng có chỗ đi, chẳng có chỗ trú, và tán than thật tướng của các pháp là bất động.

Hỏi : Các pháp đều có chỗ đến, chỗ đi, chỗ trú. Như vậy vì sao lại nói pháp tướng là bất động ?

Đáp : Vì là chẳng có ngã (vô ngã), chẳng có chúng sanh (vô chúng sanh), nên ở nơi hết thảy pháp chẳng có người thấy, cũng chẳng có người biết.

Bởi vậy nên nói hết thảy pháp đều là chẳng đến (vô lai), chẳng đi (vô khứ). Vì đi đến (khứ lai) cũng là chẳng đi đến (vô khứ lai) vậy.

Lại nữa, ở cả ba đời thì tầm cầu tướng đi đến (khứ lai) là chẳng có thể được (bất khả đắc) vậy.

Hỏi : Thân có di động. Như vậy vì sao lại nói chẳng có khứ lai ?

Đáp : Chẳng phải như vậy. Các tướng khứ lai đều là bất khả đắc. Nếu ly “khứ thời”, thì “khứ tướng” là bất khả đắc. Vì sao ? Vì phải ở nơi “khứ thời” mới có “khư tướng”, và phải ly “khứ tướng” mới thấy được “khứ thời”. Vì sao ? Vì “khứ thời” và “khứ tướng” là hai pháp khác nhau. Ví như người đi chẳng phải là thời gian đi vậy.

Lại nữa, ly người đi thì chẳng có tướng đi, ngược lại ly tướng đi thì cũng chẳng có người đi. Vì sao ? Vì người đi và tướng đi đều là bất khả đắc cả.

Đối với các tướng lai, tướng trú cũng đều là như vậy cả.

–oOo–

Phật dạy : Các pháp hữu vi đều là pháp sanh diệt, đều chẳng có định tướng.

Bởi vậy nên nói các pháp là vô khứ, vô lai, vô trú, là bất động. Vì sao ? Vì sắc, sắc pháp, sắc như, sắc tánh, sắc tướng chẳng từ đâu đến, cũng chẳng đi về đâu, nên đều chẳng trú (vô sở trú).

–oOo–

Nếu mắt thấy sắc mà chẳng phân biệt được tốt xấu, thật hư, chẳng phân biệt được tự tướng hay tha tướng, thì chẳng có thể biết được sắc pháp là vô thường, là sanh diệt, là bất định.

Nếu biết rõ sắc pháp chỉ là danh tự, chỉ do duyên hoà hợp mà có, thì mới biết rõ sắc pháp chỉ là như bọt nước, là hư dối, là ly tán, là chẳng thật có.

Sắc hiện tại đã là như vậy, thì sắc quá khứ, sắc vị lai cũng là như vậy cả.

Lại nữa, chư Phật và chư đại Bồ Tát quán hết thảy các pháp đều là rốt ráo thanh tịnh, quán sắc, sắc pháp, sắc như, sắc tướng, sắc tánh đều do duyên hoà hợp mà có, chẳng phải như phàm phu điên đảo vọng thấy sắc vậy. Vì sao ? Vì chư Phật và chư đại Bồ Tát thấy được thật tánh của sắc.

Hỏi : Tánh của sắc rất sâu xa, mầu nhiệm. Như vậy làm sao chư Bồ Tát có thể thấy được ?

Đáp : Vì Bồ Tát có đầy đủ năm lực, nên biết được như vậy.

Ví như khi thấy khói là liền biết có lửa. Cũng như vậy, Bồ Tát biết rõ sắc là vô thường, là tán hoại, là thô tướng, là khổ tướng, nên cũng biết rõ tánh của sắc là “không”.

Bởi nhân duyên vậy, nên Bồ Tát biết rõ hết thảy các pháp đều chẳng đi (vô khứ), chẳng đến (vô lai), chẳng trú (vô trú).

KINH :

Phật lại bảo tiếp : Này Tu Bồ Đề ! Ông nói Ma Ha Diễn chẳng có trước, chẳng có sau, chẳng có chặng giữa chăng ? Ông nói cả ba đời đều là bất khả đắc, đều là bình đẳng, nên gọi là Ma Ha Diễn chăng ?

Đúng như lời ông nói, cả ba đời đều là bất khả đắc, đều là bình đẳng nên gọi là Ma Ha Diễn.

Vì sao ? Này Tu Bồ Đề ! Vì quá khứ là tánh không, hiện tại là tánh không, vị lai là tánh không. Cả ba đời đều là tánh không nên đều là bình đẳng. Dẫn đến Ma Ha Diễn cũng là tánh không, Bồ Tát cũng là tánh không, nên đều là bình đẳng.

Tánh không là chẳng phải một, chẳng phải khác, nên là bình đẳng. Lại nữa, “không” và “bất không” là chẳng có khác nhau và đều là bình đẳng cả.

Ma Ha Diễn và Bồ Tát là bình đẳng, là bất khả đắc. Nhiễm và bất nhiễm là bình đẳng, là bất khả đắc. Thiện và bất thiện là bình đẳng, là bất khả đắc. Thường và vô thường, lạc và khổ … cũng đều là bình đẳng, là bất khả đắc. Dẫn đến cõi Dục và cõi phi Dục, cõi Sắc và cõi phi Sắc, cõi Vô Sắc và cõi phi Vô Sắc cũng đều là bình đẳng, là bất khả đắc cả.

Vì sao ? Vì “Ma Ha Diễn tự pháp” là bất khả đắc.

Này Tu Bồ Đề ! Sắc quá khứ, sắc hiện tại, sắc vị lai, …, dẫn đến thức quá khứ, thức hiện tại, thức vị lai cũng đều là tánh không. Ở trong tánh không thì quá khứ, hiện tại và vị lai đều là bất khả đắc cả.

Này Tu Bồ Đề ! Đàn Ba La Mật quá khứ, Đàn Ba La Mật hiện tại, Đàn Ba La Mật vị lai, … dẫn đến Bát Nhã Ba La Mật quá khứ, Bát Nhã ba La Mật hiện tại, Bát Nhã Ba La Mật vị lai cũng đều là tánh không, đều là bình đẳng, đều là bất khả đắc cả.

Bốn niệm xứ, …, dẫn đến mười tám bất cộng pháp cũng đều là như vậy.

Này Tu Bồ Đề ! Phàm phu ở cả ba đời (quá khứ, hiện tại và vị lai) đều bất khả đắc. Vì sao ? Vì ba đời bình đẳng vậy.

Này Tu Bồ Đề ! Thanh Văn, Bích Chi Phật, Bồ Tát, Phật ở trong ba đời đều là bất khả đắc cả. Vì sao ? Vì chúng sanh bất khả đắc, vì ba đời bình đẳng nên Thanh Văn, Bích Chi Phật, Bồ Tát, Phật bất khả đắc vậy.

Này Tu Bồ Để ! Bồ Tát Ma Ha Tát an trú trong Bát Nhã Ba La Mật, biết rõ ba đời bình đẳng, thành tựu được Nhất Thiết Chủng Trí. Như vậy gọi là Bồ Tát Ma Ha Tát hành Ma Ha Diễn.

Bồ Tát an trú trong Ma Ha Diễn thắng xuất hết thảy thế gian, Trời, Người và A Tu La, nên thành tự được Nhất Thiết Chủng Trí.

Lúc bấy giờ, ngài Tu Bồ Đề bạch Phật : Bạch Thế Tôn ! Lành thay, lành thay ! Trong quá khứ Bồ Tát đã ở trong Ma Ha Diễn tu học, mà được Nhất Thiết Chủng Trí, trong vị lai Bồ Tát cũng sẽ ở trong Ma Ha Diễn tu học để được Nhất Thiết Chủng Trí, trong hiện tại chư Bồ Tát cũng đang ở trong Ma Ha Diễn tu học để được Nhất Thiết Chủng Trí.

Bạch Thế Tôn ! Bởi nhân duyên vậy, nên Ma Ha Diễn là diệu pháp của chư Bồ Tát.

Phật dạy : Này Tu Bồ Đề ! Đúng như vậy, đúng như vậy ! Chư Phật quá khứ, hiện tại và vị lai, đều ở trong Ma Ha Diễn tu học mà được Nhất Thiết Chủng Trí.

LUẬN :

Trên đây ngài Tu Bồ Đề tán than Ma Ha Diễn, ở trong quá khứ, hiện tại và vị lai đều bất khả đắc.

Phật giảng rộng cho ngài Tu Bồ Đề nghe rằng : ba đời đều bình đẳng, đều là tánh không, nên đều là bất khả đắc. Dẫn đến Bồ Tát cũng là tánh không, Ma Ha Diễn cũng là tánh không, nên đều bất khả đắc.

–oOo–

Phật dạy rằng : Tánh không chẳng phải một, chẳng phải khác, chẳng có hợp, chẳng có tan, nên ba đời là bình đẳng, là bất khả đắc. Khi đã biết rõ ba đời bình đẳng thì vào được “không tam muội”. Bồ Tát ở nơi rốt ráo không nên được tự tại, dùng các pháp tương đãi để rộng độ chúng sanh khắp ba cõi.

Nơi đây Phật mật ý nói rằng : Các pháp đều do duyên hoà hợp mà có, nên đều là tự tánh không.

Sắc quá khứ, sắc hiện tại, sắc vị lai đều là tự tánh không. Vì sao ? Vì trong không chẳng có ba đời. Bồ Tát quán năm ấm ở trong cả  ba đời đều là bất khả đắc, nên phát tâm bố thí mà biết rõ bố thí là bất khả đắc.

Hỏi : Vì sao  ba đời bình đẳng mà bố thí lại bất khả đắc ?

Đáp : Vì các pháp ở trong cả  ba đời đều bình đẳng, dù mỗi pháp đều có tướng riêng, nhưng các pháp tướng đều bình đẳng cả.

Bốn niệm xứ…, dẫn đến mười tám bất cộng pháp đều bất khả đắc. Thanh Văn, Bích Chi Phật, Bồ Tát, Phật cũng đều bất khả đắc.

Vì chúng sanh là tánh không, nên Bồ Tát an trú trong Bát Nhã Ba La Mật, học ba đời là bình đẳng, là tự tánh không, tu tập các thiện pháp, nên được đầy đủ Nhất Thiết Chủng Trí.

–oOo–

Phật dạy : Bồ Tát an trú trong Ma Ha Diễn, tu tập Bát Nhã Ba La Mật nên thắng xuất hết thảy thế gian, Trời, Người và A Tu La.

Lúc bấy giờ ngài Tu Bồ Đề tán than : Lành thay, lành thay ! Ma Ha Diễn là diệu pháp của chư Bồ Tát. Vì sao ? Vì trong quá khứ Bồ Tát đã ở trong Ma Ha Diễn tu học, mà được Nhất Thiết Chủng Trí, trong vị lai Bồ Tát cũng sẽ ở trong Ma Ha Diễn tu học để được Nhất Thiết Chủng Trí, trong hiện tại chư Bồ Tát cũng đang ở trong Ma Ha Diễn tu học để được Nhất Thiết Chủng Trí.

Phật tán than ngài Tu Bồ Đề :  Đúng như vậy, đúng như vậy ! Chư Phật quá khứ, hiện tại và vị lai, đều ở trong Ma Ha Diễn tu học mà được Nhất Thiết Chủng Trí.

(Hết quyển 51)