LUẬN
ĐẠI TRÍ ĐỘ

Nguyên tác: Bồ tát Long Thọ
Hán dịch: Pháp sư Cưu Ma La Thập
Việt dịch: Tỳ kheo ni THÍCH NỮ DIỆU KHÔNG

 

TẬP III
QUYỂN 50

Phẩm thứ hai mươi
(Tiếp theo)
Phát Thú Thập Địa
(Hướng Đến Mười Địa)
(Tiếp Theo)

KINH:

Ngài Tu Bồ Đề hỏi: Bạch Thế Tôn ! Thế nào gọi là Bồ Tát an trú thất địa, chẳng nên chấp hai mươi pháp, từ chẳng chấp ngã,…, dẫn đến chẳng chấp giới kiến ?

Phật dạy: Này Tu Bồ Đề ! Nên biết:

Nếu Bồ Tát biết rõ ngã rốt ráo là vô ngã thì gọi là Bồ Tát chẳng chấp ngã.

Nếu Bồ Tát biết rõ chúng sanh rốt ráo là bất khả đắc, thì gọi là Bồ Tát chẳng chấp chúng sanh.

Nếu Bồ Tát biết rõ thọ mạng dù dài, dù ngắn, rốt ráo là bất khả đắc, thì gọi là Bồ Tát chẳng chấp thọ giả.

Nếu Bồ Tát biết rõ chúng sanh số,…, dẫn đến tri giả, kiến giả đều rốt ráo là bất khả đắc, thì gọi là Bồ Tát chẳng chấp các pháp ấy.

Nếu Bồ Tát biết rõ các pháp rốt ráo là bất sanh, thì gọi là Bồ Tát chẳng chấp đoạn kiến.

Nếu Bồ Tát biết rõ các pháp rốt ráo là bất sanh nên là chẳng phải thường, thì gọi là Bồ Tát chẳng chấp thường kiến.

Nếu Bồ Tát biết rõ các phiền não rốt ráo là không, thì gọi là Bồ Tát chẳng chấp các tướng.

Nếu Bồ Tát biết rõ các kiến chấp đều rốt ráo là bất khả đắc, thì gọi là Bồ Tát chẳng chấp tác nhân kiến.

Nếu Bồ Tát biết rõ danh sắc là tánh không, thì gọi là Bồ Tát chẳng chấp danh sắc.

Nếu Bồ Tát biết rõ năm ấm là tánh không, thì gọi là Bồ Tát chẳng chấp năm ấm.

Nếu Bồ Tát biết rõ mười hai nhập là tánh không, thì gọi là Bồ Tát chẳng chấp mười hai nhập.

Nếu Bồ Tát biết rõ mười tám giới là tánh không, thì gọi là Bồ Tát chẳng chấp mười tám giới.

Nếu Bồ Tát biết rõ ba cõi là tánh không, thì gọi là Bồ Tát chẳng chấp ba cõi.

Nếu Bồ Tát trú xứ là tánh không, thì gọi là Bồ Tát chẳng chấp trú xứ.

Nếu Bồ Tát biết rõ sự mong cầu (tác nguyện) là tánh không, thì gọi là Bồ Tát chẳng chấp chỗ mong cầu.

Nếu Bồ Tát biết rõ chỗ y xứ là tánh không, thì gọi là Bồ Tát chẳng chấp chỗ y xứ.

Nếu Bồ Tát biết rằng mống tâm muốn thấy Phật là chẳng thể thấy Phật, thì gọi là Bồ Tát chẳng chấp y nơi Phật.

Nếu Bồ Tát biết rõ pháp chẳng thế thấy được, thì gọi là Bồ Tát chẳng chấp y nơi pháp.

Nếu Bồ Tát biết rõ tăng tướng là vô vi, chẳng thể nương tựa được, thì gọi là Bồ Tát chẳng chấp y nơi Tăng.

Nếu Bồ Tát biết rõ tội và vô tội đều là bất khả đắc, thì gọi là Bồ Tát chẳng chấp y nơi giới.

Như vậy gọi là Bồ Tát trú thất địa chẳng chấp hai mươi pháp.

Ngài Tu Bồ Đề hỏi: Bạch Thế Tôn ! Thế nào gọi là Bồ Tát an trú thất địa, phải đầy đủ hai mươi pháp, từ đầy đủ “không” …, dẫn đến chẳng nhiễm ái ?

Phật dạy: Này Tu Bồ Đề ! Nên biết:

Nếu Bồ Tát biết rõ tự tướng của hết thảy pháp là “không”, thì gọi là Bồ Tát đầy đủ “không”.

Nếu Bồ Tát chẳng niệm các pháp tướng thì gọi là Bồ Tát chứng Vô Tướng.

Nếu Bồ Tát biết rõ các pháp là chẳng có chủ tác thì gọi là Bồ Tát biết Vô Tác.

Nếu Bồ Tát đầy đủ mười thiện nghiệp đạo, thì gọi là Bồ Tát đầy đủ ba phần thanh tịnh.

Nếu Bồ Tát đầy đủ từ bi và trí huệ, thì gọi là Bồ Tát đầy đủ từ bi tâm đối với hết thảy chúng sanh.

Nếu Bồ Tát thanh tịnh đầy đủ Phật độ, thì gọi là Bồ Tát chẳng niệm tưởng về hết thảy chúng sanh.

Nếu Bồ Tát biết rõ các pháp đều là bất tăng, bất giảm thì gọi là Bồ Tát quán hết thảy pháp bình đẳng.

Nếu Bồ Tát biết rõ thật tướng các pháp là chẳng thể biết được (bất khả tri), thì gọi là Bồ Tát vào được thật tướng pháp.

Nếu Bồ Tát biết rõ các pháp đều là bất sanh, bất diệt, thì gọi là Bồ Tát được Vô Sanh Pháp Nhẫn.

Nếu Bồ Tát biết rõ danh sắc là bất sanh, thì gọi là Bồ Tát được Vô Sanh Trí.

Nếu Bồ Tát thường nhất tâm, chẳng hành hai tướng (nhị tướng), thì gọi là Bồ Tát tuyên thuyết pháp nhất tướng.

Nếu Bồ Tát dùng Vô Phân Biệt trí để quán các pháp, thì gọi là Bồ Tát phá phân biệt tướng.

Nếu Bồ Tát chuyển được vô lượng tưởng, thì gọi là Bồ Tát chuyển ức tưởng.

Nếu Bồ Tát ở nơi Nhị Thừa kiến mà chuyển thành Đại Thừa kiến, thì gọi là Bồ Tát chuyển kiến.

Nếu Bồ Tát đã đoạn dứt các phiền não, thì gọi là Bồ Tát chuyển phiền não.

Nếu Bồ Tát được Nhất Thiết Chủng Trí, thì gọi là Bồ Tát được Bình Đẳng Huệ.

Nếu Bồ Tát ở trong ba cõi mà vẫn giữ tâm bất động, thì gọi là Bồ Tát dùng huệ điều ý.

Nếu Bồ Tát đã điều phục được các căn, thì gọi là Bồ Tát được tâm tịch diệt.

Nếu Bồ Tát đã được Phật nhãn, thì gọi là Bồ Tát đã được Vô ngại trí.

Nếu Bồ Tát đã xả sạch sáu trần, thì gọi là Bồ Tát chẳng còn nhiễm ái trần cảnh.

Như vậy gọi là Bồ Tát an trú thất địa, đầy đủ hai mươi pháp.

Ngài Tu Bồ Đề hỏi: Bạch Thế Tôn ! Thế nào gọi là Bồ Tát an trú bát địa, phải đầy đủ năm pháp, từ thuận chúng sanh tâm … dẫn đến tự trang nghiêm pháp thân ?

Phật dạy: Này Tu Bồ Đề ! Nên biết:

Nếu Bồ Tát thường quán “nhất tâm”, biết rõ tâm và tâm sở của hết thảy chúng sanh, thì gọi là Bồ Tát tuỳ thuận chúng sanh tâm.

Nếu Bồ Tát dùng thần thông, đi từ Phật quốc này đến Phật quốc khác, mà chẳng khởi tưởng về Phật giới tướng, thì gọi là Bồ Tát du hý thần thông quán các Phật quốc.

Nếu Bồ Tát thấy vô lượng Phật quốc mà chẳng khởi tưởng về Phật giới tướng, thì gọi là Bồ Tát tự trú nơi các Phật quốc.

Nếu Bồ Tát hiện thân chuyển luân thánh vương, đi cùng khắp các Phật quốc, nhằm tự trang nghiêm Phật quốc của chính mình, thì gọi là Bồ Tát tự trang nghiêm Phật quốc của mình như các Phật quốc đã được thấy.

Nếu Bồ Tát an trú nơi pháp thân, thì gọi là Bồ Tát như thật quán pháp thân và tự trang nghiêm pháp thân.

Như vậy gọi là Bồ Tát trú bát địa phải đầy đủ năm pháp.

Ngài Tu Bồ Đề hỏi: Bạch Thế Tôn ! Thế nào gọi là Bồ Tát an trú bát địa, nên đầy đủ năm pháp, từ biết căn tánh cao thấp của chúng sanh… dẫn đến tuỳ theo căn tánh của chúng sanh mà thị hiện thọ thân ?

Phật dạy: Này Tu Bồ Đề ! Nên biết:

Nếu Bồ Tát trú trong mười Phật lực, thì gọi là Bồ Tát biết rõ căn tánh cao thấp của chúng sanh.

Nếu Bồ Tát đã thanh tịnh chúng sanh tâm, thì gọi là Bồ Tát thanh tịnh Phật độ.

Nếu Bồ Tát vào tam muội, thành tựu các việc mà chẳng sanh tâm chấp, vì biết rõ các pháp tướng đều là “không”, thì gọi là Bồ Tát nhập “Như Huyễn tam muội”.

Nếu Bồ Tát được quả báo sanh tam muội, thì gọi là Bồ Tát thường nhập vào các tam muội.

Nếu Bồ Tát thệ nguyện thành tựu chúng sanh, nguyện sống cùng với chúng sanh để giáo hoá họ, thì gọi là Bồ Tát tuỳ căn tánh chúng sanh mà thị hiện thọ thân.

Như vậy gọi là Bồ Tát trú bát địa, nên đầy đủ năm pháp.

Ngài Tu Bồ Đề hỏi: Bạch Thế Tôn ! Thế nào gọi là Bồ Tát an trú cửu địa, phải đầy đủ mười hai pháp, từ thọ vô biên thế giới … dẫn đến thành tựu hết thảy thiện công đức ?

Phật dạy: Này Tu Bồ Đề ! Nên biết:

Nếu Bồ Tát đem Phật pháp hoá độ chúng sanh khắp mười phương thế giới, thì gọi là Bồ Tát thọ vô biên thế giới.

Nếu Bồ Tát đã được đầy đủ sáu pháp Ba La Mật thì gọi là Bồ Tát biết được ngôn ngữ của các loài.

Nếu Bồ Tát đời đời thường hoá hiện sanh thân, thì gọi là Bồ Tát thành tựu sanh thai.

Nếu Bồ Tát thường chọn sanh vào gia đình danh giá, có đạo hạnh, thì gọi là Bồ Tát thành tựu gia đình.

Nếu Bồ Tát thường chọn quốc độ để thọ sanh, thì gọi là Bồ Tát thành tựu chỗ sanh.

Nếu Bồ Tát thường chọn lại dòng họ ở đời quá khứ để thọ sanh, thì gọi là Bồ Tát thành tựu dòng họ.

Nếu Bồ Tát thường theo các vị đại Bồ Tát để làm quyến thuộc, thì gọi là Bồ Tát thành tựu quyến thuộc.

Nếu Bồ Tát ngay khi vừa sanh ra đời đã có quang minh toả chiếu khắp vô lượng vô biên thế giới, mà chẳng chấp các tướng quang minh đó, thì gọi là Bồ Tát thành tựu xuất sanh.

Nếu Bồ Tát ngay khi vừa xuất gia đã có vô lượng chư Thiên theo hầu hạ, khuyến thỉnh Bồ Tát thành tựu đạo quả, để dẫn dắt chúng sanh vào ba thừa đạo, thì gọi là Bồ Tát thành tựu xuất gia.

Nếu Bồ Tát dùng bảy báu để trang nghiêm thân, cành, lá cây Bồ Đề, khiến cho cây Bồ Đề chiếu quang minh khắp cả mười phương thế giới, thì gọi là Bồ Tát thành tựu “Bồ Đề Thọ” trang nghiêm.

Nếu Bồ Tát đã thanh tịnh chúng sanh, và thanh tịnh Phật độ, thì gọi là Bồ Tát thành tựu viên mãn hết thảy các công đức.

Như vậy gọi là Bồ Tát trú cửu địa, đầy đủ mười hai pháp.

Ngài Tu Bồ Đề hỏi : Bạch Thế Tôn ! Vì sao nói Bồ Tát Ma Ha Tát trú thập địa là như Phật rồi?

Phật dạy: Này Tu Bồ Đề ! Bồ Tát Ma Ha Tát trú thập địa, dùng đầy đủ các lực phương tiện để hành sáu pháp Ba La Mật, hành bốn niệm xứ, … dẫn đến hành mười tám bất cộng pháp, tận đoạn các tập khí phiền não, thẳng tiến lên Phật địa. Bởi nhân duyên vậy, nên Bồ Tát Ma Ha Tát trú thập địa được xem như Phật vậy.

***

Trên đây đã tóm lược lại quá trình tu tập của Bồ Tát Ma Ha Tát, thừa Đại Thừa, phát thú Thập Địa.

LUẬN:

Hỏi: Trên đây nói rằng Bồ Tát trú thất địa chẳng nên chấp hai mươi pháp. Như vậy đối với các nhân duyên tạo pháp thì Bồ Tát cũng chẳng chấp chăng ?

Đáp: Hết thảy các pháp hữu vi lần lượt duyên nhau, mà thành có nhân, có quả.

Nếu ở nơi đây mà sanh chấp tâm, thủ tướng và sanh kiến giải thì gọi gì là “nhân kiến”. Vì sao ? Vì ở nơi chẳng có nhân (phi nhân), mà chấp là có nhân vậy.

Nếu Bồ Tát hành đầy đủ “mười tám không” thì chẳng còn dấy tâm phân biệt nữa.

Hơn thế nữa, nếu Bồ Tát hành thêm “chúng sanh không” và “pháp không” thì sẽ được “đầy đủ không”. Ở nơi rốt ráo không mà chẳng chấp mới gọi là “đầy đủ không”.

Hỏi: Vì sao nói Bồ Tát biết rõ các pháp đều là “tự tướng không” là được “đầy đủ không” ?

Đáp: Vì hết thảy các pháp đều là tự tướng không, dẫn đến pháp “không” cũng là tự tướng không.

Bồ Tát trú lục địa, dù đã có nhiều phước đức, dù đã được các căn lanh lợi, nhưng vẫn còn phân biệt các pháp. Như vậy là còn chấp pháp tướng.

Vào thất địa, Bồ Tát mới liễu đạt được “tự tướng không” nên được “đầy đủ không”, tức là được “cụ túc không” vậy.

Đối với chư Phật và chư đại Bồ Tát, thì hữu vi không, vô vi không…, dẫn đến vô pháp hữu pháp không đều là “cụ túc không” cả.

 –oOo–

Người chứng được “vô tướng” là vào được Niết Bàn, vào nơi “vô tu”, “vô thuyết”. Vì sao ? Vì có vô lượng vô biên công đức chẳng thể nghĩ bàn vậy.

–oOo–

Người chứng được “vô tác”, biết rõ hết thảy pháp đều chẳng có chủ tác, dẫn đến ba cõi cũng là như vậy.

–oOo–

Người đầy đủ mười thiện nghiệp đạo là được đầy đủ “ba phần thanh tịnh”.

Nên biết tu mười thiện nghiệp đạo dẫn đến ba giải thoát môn. Thế nhưng nếu tu chưa đầy đủ thì chưa hẳn là được cả “ba phần thanh tịnh”. Vì sao ? Vì có khi thân thanh tịnh mà khẩu chưa thanh tịnh, có khi khẩu thanh tịnh mà ý chưa thanh tịnh.

Người thế gian, do chưa ly được các chấp nên chẳng có được ba phần thanh tịnh. Bồ Tát đã hoàn toàn ly các chấp mới được đầy đủ cả ba phần thanh tịnh.

–oOo–

Bồ Tát đối với hết thảy chúng sanh, có đầy đủ “từ bi” và “trí bi”, lại có đầy đủ cả ba duyên, là duyên chúng sanh, duyên pháp và vô duyên.

Vô duyên nói ở đây là vô duyên “đại từ bi”, được đầy đủ các pháp không, dẫn đến vô duyên “đại trí bi”, biết rõ thật tướng của hết thảy pháp cũng là không.

Bồ Tát đã thâm nhập vào thật tướng pháp nên mới phát bi niệm, thương hết thảy chúng sanh, ví như người cha quá thương con, muốn đem hết cả tài sản của mình cho con.

Như vậy gọi là Bồ Tát thanh tịnh đầy đủ Phật thế giới vậy.

Hỏi:  Nếu Bồ Tát chẳng niệm tưởng chúng sanh, thì làm sao có thể tịnh Phật thế giới được ?

Đáp:  Vì muốn trang nghiêm Phật quốc mà Bồ Tát dạy chúng sanh trú trong mười thiện đạo. Làm như vậy tuy đã là trang nghiêm nhưng chưa thật trang nghiêm. Vì sao ? Vì giáo hoá chúng sanh mà chẳng chấp chúng sanh tướng thì phước đức mới thật là thanh tịnh, mới được gọi là “vô ngại trang nghiêm”.

–oOo–

Ở đây Phật mật ý nói rằng : Nếu biết rõ các pháp là bất sanh, bất diệt, bất cấu, bất tịnh, bất tăng, bất giảm, là biết rõ các pháp đều bình đẳng, là vào được nơi thật tướng pháp, dẫn đến được Vô Sanh Pháp Nhẫn.

Được như vậy là “tín” lẫn “đạt” đều vô ngại.

Nếu biết được danh sắc là bất sanh thì được Vô Sanh Trí. Đây mới chỉ là “sơ nhẫn”. Phải được “tế nhẫn” mới gọi là được Vô Sanh Pháp Nhẫn.

Nên biết, khi nói danh sắc là bất sanh thì đó là nói về các pháp là nhất tướng, là vô tướng. Bồ Tát biết rõ danh sắc là vô tướng, là tánh không, nên chẳng chấp danh sắc.

–oOo–

Lại nữa, Bồ Tát biết rõ năm ấm, mười hai nhập, mười tám giới … đều là lưới ma, chẳng thật có nên dạy chúng sanh phải ly năm ấm, mười hai nhập, mười tám giới …, phải thường dùng các pháp nhân duyên mà hành “bất nhị pháp” mới có thể phá được phân biệt tướng.

Vì sao ? Vì sáu nội nhập (nhãn…, dẫn đến ý), sáu ngoại nhập (sắc… dẫn đến pháp) đều là chẳng thật có nên sáu thức (nhãn thức,… dẫn đến ý thức) khởi sanh ra cũng chẳng thật có.

Bởi vậy nên nói là vô nhãn … dẫn đến vô ý, vô sắc …, dẫn đến vô pháp, vô nhãn thức… dẫn đến vô ý thức, vô nhãn giới … dẫn đến vô ý thức giới.

–oOo–

Lại nữa, Bồ Tát trú trong “bất nhị pháp môn”, chẳng niệm ức tưởng, phá nội tâm phân biệt về các pháp. Bồ Tát thứ lớp chuyển các kiến, trước chuyển biên kiến, tà kiến, sau mới vào đạo chuyển pháp kiến, Niết Bàn kiến, …

Bồ Tát biết rõ các pháp đều chẳng có tướng nhất định, nên dùng “vô định tướng” của các pháp để chuyển tướng Niết Bàn, tức chuyển Nhị Thừa thành Đại Thừa vậy.

–oOo–

Bồ Tát do có được các phước đức nhân duyên nên diệt trừ được các phiền não, được an ổn hành đạo. Tuy nhiên vẫn còn các vi tế ái kiến, vi tế mạn kiến cần phải dứt trừ. Bởi vậy nên Bồ Tát lại càng phải dùng thật trí huệ để quán thật tướng của các phiền não cũng là vô tướng.

Bồ Tát ở tam địa, nếu huệ nhiều mà định ít thì chẳng nhiếp được quả vị của địa ấy, khi vượt khỏi tam địa rồi, nếu định nhiều mà huệ ít, thì cũng chẳng vào được Bồ Tát vị. Phải được đầy đủ chúng sanh và pháp không, được định và huệ bình đẳng, mới thật được an ổn hành đạo, vào bất thối chuyển địa, rồi mới lần lần đến được Nhất Thiết Chủng Trí.

Ở nơi Trí Huệ Đại, vì thương xót chúng sanh, mà Bồ Tát phải tự điều phục tâm ý, phải biết rõ thật tướng pháp, phải chẳng còn chấp ba cõi.

Bồ Tát đã tự điều phục tâm ý như vậy rồi, đã được tịch tịnh như vậy rồi, nhưng phải vào thất địa thì tâm ý mới hoàn toàn được tịch tịnh, vô ngại.

Nên biết, nếu đã được Bát Nhã Ba La Mật rồi, thì dù ở Nhị Thừa địa, Bồ Tát vẫn được dung thông vô ngại, vẫn dìu dắt chúng sanh vào thật tướng pháp, dẫn đến được vô ngại giải thoát.

Hỏi: Vì sao nói Bồ Tát trú ở thất địa đã được Phật nhãn ?

Đáp: Bồ Tát trú ở thất địa, do học Phật pháp mà được vô ngại trí, chẳng còn nhiễm trước nên  tựa như đã có Phật nhãn.

Bồ Tát trú ở thất địa, do còn nhục thân nên khi vào thiền định chẳng khởi chấp tâm, nhưng khi xuất thiền vẫn còn chấp, như thấy người thân thích vẫn còn luyến ái.

–oOo–

Phật dạy: Khi sáu căn duyên sáu trần, Bồ Tát phải hành xả, chẳng chấp xấu tốt, vui buồn….Như vậy mới vào được bát địa.

Bồ Tát trú bát địa, thuận chúng sanh tâm, dùng trí huệ phân biệt, quán chúng sanh trong vô lượng A Tăng Kỳ kiếp. Tuy nhiên phải lâu sau mới độ được họ.

Bồ Tát quán thấy có chúng sanh phải tu một kiếp đến mười kiếp mới độ được, có chúng sanh tu một đời đến hai đời mới độ được, có chúng sanh đã thuần thục, có chúng sanh chưa thuần thục v.v…Bởi vậy Bồ Tát phải dùng cả ba thừa đạo mới rộng độ được chúng sanh. Ví như vị thầy thuốc giỏi, sau khi chẩn mạch các bệnh nhân mới phân loại bệnh nặng hay nhẹ, bệnh dễ trị được hay bệnh chẳng có thể chữa trị được, để tuỳ theo đó mà cho thuốc vậy.

Bồ Tát vào thất địa, khi muốn vào Niết Bàn thì được chư Phật khắp mười phương gia bị, còn khi muốn phát nguyện tu hành thì hiển dụng thần thông, đi khắp mười phương thế giới để thanh tịnh Phật độ và nghe chư Phật thuyết pháp.

Bồ Tát vào bát địa, có bảo luân, nên đi đâu cũng được tự tại vô ngại. Ví như trường hợp Bồ Tát Tự Tại Vương vào thời Phật còn tại thế, đã dùng đạo Bồ Tát thuyết giảng khiến chúng sanh ở khắp mười phương đều được trang nghiêm Phật độ.

Bồ Tát trú bát địa, thường đem mưa pháp rưới khắp mười phương, khiến chúng sanh đều được lợi lạc, lấy tịnh tướng của các quốc độ khác để trang nghiêm quốc độ của mình, lại như thất quán Phật thân là như huyễn, như hoá, Vì sao? Vì như lời phật dạy “thất pháp thân là như thấy Phật”. Phật thân là bất khả đắc, pháp thân cũng là bất khả đắc, cả hai thân đó đều do các duyên hoà hợp mà có, và đều là tự thánh không. Bồ Tát phải biết tâm hạnh của chúng sanh, rõ biết chúng sanh lợi căn hay độn căn, có tâm bố thí nhiều hay có trí huệ nhiều….mới có thể tuỳ duyên mà hoá độ họ được.

Bồ Tát thanh tịnh được chúng sanh tâm là đã thanh tịnh Phật độ rồi vậy. Vì sao ? Vì thanh tịnh Phật độ có hai pháp. Đó là :

Bồ Tát trì thân là tự tịnh.

Bồ Tát tịnh tâm chúng sanh, khiến mình và chúng sanh đều được thanh tịnh.

Bồ Tát nguyện thanh tịnh Phật độ, nguyện vào “như huyễn tam muội”, thành tựu các sự việc mà chẳng khởi tâm chấp. Bồ Tát vào tam muội ấy, biến thân khắp mười phương thế giới, hành bố thí Ba La Mật cùng các Ba La Mật khác, đến với hết thảy chúng sanh, thuyết pháp nhằm ba phía đường ác, giáo hoá chúng sanh, khiến họ an lập được trong ba thừa đạo. Bồ Tát thành tựu các việc lợi ích cho chúng sanh như vậy mà chẳng chấp tâm , chẳng thủ tướng, vì thường hằng ở trong tam muội vậy. Bồ Tát ở trong “như huyễn tam muôi” an nhiên thành tựu thọ các thần, tuỳ theo căn tánh của chúng sanh, mà thọ thần tương ứng để hoá độ họ.

Đây là tướng của Bồ Tát bát địa.

–oOo–

Bồ Tát vào cửu địa, duyên ba cảnh giới, gồm: cảnh giới tịnh, cảnh giới bất tịnh và tạp cảnh giới. Trong cả ba cảnh giới, Bồ Tát đều tuỳ tâm chúng sanh mà hoá độ nhằm nhiếp nhủ họ. Ví như mặt trời chiếu sáng, chẳng phải chỉ vì người sáng mắt, mà đến cả người đui mù cũng đều được lợi lạc. Bồ Tát đến với chúng sanh cũng là như vậy. Hoặc là đã có sẵn nhân duyên với họ, hoặc muốn tạo nhân duyên để cứu độ họ, dù đến với họ, dù rời xa họ cũng đều là nhân duyên cả.

Bồ Tát xem hằng sa thế giới khắp mười phương cũng như một thế giới, nên ở nơi hằng sa Phật khắp mười phương , vẫn y như nguyận mà dộ thoát chúng sanh.

 Đây là Bồ Tát đủ phước huệ trang nghiêm, viên mãn như nguyện.

Như lời Phật dạy: Đầy đủ sáu pháp Ba La mật là đầy đủ trí huệ; đầy đủ trí huệ là đầy đủ phước đức.

Do trí huệ và phước đức đều đầy đủ như ý nguyện, nên Bồ Tát biết rõ tâm nguyện hết thảy chúng sanh.

Lại nữa, do có được “túc mạng trí” thanh tịnh, nên Bồ Tát biết rõ chỗ sanh, chỗ chết của chúng sanh.

Lại  nữa, do có được “giải thoát danh tự như ngôn tam muội”, nên Bồ Tát thông đạt được các ngữ ngôn của hết thảy các loài chúng sanh.

Lại nữa, do có được “tứ vô ngại trí”, nên Bồ Tát thuyết pháp và độ sanh vô ngại.

–oOo–

Về sự thị hiện thọ thân của Bồ Tát Thích Ca Mưu Ni:

– Có thuyết nói rằng: Bồ Tát cỡi voi sáu ngà, từ cung trời Đâu Suất, thị hiện vào thai mẹ. Bồ Tát có “như huyễn tam muôi”, dùng lực tam muội này vào thai mẹ, nên có đầy đủ phước đức nhân duyên, như khi còn ở trên cung trời Đầu Suất.

 – Có thuyết nói rằng: Bồ Tát ra khỏi thai mẹ, có các vị Thiên Long theo hầu; Bồ Tát, từ thai mẹ ra qua ngã hông bên phải, như mặt trời từ trong đám mây ló dạng ra vậy. Ngay lúc bấy giờ có tiếng xưng tán váng dội giữa hư khồn khắp cả mười phương rằng “ở nước ấy có vị hậu thân Bồ Tát sanh ra, có đầy đủ trí huệ, có đầy đủ thế lực, làm lợi ích cho chúng sanh.

 – Có thuyết nói rằng: Bồ Tát, từ cung trời Đầu Suất, quán trong thế gian có dòng họ nào, có gia đình nào, có người nào cao quí, đức hạnh, thương xót chúng sanh, thì thị hiện sanh vào đó. Ví như, trong bảy đức Phật kế tiếp ra đời, tính đến đời đức Phật Thích Ca Mưu Ni, có:

 – ba đức Phật thuộc dòng họ Kiều Trần Như.

– ba đức Phật thuộc dòng họ Ca Diếp,

– Và đức Phật Thích Ca Mưu Ni thuộc dòng họ Cù Đàm.

Bồ Tát đã được thâm tâm kiên cố, được vô sanh pháp nhẫn, nên được khí phần của Nhất Thiết Trí Chủng Trí.

Bồ Tát thành tựu quyến thuộc, gồm toàn người trí, người thiện đã tu tập công đức trong nhiều đời, nhiều kiếp.

Như trong kinh Bất Khả Tư Nghi có nói: Cù Ty Gia là một đại Bồ Tát và accs quyến thuộc của ngài đều là những vị Bồ Tát bất thối chuyển. Lại nữa, Bồ Tát có “biến hoá lực tam muội”, nên cũng có các người nam, người nữ theo Bồ Tát làm quyến thuộc,

Trong kinh có chép mẫu chuyện sau đây:

Đức Phật Thích Ca Mưu Ni khi còn là Bồ Tát, có rất nhiều thế nữ rất xinh đẹp ở trong cung làm quyến thuộc của ngài. Một hôm thấy các cung nữ nằm ngủ chẳng khác gì những xác chết, Bồ Tát sanh tâm nhàm chán dục lạc, quyết tâm ròi bỏ hoàng cung, ra đi tìm đạo giải thoát.

Mặc dù có lệnh của vua Tịnh Phạn truyền phải giữ Thái Tử ở lại trong cung, nhưng Xa Nặc vẫn tuỳ theo ý của Bồ Tát, dẫn con ngựa Kiền Trắc cúng Bồ Tát vượt thành ra đi. Lúc bấy giờ có chư Thiên, Long, Thần phụng nghing, nâng chân ngựa, đưa Bồ Tát cùng Xa Nặc vượt thành an toàn. Nhờ vậy mà Bồ Tát vượt ra khỏi “ nhà phiền não”. Như vậy gọi là thành tựu xuất gia.

–oOo–

Bồ Tát dùng bảy báu trang nghiêm cây Bồ Đề, gọi là thành tựu “Bồ Đề thọ”  trang nghiêm. Đây là vì chúng sanh mà Bồ Tát dùng thần lực chẳng thể nghĩ bàn (bất khả tư nghì) hoá hiện ra các cảnh trang nghiêm như vậy.

–oOo–

Bồ Tát trú cửu địa, đầy đủ thành tựu chúng sanh và thanh tịnh Phật độ, vừa tư lợi, vừa lợi tha , nên được vô lượng công đức chẳng thể bàn. Chư vị A La Hán và Bích Chi Phật tuy cũng có vô vàn công đức, nhưng vì chưa đủ lợi tha nên chẳng được như Bồ Tát. Đây là tướng của Bồ Tát cửu địa.

Thập địa còn gọi là Pháp Vân Đia.

Ví như đám mây lớn đổ mưa liên tục, Bồ Tát trú ở địa này, tự nhiên sanh vô lượng vô biên niệm thanh tịnh, vô lượng vô biên niệm Phật pháp.

Bồ Tát tự nghĩ rằng: Nếu ở cõi Dục mà ta chưa hang phục được ma tâm, thì ma sân não vẫn còn tập họp ma chúng đến quấy nhiễu ta.

Khi Bồ Tát đã hàng phục xong chúng ma, chư phật khắp mười phương đều hoan hỷ, phóng hào quang, xoa đầu và khen ngợi Bồ Tát.

Đây là tướng của Bồ Tát thập địa.

Lại nữa, Bồ Tát vào thập địa, có vô lượng công đức như: Hiển hành Phật pháp, đoạn hết thảy các tập khí phiền não, được vô ngại giải thoát, đầy đủ mười lực, bốn vô sở uý, bốn vô ngại trí, đại từ, đại bi cùng vô lượng các lực phương tiện khác. Lúc bấy giờ mặt đất hiện sáu điệu chấn động, từ trên không trung mưa hoa đổ xuống, chư  Phật phóng đại quang minh chiếu khắp mười phương thế giới. Ở khắp mười phương chư Phật, chư Bồ Tát cúng chư Thiên đều tán thán rằng: Ở cõi nước đó, có vị Bồ Tát toạ đạo tràng, thành tựu Phật sư, phóng đại quang minh, đã vào thập địa, đã được như Phật.

Đây là tướng của Bồ Tát thập địa, và cũng là tướng của Bồ Tát vào Phật địa vậy.

Như vậy gọi là Bồ Tát Ma Ha Tát thừa Đại Thừa, Phát thú thập đia.

***

Phẩm thứ hai mươi mốt
Xuất Đáo
(Ra & Đến)

KINH :

Phật bảo ngài Tu Bồ Đề : Này Tu Bồ Đề ! Ông hỏi Ma Ha Diễn phát xuất từ đâu, và an trú nơi nào chăng ?

Này Tu Bồ Đề ! Ma Ha Diễn phát xuất từ ba cõi, đến an trú trong Nhất Thiển Chủng Trí, vì là “bất nhị pháp”.

Vì sao ? Vì Ma Ha Diễn và Nhất Thiển Chủng Trí là hai pháp chẳng có hợp, chẳng có tan, chẳng có sắc, chẳng có hình, chẳng có đối…mà chỉ là nhất tướng, là vô tướng.

Nếu có ai muốn khiến “thật tế” xuất, “như pháp tánh” xuất, “bất khả tư nghì tánh” xuất, thì đó là muốn “vô tướng pháp” xuất.

Nếu có ai muốn khiến “sắc không” xuất,…,dẫn đến “thức không” xuất, thì đó là muốn “vô tướng pháp” xuất.

Vì sao ? Này Tu Bồ Đề ! “Sắc không”,…, dẫn đến “ý không” xuất, “nhãn thức không”,…, dẫn đến “ý thức không” xuất, “nhãn xúc không”,…, dẫn đến “ý xúc không” xuất. “Nhãn xúc nhân duyên sanh thọ”,…, dẫn đến “ý xúc nhân duyên sanh thọ” xuất, thì đó là muốn “vô tướng pháp” xuất.

Vì sao ? Này Tu Bồ Đề ! “Nhãn không”,…, dẫn đến “ý xúc nhân duyên sanh thọ” chẳng xuất từ ba cõi, cũng chẳng trú trong Nhất Thiển Chủng Trí, vì “nhãn tướng”,…, dẫn đến “ý xúc nhân duyên sanh thọ” đều là không.

Nếu có ai muốn khiến mộng, huyễn, diệm, ảnh, hoá xuất, thì đó là muốn khiến “vô tướng pháp” xuất.

Vì sao ? Này Tu Bồ Đề ! Mộng, huyễn, diệm, ảnh, hoá chẳng xuất từ ba cõi, cũng chẳng an trú trong Nhất Thiển Chủng Trí, vì đều là tướng không.

Nếu có ai muốn khiến Đàn Ba La Mật,…, dẫn đến Bát Nhã Ba La Mật xuất, thì đó là muốn khiến “vô tướng pháp” xuất.

Vì sao ? Này Tu Bồ Đề ! sáu pháp Ba La Mật chẳng xuất từ ba cõi, cũng chẳng an trú trong Nhất Thiển Chủng Trí, vì sáu pháp Ba La Mật đều là tướng không.

Nếu có ai muốn khiến “nội không”,…, dẫn đến “vô pháp hữu pháp không” xuất, thì đó là muốn “vô tướng pháp” xuất.

Vì sao ? Này Tu Bồ Đề ! “mười tám không” chẳng xuất từ ba cõi, cũng chẳng an trú trong Nhất Thiển Chủng Trí, vì đều là tướng không.

Nếu có ai muốn khiến bốn niệm xứ,…, dẫn đến tám thánh đạo xuất, thì đó là muốn “vô tướng pháp” xuất.

Vì sao ? Này Tu Bồ Đề ! bốn niệm xứ,…, dẫn đến tám thánh đạo xuất chẳng xuất từ ba cõi, cũng chẳng an trú trong Nhất Thiển Chủng Trí, ba mươi bảy Phẩm Trợ Đạo vì đều là tướng không.

Dẫn đến mười tám bất cộng pháp cũng là như vậy.

Nếu có ai muốn khiến “A La Hán tánh”, “Bích Chi Phật tánh”,…, dẫn đến “Phật tánh” xuất, thì đó là muốn “vô tướng pháp” xuất.

Vì sao ? Này Tu Bồ Đề !  “A La Hán tánh”,…, dẫn đến “Phật tánh”  chẳng xuất từ ba cõi, cũng chẳng an trú trong Nhất Thiển Chủng Trí, vì đều là tướng không.

Nếu có ai muốn khiến bất sanh pháp, bất diệt pháp, bất tịnh pháp, vô khởi pháp, vô tác pháp…. xuất, thì đó là muốn “vô tướng pháp” xuất.

Vì sao ? Này Tu Bồ Đề !  Bất sanh pháp,…, dẫn đến vô tác pháp chẳng xuất từ ba cõi, cũng chẳng an trú trong Nhất Thiển Chủng Trí, vì đều là tướng không.

Này Tu Bồ Đề ! Như vậy hết thảy các pháp đều chẳng có tướng an trú, nên là chẳng phải trú, cũng chẳng phải trú.

Bởi nhân duyên, vậy nên nói Ma Ha Diễn xuất từ ba cõi và đến trú trong Nhất Thiển Chủng Trí, là chẳng phải trú, cũng chẳng phải chẳng trú vì là pháp bất động vậy.

LUẬN:

Hỏi: Phật đã biết rõ chỗ hỏi của ngài Tu Bồ Đề rồi, này Phật còn nêu lên nhiều câu hỏi nữa để cùng ngài Tu Bồ Đề cùng giải đáp?

Đáp: Cũng như trường hợp Bộ A Hàm, Bát Nhã Ba La Mật quá mênh mông, được diễn đạt trong mười vạn bài kệ, ba trăm hai mươi  vạn lời, chẳng phải một phen mà thuyết hết được.

Các chỗ ngài Tu Bồ Đề nêu trước đây, Phật đã giải hai lẩn rồi. Nay ngài Tu Bồ Đề đặt câu hỏi thứ ba để được Phật giải đáp rõ hơn.

–oOo–

Nên biết rằng, ngay trong pháp Thanh Văn cũng có nhiều sự việc bất khả tư nghì, chẳng phải chỉ trong một lần, ở tại một nơi mà có thể giải đáp hết được, huống nữa là ở trọng pháp Đại Thừa.

Phật có vô ngại giải thoát, Bồ Tát có bất khả tư nghì tam muội, khiến mau thành lâu, lâu thành mau, xa thành gần, gần thành xa… Ví như trong kinh Pháp Hoa có nói : Phật thuyết pháp trong sáu mươi tiểu kiếp, mà nghe tưởng chừng như chỉ trải qua thời gian của một buổi ăn thôi là nghĩa đó vậy.

Hỏi: Sắc có hình tướng có thể thấy được, còn thời gian là vô hình. Như vậy, làm sao có thể biến thời gian dài thành ngắn, ngắn thành dài được ?

Đáp: Do nới lực thần thông bất khả tư nghì, mà Bồ Tát có thể làm cho các sự việc như vậy. Ví như người nằm mộng tưởng như mình đã trải qua một thời gian dài, mà khi tỉnh dậy, mới biết cảnh mộng chỉ diễn ra trong khoảnh khắc mà thôi vậy.

Sự việc diễn biễn trong một đêm nằm mộng, mà phàm phu còn chưa hiểu được. Như vậy làm sao phàm phu có thể hiểu thấu rõ chỗ hỏi của ngài Tu Bồ Đề và chỗ giải đáp của Phật, quá cao vời, sâu thẳm, mênh mông như trời, như biển được.

–oOo–

Trên đây, ngài Tu Bồ Đê hỏi: Ma Ha Diễn phát xuất từ đâu, và an trú nơi đâu ?

Phật dạy: Ma Ha Diễn phát xuất từ ba cõi, và đến an trú trong Nhất Thiết Chủng Trí bất động. Vì là pháp bất động, nên chẳng phải trú, cũng chẳng phải chẳng trú.

Hỏi: Ma Ha Diễn nhiếp về Phật pháp, hay nhiếp về Bồ Tát pháp? Nếu nhiếp về Phật pháp, thì sao lại phát xuất từ ba cõi? Còn nếu nhiếp về Bồ Tát pháp, thì sao lại an trú trong Nhất Thiết Chủng Trí?

Đáp: Ma Ha Diễn nhiếp về Bồ Tát pháp, nên phát xuất từ ba cõi. Khi đã dẫn đến Kim Cang tam muội, và thành tựu đầy đủ các công đức rồi, thì biến thành Phật pháp.

Vì Ma Ha Diễn có đại lực dẫn thẳng đến Phật địa, chẳng còn có chỗ nào cao hơn, nên nói “Ma Ha Diễn đến an trú trong Nhât Thiết Chủng Trí”.

Khi đã đoạn sách các phiền não, đã tu tập rốt ráo các công đức, thì vào được pháp tịch diệt, bất nhị vậy. Bởi vậy nên nói Ma Ha Diễn và Nhất Thiết Chủng Trí chẳng phải một, chẳng phải khác, chẳng có hợp, chẳng có tan.

Lại nữa, khi đã dứt sạch các sở tri chướng, chẳng còn hy vọng nữa thì là vô sắc, vô hình, vô đối, là nhất tướng, là vô tướng vậy.

Hỏi: Vì sao nói Ma Ha Diễn và Nhất Thiết Chủng Trí là chẳng phải một, chẳng phải khác, là nhất tướng, là vô tướng ?

Đáp: Nên biết “nhất tường” cũng tức là “vô tướng”. Đây là nhằm chỉ cho chúng sanh biết rằng “thật tướng” là chẳng có tướng xuất, chẳng có tướng nhập, chẳng xuất từ ba cõi và cũng chẳng nhập vào trong Phật đạo.

Người trí huệ mới nói rằng “thật tế” dẫn vào Phật đạo. Nói như vậy là ở nơi “vô tướng” mà còn chấp có tướng xuất, có tướng nhập. Vì sao? Vì “như pháp tánh thất tế” là vô tướng, là bất khả nghì tướng. Nếu ở trong “không” mà muốn có xuất tướng, thì đó là muốn “vô tướng pháp” xuất rồi vậy.

–oOo–

Ở đây Phật nói “năm ấm tướng” là không, chẳng xuất từ ba cõi, cũng chẳng đến an trú trong Nhất Thiết Chủng Trí. Vì sao ? Vì năm ấm là không , thì mười hai nhập, mười tám giới,…, dẫn đến hết thảy các pháp đều là không cả. Tất cả đều là hư vọng, đều là tự tướng không, chỉ ví như cảnh thấy trong mộng vậy thôi.

Hết thảy các pháp tự đều là không, nên chăng có xuất, cũng chẳng có nhập. Cho nên nói : Nếu có ai muốn khiến sáu pháp Ba La Mật xuất, thì đó là muốn “vô tướng pháp” xuất.

Bồ Tát vì chúng sanh nói hết thảy các pháp đều do duyên hoà hợp sanh, đều là tự tướng không. Dẫn đến Ma Ha Diễn, Nhất Thiết Chủng Trí cũng đều là như vậy cả.

Hỏi: Sáu pháp Ba La Mật có chân, có tục. Tục đế chấp có pháp tướng. Còn chân đế nếu chẳng y nơi pháp tướng thì làm sao lập ra được sáu pháp Ba La Mật ?

Đáp: Các vị Bồ Tát nào chưa được lậu tận thì còn tu phước. Do còn tu phước nên còn tu sáu Ba La Mật của phàm phu. Trong trường hợp này mới thấy có xuất, có nhập.v.v…

Trái lại các đại Bồ Tát biết rõ Ma Ha Diễn là vô tướng pháp, chẳng có xuất, chẳng có nhập. Ở nơi đây, các pháp tướng chỉ là giả danh, chẳng thật có. Bởi vậy khi nói “ Ma Ha Diễn phát xuất từ ba cõi, đến an trú trong Nhất Thiết Chủng Trí”, thì cũng phải biết rõ rằng  Nhất Thiết Chủng Trí cũng là giả danh, chẳng thật có, cũng là pháp bất động vậy.

KINH:

Phật lại bảo ngài Tu Bồ Đề : Này Tu Bồ Đề ! Ông muốn biết Ma Ha Diễn đến an trú chỗ nào và vì sao chăng?

Này Tu Bồ Đề ! Hết thảy các pháp đều chẳng có thường trú (vô trú tướng), nên Ma Ha Diễn đến trú trong “bất trú pháp”/

Ma Ha Diễn cũng ví như pháp tánh là bất sanh, bất diệt, bất cấu, bất tịnh, vô tướng, vô tác, bất trú, phi bất trú.

Vì sao ? này Tu Bồ Đề ! “Pháp tánh tướng” là bất trú, phi bất trú, vì là tánh không, dẫn đến “vô tác tánh tướng” cũng là tánh không. Hết thảy các pháp tướng đều là như vậy cả.

Này Tu Bồ Đề ! Bởi nhân duyên vậy, nên Ma Ha Diễn chẳng có trú xứ (vô trú xứ). Vì chẳng có trú xứ nên là pháp bất động.

LUẬN :

Hỏi: Ma Ha Diễn có đại lực dẫn thẳng đến Nhất Thiết Chủng Trí, chẳng có pháp nào hơn được. Như vậy vì sao nay lại nói Ma Ha Diễn là vô trú xứ?

Đáp: Trước đây nói Ma Ha Diễn và Nhất Thiết Chủng Trí chẳng phải là một, chẳng phải khác, là “bất nhị pháp”, nên trú chỉ là trú nơi như huyễn mộng mà thôi.

Bồ Tát tuy có trú trong bốn oai nghi đi, đứng, nằm, ngồi nhưng chẳng phải thật có trú. Cũng như vậy, Ma Ha Diễn tuy có trú trong Nhất Thiết Chủng Trí, mà thật chẳng có trú vậy,

Trên đây Phật mật ý nói rằng : Từ vô thỉ đến nay, hết thảy các pháp đều là vô trú, chẳng có pháp nào có trú xứ riêng rẽ cả.

Nên biết:

-Nói “trú” là nói trú nơi rốt ráo không.

Vì sao ? Vì hết thảy pháp đều là “như pháp tánh thật tế”, đều là bất sanh, bất diệt, bất khởi, bất tác, nên chẳng phải trú (bất trú), cũng chẳng phải chẳng trú (phi bất trú).

-Nói “bất trú” là nhằm phá chấp hữu cũng là nhằm nêu lên nghĩa vô thường, để phá chấp về thường tướng.

-Nói “phi bất trú” là nhầm phá chấp về diệt tướng. Lại nữa, do thuận theo thế đế mà nói “trú”, nhưng nếu chấp “bất trú” thì cũng là lỗi lầm, nên nói “phi bất trú” vậy.

Phật dạy “pháp tánh tướng” là không, nên là bất trú, phi bất trú, là vô khởi vô tác vậy.

KINH:

Phật lại bảo ngài Tu Bồ Đề : Này Tu Bồ Đề ! Ông muốn biết ai là người hành Ma Ha Diễn, và ai là người xuất từ Ma Ha Diễn chăng?

Này Tu Bồ Đề ! Chẳng có ai lag nguoiwg hành Ma Ha Diễn, và chẳng có ai là người xuất từ Ma Ha Diễn cả.

Vì Sao ? Vì chỗ dụng pháp, và thời điểm xuất ra đều là vô sở hữu. Thế nhưng, nếu hết thảy pháp đều là vô sở hữu, thì dùng pháp gì để xuất ra được ?

Này Tu Bồ Đề ! Ngã bất khả đắc,…, dẫn đến tri giả, khiến giả bất khả đắc, vì là rốt ráo thanh tịnh. Bất khả tư nghì thành bất khả đắc, vì là rốt ráo thanh tịnh. năm âm, mười hai nhập, mười tám giới bất khả đặc, vì là rốt ráo thanh tịnh. Nội không,…, dẫn đến vô pháp hữu pháp không bất khả đắc, vì là rốt ráo thanh tịnh. Đàn Ba La Mật,… dẫn đến Bát Nhã Ba La Mật bất khả đắc, vì là rốt ráo thanh tịnh. Bốn niệm xứ,…, dẫn đến mười tám bất cộng pháp bất khả đắc, vì là rốt ráo thanh tịnh. Tu Đa hoàn, Tư Đà Hàm, A Nan Hàm, A La Hán, Bích Chi Phật, Bồ Tát, Phật bất khả đắc, vì là rốt ráo thanh tịnh. Vô Thượng Bồ Đề, Nhất Thiết Chủng Trí bất khả đắc, vì là rốt ráo thanh tịnh. Bất sanh, bất diệt, bất cấu, bất tịnh bất khả đắc, vì là rốt ráo thanh tịnh. Cả ba đời quá khứ, hiện tại, vị lai bất khả đắc, vì là rốt ráo thanh tịnh. Tăng, giảm… bất khả đắc, vì là rốt ráo thanh tịnh.

Vì sao các pháp bất khả đắc là rốt ráo thanh tịnh ?

Này Tu Bồ Đề ! vì “pháp tánh bất khả đắc” cũng là bất khả đắc, nên là rốt ráo thanh tịnh. Vì “như thật tế bất khả tư nghì tánh bất khả đắc” , “pháp tướng bất khả đắc”, “pháp vị bất khả đắc” cũng là bất khả đắc, nên là rốt ráo thanh tịnh. Vì “Đàn Ba La Mật bất khả đắc”,… dẫn đến “Bát Nhã Ba La Mật bất khả đắc” cũng là bất khả đắc, nên là rốt ráo thanh tịnh. Vì “nội không bất khả đắc”,… dẫn đến “vô pháp hữu pháp không bất khả đắc” cũng là bất khả đắc, nên là rốt ráo thanh tịnh. Vì “bốn niệm xứ bất khả đắc”,… dẫn đến mười tám bất cộng pháp bất khả đắc” cũng là bất khả đắc, nên là rốt ráo thanh tịnh. Vì “bốn quả Thanh Văn bất khả đắc”, “quả Bích Chi Phật bất khả đắc”, “quả Bồ Tát bất khả đắc”, dẫn đến “quả Phật bất khả đắc” cũng là bất khả đắc, nên là rốt ráo thanh tịnh. Vì “Vô Thượng Bồ Đề bất khả đắc”, dẫn đến “ Nhất Thiết Chủng Trí bất khả đăc” cũng là bất khả đắc, nên là rốt ráo thanh tịnh. Vì “ bất sanh bất khả đắc”, “bất diệt bất khả đắc” v.v… cũng là bất khả đắc, nên là rốt ráo thanh tịnh.

Lại nữa, này Tu Bồ Đề ! Vì “Sơ địa bất khả đắc”,…, dẫn đến “Thập địa bất khả đắc” cũng là bất khả đắc, nên là rốt ráo thanh tịnh. Vì “Bồ Tát địa bất khả đắc”, dẫn đến “Phật địa bất khả đắc” cũng là bất khả đắc, nên là rốt ráo thanh tịnh.

Vì sao ?

Vì sơ địa chẳng có đắc (phi đắc), cũng chẳng phải chẳng đắc (phi bất đắc),…, dẫn đến thập địa chẳng có đắc, cũng chẳng phải chẳng đắc, nên đều là rốt ráo không.

Lại nữa, này Tu Bồ Đề ! Vì “nội không bất khả đắc”,…, dẫn đến “vô pháp hữu pháp không bất khả đắc”, “thành tựu chúng sanh bất khả đắc”, “thanh tịnh phật độ bất khả đắc”, “năm nhãn bất khả đắc”, “sáu thần thông bất khả đắc”, v.v… cũng đều là bất khả đắc cả, nên rốt ráo thanh tịnh.

Này Tu Bồ Đề ! Bồ Tát Ma Ha Tát, dụng pháp “vô sở đắc”, mà hành Ma Ha Diễn. nên chẳng xuất từ ba cõi, cũng chẳng an trú trong Nhất Thiết Chủng Trí.

LUẬN:

Hành Ma Ha Diễn đi vào Phật đạo, để thành tựu chúng sanh, gọi là xuất. Hành Ma Ha Diễn để thành tựu Nhất Thiết Chủng Trí , cũng gọi là xuất.

Phật nói “pháp không”, lại nói các pháp đều bất khả đắc, là nhằm khuyến tấn các người hành Ma Ha Diễn phải đụng pháp “vô sở đắc”, để tu sáu pháp Ba La Mật.

Nếu Bồ Tát, khởi bi đại tâm, hành sáu pháp Ba La Mật, độ thoát chúng sanh, mà tâm chẳng chấp trước, thì gọi là Bồ Tát Ma Ha Tát hành đầy đủ “pháp không”.

Phật lại dạy “ngã bất đắc là rốt ráo không”, là nhằm chỉ cho chúng sanh biết rõ rằng hết thảy các pháp, dẫn đến Nhất Thiết Chủng Trí cũng đều là bất sanh, bất diệt, bất cấu, bất tịnh, bất tăng, bất giảm…, và đều là tự tướng không cả.

Bởi nhân duyên vậy, nên nói : Ngã, tri giả, khiến giả,…, dẫn đến chúng sanh, thanh văn, Bích Chi Phật, Bồ Tát, Phật đều là rốt ráo không cả.

Hỏi : Bất khả đắc có hai nghĩa:

-Đối với người thiểu trí , thì nói theo nghĩa “các pháp là bất khả đắc”

-Đối với người đại trí, thì nói theo nghĩa “các pháp bất khả đắc cũng là bất khả đắc”

Như vậy, ở nơi đây, nói “bất khả đắc” theo nghĩa nào ?

Đáp: Đây là nói về “pháp không”, nên “bất khả đắc” phải được hiểu theo hai nghĩa như vậy.

Hỏi: Nếu nói các pháp, trước sau, đều bất khả đắc, thì như vậy có lợi gì ?

Đáp: Phật thuyết các pháp là bất khả đắc, là rốt ráo thanh tịnh. Thế nhưng, Phật sợ người tu hành lại y chỉ nơi “bất khả đắc” mà chấp “không”, chấp “vô pháp”.

Vì người sơ cơ, mà phật dùng “vô” để phá “hữu”, nhưng bọn họ chưa dược tâm thanh tịnh, nên lại y chỉ nơi “vô”. Bỏi vậy nên Phật dạy thêm rằng “các pháp bất khả đắc” cũng là bất khả đắc.

Hết thảy các pháp đều là bất khả đắc, dẫn đến “pháp bất khả đắc” cũng là bất khả đắc, nên hết thảy các pháp đều là rốt ráo thanh tịnh cả.

Bồ Tát Ma Ha Tát, dụng pháp “vô sở đắc”, hành Ma Ha Diễn hướng về Nhất Thiết Chủng Trí.

(Hết quyển 50)