LUẬN
ĐẠI TRÍ ĐỘ

Nguyên tác: Bồ tát Long Thọ
Hán dịch: Pháp sư Cưu Ma La Thập
Việt dịch: Tỳ kheo ni THÍCH NỮ DIỆU KHÔNG

 

TẬP II
QUYỂN 32

Phẩm thứ nhất
(tiếp theo)
Tứ Duyên
(Bốn duyên)

KINH:

Muốn biết nhân duyên, thứ đệ duyên, sở duyên duyên và tăng thượng duyên phải tu tập Bát Nhã Ba La Mật

LUẬN:

Hết thảy các pháp hữu vi đều do 4 duyên sanh. Đó là:

  1. Nhân duyên.
  2. Thứ Đệ Duyên.
  3. Sở Duyên Duyên.
  4. Tăng Thượng Duyên.

1). Nhân duyên:

Nhân duyên là nhân chánh.

Hết thảy các pháp hữu vi đều do Nhân Duyên sanh. Trong Nhân Duyên lại phân biệt có 5 nhân. Đó là:

 -Tương Ưng nhân.
-Cộng Sanh nhân.
-Tự Chủng nhân.

-Biến nhân.
-Báo nhân.

2). Thứ Đệ Duyên

Thứ Đệ Duyên còn được gọi là Đẳng Cấp Vô Gián Duyên. Đây là chuỗi các duyên tương tục nối tiếp nhau, thứ lớp khởi lên, chẳng hề ngưng nghỉ. Các duyên này dấy khởi do tâm thức xúc tiếp với pháp trần.

Ví như, chư vị A La Hán duyên các tâm sở pháp trong cả 3 đời.

3). Sở Duyên Duyên:

Sở Duyên Duyên là các duyên nương theo nhau mà sanh khởi

4).Tăng Thượng Duyên:

Tăng Thượng Duyên là duyên có công năng làm cho các pháp cũng như các duyên khác càng thêm tăng trưởng, càng thêm mạnh mẽ hơn lên.

–o0o–

Muốn biết rõ các duyên sanh pháp, muốn biết rõ cộng tướng và biệt tướng của các pháp, thì phải tu tập Bát Nhã Ba La Mật. Vì sao? Vì tất cả tứ  duyên đều là bất khả đắc cả.

Chúng sanh thấy quả mà khởi chấp có nhân mới sanh ra quả; lại nghĩ rằng chẳng có nhân, thì chẳng có quả.

Thế nhưng, nhân chẳng có được tự tại. Vì sao? Vì nhân này do nơi nhiều nhân khác sanh ra, rồi lại duyên khởi sanh ra nhiều nhân khác nữa. Ta hãy lấy hạt lúa làm nhân để tạo thành cây lúa. Ta thấy hạt lúa gieo xuống đất rồi, còn phải nhờ nước, gió, ánh sáng mặt trời, phân bón, sức lao động của người nông dân…mới tạo thành cây lúa được. Cây lúa lớn lên sẽ đơm bông, kết hạt. Rồi những hạt lúa mới sẽ trở thành nhân cho các mùa lúa sau.

Như vậy, chẳng nên nói đơn thuần “Nhân sanh ra quả” được. Vì sao? Một nhân phải nhờ đến nhiều nhân, nhiều duyên khác mới sanh quả được.

Lại nữa, nếu nhân chẳng có tự tại, thì nhân chẳng có chỗ y chỉ (vô sở y). Đã chẳng có chỗ y chỉ, thì chẳng có nhân (vô nhân). Đã chẳng có nhân, thì cũng chẳng có quả (vô quả). Nhân và quả là bình đẳng duyên, và đều là bất khả đắc cả.

Bởi vậy nên muốn biết rõ các duyên sanh pháp, thì phải tu tập Bát Nhã Ba La Mật.

Hỏi: Vì sao nói tất cả Tứ duyên đều là bất khả đắc?

Đáp: Phật phương tiện dạy Tứ duyên. Phàm phu điên đảo chấp Tứ duyên là thật có, mà chẳng biết rằng do các nhân duyên hòa hợp mới có thức tâm sanh ra. Đây chỉ là cảnh trong mộng, chẳng có định tánh. Vì các nhân, các duyên cộng sanh, cộng khởi, mà có các tâm và tâm sở pháp sanh ra vậy.

Ví như, thọ, tưởng, hành, thức đồng duyên, làm nhân dẫn sanh ra các tâm pháp. Đây là Tương Ưng Nhân.

Các pháp hữu vi đều tương trợ lẫn nhau, mà cộng sanh cộng khởi. Đây là “Cộng sanh nhân”.

Các pháp hữu vi đều có các nhân, tức là cái hạt giống của chính mình. Ví như hạt giống thiện ở quá khứ là nhân của thiện pháp trong đời hiện tại; hạt giống thiện ở hiện tại là nhân của thiện pháp trong đời vị lai. Các pháp bất thiện và vô ký cũng đều là như vậy. Đây là “Tự Chủng Nhân”.

Lại nữa, pháp sau có thể làm nhân biến đổi nhân cuả pháp trước. Ví như, do thấy khổ, mà tu khổ đế. Do biết nguyên nhân sanh khổ, mà tu tập đế… dẫn đến tu đạo đế. Đây là
“Biến Hóa Nhân”.

Lại nữa, các chủng tử thiện dẫn sanh các quả báo lành hay dữ, tịnh hay cấu. Đây là “Báo Nhân”.

Hỏi: Bồ Tát chẳng còn kiết sử, sao lại còn thọ sanh? Có Biến Hóa nhân và Báo nhân?

Báo nhân là các chủng tử thiện hay ác, đem lại quả báo lành hay dữ, tịnh hay cấu.

Tất cả các phiền não đều do 5 nhân (thuộc nhóm nhân duyên) sanh ra, trong 5 nhân đó thì Báo nhân hiển lộ ra bên ngoài, còn 4 nhân kia tiềm ẩn ở bên trong. Ví như khi nhiễm sắc, dù tâm chẳng có tương ưng với các hạnh, mà tứ nhân ấy cũng khiến tâm bị cấu nhiễm..

–o0o–

Nếu trừ được cấu tâm thì vào được Vô Lậu?

Lúc ban đầu, tâm và tâm sở pháp vô lậu theo 3 nhân sanh. Đó là Tương Ưng nhân, Cộng Sanh nhân và Vô Chủng nhân. Nhưng khi ở nơi tâm vô lậu, mà sắc và tâm chẳng có tương ứng với hành (bất tương ưng hành), thì chỉ còn có 2 nhân. Đó là Cộng Sanh nhân và Vô Chủng nhân. Như vậy là chẳng có trường hợp 1 nhân sanh pháp.

–o0o–

Bồ Tát hành Bát Nhã Ba La Mật, quán tứ duyên, mà tâm chẳng chấp. Bồ Tát phân biệt các pháp, mà vẫn biết rõ các pháp đều như huyễn, như hóa, đều là chẳng thật có. Trái lại, phàm phu điên đảo chấp có tứ duyên, mà chẳng biết rằng tứ duyên ấy cũng đều là bất khả đắc.

Bởi nhân duyên vậy, nên Bồ Tát phải tu tập Bát Nhã Ba La Mật để biết rõ các duyên sanh pháp đều là bất khả đắc.

Hỏi: Muốn biết rõ về tứ duyên, sao chẳng học A Tỳ Đàm mà lại học Bát Nhã Ba La Mật?

Đáp: A Tỳ Đàm phân biệt tứ duyên cho người sơ học được rõ nghĩa. Bồ Tát đã rõ nghĩa rồi, nên phải học Bát Nhã Ba La Mật để trừ các chấp về pháp tướng.

KINH:

Muốn biết pháp như, pháp tánh và thật tế, phải tu tập Bát Nhã Ba La Mật.

LUẬN:

Các pháp đều có 2 tướng. Đó là:

-Biệt tướng.
-Thật tướng.

*Biệt tướng:

Là tướng riêng, là tướng của mỗi pháp. Ví như đất có tướng cứng, nước có tướng ướt, gió có tướng lay động, lửa có tướng nóng v.v… Do 6 căn duyên 6 trần, khởi sanh 6 thức, mà người thế gian nhận biết được biết tướng của mỗi pháp.

*Thật tướng:

Dùng trí tuệ Bát Nhã chia chẻ các pháp đến vi trần, thì mọi pháp đều trở thành KHÔNG. Cho nên nói các pháp, ở nơi Thật Tướng, đều là KHÔNG, là bất khả đắc.

Nếu dùng tâm chấp mà phân biệt, thì thấy mỗi pháp đều có Tự Tướng riêng. Trái lại, nếu biết được vô lượng pháp đều dung hợp với nhau; thì vào được nơi Thật Tướng của các pháp.

Phàm phu chỉ thấy biết được tướng riêng của các pháp.

Hàng Thanh Văn, do trí tuệ còn có hạn lượng, nên chưa thấy hết được vô lượng pháp dung hợp với nhau, chưa thấy hoàn toàn vào được nơi Thật Tướng của các pháp. Ví như người vào biển, do sức bơi lặn có hạn lượng, chỉ thấy được một số lượng nhỏ các vật dưới biển vậy.

–o0o–

Khi đã vào được nơi Thật Tướng pháp rồi, thì chẳng còn có sự phân biệt giữa tướng và tánh. Lúc bấy giờ, tướng và tánh chỉ là một, chẳng phải hai, chẳng phải khác.

Bởi vậy, nên Thật Tướng pháp còn được gọi là:

-Pháp như
-Pháp tánh
-Thật tế

*Pháp như:

Là tánh như như, bất biến của các pháp. Tánh ấy vốn thường KHÔNG.

*Pháp tánh:

Là bản tánh, là thật thể của các pháp. Tánh ấy vốn thường KHÔNG.

*Thật tế:

Là ý chân thật, vẹn toàn của các pháp. Thật Tế vốn thường KHÔNG.

Hỏi: Pháp Như, Pháp Tánh và Thật Tế có 3 nghĩa riêng khác, hay chỉ có một nghĩa thôi?

Đáp: Pháp Như, Pháp Tánh và Thật Tế đều là Thật Tướng Pháp cả, đều diễn đạt lý KHÔNG của các pháp. Chỉ là một nghĩa mà có 3 tên gọi khác nhau, để tùy trường hợp rộng giải về lý KHÔNG.

Đây chỉ là phương tiện. Thật ra Pháp Như, Pháp Tánh, Thật Tế đều là bất khả đắc cả.

Cũng như vậy, nhằm dẫn vào pháp KHÔNG, có thời Phật huyết cho hàng Thanh Văn về 3 Pháp Ấn là:

-Các pháp hữu vi là vô thường
-Các pháp hữu vi là vô ngã
-Niết Bàn là tịch tịnh

Hỏi: Phật thuyết Bát Nhã Ba La Mật, Phật lại thuyết về 3 Pháp Ấn. Như vậy Bát Nhã Ba La Mật có phá hoại các Pháp Ấn không?

Đáp: Tất cả đều do Phật thuyết, nhưng tùy trường hợp, tùy đối tượng, lời Phật nói ra có sai khác.

Với hàng Bồ Tát, Phật thuyết về Thật Tướng Bát Nhã. Với hàng Thanh Văn, Phật thuyết về 3 Pháp Ấn.

Trong kinh Bát Nhã Ba La Mật, Phật dạy ngài Tu Bồ Đề: “Này Tu Bồ Đề! Nếu Bồ Tát quán sắc là thường là chẳng phải hành Bát Nhã Ba La Mật; quán sắc là vô thường là chẳng phải hành Bát Nhã Ba La Mật. Quán sắc là khổ, là lạc, quán sắc là ngã, là vô ngã, quán sắc là tịch tịnh, là phi tịch tịnh… cũng đều là chẳng phải hành Bát Nhã Ba La Mật”.

Bát Nhã Ba La Mật chẳng phá hoại các Pháp Ấn, cũng chẳng chấp các Pháp Ấn. Khi đã vào được Thật Tướng Pháp rồi, thì sẽ diệt hết các quán, sẽ chẳng còn các Pháp Ấn nữa.

Hỏi: Như thế nào là nói về Pháp Như?

Đáp: Như trong kinh Tạp A Hàm có nêu mẫu chuyện sau đây:

Có vị Tỷ Kheo hỏi Phật: “ Bạch Thế Tôn! Thập nhị nhân duyên do Phật đặt ra hay do ai đặt ra?”

Phật dạy: “Chẳng phải ta lập ra Thập nhị nhân duyên, cũng chẳng có ai khác lập ra Thập nhị nhân duyên cả. Pháp Như, Pháp Tướng, Pháp Vị vẫn thường như vậy. Ví như Vô Minh duyên Hành, Hành duyên Thức,…dẫn đến Sanh duyên Lão Tử, vẫn thường như vậy. Tất cả đều do nhân duyên nên có, nhưng tất cả đều là KHÔNG. Ưu, Bi, Khổ, Não…đều vốn là KHÔNG cả. Vì là KHÔNG, nên khi các nhân duyên diệt, thì Ưu, Bi, Khổ, Não… liền diệt. Các pháp tương tục sanh diệt như vậy. Dù có Phật hay dù không có Phật vẫn thường như vậy”.

Như vậy là nói về Pháp Như.

Hỏi: Như thế nào là nói về Pháp Tánh?

Đáp: Như trong kinh Tạp A Hàm cũng như kinh Sư Tử có nêu các mẫu chuyện sau đây:

*Phật hỏi ngài Xá Lợi Phất ba phen về nghĩa của một câu mà ngài chẳng sao trả lời được. Đến khi Phật khai thị về Thật Thể của các pháp, thì ngài mới được rõ. Phật khai thị cho ngài Xá Lợi Phất xong rồi, lui về tịnh xá. Lúc bấy giờ, ngài Xá Lợi Phất nhóm các Tỷ Kheo và nói rằng: “Khi Phật chưa khai thị, ta chưa được rõ. Nhưng nay Phật đã khai thị rồi, thì ta có thể nói được nghĩa ấy suốt trong 7 ngày 7 đêm”.

*Lại nữa, sau khi Phật vừa ra khỏi tịnh thất, có một vị Tỷ Kheo đến bạch Phật: “Bạch Thế Tôn! Ngài Xá Lợi Phất tán thán Phật thông đạt Pháp Tánh, nên dù ở nơi pháp Thanh văn mà vẫn quán các pháp sanh diệt là như.

Do quán các pháp sanh diệt là thường như, nên diệt hết thảy các quán, vào được nơi Thật Tướng pháp”.

Như vậy là nói về Pháp Tánh.

Hỏi: Như thế nào là nói về Thật Tế?

Đáp: Có hai pháp đối đãi mới có duyên khởi. Còn Thật Tế chẳng có chỗ sở y, chẳng có chỗ đối đãi nên chẳng có duyên khởi.

Phật thuyết trong các kinh: “Thật tế là Niết Bàn”. Vì Thật Tế là diệt, là ly, là diệu. Do vậy mà Niết Bàn chẳng có nhân duyên, chẳng có duyên khởi. Niết Bàn là Thật Tế, là Như. Đã là Như, thì cả 3 đời đều bình đẳng, đều là Như cả vậy.

Hỏi: Vì sao gọi 3 đời bình đẳng là Như?

Đáp: Ở nơi Thật Tướng, thì 3 đời đều bình đẳng, chẳng có sai khác, nên gọi là Như.

Kinh Bát Nhã Ba La Mật nói: “Ba đời Nhất Như bình đẳng là ba đời đã nhập vào trong vô lượng pháp tánh, là bản tánh, là Niết Bàn. Hết thảy các pháp thế gian đều có tánh Niết Bàn”.

Chư Phật, chư Bồ Tát, chư Thánh Hiền dùng phương tiện giáo hóa chúng sanh, dạy họ tu học, dẫn họ vào Niết Bàn, là vào nơi Thật Tánh của các pháp vậy.

Ví như người thợ vàng, thợ bạc phải dùng phương tiện nấu các quặng vàng, quặng bạc, loại bỏ các chất bẩn quặng mới lấy được chất vàng ròng, bạc ròng để làm đồ trang sức. Lại ví như kim cương ở dâu dưới mỏ, người thợ mỏ phải đào sâu, loại bỏ các lớp đất đá mới tìm được chất kim cương. Pháp Tánh cũng như vậy, người tu hành phải dùng trí tuệ, phải tu tập, phải tầm cầu mới vào được chỗ tự tánh thanh tịnh, mới diệt được các hỷ luận. Như vậy là vào được Pháp Tánh thâm sâu, tức Pháp Tánh Thật Tế vậy.

Hỏi: Vì sao nói Thật Tế là thường trú bất động?

Đáp: Chúng sanh, do vô minh phiền não che tâm, khiến ở nơi Thật Tướng mà vẫn sanh tà tư duy. Chư Thánh đã phá vô minh, nên dạy chúng sanh tu tập để vào được nơi Thật Tướng của các pháp.

Khi Vô Minh đã dung hợp với Minh, thì sẽ thấy được Chân Tánh, tức là Pháp Tánh Thật Tế vậy. Khi đã vào được nơi Pháp Tánh Thật Tế, thì sẽ biết rõ ở nơi thân ta có vô lượng vô biên vi diệu pháp.

Hỏi: Chư vị A La Hán có vào được Thật Tế không?

Đáp: Các bậc A La Hán, Bích Chi Phật vào được Thật Tế, nhưng trú ở nơi đây, chẳng biết tiến lên nữa.

Bồ Tát vào Thật Tế rồi, phát tâm từ bi, trở lại trong sanh tử để giáo hóa chúng sanh, và tu đầy đủ 6 pháp Ba La Mật, mãi đến khi viên thành Phật đạo.

Hỏi: Thế nào gọi là Bồ Tát tu Thật Tướng Trí Tuệ?

 Đáp: Bồ Tát biết rõ ở nơi Thật Tướng chẳng có tướng thường, chẳng có tướng lạc, chẳng có tướng ngã, chẳng có tướng tịnh. Do tu như vậy mà Bồ Tát xả được các pháp quán, vào được Niết Bàn vô sanh diệt. Như vậy là Bồ Tát tu để trở về nguồn gốc vô sanh, trở về pháp tánh như như thường trú.

Bồ Tát thấy rõ ở nơi Sắc tức là Không, ở trong các pháp đều có tánh Niết Bàn, tức là Pháp Tánh vậy.

Do chứng ngộ được Thật Tướng pháp, nên Bồ Tát có được vô lượng vô biên phương tiện trí huệ để giáo hóa chúng sanh.

Thật Tánh pháp là Chân Thật Tế có diệu dụng lợi sanh vô cùng tận.

KINH:

Này Xá Lợi Phất! Bồ Tát Ma Ha Tát muốn biết số vi trần trong khắp ba ngàn đại thiên thế giới, muốn trong một mày lông có thể chứa đủ cả ba ngàn đại thiên thế giới, muốn diệt được ngọn lửa thiêu cháy khắp ba ngàn đại thiên thế giới ở thời kiếp tận, muốn ngăn đừng cho gió hủy hoại ba ngàn đại thiên thế giới, phải tu tập Bát Nhã Ba La Mật.

LUẬN:

Hỏi: Vì sao không tán thán công đức Bồ Tát tu tập 6 pháp Ba La Mật mà lại tán thán đại thần lực của Bồ Tát?

Đáp: Nên phân biệt có hai hạng chúng sanh:

-Có chúng sanh ưa thích các thiện pháp

 -Có chúng sanh ưa thích các thiện quả báo

Đối với hạng người ưa thích các thiện pháp, thì nên vì họ tán thán các công đức tu tập 6 pháp Ba La Mật của Bồ Tát. Còn đối với hạng người ưa thích các thiện quả báo, thì nên vì họ tán thán đại thần lực của Bồ Tát.

Người thế gian cho sơn hà, đại địa… là bền vững, kiên cố. Trái lại Phật dạy: “Vô lượng thế giới đều là vô thường, đều là hủy hoại, mỗi chúng sanh đều có đóng góp phần nhỏ của mình vào sự hình thành của một vi trần, dẫn đến sự hình thành của cả vũ trụ. Bởi vậy Bồ tát muốn biết rõ sự tương quan mật thiết giữa vạn vật với vũ trụ, thì phải tu tập Bát Nhã Ba La Mật.

–o0o–

Trong kinh có chép mẫu chuyện sau đây:

Phạt bảo một vị Tỷ Kheo rằng: “Ngươi có biết sự tương quan giữa thế giới và vi trần như thế nào không?”

Vị Tỷ Kheo đáp: “Bạch Thế Tôn! Con chẳng được rõ”.

Phật dạy: “Từ khi Phật Đại Thông Huệ Như Lai ra đời đến nay, trải qua vô lượng kiếp bằng số hằng sa vi trần trong hằng sa thế giới. Như vậy mà Phật và Bồ Tát đều biết rõ cả. Ví như vua A Tu La biết rõ được biển sâu đến 8 vạn do tuần vậy”.

Hỏi: Vì sao tu tập Bát Nhã Ba La Mật mà biết rõ được như vậy?

Đáp: Phật và Bồ Tát được đầy dủ Vô Ngại Giải, lại có trí tuệ rộng lớn vô lượng vô biên, chẳng ai có thể suy lường được. Nhưng Phật lại dạy rằng: “Quả đất rồi đây cũng sẽ tán hoại. Chỉ có tâm lực là kiên cố. Tu Bát Nhã Ba La Mật mới thông suốt được vạn pháp”. Phàm phu do bị các duyên nghiệp ngăn che tâm, nên chẳng biết được Thật tướng của các pháp. Hàng Nhị Thừa do còn chấp tướng Tịnh, nên cũng chưa rốt ráo thông suốt thật tướng các pháp. Trái lại tâm Bồ Tát thường được trí huệ Bát Nhã Ba La Mật soi sáng, nên rốt ráo thông suốt thật tướng các pháp.

–o0o–

Có thuyết nói trong Tứ Đại, thì nước là mạnh mẽ hơn hết, vì khắp trong hư không, khắp nơi trong đất…đều có nước. Hơn nữa, nhờ nước mà vạn vật được nuôi dưỡng và sinh tồn.

Lại có thuyết nói lửa là mạnh nhất, vì lửa có thể thiêu hủy được tất cả các vật. Hơn nữa, nhờ lửa sưởi ấm mà vạn vật được nuôi dưỡng và sinh tồn.

Lại có thuyết nói gió là mạnh nhất, vì gió làm rung động cả hư không, phá hoại cả 3000 đại thiên thế giới vv…

Phật dạy: “Tâm lực mới thật là mạnh nhất, vì tâm tạo ra 4 Đại” Bởi vậy nên học Bát Nhã Ba La Mật là học về tâm lực. Khi đã làm chủ được tâm lực rồi, là có thể dùng thần thông làm chuyển đổi cả thế giới vậy.

 KINH:

Muốn một phen tọa thiền mà được thân đầy khắp cả ba ngàn đại thiên thế giới, phải tu tập Bát Nhã Ba La Mật.

LUẬN:

Hỏi: Do nhân duyên gì mà Bồ Tát tọa thiền được như vậy?

Đáp: Các vị Trời Phạm Thiên khi thấy Bồ Tát tọa thiền, biến thân đầy khắp cả 3000 đại thiên thế giới, sẽ chẳng còn sanh tâm kiêu mạn nữa. Lại nữa, vì muốn độ chúng sanh, nên Bồ Tát tự biến nhỏ thành lớn, khiến chúng sanh được yên ổn.

Lại nữa, do nguyên nhân anh em Long Vương muốn phá thành Xá Bà Đề, nên ngài Mục Kiền Liên mới biến thân trùm khắp hư không, khiến anh em Long Vương sợ hãi mà tự rút lui. Nhờ vậy mà thành được an ổn.

Bởi nhân duyên vậy, nên Phật dạy: “Bồ Tát muốn được thân biến đầy khắp cả 3000 đại thiên thế giới, phải tu tập Bát Nhã Ba La Mật”.

KINH:

Muốn lấy một mảy lông nâng được cả ba ngàn đại thiên thế giới, mà chẳng làm kinh động chúng sanh, phải tu tập Bát Nhã Ba La Mật.

Muốn đem một suất ăn, một bộ y, một cành hoa, một cây đèn, một tràng phan, một bảo cái, mà có thể cúng dường được đầy đủ chư Phật, chư Tăng ở khắp mười phương thế giới, phải tu tập bát Nhã Ba La Mật.

LUẬN:

Hỏi: Vì sao Bồ Tát lại hiện các thần lực như vậy?

Đáp: Vì Bồ Tát muốn độ hết thảy chúng sanh trong khắp 3000 đại thiên thế giới.

Như trong kinh Pháp Hoa có nói: “Phật muốn tập hội các Hóa Phật ở khắp 10 phương thế giới về cõi Ta Bà này, nên trước tiên Phật dọn dẹp sạch sẽ cõi này bằng cách dời các hàng Trời, người, đi nơi khác”. Đây là Phật muốn cho chúng hội Pháp Hoa sanh được tín tâm thanh tịnh, mà dùng các thần lực biến hóa như vậy.

Lại nữa, có thời đức Phật cùng các Bồ Tát ở cõi Hương Tích đem cúng dường Phật Thích Ca Mưu Ni và chúng hội ở cõi Ta Bà này một bát cơm. Phật Thích Ca Mưu Ni đã dùng thần lực biến bát cơm ấy thành vị Cam Lồ, khiến cả đại chúng đều thọ dụng đầy đủ.

Tất cả những sự biến hóa nêu trên đây đều do tâm lực tạo ra cả. Cũng như vậy, Bồ Tát có thể nâng cả 3000 đại thiên thế giới ra khỏi chỗ khổ nạn, mà chúng sanh chẳng hay biết gì cả.

Hỏi: Cúng dường là tại tâm, chẳng phải tại vật, nên Bồ Tát mới lấy một bát cơm mà có thể cũng dường chư Phật và chư Bồ Tát ở khắp 10 phương. Chỉ có chư Phật và chư Đại Bồ Tát đã được tự tại vô ngại mới có thể thọ dụng được.

Còn chư Tăng ở trong chúng hội chưa được tự tại vô ngại thì làm sao có thể thọ dụng được?

Đáp: Đây là nương theo thần lực của Bồ tát mà thọ dụng vậy. Ví như Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi, do nguyện lực đã có thời dùng một bát hoan hỷ hoàn, mà có thể cúng dường cả 4 vạn 8 ngàn vị Tăng thọ dùng no đủ.

Lại nữa, chư tăng do lực thần chú, cũng có thể dùng một ít cơm mà bố thí cho vô lượng quỷ thần được no đủ.

Bồ Tát tu tập Bát Nhã Ba La Mật được vô lượng thần lực, trí huệ lực, nên được vô ngại cúng dường khắp cả 10 phương.

KINH:

Này Xá Lợi Phất! Bồ Tát Ma Ha Tát muốn khiến chúng sanh ở khắp mười phương được đầy đủ giới, định, huệ, giải thoát, giải thoát tri kiến, được đầy đủ bốn quả Thanh Văn, dẫn đến vào được Vô Dư Niết Bàn, phải tu tập Bát Nhã Ba La Mật.

LUẬN:

Bồ Tát do tu tập Bát Nhã Ba La Mật, được trí huệ minh lợi, phân biệt được tướng và tánh của hết thảy các pháp, biết rõ hết thảy các pháp đều là KHÔNG, là bất khả đắc, vào được nơi Thật Tướng các pháp mà chẳng thủ chấp. Được như vậy rồi, Bồ Tát lại dạy chúng sanh tu tập Bát Nhã Ba La Mật, khiến họ được đầy đủ giới, định, huệ, giải thoát, giải thoát tri kiến, được tứ quả Thanh Văn, dẫn đến được Vô Dư Niết Bàn.

KINH:

Muốn được quả báo lớn, khi thật hành bố thí, như được sanh vào nhà quyền quý, như được sanh lên cõi Trời Tứ Thiên Vương, Đao Lợi, Dạ Ma, Đâu Suất, Hóa Lạc, Tha Hóa, như được vào Sơ Thiền, Nhị Thiền, Tam Thiền, Tứ Thiền, Không Vô Biên Xứ, Thức Vô Biên Xứ, Vô Sở hữu Xứ, Phi Hữu Tưởng Phi Vô Tưởng Xứ, như được tám Thánh Đạo, bốn quả Thanh Văn…, dẫn đến như được Phật quả, phải tu tập Bát Nhã Ba La Mật.

LUẬN:

Trong kinh có chép mẫu chuyện như sau:

Ngài Xá Lợi Phất đem bát cơm cúng dường Phật, Phật liền đem cho chó ăn và hỏi: “Này Xá Lợi Phất! Ông đem bát cơm cũng dường ta, rồi ta liền cho chó ăn. Như vậy ai có phước hơn ai?”

Ngài Xá Lợi Phất đáp: “Phật bố thí cho chó ăn có phước hơn là con cúng dường Phật”.

Phật dạy: “Ai cũng cho Phật là ruộng phước (phước điền) vào bậc nhất, lại thường cho con chó là ruộng ác (ác điền), nên ta mới đem bát cơm ấy cho chó ăn để người đời biết rõ là tâm sanh phước, chẳng phải là ruộng (điền) sanh phước”.

Hỏi: Như vậy thì cúng dường Phật chẳng có sanh phước hay sao?

Đáp: Tâm là chủ, ruộng (điền) là khách. Điền ở bên ngoài trợ giúp cho tâm sanh phước mà thôi. Nếu chẳng do tâm chủ động thì chẳng sao có thể sanh được phước đức lớn.

Phước đức lớn do tâm sanh. Nếu tâm được Bát Nhã dẫn đạo thì phước đức sẽ vô lượng, vô biên. Vì sao? Vì hợp với Thật Tướng Pháp.

Nên biết tâm thí phân biệt có 3 trường hợp. Đó là:

-Bi thí là chúng độ sanh.

 -Phước Đức Thí là cúng dường chư Phật và chư Thánh Hiền.

 -Thật Tướng Thí là bố thí với tâm Bát Nhã. Thật Tướng Thí mới có được vô lượng phước đức.

KINH:

Này Xá Lợi Phất! Bồ Tát Ma Ha Tát muốn dùng lực phương tiện của trí huệ, khi thực hành bố thí, để được đầy đủ 6 pháp Ba La Mật phải tu tập Bát Nhã Ba La Mật.

Ngài Xá Lợi Phất bạch Phật: “Bạch Thế Tôn! Vì sao dùng lực phương tiện trí huệ khi thực hành bố thì mà được đầy đủ 6 pháp Ba La Mật?”

Phật dạy: “Này Xá Lợi Phất! Khi thực hành bố thí, nếu xem tất cả người thí, kẻ thọ và vật thí đều bấ khả đắc, thì được đầy đủ Đàn Ba La Mật, nếu xem tội cùng không tội đều bất khả đắc, thì được đầy đủ Thi La Ba La mật, nếu tâm chẳng động thì được đầy đủ Sẵn Đề Ba La Mật, nếu thân và  tâm đều tinh tấn thì được đầy đủ Tỳ Lê Gia Ba La Mật, nếu tâm chẳng loạn, chẳng chấp, thì được đầy đủ Thiền Na Ba La Mật, nếu biết rõ hết thảy pháp đều bất khả đắc, thì được đầy đủ Bát Nhã Ba La Mật”.

LUẬN:

Hỏi: Lực phương tiện trí huệ thành tựu được các pháp, mà lại chẳng có phá hoại các pháp. Nay nói cả 3 pháp là người thí, kẻ thọ và vật thí đều bất khả đắc. Như vậy làm sao còn có thể gọi là phương tiện trí huệ được nữa?

Đáp: Nên phân biệt có 2 trường hợp bất khả đắc. Đó là:

-Được bất khả đắc.

-Được bất khả đắc KHÔNG

Được bất khả đắc là được đoạn diệt tướng

Được bất khả đắc KHÔNG là được phương tiện huệ.

Do bố thí cả 3 pháp đều KHÔNG (tam luân không tịch), mà được đầy đủ phương tiện trí huệ.

Chẳng đọa về CÓ (hữu), chẳng đọa về KHÔNG (vô), chỉ vì hết thảy chúng sanh mà khởi tâm đại bi, hành bố thí là được đầy đủ phương tiện huệ.

Lại nữa, cúng dường chư Phật trong 3 đời và khắp 10 phương, tùy hỷ công đức hồi hướng về Vô Thượng Bồ Đề cũng là được đầy đủ phương tiện trí huệ.

Phương tiện trí huệ dẫn đến phương tiện Bát Nhã Ba La Mật.

KINH:

Này Xá Lợi Phất! Bồ Tát Ma Ha Tát muốn được công đức chư Phật trong 3 đời, phải tu tập Bát Nhã Ba La Mật.

LUẬN:

Hỏi: Công đức của chư Phật 3 đời là bất khả đắc. Như vậy vì sao nói muốn được công đức như chư Phật 3 đời, thì phải tu tập Bát Nhã Ba La Mật?

Đáp: Chính vì công đức của chư Phật 3 đời là bất khả đắc nên muốn được như vậy, phải tu tập Bát Nhã Ba La Mật.

Hỏi: Vì sao nói Đức Phật A Di Đà có thọ mạng vô lượng, quang minh vô lượng, và độ vô lượng chúng sanh?

Đáp: Các thế giới Phật có tịnh, có bất tịnh.

Như trong kinh Tam Thập Tam Thiên có ghi mẫu chuyện sau đây:

Phật an cư ở cõi Trời Tam Thập Tam Thiên. Đến ngày Tự Tứ, cả 4 chúng ở trần gian chẳng thấy Phật đâu. Buồn rầu, bèn nhờ cậy Ngài Mục Kiền Liên đến bạch Phật về sự việc ấy.

Ngài Mục Kiền Liên bạch Phật: “Bạch Thế Tôn! Vì sao Phật bỏ chúng sanh ở cõi trần mà lên cõi Trời an cư?”

Phật dạy: “Này Mục Kiền Liên! Ông hãy vào định mà quan sát thế giới”.

Ngài Mục Kiền Liên liền nhập định. Nhờ có đại thần lực của Phật, nên Ngài thấy được chư Phật cùng với đại chúng ở khắp thế giới.

Sau đó Ngài xuất định và bạch Phật rằng: “ Bạch Thế Tôn! Cúi xin Thế Tôn đừng xả bỏ chúng sanh ở trần gian. Cúi xin Thế Tôn vì họ mà hóa độ”.

Phật dạy: “Khi ông vào định ông có thấy đất ở nước Phật phương Đông toàn bằng vàng ròng chăng?”

Ngài Mục Kiền Liên đáp: “Bạch Thế Tôn! Ở nơi đây các đệ tử của Phật đều là những bậc A La Hán, có đầy đủ 6 thần thông, đều tự tại, vô ngại, đất toàn bằng vàng ròng. Lại có nước, các đệ tử  Phật đều là những bậc Bích Chi Phật, đất toàn bằng bạc. Lại có nước các đệ tử của Phật đều là những bậc Bồ Tát, thường phóng quanh minh, và đất toàn bằng bảy báu trang nghiêm”.

Phật dạy: “Các vị Phật ấy đều là Hóa Thân của ta, làm Phật sự ở trong khắp 10 phương”.

–o0o–

Bởi vậy nên phân biệt có thế giới tịnh, như thế giới của Đức Phật A Di Đà, cũng có thế giới bất tịnh như thế giới Ta Bà này vậy.

Vì lòng đại bi, thương xót chúng sanh ở cõi Ta Bà này mà đức Phật Thích Ca Mưu Ni đã thị hiện sanh về cõi này để giáo hóa họ.

Phật thương xót chúng sanh như mẹ thương con. Tình thương của mẹ bao la rộng lớn, nên dù con sống trong cảnh bần cùng, dù con ở chốn dơ bẩn, xú uế, mẹ cũng chẳng bao giờ rời bỏ con.

Y theo nghĩa này mà nói, thế giới Phật cũng có tịnh và bất tịnh vậy.

(Hết quyển 32)