LUẬN
ĐẠI TRÍ ĐỘ

Nguyên tác: Bồ tát Long Thọ
Hán dịch: Pháp sư Cưu Ma La Thập
Việt dịch: Tỳ kheo ni THÍCH NỮ DIỆU KHÔNG

 

TẬP I
QUYỂN 20

Phẩm thứ nhất
(tiếp theo)

Ba Tam Muội: Không, Vô Tướng, Vô Tác – Bốn Thiền – Bốn Vô Lượng Tâm – Bốn Vô Sắc Định – Tám Bối Xả – Tám Thắng Xứ – Chín Thứ Đệ Định – Mười Nhất Thế Nhập.

KINH

Cũng được đầy đủ 3 Giải Thoát Môn “Không, Vô Tướng, Vô Tác”, đầy đủ 4 Thiền, 4 Vô Lượng Tâm,4 Vô Sắc Định, 8 Bối Xả, 8 Thắng Xứ, 9 Thứ Đệ Định, 10 Nhất thế Nhập.

LUẬN

Hỏi: Vì sao sau khi nói 37 Phẩm Trợ Đạo rồi, mới nói đến các pháp này ?

Đáp: 37 Phẩm Trợ Đạo dẫn đường đến Niết Bàn. Thế nhưng, muốn vào Niết Bàn, hành giả phải vào ba cửa Không, Vô Tướng và Vô Tác; lại phải lần lượt trú nơi 4 Thiền. Vì sao ? Vì Thiền Định là chìa khóa khai mở tâm ở cõi Dục, là diệu pháp giúp hành giả kiện toàn 37 Phẩm Trợ Đạo.

Sau đó, hành giả lại phải y nơi các thiền định cõi sắc (Sắc Định) và các thiền định cõi Vô Sắc (Vô Sắc Định) mới vào được 4 Vô Lượng Tâm, 8 Bối Xả, 9 Thứ Đệ Định và 10 Nhất Thế Nhập.

Lúc bấy giờ, tâm mới được nhu nhuyến, tự tại, tùy ý ra vào các cõi, để cứu độ chúng sanh. Ví như người cỡi ngựa trận phải tập dượt thuần thục,  lại phải điều ngựa theo ý mình, rồi mới xông pha vào trận mạc được.

I)- 3 Tam Muội: Không, Vô Tướng, và Vô Tác

Không Tam Muội, Vô Tướng Tam Muội và Vô Tác Tam Muội là 3 cửa dẫn vào Niết Bàn .

Bởi vậy nên 3 Tam Muội này còn được gọi là 3 Niết Bàn Môn hay là 3 Giải Thoát Môn.

Hỏi: Thế nào gọi là KHÔNG Môn ?

Đáp: Các pháp do duyên hòa hợp sanh, chẳng do ai làm ra, chẳng có tự ngã, là tự tánh KHÔNG, tự tướng KHÔNG, dẫn đến Niết Bàn cũng là như vậy.

Hành giả quán các pháp do duyên sanh, nên chỉ là hư vọng, chỉ là giả danh, chẳng thật có. Như vậy gọi là KHÔNG Môn.

Hỏi: Thế nào gọi là VÔ TƯỚNG Môn?

Đáp: Các pháp do duyên hòa hợp sanh, chỉ là giả danh, chỉ có giả tướng. Thế nhưng, phàm phu điên đảo chấp các giả tướng ấy là thật có, rồi khởi chấp có ngã, có ngã sở. Tất cả các tướng ấy đều là bất khả đắc, đều là vô tướng cả.

Do nghiệp cảm nhân duyên đời trước mà có thức, có danh sắc, có 6 nhập, hình thành sắc thân ở đời này. Lại do duyên 6 nội nhập và 6 ngoại nhập hòa hợp, mà có ra các tướng nói năng, đi đứng, nằm ngồi, tốt xấu, thương ghét, cũng như có các tướng Nam, tướng Nữ v.v…Tất cả các tướng ấy đều bất khả đắc cả. Lại nữa, thân do 4 Đại tạo sắc duyên hợp tạo thành, nhưng lại thường xuyên trao đổi với 4 Đại bên ngoài qua hơi thở, qua sự ăn uống, qua sự bài tiết… khiến thân được nuôi dưỡng và tương tục tăng trưởng. Như vậy chẳng có gì là thật ngã, chẳng có gì là thật ngã sở cả.

Lại nữa, phải có đủ đầu, mặt, chân tay, da, thịt xương, gân, tủy, não…mới được gọi là thân. Nếu đem tách rời từng bộ phận riêng rẽ mà muốn tìm thân, thì thân là bất khả đắc vậy.

Thân đã là bất khả đắc thì tất cả các tướng, như đã nêu trên đây cũng đều là bất khả đắc cả. Như vậy gọi là VÔ TƯỚNG Môn.

Như bài kệ thuyết:

Ngưỡng lên cúi xuống,
Đi đứng nằm ngồi,
Nói năng nhìn ngó,
Thảy đều không thật.
Do phóng ý thức,
Phân biệt Nam Nữ
Hiện khởi các tướng,
Liền sanh liền diệt.
Người không trí huệ,
Vọng tâm điên đảo,
Khởi sanh chấp ngã,
Chẳng rõ thân này.
Xương gân nối liền,
Da thịt bao che.
Ví như người máy,
Giả tạo cử động,
Tuy chẳng phải thật,
Vọng tưởng là thật.
Ví như vàng nóng,
Thả vào nước lạnh.
Ví như rừng tre,
Trong cơn hỏa hoạn,
Do duyên hòa hợp,
Phát ra tiếng nổ.

Hỏi: Thế nào gọi là VÔ TÁC Môn?

Đáp: Do các pháp đều là KHÔNG, đều là Vô Tướng, nên cũng đều là Vô Tác. Như vậy gọi làVÔ TÁC Môn.

Hỏi: Muốn vào cả 3 môn này, hành giả đều phải dùng trí huệ quán. Như vậy vì sao lại gọi 3 môn này là Tam Muội ?

Đáp: Tuy rằng phải dùng trí huệ quán mới vào được ba môn này, thế nhưng nếu chẳng trú trong định thì sẽ bị rơi về tà nghi vậy. Trái lại nếu thường trú trong định thì sẽ phá sạch hết các phiền não, rõ được Thật Tướng các pháp.

Bởi nhân duyên vậy, nên gọi 3 môn này là Tam Muội. Nếu chẳng thường ở trong định thì chẳng có thể vào được ba môn này. Vì sao ? Vì sẽ bị chìm đắm trong sanh tử. Như bài kệ thuyết:

Sa Môn Tỳ Kheo,
Thường trì tịnh giới,
Thường quán pháp KHÔNG;
Thường trú trong định.
Chân thật hành Đạo,
Phải thường nhất tâm,
Siêng năng tinh tấn,
Hành các pháp thiện,
Đoạn các pháp ác,
Diệt các pháp si.
Xả chấp năm ấm,
Hướng về Đạo Pháp,
Đến chỗ thường lạc,
Giải thoát Niết Bàn,
Được lạc bậc nhất, .
Trong tất cả lạc.

Bởi nhân duyên vậy, nên 3 Tam Muội KHÔNG, vô TƯỚNG và VÔ TÁC cũng được gọi là 3 Niết Bàn Môn, hay là 3 Giải Thoát Môn.

Hỏi: Vì sao gọi 3 Tam Muội này là 3 Giải Thoát Môn ?

Đáp: Vì người tu 3 Tam muội này sẽ vào được Vô Dư Niết Bàn, là được Chân Giải Thoát vậy.

Tu 3 Tam Muội này khiến thân tâm được giải thoát khỏi hết thảy các khổ, vì 3 Tam Muội này là nhân của Niết Bàn. Đây là nói về nhân trong quả, vì người được 3 Tam Muội này thì sẽ có định lực, có tâm tương ưng pháp. Vì thân nghiệp và khẩu nghiệp đều đã được hòa hợp với các thiện hạnh, nên dù có khởi tâm bất tương ưng pháp, cũng thường trú trong Tam Muội.

Tam Muội ví như ông vua, trí huệ ví như các quan đại thần. Vì sao ? Vì định lực chẳng phải duyên sanh cùng với các pháp, mà chỉ cộng sanh, cộng trú, cộng diệt, cộng hành nhằm tạo ra các pháp lợi ích cho chúng sanh .

—o0o—

Hành giả lần lượt tu các hạnh quán:

– Quán 5 ấm đều là KHÔNG, là tự tướng không, nên vào được KHÔNG Tam Muội.

– Quán Ngã và Ngã sở đều là bất khả đắc, nên vào được Vô Tướng Tam Muội.

– Quán 4 hạnh Niết Bàn khiến các khổ, các phiền não cùng 3 độc, tham, sân, si, đều tận diệt. Quán như vậy sẽ được hết thảy các diệu pháp, ly hết thảy các pháp thế gian, nên vào được VÔ TÁC Tam Muội .

Lại quán 10 hạnh, biết rõ 5 ấm do duyên sanh đều là vô thường, là khổ. Lại quán 4 hạnh, biết rõ 5 thọ là phiền não, là nghiệp hữu lậu, hòa hợp sanh ra các khổ (Tập Đế). Lại quán 6 nhân và 4 duyên sanh ra các quả khổ (Nhân Duyên). Lại quán 4 Chánh Cần và 8 Thánh Đạo, nhằm xa lìa 5 thọ, dẫn Niết Bàn . Quán như vậy nên chẳng còn điên đảo, vào được nơi Chánh Đạo..

Các bậc Thánh Hiền đã xa lìa Ái Kiết phiền não nên vào được 3 Giải Thoát Môn.

Ở Đệ Cửu Địa tuy chưa rốt ráo được Thật Tướng các pháp, nhưng vì đã diệt được các khổ, lại đã đạt đến chỗ hành xứ chân thật, nên cũng vào được pháp KHÔNG.

Hỏi: Nói pháp KHÔNG là đủ rồi. Sao còn nói Tự Tánh KHÔNG, Tự Tướng KHÔNG làm gì nữa ?

Đáp: Để tránh sự hiểu lầm về nghĩa KHÔNG nên nói đến Tự Tánh KHÔNG, Tự Tướng KHÔNG của các pháp.

Người quán pháp KHÔNG biết rõ các pháp thế gian đều chẳng thật có, đều là như mộng, như huyễn, đều là tự tánh KHÔNG, tự tướng KHÔNG vậy.

Người quán KHÔNG nếu còn chấp tướng KHÔNG, thì sẽ duyên khởi sanh tâm kiêụ mạn, sẽ vẫn còn kiết sử vậy. Cho nên lại phải quán VÔ TƯỚNG để diệt các chấp về tướng KHÔNG. Lại nữa, nếu ở nơi vô tướng mà còn sanh hý luận phân biệt, thì vẫn còn chấp tướng Vô Tướng. Như vậy là còn “Hữu sở Tác”. Cho nên lại còn phải quán VÔ TÁC. Muốn được vậy phải tận diệt 3 độc, không còn khởi các nghiệp thân, khẩu, ý nữa. Tư Duy như vậy mới nhập được vào Vô Tác Giải Thoát Môn.

—o0o—

Trong kinh nói “3 Giải Thoát Môn chỉ là 1 pháp, nhưng tùy theo các duyên tu hành mà phân ra làm 3 pháp.

– Quán các pháp KHÔNG và tu KHÔNG Giải Thoát Môn

– Ở trong KHÔNG mà chẳng chấp tướng KHỒNG, là tu VÔ TƯỚNG Giải Thoát Môn.

– Ở trong VÔ TƯỚNG mà chẳng có Sở Tác là tu VÔ TÁC Giải Thoát Môn.

Ví như vào thành Niết Bàn có 3 cửa. Ở một thời chẳng có thể vào 3 cửa. Sau khi vào cửa KHÔNG rồi, chẳng nên vội chấp KHÔNG mà phải đi thẳng vào chỗ nhập sự, biện lý. Thật vậy, nếu vào cửa KHÔNG rồi mà chấp tướng KHÔNG thì liền bị chặn lại nơi cửa KHÔNG. Phải chẳng còn chấp tướng KHÔNG nữa mới vào được cửa thứ hai, là cửa VÔ TƯỚNG. Lại nữa, nếu ở nơi VÔ TƯỚNG mà tâm còn sanh chấp tướng vô TƯỚNG, thì cũng còn là hý luận, nên liền bị chặn lại nơi cửa VÔ TƯỚNG. Bởi vậy lại phải bỏ luôn cả chấp về VÔ TƯỚNG mới vào được cửa thứ ba là cửa VÔ TÁC vậy.

—o0o—

Trong A Tỳ Đàm có giải rõ như sau:

– KHÔNG Giải Thoát Môn thường duyên Khổ Đế, cho nên phải nhiếp 5 ấm, mới vào được cửa này.

– VÔ TƯỚNG Giải Thoát Môn duyên Đệ Nhất Pháp, cho nên lại phải ly các duyên pháp mới vào được cửa này.

– VÔ TÁC Giải Thoát Môn thường duyên cả 3 Đế là Tục Đế, Chân Đế và Diệu Đế, cho nên phải nhiếp 5 ấm mới vào được cửa này.

Kinh Đại Thừa Ma Ha Diễn nói: “Ba Giải Thoát Môn duyên Thật Tướng các pháp”. Dùng 3 Giải Thoát Môn quán “thế gian tức Niết Bàn”. Vì sao ? Vì thế gian cũng như Niết Bàn đều là Không, là Vô Tướng, là Vô Tác vậy.

Hỏi: Kinh Niết Bàn chỉ nói đến một môn. Sao ở đây lại nói đến 3 môn ?

Đáp: Trước đây đã nói rõ rằng “Pháp tuy có 1, mà nghĩa có 3”. Ngoài ra, tùy theo 3 hạng người, mà nói 3 môn sai khác:

– Đối với hạng người có kiến chấp nhiều, thì phải vì họ nói KHÔNG Giải Thoát Môn, để họ thấy rõ hết thảy các pháp đều do duyên sanh, chẳng có Tự Tánh, chẳng có Tự Tướng, nên đều là KHÔNG.

Khi họ đã vào được cửa KHÔNG rồi, thì tất cả các chấp đều tự tiêu diệt.

– Đối với hạng người có ái chấp nhiều, thì phải vì họ nói VÔ TÁC Giải Thoát Môn.

Khi họ đã thấy rõ các pháp đều vô thường, đều khổ, đều theo duyên sanh, chẳng thật có, thì họ sẽ nhàm chán ái chấp, vào được Đạo.

– Đối với hạng người vừa có kiến chấp, vừa có ái chấp nhiều, thì phải vì họ nói VÔ TƯỚNG Giải Thoát Môn.

Khi họ đã rõ biết các tướng đều là KHÔNG, chẳng có các tướng phân biệt, như tướng Nam, tướng Nữ .v.v., thì họ sẽ đoạn được cả ái chấp lẫn kiến chấp.

Bởi nhân duyên vậy, nên Phật, tùy duyên, nói pháp. Có lúc Phật nói 1 môn, có lúc nói 2 môn, có lúc nói 3 môn.v.v.

Bồ Tát phải học hết thảy các Đạo, nhằm dẫn dắt chúng sanh, cho nên tu học hết cả 3 Giải Thoát Môn.

II)- 4 Thiền:

Hỏi: 4 Thiền gồm những gì? Ý nghĩa ra sao?

Đáp: 4 Thiền gồm có:

– Sơ Thiền
– Đệ Nhị Thiền
– Đệ Tam Thiền
– Đệ Tứ Thiền

Thiền có 2 thứ. Đó là: Tịnh Thiền và Vô Lậu Thiền.

Tịnh Thiền là hữu lậu, vì còn duyên 5 ấm hữu lậu.

Trái lại, ở nơi Vô Lậu Thiền, thì 5 ấm trở thành vô lậu. Vì sao? Vì nhiếp tâm ở nơi Đệ Tứ Thiền, hành giả mới vào Vô Lậu Thiền, ở nơi đây, hành giả rõ biết “thân và khẩu nghiệp đều là sắc pháp”; lại rõ biết dư tàn của tâm là vô sắc pháp, chẳng nhiếp về vô lậu và hữu lậu.

Khi tu Hữu Lậu Thiền, thì 5 ấm còn hữu lậu. Khi tu Vô Lậu Thiền, thì 5 ấm trở thành vô lậu. Tất cả vẫn còn là hữu vi pháp.

Người tu Hữu Lậu Thiền nhiếp tâm nơi Sắc Giới Kế. Người tu Vô Lậu Thiền không còn nhiếp tâm nơi Sắc Giới Kế nữa, mà nhiếp tâm nơi Định Thiền, quán nghiệp thân và nghiệp khẩu đều là tâm bất tương ưng hành pháp, chẳng phải là tâm tương ưng hành pháp, cũng chẳng phải là tâm sở pháp.

Người tu Vô Lậu Thiền chỉ nhiếp tâm nơi Thọ Thiền, Thọ Chủng, Tưởng Chủng và Tương Ưng Hành Chủng. Do vì tâm sở pháp cùng với tâm tương ưng pháp đều nhiếp nơi Thiền, nên cũng nhiếp được ý thức. Nơi Đệ Tứ Thiền, hoặc có tâm hành mà chẳng thọ các tương ưng hành, hoặc có thọ các tương ưng hành mà chẳng tùy tâm hành. Tất cả đều có nói rõ trong A Tỳ Đàm.

—o0o—

Bồ Tát được Định Thiền, dùng các phương tiện thiện xảo độ chúng sanh .

Hỏi: Bát Nhã Ba La Mật chỉ nói về pháp KHÔNG. Bồ Tát làm sao ở trong KHÔNG mà khởi được các Thiền Định ?

Đáp: Bồ Tát rõ biết các pháp do duyên sanh đều là Vô Tự Tánh, Vô Sở Hữu nên rất dễ xả, chẳng hề đắm Thiền lạc.

Trái lại, chúng sanh do chấp tâm, nên rất khó xả tâm diệu lạc nơi Thiền vị.

Bởi vậy nên Bồ Tát khởi tâm đại bi, dạy chúng sanh tu Thiền Định:

– Ly được 5 dục, trừ được 5 cái, là được hỷ lạc vào Sơ Thiền.

– Diệt giác quán, nhiếp tâm thanh tịnh, được vi diệu hỷ, nhập Đệ Nhị Thiền.

– Ly hết thảy hỷ, được viên mãn lạc, nhập Đệ Tam Thiền.

– Ly hết thảy khổ lạc, trừ hết thảy ưu hỷ, không cả hơi thở ra vào, dùng xả niệm thanh tịnh vi diệu để tự trang nghiêm, nhập Đệ Tứ Thiền.

Bồ Tát biết hết thảy các pháp đều là KHÔNG, VÔ TƯỚNG, VÔ TÁC, nhưng vì chúng sanh không hay biết, nên phải phương tiện dùng các pháp thiện để giáo hóa họ.

Nếu còn chấp có pháp KHÔNG, thì cũng phải xả chấp KHÔNG đó. Như vậy mới được Thiền Vô Xả, Vô Đắc. Vì sao? Vì tướng của pháp KHÔNG cũng là bất khả đắc.

Bồ Tát, khi hành Thiền, chẳng có ai chấp thiền tướng. Cũng như người bệnh nặng mong được chóng lành bệnh mà uống thuốc; người tu hành muốn được trì giới thanh tịnh, muốn được trí huệ sáng suốt mà hành thiền định vậy.

Bồ Tát dùng pháp quán KHÔNG để trừ năm dục điên đảo,mà chẳng hềchấpKHÔNG, giống như ngườidùng độc đểtrị độc,  mà chẳngđể cho chất độc nhiễm vàomình vậy.

III)- 4 Vô Lượng Tâm

Hỏi: 4 Vô Lượng Tâm gồm những gì ? Ý nghĩa ra sao?

Đáp: 4 Vô Lượng Tâm là 4 đức vô lượng mà Phật và Bồ Tát thường hành để làm lợi ích cho vô lượng chúng sanh, đem lại cho họ sự an lạc và độ họ ra khỏi các khổ não, hoạn nạn.

4 Vô Lượng Tâm gồm có:

  1. Từ Vô Lượng Tâm
  2. Bi Vô Lượng Tâm
  3. Hỷ Vô Lượng Tâm
  4. Xả Vô Lượng Tâm

* Từ Tâm: là tâm thương yêu chúng sanh, sẵn sàng giúp đỡ họ, đem lại lợi ích và sự an vui cho mọi chúng sanh, không phân biệt kẻ oán người thân, kẻ nghèo người giàu.v.v.

Từ Vô Lượng Tâm có sức mạnh vô cùng tận, trừ được các tâm sân nhuế nơi chúng sanh, chế phục được những chúng sanh cực kỳ ác độc, hướng họ vào đường thiện.

Bi Tâm: Là tâm thương xót chúng sanh đau khổ, sẵn sàng cứu vớt họ ra khỏi cảnh khổ đau.

Bi Vô Lượng Tâm có sức mạnh vô cùng tận, giúp người tu hành vượt mọi khó khăn, thử thách trên bước đường hành Đạo. Nhờ vậy mà người tu hành có thể bố thí những thứ khó bố thí, nhẫn những điều khó nhẫn, làm những việc khó làm, nhằm cứu khổ cứu nạn cho chúng sanh.

*Hỷ Tâm: Là tâm vui mừng trước những phước lợi của chúng sanh, vui mừng thậy chúng sanh tinh tấn tu hành thăng tiến trên bước đường giải thoát, giác ngộ.

Hỷ Vô Lượng Tâm có sức mạnh vô cùng tận, khiến dứt được các nỗi lo buồn, ưu bi, khổ não của chúng sanh.

Xả Tâm: Là tâm thí xả, sẵn sàng tha thứ cho tất cả những ai đến nhục mạ, mắng nhiếc mình, đến xúc phạm tài sản cũng như tánh mạng của mình; sẵn sàng xả bỏ tài sản cũng như sanh mạng của mình, nhằm đem lại sự an vui, lợi lạc cho chúng sanh.

Xả Vô Lượng Tâm có sức mạnh vô cùng tận, khiến người tu hành giữ được tâm bình đẳng, đối với mọi chúng sanh, không phân biệt đối xử, thương ghét…; lại dứt trừ được lòng tham dục, sân nhuế… nơi chúng sanh.

Hỏi: 4 đức Từ, Bi, Hỷ, Xả đã được nói nhiều trong kinh rồi. Nay còn nói thêm 4 Vô Lượng Tâm làm gì nữa?

Đáp: Vì muốn chúng sanh thấy rõ 4 Vô Lượng Tâm là pháp bảo, đem lại phước đức lớn vậy.

Thế nhưng, phải tùy đối tượng chúng sanh, mà phương tiện nói pháp thích hợp với căn tánh của họ. Ví như:

– Đối với người bị sắc trói buộc, nhưng đã có ý nhàm chán sắc, thì nên vì họ nói “4 Vô Sắc Định”.

– Đối với người ở trong duyên chẳng được tự tại, tùy ý quán sở duyên; thì nên vì họ nói “8 Thắng Xứ”.

– Đối với những người ở trong Đạo chẳng được thông suốt, thì nên vì họ nói “8 Bối Xả”.

– Đối với những người tâm chẳng được điều hòa nhu nhuyến, thì nên vì họ nói “9 Thứ Đệ Định”, dạy họ nhập thiền định.

– Đối với những người chẳng được Nhất Thế Duyên, chỉ tùy ý giải, thì nên vì họ nói “10 Nhất Thế Nhập”.

—o0o—

Nếu thường ái niệm chúng sanh khắp 10 phương, muốn được thấy họ an vui, thì phải khởi Từ Tâm.

Từ Tâm tương ưng với Thọ, Tưởng, Hành và Thức, duyên khởi nơi thân và khẩu, tác thành những hạnh từ.

Từ tâm pháp có sức mạnh vô cùng, duyên khởi các nghiệp thiện ở đời sau. Ở nơi cõi Sắc, từ tâm pháp, dù là hữu lậu, dù là vô lậu, cũng làm căn bản cho các thiền, làm trung gian cho các thiền. Từ tâm tương ưng với bi tâm, hỷ tâm và xả tâm, nên trừ được tận gốc các ưu bi, khổ não của chúng sanh.

Trong A Tỳ Đàm có nói: “Khi chúng sanh còn chấp tướng là còn tâm hữu lậu; khi vào được Thật Tướng các pháp rồi mới có được tâm vô lậu”.

—o0o—

Khi Bồ Tát Vô Tận Ý hỏi Phật: “Bạch Thế Tôn ! Có bao nhiêu thứ duyên”. Phật dạy: “ Có 3 thứ duyên. Đó là: Duyên chúng sanh, duyên pháp và vô duyên”.

Duyên chúng sanh

Phật dạy rằng: “ Này các Tỳ Kheo từ tâm rộng lớn, vô lượng, vô biên. Người khéo tu là người mở rộng từ tâm đối với hết thảy muôn loài chúng sanh trong khắp mười phương thế giới. Bi, Hỷ, Xả cũng là như vậy”.

Từ tâm trừ được sân hận, xan tham, phiền não. Ví như ngọc Ma Ni để vào nước đục, khiến nước trở thành trong, người có từ tâm xa lìa được 3 độc tham, sân, si, cho nên dù gặp người đến mắng nhiếc đánh đập.v.v. cũng vẫn giữ tâm bình thản, chẳng có sân hận.

Từ là duyên sanh lạc, cho nên người vào được Từ Tâm Tam Muội, liền trừ được các khổ, và liền được an vui.

Người nhất tâm cầu Từ Tam Muội được tâm từ rộng lớn, vô lượng, duyên khắp chúng sanh, phá tan oán tặc, phiền não.

Trái lại người có tâm nhỏ hẹp thường chấp các việc nhỏ, để rồi sanh tâm sân hận, ảo não.

Người có tâm rộng lớn là người tin nơi quả báo phước lạc, là người mong cầu Niết Bàn thanh tịnh, thường tu tịnh giới.

Người có tâm rộng lớn có trí tuệ rộng lớn có thể biết hết thảy chúng sanh, mà chẳng sanh tâm phân biệt đối xử, lại từ niệm hết thảy chúng sanh, xem hết thảy chúng sanh như cha, mẹ, anh, chị, em, thân bằng quyến thuộc của mình, muốn cho hết thảy chúng sanh được an vui.

Như vậy gọi là “Duyên chúng sanh”.

Duyên pháp

Do từ niệm hết thảy chúng sanh ở khắp 10 phương, muốn thấy họ được an vui, mà phá trừ được chấp ngã. Vì sao? Vì do 5 ấm hòa hợp duyên khởi, mới có ngã tương tục sanh, nhưng ngã cũng như 5 ấm đều là tự tướng KHÔNG, tự tánh KHÔNG cả.

Bởi nhân duyên vậy, nên người có tâm từ thường nhất tâm từ niệm chúng sanh, thương xót chúng sanh, muốn chúng sanh được an lạc, để rồi tùy theo niệm khởi của chúng sanh, mà hiển bày các thiện pháp, nhằm đem lại sự an lạc cho họ.

Như vậy gọi là “Duyên pháp”.

* Vô duyên

Tâm Phật chẳng trú ở hữu vi, chẳng trú ở vô vi, chẳng y nơi 3 đời. Vì sao? Vì rõ biết các duyên đều là hư dối, là điên đảo, là chẳng thật có.

Chúng sanh vì chẳng rõ được Thật Tướng các pháp nên mới qua lại trong các nẻo đường sanh tử, luân hồi; vì thường khởi tâm chấp phân biệt nên mới có thủ, có xả.

Trái lại, chư Phật có Thật Trí Huệ, thường ở nơi Thật Tướng pháp, thường duyên chúng sanh, thường duyên pháp mà vẫn chẳng thấy có chúng sanh, chẳng thấy có pháp.

Như vậy gọi là “Vô duyên”.

Bi tâm, Hỷ tâm, Xả tâm cũng như vậy cả.

—o0o—

Hỏi: Chúng sanh ở trong năm đạo đều có sự phân biệt. Như vậy vì sao nói “Dùng Từ quán có thể khiến cho hết thảy chúng sanh đều thọ lạc; dùng Bi quán có thể khiến cho hết thảy chúng sanh hết thọ khổ”?

Đáp: Bồ Tát tu Từ Vô Lượng Tâm, phát đại thệ nguyện, nguyện hết thảy chúng sanh được thọ lạc, rồi mới nhập thiền định. Nguyện ấy dần dần tăng trưởng, lớn mạnh hơn lên. Lúc ban đầu dấy từ niệm đối với người thân, với thiện tri thức của mình, rồi dần dần lan rộng đến các chúng sanh khác, xem kẻ oán người thân bình đẳng, nguyện được thấy họ được an vui.

Như vậy là Từ Tâm tăng trưởng lớn mạnh dần, dẫn đến thành tựu được Từ Vô Lượng Tâm vậy.

Đối với Bi tâm, Hỷ Tâm và Xả Tâm cũng đều như vậy cả.

Hỏi: Từ, Bi và Hỷ đem lại phước đức. Còn hành Xả có ích gì ?

Đáp: Hành xả khiến trừ được xan tham, trừ được ưu bi khổ não. Quán hết thảy chúng sanh muốn họ trừ được xan tham, xa lìa hết ưu bi khổ não, gọi là “Quán Xả Tâm”.

Hỏi: Hỷ và Lạc khác nhau như thế nào ?

Đáp: Lạc thể hiện ở nơi thân, Hỷ thể hiện ở nơi tâm. Lạc tương ưng với 5 thức ngoài, Hỷ tương ưng với ý thức. Lạc dấy sanh nơi 5 trần “Sắc, thanh, hương, vị và xúc”, có Hỷ dấy sanh nơi pháp trần.

Lại nữa, ở cõi Dục, chúng sanh nguyện được Lạc, ở cõi Sắc, chúng sanh nguyện được Hỷ. Ở Sơ Thiền được Lạc, ở Đệ Nhị Thiền hết thảy Lạc đều chuyển thành Hỷ.

Lại nữa, thô thì gọi là Lạc, tế thì gọi là Hỷ. Khi tu nhân thì gọi là Lạc, khi được quả thì gọi là Hỷ.

Hỏi: Vì sao lại chẳng hòa hợp hai tâm Lạc và Hỷ lại làm một mà lại phân ra làm hai ?

Đáp: Người tu hành, khi mới sơ phát tâm, chưa có thâm ái hết thảy chúng sanh, nên tâm chỉ nhiếp Lạc. Khi thâm ái chúng sanh mới có Hỷ, nên Lạc đến trước rồi Hỷ mới đến sau.

Hỏi: Từ và Bi khác nhau như thế nào ?

Đáp: Bồ Tát thương chúng sanh như cha mẹ, như anh chị em, như con cháu, như người thân thuộc. Mỗi khi thấy chúng sanh đau khổ, thì lòng thương càng sâu đậm hơn lên.

Từ tâm là lòng thương yêu chúng sanh, muốn cho họ được an vui.

Bi Tâm là lòng thương xót chúng sanh , muốn cứu họ thoát khổ đau.

Hỏi: Nếu đã thâm ái chúng sanh, thì vì sao lại tu hạnh Xả ?

Đáp: Người tu hành chẳng bao giờ xả chúng sanh . Đây chẳng phải là xả chúng sanh , mà là xả ba tâm Từ, Bi và Hỷ.

Hành Từ Tâm, muốn chúng sanh được an vui. Khi thấy chúng sanh được an vui rồi, thì khởi Bi Tâm, muốn chúng sanh được lìa khổ. Thấy chúng sanh được lìa khổ rồi, lại khởi Hỷ Tâm, muốn họ được Đại Hỷ.

Thế nhưng, người tu hành, nếu muốn chúng sanh được thật lạc, thì chẳng nên chấp trước ba tâm Từ, Bi, Hỷ, mà phải hành Xả Tâm.

Từ 4 Vô Lượng Tâm chỉ mới ức tưởng, chưa thật sự đem lại sự an vui lợi lạc cho chúng sanh, nên phải tu 6 pháp Ba La Mật.

Hỏi: Bồ Tát hành 6 pháp Ba La Mật cho đến khi thành Phật mà cũng chẳng có thể khiến hết thảy chúng sanh được vui, lìa khổ, còn 4 Vô Lượng Tâm này chỉ là ức tưởng, chưa phải là chân thật pháp. Như vậy tán thán 4 Vô Lượng Tâm có lợi ích gì ?

Đáp: Bồ Tát biết rõ rằng “cho đến khi thành Phật vẫn chưa độ hết chúng sanh”, thế nhưng Bồ Tát vẫn phát nguyện như vậy. Vì sao ? Vì tu 4 Vô Lượng Tâm chẳng những tự điều, tự lợi, mà còn muốn hết thảy chúng sanh lìa khổ, được vui. Do nhân duyên phát tâm ấy, mà được nhiều phước đức, như được thọ quả báo làm Chuyển Luân Thánh Vương, như được xuất gia tu hành, khiến có đầy đủ các duyên lành để giáo hóa chúng sanh… Đến khi thành Phật, độ được vô lượng chúng sanh vào chốn Niết Bàn .

Hỏi: Một Đức Phật cũng đã độ hết thảy chúng sanh rồi. Như vậy cần gì đến nhiều Đức Phật nữa ?

Đáp: Nói như vậy là phạm tội “đoạn giống Phật”

Như trước đây đã nói “chúng sanh vô lượng, căn trí khác nhau, có chúng sanh có nhân duyên với vị Phật này, có chúng sanh có nhân duyên với vị Phật khác…” Bởi vậy nên không thể nói “một Đức Phật độ hết thảy chúng sanh”

Hỏi: Do si mê nên chấp có chúng sanh, mà đối với Phật thì chúng sanh là bất khả đắc. Như vậy làm gi có chúng sanh để độ ?

Đáp: Nói “Trong 3 đời khắp 10 phương, nếu cầu chúng sanh thì chúng sanh là bất khả đắc” là nói theo Đệ Nhất Nghĩa, theo Thật Tướng pháp.

Ở nơi Thật Tướng Pháp thì chẳng có chúng sanh, cũng chẳng có việc độ chúng sanh.

Theo pháp thế gian, thì phải nói có chúng sanh và có việc cứu độ chúng sanh. Ở nơi pháp thế gian, mà cầu Đệ Nhất Nghĩa, thì chẳng sao có được vậy.

Ví như đến thời Kiếp Tận, lửa lớn thiêu rụi hết 3000 thế giới rồi lửa cũng phải tận diệt. Bồ Tát thành Phật cũng là như vậy.

Từ khi phát tâm, Bồ Tát tinh tấn cầu trí huệ, thâm nhập vào đại pháp, làm đại Phật sự, rồi cũng phải nhập

Niết Bàn. Bồ Tát được Nhất Thiết Trí, phóng quang minh chiếu vô lượng thế giới, độ vô lượng chúng sanh trong khắp 10 phương, rồi cũng nhập Niết Bàn, lưu lại tám vạn bốn ngàn xá lợi để hóa độ chúng sanh.

Hỏi: Trước nói“quang minh chiếu khắp vô lượng thế giới, độ vô lượng chúng sanh”. Sao nay lại nói “Các duyên pháp cũng như việc độ chúng sanh đều có hạn lượng”?

Đáp: Vô lượng có hai nghĩa . Đó là:

– Thật sự là vô lượng, khiến chẳng có thể lường được. Ví như hư không, như Niết Bàn, như Phật pháp…là chẳng có thể lượng được.

– Có thể lượng được nhưng vì phương tiện thô kém, khiến không sao lượng được. Ví như núi Tu Di và các biển lớn bao quanh núi Tu Di, chỉ có chư Phật và chư Bồ Tát mới có thể lượng được, hàng chư Thiên cũng chẳng có thể lượng được. Phật độ chúng sanh cũng là như vậy.

Lại nữa, các pháp do duyên hòa hợp sanh, không có tự tánh. Vì là không có tự tánh, nên là vô lượng, là bất khả lượng vậy.

Như bài kệ thuyết:

Việc ta ngồi đạo tràng
Dùng phương tiện trí huệ,
Nói pháp độ chúng sanh,
Cũng là bất khả đắc.
Thật Tướng của các pháp,
Cũng là tướng chúng sanh.
Nếu chấp chúng sanh tướng,
Tức ly Đạo Thật Tướng.
Chấp tướng CÓ tướng KHÔNG,
Chẳng phải là hành Đạo.
Pháp vốn chẳng phân biệt,
Phân biệt do tâm chấp,
Tướng pháp vốn tự không,
Tâm chấp thành có tướng.
Do phân biệt, ức tưởng,
Nên rơi vào lưới ma.
Không phân biệt ức tưởng,
Mới thật là Pháp Ấn.

Hỏi: Vì sao thọ khổ có tác động mạnh hơn thọ lạc ?

Đáp: Trong kinh có chép mẫu chuyện về ông Vi Đà Luân, em của vua A Dục, phạm tội chiếm ngôi vua, được nhà vua cho làm vua 7 ngày.

Nhà vua hỏi em : “Làm vua có sướng không ?”

Ông Vi Đà Luân đáp : “Tôi thật chẳng thấy, chẳng nghe, chẳng biết về sự sung sướng được làm vua”.

Nhà vua hỏi: “Vì sao vậy ?”

Ông Vi Đà Luân đáp : “Vì ngày thứ nhất vừa trôi qua, tôi đã nghe tiếng người giám sát hô lớn rằng : Một ngày làm vua đã qua rồi, ông chỉ còn hưởng 6 ngày nữa thôi, rồi sẽ phải chết. Tôi nghe như vậy, nên trong khi hưởng diệu dục lạc mà tôi sanh tâm buồn khổ.”

Mẫu chuyện trên đây cho thấy rằng “Thọ khổ có sức mạnh thắng hơn thọ lạc”. Ví như trong khi khắp toàn thân đang thọ lạc, mà có một chỗ trong thân bị mũi tên đâm, thì các thọ lạc của toàn thân đều tan biến cả.

Hỏi: Tu Từ Vô Lượng Tâm được những quả báo gì ?

Đá: Phật dạy : “Từ Tâm Tam Muội được 5 công đức. Đó là:

– Vào lửa không bị thiêu cháy.
– Ăn nhầm chất độc không bị chết vì ngộ độc.
– Không bị nạn binh đao.
– Không chết bất đắc.
– Thường được chư vị Thiện Thần phò hộ

Vậy nên nói “Từ Vô Lượng Tâm có vô lượng phướcbáo”.

Hỏi: Vì sao nói “Người có từ tâm được sanh Phạm Thiên” ?

Đáp: Vì chúng sanh tôn trọng Phạm Thiên, vì các Bà La Môn thường nguyện tu phước để được sanh làm Phạm Thiên, nên Phật mới dạy : “Hành Từ được sanh Phạm Thiên”.

Phạm Thiên là cõi Trời ở trên cõi Sắc. Nơi đây đã đoạn trừ dâm dục. Bởi vậy nên “Ly dục được gọi là Phạm hạnh”.

Hỏi: Từ Vô Lượng Tâm có 5 công đức, còn Bỉ, Hỷ, và Xả Vô Lượng Tâm thì sao?

Đáp: Về Bi Tâm, trong kinh có nói: “Hành 32 hạnh Bi, Bi Tâm tăng trưởng chuyển thành Đại Bi Tâm. Đại Bi là công đức của chư Phật và của chư Bồ Tát, là mẹ của Bát Nhã Ba La Mật. Bồ Tát, trước phải phát Đại Bi Tâm sau mới vào được Bát Nhã Ba La Mật.

Từ và Bi thành tựu các công đức, dẫn đến viên thành Đạo quả, bao gồm cả 4 Vô Lượng Tâm.

Hỏi: Công đức của 4 Vô Lượng Tâm như thế nào?

Đáp: Người muốn tu thiện thì khởi Từ tâm, người muốn tu phước thì khởi Bi tâm, tu thiện và tu phước đều thành tựu phước báo hữu lậu. Nếu xả được tâm chấp tu thiện và tu phước thì được tâm vô sở hữu xứ.

Lại nữa, Từ Định khởi hồi hướng về Tam Thiền, Bi Định khởi Hư Không Xứ, Hỷ Định khởi Thức Xứ, Xả Định khởi Vô Sở Hữu Xứ.

Lại nữa, Từ Tâm là tâm thương yêu chúng sanh, muốn họ được an vui. Bi Tâm là thương xót chúng sanh,thường quán chúng sanh khổ, và muốn đưa họ ra khỏi các khổ, Hỷ Tâm là tâm vui mừng khi thấy chúng sanh được phước lợi, Xả Tâm là tâm xả bỏ hết thảy khổ lạc. Phải dùng Xả Tâm xả bỏ hết thảy khổ lạc mới được chân thật pháp. Các bậc thánh hiền mới có đầy đủ 4 Vô Lượng Tâm, chẳng phải hàng phàm phu mà có được vậy.

Lại nữa, Phật vì thương đệ tử ở đời vị lai, nên nói “4 Vô Lượng Tâm là hữu lậu duyên, nhiếp về cõi Dục. Cõi Vô Sắc không duyên cõi Dục, vì đã đoạn các vọng kiến”.

Bởi nhân duyên vậy, nên khi Bồ Tát Vô Tận Ý hỏi Phật về các thứ duyên của Từ Tâm; thì Phật dạy : “Từ có 3 thứ duyên. Đó là: duyên chúng sanh, duyên pháp và vô duyên”.

“Chúng sanh duyên” là hữu lậu, “pháp duyên” có thể là hữu lậu, có thể là vô lậu, còn “vô duyên” là vô lậu.

Hỏi: làm thế nào để diệt được 3 tướng duyên ấy?

Đáp: Cả 3 tướng duyên cũng đều do duyên hòa hợp sanh, đều là hư vọng, đều là tự tánh KHÔNG, đều chẳng thật có.

Vì chúng sanh điên đảo vọng chấp, nên ở nơi hòa hợp sắc, mà chấp có 1 tướng, có 2 tướng…, mà chẳng biết rằng tất cả các tướng ấy, đều do tâm chúng sanh vọng chấp mà có vậy.

Người tuhành, chẳng nên chấp có tướng chúng sanh, có tướng pháp. Vì Thật Tướng của các pháp chỉ là 1 chẳng phải 2, chẳng phải khác (Nhất Tướng), là tướng KHÔNG (vô tướng). Người tu hành niệm như vậy, nên xả được các chấp, xả được các sự ràng buộc của tài sản, của gia đình.v.v.

IV)- 4 Vô Sắc Định

Hỏi: 4 Vô Sắc Định gồm những gì ? Ý nghĩa ra sao?

Đáp: 4 Vô Sắc Định còn được gọi là 4 KHÔNG Định gồm:

– Hư Không Vô Biên Xứ Định
– Thức Vô Biên Xứ Định
– Vô Sở Hữu Xứ Định
– Phi Hữu Tưởng Phi Vô Tưởng Xứ Định.

Người tu hành trì giới thanh tịnh, được tâm an ổn, vào thiền định. Khi tâm ly dục sanh hỷ lạc là vào được Sơ Thiền. Khi ly được giác quán, được nội tâm thanh tịnh là vào được Nhị Thiền, nếu ly được cả hỷ cả lạc, thì vào được Tam Thiền. Sau đó, nếu xả niệm thanh tịnh thì vào được Tứ Thiền.

Nếu xả Tứ Thiền, được diệu định, thì tâm sẽ được “vô đối sắc”, nghĩa là thấy sắc mà vẫn biết sắc là giả, là hủy hoại. Bởi vậy nên tâm không còn bị 5 trần: sắc, thanh, hương, vị và xúc ràng buộc, lại rõ biết 5 trần đều là hư vọng, là hủy hoại, nên vượt qua được “hữu đối sắc”.

Tuy thấy có sắc phân biệt, mà quán ly sắc, cho nên được Hư Không Vô Biên Xứ và 3 Vô Sắc Xứ khác. Vào các Vô Sắc Xứ Định ấy, Thiền giả vẫn biết đó cũng là hư vọng, như huyễn, chỉ là phương tiện mà thôi (như trong phẩm Thiền Na Ba La Mật đã nói rõ).

Trong 4 Vô sắc Định có 1 định hữu lậu. Đó là Thức Vô Biên Xứ. Còn 3 định kia vừa là hữu lậu, vừa là vô lậu.

Hư Không Vô Biên Xứ có thể hoặc hữu lậu, hoặc vô lậu. Thức Vô Biên Xứ và Vô Sở Hữu Xứ cũng là như vậy.

Hư Không Vô Biên Xứ là hữu báo, vô ký, còn Vô Lậu Hư Không Vô Biên Xứ là vô báo. Thức Vô Biên Xứ, và Vô Sở Hữu Xứ cũng là như vậy.

Ở nơi Phi Hữu Tưởng Phi Vô Tưởng Xứ, thì Thiền Hữu Tưởng và Thiền Phi Hữu Tưởng là hữu báo, vô ký. Lại cũng có Phi Hữu Tưởng Phi Vô Tưởng là vô báo.

Lại nữa, có 4 Vô sắc Định có thể tu, vì là vô cấu cũng có 4 Vô Sắc Định không thể tu vì là hữu cấu.

Nơi 4 Vô Sắc Định có 1 phần hữu lậu và 3 phần vô lậu.

Khi 4 Vô Sắc Định nhiếp các tâm và tâm sở, là có tương ưng nhân. Khi tâm không tương ưng với các hạnh là không có tương ưng nhân.

Lại có thiện pháp chẳng phải là 4 Vô Sắc, hoặc có 4 Vô Sắc chẳng phải là thiện pháp, hoặc có thiện pháp cũng là 4 Vô Sắc, hoặc có pháp chẳng phải thiện pháp, cũng chẳng phải là 4 Vô Sắc.

Hết thảy các thiện Vô Sắc, nhiếp 4 chúng nhưng cũng có 4 Vô Sắc không nhiếp 4 chúng, nghĩa là không trí duyên tận.

4 Vô Sắc không phải là thiện pháp, là 4 Vô Ký Vô Sắc. Còn các pháp chẳng phải thiện pháp, cũng chẳng phải là 4 Vô Sắc đều toàn là bất thiện pháp.

Lại cũng có 4 Vô Sắc, không nhiếp vô ký và 4 chúng là không trí duyên tận.

Lại có vô ký pháp chẳng phải là 4 Vô Sắc, hoặc có 4 Vô Sắc chẳng phải là vô ký pháp, hoặc có Vô KýPháp cũng là 4 Vô Sắc hoặc có pháp chẳng phải vô ký cũng chẳng phải 4 Vô Sắc.

“4 Vô Ký Sắc Chúng” là 4 Vô Sắc không nhiếp 4 vô ký chúng, nghĩa là không trí duyên tận.

4 Vô Sắc chẳng phải là vô ký pháp là 4 thiện Vô Sắc. 4 Vô Sắc cũng là vô ký pháp là 4 Vô Ký Vô sắc. Còn các pháp chẳng phải là Vô Ký pháp cũng chẳng phải là 4 Vô Sắc đều toàn là bất thiện pháp.

“4 Thiện Sắc Chúng” là 4 Vô Sắc không nhiếp 4 thiện chúng, nghĩa là không trí duyên tận.

Lại có pháp vô lậu chẳng phải là 4 Vô Sắc, hoặc có 4 Vô Sắc chẳng phải là vô lậu. 4 Vô Sắc chẳng phải là vô lậu ấy, là 4 Vô Sắc mà không nhiếp 4 vô lậu chúng và vô vi pháp.

Lại có pháp hữu lậu chẳng phải là 4 Vô Sắc, hoặc có 4 Vô Sắc chẳng phải là hữu lậu, hoặc có pháp hữu lậu cũng là 4 Vô Sắc, hoặc có pháp chẳng phải hữu lậu cũng chẳng phải là 4 Vô Sắc.

“4 Hữu Lậu Sắc Chúng” là 4 Vô Sắc chẳng phải là hữu lậu, nghĩa là 4 Vô Sắc không nhiếp 4 hữu lậu chúng.

—o0o—

Ở nơi Vô Biên Hư Không Xứ, Thiền giả hoặc tu Kiến Đế Đạo hoặc tu Tư Duy Đoạn hoặc tu Bất Đoạn. Tu Kiến Đế Đoạn là tu Tín Hành và Pháp Hành, thấy 4 Đế mà nhẫn đoạn.

Hư Không Xứ Định chẳng có tương ưng với các hạnh cấu.

Tu Tư Duy Đoạn là dùng 3 thiện căn tương ưng với Hư Không Xứ, mà không khởi tâm ở các hạnh bất thiện khác, không tương ưng với các hạnh vô cấu hữu lậu.

—o0o—

Vô Lậu Hư Không Xứ, Thức Vô Biên Xứ và Vô Sở Hữu Xứ cũng là như vậy.

—o0o—

Tu Phi Hữu Tưởng Phi Vô Tưởng Xứ cũng tu Kiến Đế Đoạn và Tư Duy Đoạn.

Ở nơi định này, Kiến Đế Đoạn cũng do Tín Hành và Pháp Hành, thấy 4 Đế để nhẫn đoạn, nghĩa là không khởi tâm tương ưng với các hạnh cấu. Còn Tư Duy Đoạn là dùng 3 thiện căn tương ưng với định mà không khởi tâm tương ưng với các hạnh cấu.

Như vậy ở nơi Phi Hữu Tưởng Phi Vô Tưởng Xứ Định, hành giả nhiếp tâm không tương ưng với các hạnh cấu, mà chỉ tương ưng với ý thức vô sắc giới, không tương ưng với thọ, hoặc tương ưng với thọ mà không tùy tâm hành, hoặc khi tùy tâm hành mà tương ưng với thọ, là có tưởng chúng và tương ưng hành chúng. Đây là tùy tâm hành xứ, mà chẳng tương ưng với thọ, hoặc tương ưng với thọ mà chẳng tùy tâm hành, hoặc chẳng tùy tâm hành, cũng chẳng tương ưng với thọ. Vì sao? Vì tâm dư tàng chẳng có tương ưng với các hạnh.

—o0o—

Nói Hư Không Xứ Định, thì hoặc có chấp thân kiến, hoặc lấy thân kiến làm nhân để tạo ra các nhân khác, hoặc chẳng lấy thân kiến làm nhân.

Nếu không chấp thân kiến, thì trừ được các khổ ở quá khứ và ở hiện tại, để tương ưng với Hư Không Xứ Định, lại cũng trừ được các thân kiến về sanh, trú và diệt.

Vô Cấu Hư Không Xứ Định, Thức Xứ Định, Vô Sở Hữu Xứ Định và Phi Hữu Tưởng Phi Vô Tưởng Định cũng là như vậy…

—o0o—

Hết thảy 4 Vô Sắc Định đều có nhân duyên mà chẳng do thứ đệ duyên. Hư Không Vô Biên Xứ hoặc có thứ đệ cũng thứ đệ duyên, hoặc chẳng thứ đệ cũng chẳng thứ đệ duyên.

Bởi vậy nên, ở trong đời vị lai, chư vị A La Hán nếu muốn sanh tâm và tâm sở pháp, thì phải biốế các tâm và tâm sở pháp thành Hư Không Xứ, vì các nhân quá khứ và hiện tại tối hậu đều đã diệt hết; cũng như chư vị A La Hán phát Bồ Đề tâm tối hậu, muốn sanh các tâm và tâm sở pháp cũng phải ở trong Hư Không Xứ, mà khởi tâm bất tương ưng với các hạnh cấu.

Phi Hữu Tưởng Phi Vô Tưởng Xứ hoặc có thứ đệ mà chẳng thứ đệ duyên, hoặc có thứ đệ cũng cùng thứ đệ duyên, hoặc chẳng có thứ đệ cũng chẳng có thứ đệ duyên.

Bởi vậy ở trong đời vị lai, chư vị A La Hán nếu muốn sanh tâm và tâm sở pháp lại, thì phải ở nơi Phi Hữu Tưởng Phi Vô Tưởng Xứ và ở nơi Diệt Thọ Tưởng Định, còn nếu muốn sanh về cõi Dục, thì phải thứ đệ và thứ đệ duyên, nghĩa là lấy dư tàng của các tâm và tâm sở pháp quá khứ và hiện tại. Vì sao? Vì các dư tàng ở đời vị lai không tương ưng với các hạnh cấu mà chỉ ở trong 4 Vô Sắc để nhiếp các tâm và tâm sở mà duyên vậy.

Ở nơi Vô Sắc nếu nhiều tâm không tường ưng với các hành, là phi duyên, nhưng cũng là duyên duyên để lấy đó làm tăng thượng duyên.

—o0o—

Trên đây. 4 Vô Sắc Định đã được phân biệt rõ theo như trong bộ A Tỳ Đàm.

Hỏi: Kinh Đại Thừa Ma Ha Diễn nói về 4 Vô Sắc Định như thế nào?

Đáp: Theo Kinh Đại Thừa Ma Ha Diễn thì 4 Vô Sắc Định đều tương ưng với Thật Tướng Pháp và Trí Huệ.

Hỏi: Thế nào gọi là Thật Tướng Pháp?

Đáp: Tự Tánh KHÔNG, Tự Tướng KHÔNG là Thật Tướng Pháp.

Hỏi: Các sắc pháp do duyên hòa hợp mà có, nên là KHÔNG. Nhưng vì sao cũng nói “vô sắc” là KHÔNG ?

Đáp: Ta có thể dùng mắt để thấy, dùng tai để nghe các sắc pháp. Nhưng các sắc pháp vốn là tự tánh KHÔNG.

Sắc do duyên hòa hợp mà có. Nếu đem chia chẻ thì sắc sẽ trở thành KHÔNG.

Sắc còn là KHÔNG huống nữa là Vô Sắc.

Lại nữa, sắc pháp cũng chẳng có sanh, chẳng có diệt, dẫn đến KHÔNG cũng chẳng có, huống nữa là các tâm và các tâm sở pháp.

—o0o—

Như vậy là đã trình bày đầy đủ nghĩa về 4 Vô Sắc Định theo Kinh Đạỉ Thừa Ma Ha Diễn.

(Hết quyển 20)

HẾT TẬP I