LUẬN
ĐẠI TRÍ ĐỘ

Nguyên tác: Bồ tát Long Thọ
Hán dịch: Pháp sư Cưu Ma La Thập
Việt dịch: Tỳ kheo ni THÍCH NỮ DIỆU KHÔNG

 

TẬP I
QUYỂN 17

Phẩm thứ nhất
(tiếp theo)
Thiền Na Ba la Mật
(Thiền Ba la Mật)

KINH

Do chẳng loạn động, chẳng đắm chấp thiền vị mà Bồ Tát được đầy đủ Thiền Na Ba la Mật

LUẬN

Hỏi: Tu hạnh Bồ Tát là nhằm độ thoát hết thảy chúng sanh. Như vậy vì sao Bồ Tát lại chọn chốn núi rừng thanh vắng để tọa thiền, tu riêng cho mình?

Đáp: Thân Bồ Tát tuy ở xa chúng sanh mà tâm Bồ Tát vẫn nhớ nghĩ đến chúng sanh, chẳng bao giờ bỏ chúng sanh cả.     

Bồ Tát chọn chốn núi rừng thanh vắng, yên tĩnh để được định tâm, cầu Thật Trí Huệ, để rồi dùng Thật trí Huệ độ thoát chúng sanh. Ví như người bệnh chưa lành cơn bệnh, phải cần nghỉ ngơi bồi bổ, đến khi cơn bệnh đã dứt hẳn, sức khỏe được hồi phục, mới ra gánh vác công việc.

Bồ Tát dùng sức thiền định, uống thuốc trí huệ, được thần thông tự tại, rồi mới vì tất cả hạng chúng sanh, dùng các phương tiện thích nghi để khai đạo.

Bồ Tát tu Bố Thí, Trì Giới, Nhẫn Nhục mới chỉ là tu phước. Như trong kinh nói “Bồ Tát làm vị Chuyển Luân Thánh Vương, đem 10 Thiện Đạo giáo hóa chúng sanh, khiến họ được nhiều lợi lạc, rồi lại chỉ cho họ biết là do tương quan đối đãi mà có lạc, có khổ, có vui, có buồn… để rồi dạy cho họ phát tâm Đại Bi, thường tu Niết Bàn, sẽ được lợi lạc trong nhiều đời.

Thế nhưng muốn được Niết Bàn thì phải tu Thật Trí Huệ, phải Nhất Tâm Thiền Định. Ví như ngọn đèn dầu để giữa gió bị chao động, chẳng bao giờ phát ra được nhiều ánh sáng. Nếu được để vào một nơi kín gió, thì ánh đèn sẽ được sáng tò hơn nhiều. Cũng như vậy, khi được thiền định rồi, thì Thật Trí Huệ sẽ sanh.

Bồ Tát tuy vào thiền định, tuy ở xa chúng sanh mà vẫn luôn luôn nhớ nghĩ đến chúng sanh, dùng các phương tiện để lợi sanh. Khi chưa được Đạo mà ở gần người thế gian thì sẽ không được chuyên tâm, do vậy mà sự nghiệp hoằng pháp độ sanh sẽ không được thành tựu viên mãn.

Thiền Định có công năng nhiếp các tâm loạn động. Tâm loạn ví như lông chim Hồng, gặp gió thổi sẽ cứ bay mãi chẳng sao dừng nghỉ được. Cũng vậy, nếu chẳng có Thiền Định thì tâm sẽ bị loạn động, chẳng sao có thể an định được, sẽ bị các gió nghiệp lôi cuốn theo chẳng sao dừng nghỉ được vậy.

Lại nữa, tâm phàm phu ví như khỉ, như vượn, như điện chớp, liền khởi, liền diệt. Bởi vậy nên hành giả phải vào Thiền Định mới điều phục được tâm mình. Như bài kệ thuyết:

Thiền là kho trí huệ
Thiền là ruộng công đức,
Thiền là nước thanh tịnh,
Rửa sạch hết bụi trần.
Thiền là kiếm Kim Cang,
Giết hết giặc phiền não.
Do thiền, được dự phn,
Vào Vô Dư Niết Bàn,
Vào Kim Cang Tam Muội,
Phá tan các Kiết sử,
Được sáu pháp thần thông,
Độ vô lượng chúng sanh.
Như mây che mặt trời,
Mưa dứt mây liền tan,
Giác quán khiến tâm loạn,
Thi Định liền diệt trừ.

Hành giả tu Thiền Định, nếu chẳng chuyên cần thì rất khó được Nhất Tâm. Phải siêng năng, tinh tấn, không giải đãi mới có thể được Định. Chư Thiên, chư Thần còn chưa được định, huống nữa là hàng phàm phu thường giải đãi, không siêng năng tinh tấn.

Khi Phật đang ngồi tọa thiền dưới gốc cây Bồ Đề, có các Thiên Nữ đến bên Phật dùng kệ trêu ghẹo như sau:

Một mình ngi trong rừng,
Sáu căn thường vắng lặng,
Dù mất hết vật quý,
Cũng chẳng sầu, chẳng não.
Dung mạo chẳng ai bằng,
Sao ngồi nhắm mắt mãi!
Bọn tôi tâm có nghi:
Cầu gì mà ngồi vậy?

Phật dùng kệ đáp lại:

Ta được vị Niết Bàn,
Chẳng vui phường nhiễm ái,
Trừ giặc trong, giặc ngoài,
Ma Vương phải thua ta.
Ta được vị Cam Lồ,
An lạc ngồi trong rừng,
Thấy chúng sanh nhiễm ái,
Vì họ, khởi Đại Bi.

Các Thiên Nữ tự nghĩ: “Người này đã rốt ráo ly dục, chúng ta chẳng có thể làm lay chuyển được nữa”.

Nghĩ như vậy rồi sanh tâm xấu hổ, lặng lẽ rút lui.

Hỏi: Phải tu phương tiện gì mới được Thiền Na Ba la Mật?

Đáp: Phải không đắm chấp 5 trần, trừ 5 cái, tu 5 hạnh mới xả ly được 5 dục. Vì sao ? Vì 5 dục ví như lửa, như chó gặm xương, như chim ưng ăn thịt người chết. Vì 5 dục như lửa gặp gió thiêu đốt tâm người. Vì 5 dục như rắn độc cắn chết người.

Lại nữa, 5 dục chẳng thật có, chỉ như mộng, như huyễn. Phàm phu do mê muội, mà tham đắm 5 dục, đến chết cũng chẳng thôi, khiến phải chịu vô lượng khổ đau.

Người tham đắm 5 dục chỉ hưởng vui trong chốc lát, mà phải chuốc khổ vào thân. Ví như đứa bé ham ăn, thè lưỡi liếm mật dính nơi lưỡi dao bén, khiến phải bị rách lưỡi vậy.

Người tham đắm 5 dục, cùng với súc sanh chẳng có gì khác. Bởi vậy người trí phải nên lánh xa 5 dục.

Trong Kinh có chép mẫu chuyện sau đây:

Có một người thọ giới Ưu Bà Tắc cùng đi buôn với một người bạn ở phương xa. Dọc đường hai người lạc nhau trong đêm tối.

Ông Ưu Bà Tắc phải ẩn náu trong một hang đá để ngủ qua đêm. Một mình trong hang đá, giữa đêm khuya vắng lặng, ông Ưu Bà Tẳc nhớ bạn, thao thức không ngủ. Bỗng nhiên vị Thần Núi hiện thân một người con gái rất đẹp, đến bên ông Ưu Bà Tắc dùng kệ tán tỉnh rằng:

Tuyết trắng phủ khắp nơi,
Chim thú đều ẩn trốn,
Riêng tôi chẳng chỗ nương,
Xin rủ lòng thương xót.

Ông Ưu Bà Tắc lấy tay bịt tai, rồi dùng kệ đáp lại:

Người đâu tệ ác vậy,
Chẳng có chút thẹn thùng,
Buông những lời bất tịnh!
Sao nước chẳng cuốn đi?
Sao lửa chẳng thiêu đốt?
Ta đâu muốn nghe ngươi!
Vợ ta còn chng muốn,
Huống nữa phường tà dâm
Dục lạc rất thấp hèn,
Khổ đau lại rất lớn.
Hưởng dục chẳng nhàm chán,
Mất dục liền sanh khổ.
Chưa được, mong cầu được
Được rồi, chuốc phiền não.
Đắm dục vui chốc lát,
Vui dứt, khổ liền sanh.
Theo dục dể mất mạng,
Như đêm lạc giữa biển.

Thần Núi nghe xong bài kệ liền đưa ông Ưu Bà tắc đi gặp bạn.

—o0o—

Lại nữa, 5 dục đều do 5 trần lôi kéo. Người muốn cầu Thiền Định phải xa lìa 5 dục, chẳng đắm chấp 5 trần, phải xem 5 trần như 5 mồi lửa thiêu đốt thân tâm.

Hỏi: Vì sao không nên đắm chấp Sắc, Thanh ?

Đáp: Sắc và Thanh thường hay dẫn sanh các kiết sử.

Thấy người thương thì vui mừng chào đón, thấy kẻ oán thì ghét bỏ, ruồng rẫy. Nghe người thương nói thì thích thú, thán khen, nghe kẻ oán nói thì bực tức chê bai. Người muốn xả vui buồn, thương ghét, nóng giận phải trừ các tà niệm, chẳng đắm chấp Sắc, Thanh.

Ví như vua Bà Ta La, vì đam mê nữ sắc mà vào tận nước địch, tìm đến nhà dâm nữ để mua vui, khiến phải bị bắt giữ.

 Lại như vua Ưu Điềm, đam mê nữ sắc, nhưng không được thỏa mãn nên sanh sân nhuế, đang tâm chặt tay chân của 500 vị Tiên Nhân.

Người vô trí, do chẳng rõ vô thường. Lại bị Sắc, Thanh mê hoặc nên thường sanh tà niệm, đánh mất thiện tâm.

Ví như các Tiên Nhân ở núi Tuyết Sơn, thấy các nữ Chiên Đà La múa hát mà sanh tà niệm, khiến phải mất thiền định.

Hỏi: Vì sao không nên đắm chấp Hương?

Đáp: Hương cũng thường hay dẫn sanh các kiết sử. Dù trì giới cả trăm năm, mà chỉ một thời đắm Hương cũng có thể bị hoại.

Trong Kinh có chép các mẫu chuyện sau đây:

* Thời xưa có một vị A La Hán, thường được Long Vương thỉnh vào cung để cúng dường. Khi trở về, Ngài đưa bát cho một vị Sa Di rửa. Vị Sa Di ngửi mùi thơm ngon của thức ăn còn dính nơi bát, sanh đắm trước. Thế rồi một hôm, vị Sa Di tự cột mình vào giường của thầy. Khi giường của thầy bay vào Long Cung, vị Sa Di cũng được đi theo. Vào đến Long Cung, Vị Sa Di lại thấy các Long Nữ, thân hình đoan chánh, tỏa hương thơm ngào ngạt, nên càng sanh tâm nhiễm trước, phát lời nguyện rằng : “Tôi nguyện tu phước để được sanh về Long Cung”.

Vị A La Hán hết lời khuyên dạy, nhưng vị Sa Di vẫn không nghe. Do nhân duyên vậy, nên vị Sa Di này đã biến thành rồng ở bên hồ.

* Lại nữa, có một vị Tỳ Kheo đắm hương sen, nên cứ đến bên hồ sen đi kinh hành để ngửi hương thơm của phấn hoa sen.

Vị Thần hồ hiện lên hỏi : “Sao Ngài lại bỏ rừng đến đây ngửi trộm hương sen của tôi ?”

Ngay lúc ấy có người vào hồ sen bẻ hoa, đào luôn cả củ sen, mà vị Thần hồ vẫn chẳng nói năng gì cả.

Vị Tỳ Kheo nói với Thần hồ : “Sao người kia đã phá hồ, cắt hoa, đào củ mà ông chẳng nói năng gì cả ? Tôi chỉ thưởng thức hương thơm của hoa sen thôi, sao ông mắng tôi đến đây ngửi trộm hương sen của ông ?”

Vị Thần hồ đáp : “Người thế gian tâm bất tịnh, tội cấu ngập đầu nên tôi không nói đến họ. Còn ngài là bậc tu hạnh thanh tịnh, thường hành Thiền Định, nếu ngài đắm chấp hương thơm là ngài đã tự phá định tâm của ngài rồi vậy. Nay tôi vì ngài mà nói như vậy đó. Ngài như tấm vải trắng, nếu để vấy dơ thì thật quá uổng. Còn người kia như tấm vải đen, nếu có lấm hết cũng chẳng sao cả”.

Vị Tỳ Kheo nghe nói như vậy hết lòng cảm ơn vị Thần hồ và từ đó giữ tâm thanh tịnh, không đắm trước hương trần nữa.

Hỏi :Vì sao không nên đắm chấp vị ?

Đáp : Vị cũng thường hay dẫn sanh các kiết sử.

Người tham trước các thức ăn ngon, chỉ hưởng được vị ngon trong chốc lát, mà sẽ phải chịu bao nhiêu sự khổ đau. Nếu tâm chấp Vị quá kiên cố, thì đời sau sẽ bị đọa làm thân côn trùng, sống ở những nơi bất tịnh, dơ bẩn.

* Thời xưa, có một vị Sa Di chỉ thèm ăn “tô lạc” 1 . Đến khi mạng chung, sanh làm côn trùng, sống trong chất tô lạc.

Có một vị Tỳ Kheo đắc quả A La Hán, nói với Tăng chúng rằng : “Khi phân chia tô lạc, quý vị chớ nên khuấy động mạnh, hãy nên nhẹ tay đừng làm chết vị Sa Di của chúng ta đang sống trong hũ tô lạc”.

 Chúng Tăng ngạc nhiên hỏi : “Trong hũ tô lạc chỉ có côn trùng. Vì sao lại nói có vị Sa Di của chúng ta trong đó?”

Vị A La Hán đáp : “Côn trùng trong hũ tô lạc chính là vị Sa Di của chúng ta đó. Vì kiếp trước vị ấy quá đắm trước tô lạc, nên kiếp này đã tái sanh làm côn trùng sống trong hũ tô lạc của chúng ta”.

Từ đó, mỗi khi chúng tăng phân chia tô lạc đều có dành phần cho côn trùng sống trong hũ.

* Lại nữa, có một vị Thái Tử của một nước nọ thích ăn quả ngon, thường bảo người làm vườn tìm quả ngon đem đến cho mình.

Một hôm, có một con chim bay vào núi hái quả ngon đem về cho con. Mấy con chim con tranh nhau, khiến một quả rơi xuống đất. Người làm vườn biết loại quả thơm ngon ấy rất quý, nên đã nhặt đem vào cung dâng lên Thái Tử.

Thái Tử nếm được vị ngon của loại quả hiếm có này, sanh đắm trước, bảo người làm vườn phải tìm mọi cách tìm loại quả ấy mỗi ngày đem về cho mình. Người làm vườn chẳng biết làm sao hơn, là tranh với chim để giành lấy quả, mỗi lần thấy chim mẹ mang quả về tổ.

Chim mẹ quá giận dữ, bèn bay về núi tìm loại quả độc nhưng có hương vị thơm ngon, đem về tổ. Người làm vườn tranh ngay loại quả ấy đem dâng Thái Tử.

Thái Tử vừa trông thấy quả chín đỏ ong, hương thơm ngát, đón lấy ăn ngay.Vừa ăn xong bị trúng độc, Thái Tử lăn ra chết.

Hỏi: Vì sao không nên đắm chấp Xúc ?

Đáp: Như 4 trần kia, Xúc cũng thường hay dẫn sanh các kiết sử, khiến tâm bị nhiễm trước, rất khó xa lìa. Trong 5 trần thì Xúc là khó xả ly hơn hết.

Thân xúc là nguyên nhân dẫn sanh biết bao nhiêu tội lỗi. Do vì tham đắm sự xúc chạm mà nhiều người phải đọa vào địa ngục.

Trong kinh có chép chuyện về Da Du Đà La như sau:

Ngay trong đêm Thái Tử rời bỏ cung điện ra đi tìm Đạo thì bà Da Du Đà La tự biết mình đã mang thai. Bà mang thai suốt 6 năm mới sanh La Hầu La.

Trong thời gian bà mang thai, nhiều người trong dòng họ Thích, nghi bà do bất chánh mà mang thai, nên đã đến tâu với vua Tịnh Phạn, xin vua trị tội bà.

Lúc bấy giờ có bà Cư Tỳ Da thường xuyên ở bên cạnh bà Da Du Đà La, xin đứng ra làm chứng để minh oan cho bà. Vua nghe theo nên không trị tội bà Da Du Đà La.

Sau 6 năm mang thai, bà sinh ra một con trai, tướng mạo giống như Thái Tử. Từ đó, bà Da Du Đà La được giải oan.

Khi Phật Thích Ca Mâu Ni thành Đạo trở về thành Ca Tỳ La Vệ, thì vua Tịnh Phạn cùng bà Da Du Đà La thỉnh Phật vào cung thọ trai.

Bà Da Du Đà La trộn 100 hoàn Hoan Hỷ vào thức ăn, rồi bảo con là La Hầu La đem dâng lên Phật.

Ngay lúc đó Phật đã dùng thần lực, biến 500 vị A La Hán thành 500 vị Hóa Phật. Tất cả 500 vị Hóa Phật và Phật giống hệt nhau, chẳng có gì sai khác. Thế nhưng La Hầu La bưng thức ăn có trộn hoàn Hoan Hỷ đến đúng chỗ để dâng Phật. Phật lại nhiếp thần lực trở lại ngồi như trước, với bình bát trên tay chứa đầy thức ăn có trộn hoàn Hoan Hỷ.

Bà Da Du Đà La tâu với vua rằng : “Điều này chứng tỏ con hoàn toàn vô tội”.

Rồi bà quay lại về phía Phật hỏi : “Vì nhân duyên gì mà tôi phải mang thai đến 6 năm trời ?”

Phật dạy : “Vào một kiếp trước, La Hầu La đã có thời làm vị Quốc Vương. Lúc bấy giờ có các vị Tiên Nhân đến xin bái kiến. Nhà vua hứa trong chốc lát sẽ tiếp họ. Nói xong vua quay vào cung, rồi quên bẳng đi mất. Đến khi sực nhớ lại thì đã thất hẹn 6 ngày, khiến các Tiên Nhân phải chịu đói khát, chờ đợi. Mặc dù nhà vua lúc bấy giờ, có sám tạ cùng các vị Tiên Nhân, nhưng do nhân duyên lãng quên lời hẹn suốt 6 ngày, mà nay phải chịu ở trong thai mẹ đến 6 năm vậy. Còn bà Da Du Đà La thì chẳng có tội gì cả”.

Phật thọ trai xong, chú nguyên rồi trở về tịnh xá.

Suốt thời gian Phật ở trong cung, bà Da Du Đà La nhìn Phật không chớp mắt. Phật ra về rồi mà bà vẫn đămđăm nhìn theo mãi không thôi. Đến khi Phật khuất dạng, bà than khóc ảo não đến ngất xỉu. Nhờ có người rảy nước vào mặt bà mới tỉnh lại.

Cũng nên biết, bà Da Du Đà La khi nghe tin Phật sắp trở về thành, bà rất mừng rỡ, muốn giữ Phật luôn luôn ở cạnh bên mình, nên đã xin một vị Phạm Chí luyện cho bà 100 hoàn Hoan Hỷ, nghĩ rằng, các hoàn này sẽ có tác dụng làm cho Phật hồi tâm trở về với bà.

Khi bà thấy Phật dùng thức ăn có trộn hoàn Hoan Hỷ mà tâm vẫn bất động, biết là Phật có thần lực bất khả tư nghì.

Về đến tịnh xá, các Tỳ Kheo đem sự việc bạch với Phật. Phật bảo các Tỳ Kheo rằng : “Các ngươi muốn nghe chăng ? Chẳng phải chỉ đời nay, bà Da Du Đà La dùng hoàn Hoan Hỷ để mê hoặc ta, mà trong nhiều đời, bà cũng đã dùng hoàn Hoan Hỷ để làm mê hoặc ta rồi vậy.

Ở đời quá khứ, tại thành Ba La Nại, có một vị Tiên Nhân, vào ngày rằm tháng Hai, trăng tròn chiếu sáng, khi đi tiểu tiện thấy bầy nai đang giao hợp, ông sanh dâm tâm, liền xuất tinh vào bồn. Có một con nai cái, uống nước trong bồn liền mang thai.

Biết mình sắp sanh, nai cái đến gần chỗ ở của Tiên Nhân, sanh ra được một con, mình người, đầu người mà lại có sừng và có chân nai. Sanh xong, bỏ con lại rồi đi mất dạng.

Vị Tiên Nhân ra vườn, thấy hài nhi, biết đó là con của mình nên đã đem vào am nuôi dưỡng.

Tiên Nai này lớn lên rất thông minh, học đủ 12 bộ kinh, tu thiền định được 5 thần thông.

Vì chân quá nhỏ, nên một hôm đang trèo núi, Tiên Nai bị trượt chân té xuống sườn núi, khiến chân bị thương tích. Tiên Nai quá đau nhức nên khởi niềm sân nhuế, chú nguyện khiến trời không được mưa nữa.

Do Tiên Nai chú nguyện như vậy nên các Long Thần chẳng dám làm mưa. Cả nước Ba la Nại, từ vua quan cho đến thần dân đều buồn rầu, khổ não.

Có người cho biết ,vị Tiên Nhân có sừng nổi giận, chú nguyện 12 năm trời không mưa nên mới ra cớ sự như vậy. Nhà vua hạ chiếu, chiêu mộ người tài trừng trị Tiên Nai. Nếu ai làm được việc sẽ chia cho phân nửa nước để cai trị.

Lúc bấy giờ có một thiếu nữ rất đẹp tên là Phiến Đà, đến tâu với vua xin cho nàng đi chiêu dụ Tiên Nai, hứa sẽ ngồi trên cổ của vị Tiên Nai đưa về cung thành. Nhà vua vui mừng, trao vàng ngọc, châu báu và lựa 500 thiếu nữ trẻ đẹp theo tháp tùng Phiến Đà.

Phiến Đà bảo các thiếu nữ dùng lá cây thuốc, luyện thành các hoàn Hoan Hỷ, sửa soạn đủ các thức ăn ngon, rượu mạnh, cùng nhiều thứ y phục tuyệt đẹp. Rồi tất cả cùng lên đường thẳng đến am của vị Tiên Nai ở sâu trong rừng.

Tiên Nai thấy các thiếu nữ xinh đẹp, liền sanh tâm đắm trước. Các thiếu nữ theo vị Tiên Nai vào am, chia phiên âu yếm hầu hạ, lại cung phụng đủ các thức ăn ngon rượu quý.

Vị Tiên Nai ăn các món ăn có trộn hoàn Hoan Hỷ, liền sanh tâm đại hoan hỷ, nói với các thiếu nữ rằng : “Ta chưa bao giờ được ăn một bữa ngon miệng như hôm nay. Các nàng lại đẹp tuyệt vời. Các nàng làm sao có được sắc đẹp mỹ miều như vậy ?”

Các thiếu nữ đáp : “Chúng tôi nhờ trái ngọt, rượu ngon mà được trẻ đẹp mãi như vậy đó”

Tiên Nai mời các thiếu nữ ở lại. Phiến Đà đáp : “Chúng tôi xin ở lại hầu hạ Tiên Nhân, và xin được tắm chung với ngài”.

Ngay sau đó, 2 thiếu nữ tắm cho vị Tiên Nai. Do đắm chấp sự xúc chạm, Tiên Nai bị mất hẳn thần thông. Thế rồi trời đổ mưa lớn. Sau 7 ngày ăn uống, vui chơi thỏa thích, thức ăn và rượu đã vơi hết, nhưng Tiên Nai vẫn đòi hưởng thêm nữa. Phiến Đà liền đề nghị với Tiên Nai : “Xin kính mời Tiên Nhân theo chúng tôi về cung. Ở đấy ngài sẽ được cung phụng đầy đủ”

Vị Tiên Nai xiêu lòng, theo các mỹ nữ về cung vua. Đi được một quãng đường, Phiến Đà giả vờ mệt, nằm dài xuống đất. Vị Tiên Nai nói : “Nếu nàng quá mệt không đi được nữa thì hãy cỡi lên vai tôi để tôi cõng nàng về cung thành”.

Khi về đến cung thành, Phiến Đà bảo Tiên Nai lạy nhà vua xin quy hàng. Nhà vua vui mừng, phong cho Tiên Nai làm Đại Thần và cung cấp đầy đủ các tiện nghi.

Một thời gian sau, Vị Tiên Nhân nhàm chán dục lạc thế gian, nhớ đến thiền định lạc, chẳng còn vui vẻ như trước nữa. Nhà vua thấy vậy hỏi : “Vì sao Tiên Nhân chẳng còn được vui như trước nữa ?”

Vị Tiên Nai đáp : “Tôi nhớ rừng thanh tịnh. Ở nơi đó mới thật là trú xứ của Tiên Nhân”.

Nhà vua tự suy nghĩ : “Nếu ta cứ ép buộc vị Tiên Nhân này ở lại thì ông sẽ sầu khổ mà chết. Ta chỉ muốn trừ hạn hán, nay ý nguyện của ta đã thành tựu rồi, ta chớ nên làm khổ vị Tiên Nhân này nữa”. Nghĩ như vậy rồi nhà vua liền trả vị Tiên Nhân này về núi rừng. Rồi Phật nói tiếp : “Này các Tỳ Kheo! Vị Tiên Nhân đó chính là tiền thân của ta, còn dâm nữ Phiến Đà chính là tiền thân của bà Da Du Đà La vậy. Lúc bấy giờ ta chưa đoạn hết kiết sử, nên các hoàn Hoan Hỷ có đủ sức làm mê hoặc ta. Nay ta đã được đạo rồi, nên các hoàn Hoan Hỷ chẳng còn có thể làm mê hoặc ta nữa. Theo đây, các ngươi nên biết, thân xúc có ma lực làm động tâm người. Tiên Nhân còn bị lôi cuốn, huống nữa là phàm phu. Bởi nhân duyên vậy, nên phải tránh xa sự xúc chạm.”

Hỏi: Vì sao nói “Muốn xả ly 5 dục phải trừ 5 Cái” ?

Đáp: 5 Cái là 5 phiền não che đậy tâm tánh, khiến các pháp lành chẳng có thể sanh được. Đó là : Tham dục, Sân nhuế, Thùy miên, Trạo hối, Nghi pháp.

1- Tham dục : Nếu tâm tham đắm dục lạc thì chẳng có thể vào Đạo được.Như bài kệ thuyết:

Người tu có tàm quí,
Đem phước lạc cho đời,
Sao còn theo trần dục,
Chìm đắm trong năm tình ?
Nếu chẳng ly trần dục,
Chìm đắm trong năm tình,
Như mặc giáp cầm gươm,
Vừa thấy địch đã chạy.
Tỳ Kheo hạnh Khất Sĩ,
Đắp trừ râu tóc,
Phải chế ngự năm tình,
Chớ để người cười chê.
Người giàu sang phú quý
Ăn ngon cùng mặc đẹp,
Nếu cầu xin cơm áo,
Ắt bị người cười chê.
Nhưng đối hàng Tỳ Kheo,
Nhiếp tâm cầu giải thoát,
Xa lìa thế gian lạc,
Khất thực là tốt đẹp.
Đã xả dục lạc rồi,
Dứt hẳn chẳng tham đắm
Sao trở lại ham muốn
Như mửa rồi lại ăn !
Đã biết trọng tàm quí,
Sao nay lại vứt bỏ.
Chẳng gần bậc hiền trí,
Thân cận phường ngu si ?
Người tham đắm dục lạc,
Cuồng si vì ái nhiễm,
Chẳng còn nhớ bản nguyện,
Cũng chẳng biết hổ thẹn,
Cầu dục đã khổ nhiều,
Được dục lại lo âu,
Mất dục sanh ảo não,
Đâu có gì là vui !
Tham dục khổ như vậy,
Làm sao để xa lìa ?
Hãy tu pháp Thiền Định,
Chẳng bị dục làm mê.
Đắm dục chẳng nhàm chán,
Làm sao để dứt trừ ?
Hãy dùng quán bất tịnh,
Tâm dục chẳng thể sanh,
Đắm dục chẳng tự giác,
Làm sao để khai ngộ ?
Hãy quán Già Bệnh chết,
Quyết vượt qua bể khổ.
Dục lạc khó xả bỏ,
Làm sao xả bỏ được ?
Hãy tinh tấn hành thiện,
Tâm dục tự nhiên tiêu.
Dục lạc khó giải thoát,
Lấy gì mà giải được ?
Quán thân, thọ, tâm, pháp,
Chẳng bị dục kéo lôi.
Như vậy các pháp quán,
Hay trừ được lửa dục,
Ví như cơn mưa lớn,
Dập tắt mọi đám cháy.

Trên đây lược nói các nhân duyên trừ Dục Cái. Nếu bỏ mất thiện tâm, chẳng hành các thiện pháp thì liền bị Dục lôi kéo vào 3 đường ác. Hành giả phải rõ biết Dục là oan gia, tâm tham đắm dục là kẻ giặc phải được tiêu trừ.

2- Sân nhuế : Sần nhuế ví như lửa dữ thiêu rụi rừng công đức. Phật thuyết kệ dạy các đệ tử rằng:

Thọ thân vào thai mẹ,
Chỗ ô uế tối tăm,
Nhưng phải nhớ nghĩ rằng :
Được thân người rất khó.
Nay đã được thân người
Chẳng nên khởi sân nhuế.
Chỉ hạng người vô trí,
Mới hành động như vậy.
Đã thọ báo thân này,
Dù chẳng bị khổ báo,
Dù chẳng bị mắng nhiếc,
Vn phải nên tu Nhẫn.
Phải quán Già Bệnh Chết,
Phải khởi tâm Từ Bi,
Chẳng nên làm việc ác,
Đánh, chém, gây hận thù.
Phải nhất tâm hành thiện,
Làm lợi ích cho người,
Phải cần khổ hành Đạo
Quyết chẳng não hại người,
Phải lấy thiện trừ ác,
Như lấy nước diệt lửa.
Người có tâm sân nhuế,
Gây khổ não cho người,
Do nhân làm khổ người,
Mà bị người làm khổ.
Khi chết đến thình lình,
Bị đọa vào đường ác.
Muốn diệt lửa sân nhuế,
Phải quán Già Bệnh Chốt,
Dùng tâm Từ tư duy,
Lửa sân mới tận diệt.

3– Thùv miên: Người chìm đắm trong thùy miên, dù vẫn còn thở cũng được xem như người đã chết rồi.

Phật thuyết kệ dạy các đệ tử rằng:

Dậy đi! Chớ ôm thân thúi ngủ.
Thân ngươi bất tịnh, giả danh người.
Bị bệnh ngủ như bị tên đâm,
Ngươi cầu thoát khổ sao ngủ mãi ?
Nhà lửa ba cõi hằng thiêu dốt,
Ngươi cầu xuất thế, ngủ sao yên ?
Như người bị trói đem đi giết,
Chưa trừ ba độc ngủ được sao?
Giặc kiết sử nay chưa trừ sạch,
Rắn độc đầy nhà ngủ được sao?
Như đang xông trận giữa rừng gươm,
Sao dám nằm yên lo ngủ nghỉ?
Mê ngủ tối tăm như cảnh chết,
Ngày lại ngày qua, trí huệ chìm!
Bệnh thùy miên lỗi lầm như vậy,
Người trí chớ nên mê ngủ nghỉ

4- Trạo hối : Trạo hối phá người xuất gia, khiến không thể nhiếp tâm được. Người trạo hối ví như voi say, không câu móc, như lạc đà bị xâu mũi không đứng vững được. Như bài kệ thuyết:

Người đã cạo đầu, mặc pháp y
Chấp trì bình bát hạnh khất thực,
Sao còn ham vui, luôn trạo hối ?
Pháp lợi mất, thế lợi chẳng còn!

Người trạo hối ví như người phạm trọng tội, luôn ôm ấp trong lòng mối lo âu, sợ hãi, ví như người bị mũi tên đâm sâu vào lòng khó bề nhổ ra được. Như bài kệ thuyết :

Việc chẳng nên làm, vẫn cứ làm.
Việc đáng làm, nhắm mắt làm ngơ.
Đời nay lửa hối luôn thiêu đốt,
Đời sau thọ quả báo khổ đau .
Ở nơi hết thảy mọi sự việc,
Đã làm rồi, dẫn đến chưa làm,
Người trí thường niệm, thường tư duy,
Tâm chẳng hối nên thường an lạc.
Người ngu hành động không suy nghĩ,
Do vậy tạo nên bao lỗi lầm,
Phạm lỗi rồi, xaọ xuyến chẳng an,
Tâm chấp hối dằng dai theo mãi.
Muốn được thân tâm thường an lạc,
Hãy khiến tâm chấp hối lắng chìm :
“Ác đã hối” quyết tâm dứt bỏ,
“Ác chưa sanh“ chẳng đ cho sanh.

 5. Nghi Pháp:

Nghi pháp ngăn che tâm trí khiến không thể thấy rõ chân lý. Người có tâm nghi thường chẳng có quyết định dứt khoát ở nơi các pháp. Nếu chẳngcó định tâm thì ở trong Phật pháp chẳng có được lợi lạc gì cả.

Ví như người vào núi báu với hai tay không, chẳng hề thu lượm được gì đáng kể. Như bài kệ thuyết:

Đứng giữa ngã ba đường,
Người nghi chẳng biết hướng.
Ở nơi Thậ t Tướng Pháp,
Người nghi cũng như vậy.
Nghi, nên chẳng tinh cần,
Chẳng cầu Thật Tướng Pháp.
Nghi do si mê sanh,
Định được chân diệu hữu.
Ở nơi pháp Giải Thoát,
Chớ nên khởi tâm nghi.
Nếu khởi tâm nghi pháp,
Chết phải đọa địa ngục,
Như sư tử vồ nai,
Chẳng ai giải thoát được.
Hiện đời nếu có nghi,
Phải nương theo pháp thiện,
Ví như thấy đường tốt,
Lợi lạc phải nên theo.

Hỏi: Phá trừ 5 triền cái rồi thì sẽ được lợi ích gì?

Đáp: Phá trừ được 5 triền cái rồi, thì tâm sẽ không còn bị loạn động, không còn bị mê ám ngăn che, trở thành an ổn thanh tịnh, khoái lạc. Ví như đám mây đen che kín bầu trời, không cho ánh sáng mặt trời chiếu xuống trái đất. Khi đám mây tan biến rồi, bầu trời sẽ trở lại trong sáng, thanh tịnh, và vạn vật sẽ được chan hòa trong ánh sáng mặt trời.

Sau khi đã trừ dược 5 triền cái rồi, hành giả tu 5 Hạnh (gồm có Tín, Tấn, Niệm, Định, Huệ) để thành tựu 5 Thiền Chi, vào Sơ Thiền.

Hỏi: Ở trong cõi Dục phải làm thế nào để vào được Sơ Thiền?

Đáp: Hành giả phải thường tinh tấn, xuất gia, ly dục, thọ trì giới pháp, ngày đêm chẳng bao giờ giải đãi, ăn ít, nhiếp tâm không loạn động. Như vậy là vào được niệm “Sơ Thiền Lạc”.

Hành giả vào Sơ Thiền, dùng Bi quán, Trí quán và Huệ quán nên được nhất tâm, không tán loạn. Do chuyên cầu Sơ Thiền, nên hành giả buông xả hết dục lạc; do vậy chẳng còn bị oán địch hãm hại nữa. Có một người Bà La Môn đến cầu pháp, Phật dạy rằng: “Ta thường quán dục đáng sợ hãi. Dục là nhân duyên của ưu khổ, trói buộc chúng sanh trong lưới ma, khó bề thoát ra được. Phải xem dục như hầm lửa lớn, như loài rắn độc, như lũ giặc cướpnhư quỷ La Sát, như thớt voi điên rất ghê tởm, rất đáng sợ hãi. Người đắm chấp dục lạc ví như người tù bị giam vào ngục tối, như chim sa lưới, như cá mắc câu, như chó bị sói bắt, như người bị nhấn chìm xuống nước, như thuyền lọt vào miệng cá… Dục là như mộng, như huyễn, là hư dối, không thật có, mang vui ít mà lại gây khổ nhiều. Dục là quân ma phá hoại thiện căn, nên người tu hành phải nhất tâm trừ dục mới vào được Sơ Thiền”.

Hỏi: 8 Bối Xả, 10 Nhất Thế Nhập, 4 Vô Lượng Tâm cùng các định Tam Muội khác sao chẳng được gọi là Ba la Mật ? Vì sao chỉ gọi Thiền Na Ba la Mật mà thôi?

Đáp: Các định kia chẳng có đầy đủ công đức tư duynên không được gọi là Ba la Mật. Thiền có đầy đủ công đức tư duy, nên có thể trở thành Thiền Ba la Mật. Thiền được ví như ông vua, còn các định khác ví như các quan trong triều, vì sao? Vì trong tất cả 4 Thiền đều có trí và định, nhưng nơi đây trí nhiều hơn định. Còn nơi Vô Sắc Định thi trí lại ít mà định nhiều hơn. Vậy nên Thiền có nhiều công đức tư duy hơn.

Hơn nữa, ở nơi Đệ Tứ Thiền có đầy đủ 4 Bình Đẳng Tâm, 5 Thần Thông, 8 Bối xả, 10 Nhất Thế Nhập, và các Tam Muội như Ban Châu Tam Muội, Thủ Lăng Nghiêm Tam Muội dẫn đến đầy đủ 120 phẩm Tam Muội. Như vậy, tất cả các công đức diệu định đều trú trong Thiền, nên Thiền mới trở thành Ba La Mật được.

Hỏi: Trước đây có nói “Phải ly 5 Dục, xả 5 Cái, tu 5 Hạnh, mới vào được Sơ Thiền”. Như vậy hành giả muốn vào Sơ Thiền phải y nơi pháp quán nào?.

Đáp: Hành giả phải y vào pháp quán bất tịnh, phải tu niệm hơi thở, phải vào định, phải ly các pháp bất thiện, mới vào được Sơ Thiền. Như bài kệ thuyết:

Ly dục và các pháp,
Có giác và có quán,
Ly sanh được hỷ lạc,
Tức vào được Sơ Thiền.
Xa lìa được lửa dục,
Như vào chốn thanh lương,
Như rời chỗ nóng bức,
Như tắm trong nước mát,
Như đang nghèo được của,
Tâm vui mừng khôn xiết.
Thành tựu tâm quán ấy,
Là vào được Sơ Thiền.
Còn chấp có “hai pháp”,
Là tâm còn loạn động;
Nên xả ác xong rồi,
Thiện cũng phải ly luôn;
Giữ tâm thường bất động,
Như mặt hồ lng yên.
Mặt nước đang phẳng lặng,
Chớ nên làm gợn sóng,
Người đang giấc ngủ muồi,
Chớ nên quấy rầy họ.
Đang ngủ bị đánh thức,
Tâm họ rất phiền muộn.
Khi nhiếp tâm vào thiền,
Giác quán gây trở ngại,
Nên phải trừ giác quán,
Để vào Nhất Thế Xứ.
Vào Nhất Thế Xứ rồi,
Khiến nội tâm thanh tịnh.
Định ấy sanh hỷ lạc,
Dẫn vào Đệ Nhị Thiền.
Lại rời tâm hỷ lạc,
Nhiếp tâm đệ nhất định,
Tịch nhiên không chỗ niệm,
Ưu hỷ đều xả sạch.
Do thọ mới sanh hỷ,
Mất hỷ sẽ sanh ưu,
Ly hỷ được diệu lạc,
Vào được Đệ Tam Thiền.
Lại biết lạc cũng bệnh,
Nên liền xả bỏ lạc,
Được xả niệm phương tiện,
An trú nơi bất động,
Ưu hỷ trước đã trừ,.
Khổ lạc cũng xả luôn,
Tâm xả niệm thanh tịnh,
Vào được Dệ Tứ Thiền.
Nơi cõi Dục đoạn ưu,
Sơ, Nhị Thiền trừ khổ.
Nhưng Lạc ở Tam Thiền
Cũng vô thườngcũng khổ.
Trước đã trừ ưu hỷ,
Nay đoạn dứt khổ lạc,
Ở nơi Đệ Tứ Thiền,
Được trí huệ  bất động.

Lại nữa, người trì giới thanh tịnh ở nơi thanh vắng thâu nhiếp các căn, chuyên chú tư duy, hành các pháp thiện, xa lìa các pháp ác, cũng vào được Sơ Thiền.

Trong A Tỳ Đàm nói “Vào Sơ Thiền có 4 giai đoạn”. Đó là:

 -Tương Ưng Vị
– Tịnh
– Vô Lậu
– Đắc Thiền.

Người vào dược Tịnh và Vô Lậu là vào được Sơ Thiền.

Vào Đệ Nhị Thiền và Đệ Tam Thiền cũng như vậy.

Phật dạy : “Nếu Tỳ Kheo ly dục, có giác có quán, ly sanh hỷ lạc, thì vào được Sơ Thiền. Trừ được 5 triền cái, khiến cả trong lẫn ngoài được nhất tâm hoan hỷ là tướng của Sơ Thiền”.

Khi chưa vào được Sơ Thiền, chưa tu được các thiện pháp công đức, thì còn bị lửa dục thiêu đốt. Khi vào đuợc Sơ Thiền rồi, thì như đang nóng được tắm mát, đang nghèo túng nhặt được của quý vậy. Thiền giả càng tư duy về các tội lỗi càng thấy rõ lợi ích của Sơ Thiền, nên tâm rất vui mừng. Như vậy gọi là “Có giác, có quán”.

Hỏi: Giác và Quán là một pháp, hay là hai pháp khác nhau?.

Đáp: Giác và Quán là 2 pháp khác nhau. Giác là thô, Quán là tế. Ví như đánh một hồi chuông, lúc ban đầu nghe tiếng lớn, rồi sau đó nghe tiếng nhỏ dần. Phân biệt tiếng lớn dụ cho Giác; còn phân biệt tiếng nhỏ dụ cho Quán vậy.

Hỏi: Trong A Tỳ Đàm có nói “ở cõi Dục, khi nhất tâm vào Sơ Thiền có cả Giác và Quán. Sao nay lại phân biệt có thô có tế?

Đáp: Tuy ở nơi nhất tâm, mà vẫn có 2 thiện tướng khác nhau. Khi Giác thì không có Quán; mà Quán thì không có Giác. Khi thị hiện tướng Giác, khi thị hiện tướng Quán. Như vậy gọi là nhất tâm mà có 2 tướng. Tùy theo chỗ chiếu dụng mà đặt tên khác nhau. Phật dạy: “Đoạn một pháp là chứng quả A La Hán”. Ở đây Phật muốn nói đoạn 5 phần Hạ Kiết Sử (Tham, sân, si, mạn, nghi) là chứng quả A La Hán. Vì sao ?. Vì người đời phần nhiều bị xan tham trói buộc; khi đoạn được “tham tâm”, thì tất cả các “nhiễm tâm” khác cũng dần dần được đoạn hết.

Do Giác Quán mà sanh Hỷ Lạc; thế nhưng Hỷ Lạc cũng làm động tâm, trở ngại cho Định, cho nên hành giả lại phải xả Giác Quán để nhiếp nội tâm. Khi Giác Quán đã trừ nội tâm đã được thanh tịnh, thì được tâm định, nhiếp vào một chỗ. Định ấy sanh Hỷ Lạc, vào được Đệ Nhị Thiền.

Vào được Đệ Nhị Thiền là thiền giả đã trừ được Giác Quán, đã được nội tâm thanh tịnh, vào được thâm thiền định, buộc tâm vào một chỗ. Nhưng rồi thiền giả lại quán biết Hỷ Lạc cũng chỉ là đối đãi, còn làm cho tâm động. Do Thọ mới có Hỷ, hết Hỷ sẽ sanh Ưu. Thiền giả xả ly tâm Hỷ, được nhất tâm Lạc, vào Đệ Tam Thiền. Vì thiền giả đã xả tâm Hỷ nên thiền giả vào Đệ Tam Thiền, thọ toàn thân lạc.

Các bậc Thánh ở nơi Đệ Tam Thiền được tự tại hoặc trú lạc hoặc xả lạc. Vì sao? Vì các ngài chẳng có ái trước Lạc vậy.

Thiền giả vào Đệ Tam Thiền, lại quán Lạc cũng là lầm lỗi nên tu hạnh thanh tịnh, không khổ, không lạc vào Đệ Tứ Thiền.

Vào Đệ Tứ Thiền, thiền giả được Bất Động Huệ.

Đến đây, thiền giả quán hết thảy các tướng, không khởi niệm phân biệt tướng, diệt hết thảy các tướng Hữu thì vào được Vô Biên Hư Không Xứ Định.

Vào Định này, thiền giả lại quán “sắc thân thô trọng do duyên hòa hợp tạo thành”. Đã có thân là có Khổ, nên lại quán thân như hư không. Khi đã được thân nhẹ nhàng rồi, thiền giả thấy 4 đại ở bên trong thân và ở bên ngoài đều như nhau cả. Do vậy mà thấy vô lượng vô biên hư không, cả trong lẫn ngoài, khiến tâm trở nên nhẹ nhàng thanh thoát, nên được gọi là Vô Biên Hư Không Xứ Định. Ví như chim bị nhốt trong lồng, khi được thả tự do thư tháibay vút lên không trung.

Thiền giả lại duyên Thọ, Tưởng, Hành, Thức xem như bệnh hoạn, quán Vô Thường, Khổ, Không, Vô Ngã, rồi xả Vô Biên Hư Không Định để duyên hiện tại, quá khứ, vị lai, duyên thức xứ ở nhiều đời. Rồi thiền giả lại thấy “thức xứ” cũng chẳng có biên giới, vào được Vô Biên Thức Xứ Định.

Dùng Vô Biên Thức Xứ làm duyên khởi, thiền giả lại quán Thọ, Tưởng,Hành, Thức đều như bệnh, như mụt nhọt, quán Vô Thường, Khổ, Không, Vô ngã là hư dối, quán Thức cũng là như vậy. Rồi thiền giả phá được “thức tướng”, tán thán “Vô sở hữu xứ”, vào được “Vô sở Hữu Xứ Định”.

Ở nơi Vô Sở Hữu Xứ, thiền giả lại duyên Thọ, Tưởng, Hành, Thức, thấy rõ thân là vô thường, khổ, không, vô ngã, do duyên hòa hợp mà thành, nên xả Vô sở Hữu Xứ Định, vào được Vô Tưởng Định.

Vào được Vô Tưởng Định rồi, là thiền giả được “Đệ nhất diệu xứ” là Phi Hữu Tưởng Phi Vô Tưởng Xứ Định.

Hỏi: Nơi Phi Hữu Tưởng Phi Vô Tưởng Xứ vẫn còn Thọ, Tưởng, Hành, Thức. Như vậy vì sao lại gọi Phi Hữu Tưởng Phi Vô Tưởng Xứ ?

Đáp: Ở nơi đây vẫn còn Thọ, Tưởng, Hành, Thức, nhưng rất vi tế. Vì quá vỉ tế khó có thề biết được, nên gọi là Phi Hữu Tưởng Phi Vô Tưởng Xứ.

Phàm phu tưởng rằng Định này là Niết Bàn. Theo Phật pháp thì do nhân duyên tu tập mà thấy rõ “Phi Hữu Tưởng Phi Vô Tưởng rất vi tế”, nên gọi Định này là Phi Hữu Tưởng phi Vô Tưởng Định vậy thôi.

Hỏi: Thế nào gọi là Vô Tưởng?

Đáp: Phải hiểu nghĩa Vô Tưởng theo 3 trường hợp:

– Vô Tưởng định
– Diệt Thọ Tưởng định
– Vô Tưởng Thiên.

Phàm phu Ngoại Đạo muốn diệt sự sanh khởi của Tâm nên vào Vô Tưởng Định.

Các đệ tử của Phật muốn diệt tâm vô tưởng sanh khởi, nên vào Diệt Thọ Tưởng Định. Còn chư Thiên thì vào Vô Tưởng Thiên.

Hỏi: Có bao nhiêu thứ Thiền Định?

Đáp: Có hai thứ. Đó là:

– Thiền Định Hữu Lậu

– Thiền Định Vô Lậu

Thiền của phàm phu Ngoại Đạo là Hữu Lậu Thiền. Thiền của Thánh Hiền là Vô Lậu Thiền.

Đệ tử của Phật muốn ly phiền não ở các cõi Dục, cõi Sắc và cõi Vô Sắc, phải tu 9 phẩm Giải Thoát (3 thượng, 3 trung, 3 hạ). Muốn vậy, hành giả phải y nơi Hữu Lậu để tu vào Sơ Thiền.

Nơi đây có đủ 9 Vô Ngại Đạo, 8 Giải Thoát Vô Lậu Đạo, nên dù hiện tại là hữu lậu, mà trong tương lai sẽ được vô lậu. Nếu y nơi hữu lậu vào Sơ Thiền, thì vào Đệ Nhị Thiền cũng sẽ có đủ 9 Vô Ngại Đạo và 8 Giải Thoát.

Vào Đệ Nhị Thiền, hành giả vừa tu Hữu Lậu Thiền, vừa tu Vô Lậu Thiền. Như vậy ở nơi hiện tại có tu hữu lậu mà ở vị lai sẽ được vô lậu. Cho đến khi vào được Đệ Nhị Thiền thanh tịnh thì được vô lậu hoàn toàn. Nhờ tu 9 phẩm Giải Thoát, 8 Vô Ngại Đạo và 8 Giải Thoát Vô Lậu Đạo mà thiền giả ra vào vô ngại nơi hữu lậu và vô lậu vậy.

Từ Sơ Thiền đã tu Hữu Lậu để dẫn đếnVô Lậu Đạo Vào Đệ Nhị Thiền tu Tịnh Vô Lậu, khởi tu Hữu Lậu Xứ, vào Vô Lậu Xứ, rồi tiến tu Phi Hữu Tưởng Phi Vô Tưởng Xứ.

Khi đã ly dục hoàn toàn, là có đủ 9 Vô Ngại Đạo và 8 Giải Thoát Vô Lậu Đạo. Nếu tu thêm giới Thiện Căn Vô Lậu Đạo để trừ Vô Định Tâm thì sẽ có được hết thảy 9 Vô Lậu Đạo.

—o0o—

Lại nữa, Có 2 trường hợp tu. Đó là :

– Đắc tu

 – Hành tu

Đắc tu:  Là trước chưa được mà nay được rồi ở vị lai cũng sẽ được

Hành tu: Là được ngay nơi cảnh hiện tiền, không trước không sau, không cần phải tu các pháp khác.

—o0o—

Lại nữa, Thiền Định tóm lược có:

a) – 23 tướng, gồm 8 Vị, 8 Tịnh và 7 Vô Lậu

b) – 6 nhân gồm Tương Ưng Nhân, Cộng Nhân, Tương Tợ Nhân, Báo Nhân, Biến Nhân và Danh Nhân.

Hết thảy các Vô Lậu Nhân đều là Tương Tợ Nhân cả.

c) – 4 duyên, gồm Nhân Duyên, Thứ Đệ Duyên, Duyên Duyên và Tăng Thượng Duyên.

Hết thảy các duyên đều có hai phẩn Hữu Lậu và Vô Lậu.

—o0o—

* Sơ Thiền Vô Lậu Định thứ lớp duyên 6 Địa (xứ) dẫn sanh 6 Định. Đó là2 Tự Địa và 4 Thượng Địa

* Nhị Thiền Vô Lậu Định thứ lớp duyên 8 Địa, dẫn sanh 8 Định. Đó là : 2 Tự Địa, 2 Hạ Địa và 4 Thượng Địa

* Tam Thiền Vô Lậu Định thứ lớp duyên 10 Địa, dẫn sanh 10 Định. Đó là:  2 Tự Địa, 4 Hạ Địa và 4 Thượng Địa

* Tứ Thiền Vô Lậu Định và Không Vô Biên Xứ Định cũng như vậy.

* Vô Biên Thức Xứ Định duyên 9 Địa, dẫn sanh 9 Định. Đó là : 2 Tự Địa, 4 Hạ Địa và 3 Thượng Địa.

* Vô Sở Hữu Xứ Định duyên 7 Địa, dẫn sanh 7 Định. Đó là : 2 Tự Địa, 4 Hạ Địa và 1 Thượng Địa.

* Phi Hữu Tưởng Phi Vô Tưởng Xứ Định duyên 6 Địa, dẫn sanh 6 Định. Đó là : 2 Tự Địa và 4 Hạ Địa.

Tất cả các Tịnh Địa khác đều lợi ích cho Tự Địa cả.

—o0o—

Sơ Thiền Vị thứ lớp sanh 2 Tịnh Địa Vị : 1 Tịch và 1 Chiếu. Dẫn đến Phi Hữu Tưởng Phi Vô Tưởng Xứ cũng là như vậy.

Tịnh Vô Lậu Thiền duyên hết thảy các xứ.

Duyên Thiền Vị có nghĩa là duyên mùi vị thiền ở nơi Tự Địa.

Vô Lậu Duyên là Không Duyên.

Tịnh Vô Lậu vốn không duyên Sắc Định, cũng không duyên Hạ Địa.

Hữu Lậu Duyên chỉ là Tăng Thượng Duyên cho hết thảy 4 Vô Lượng Tâm, 8 Bối xả, 8 Thắng Xứ, 10 Nhất Thế Nhập. Tất cả đều duyên cõi Dục. Riêng 5 Thần Thông duyên cả cõi Dục và cõi sắc.

Các Định khác đều tùy theo chỗ mà duyên. Riêng Diệt Thọ Tưởng Định là không có chỗ duyên.

Bồ Tát ở nơi hữu lậu, dùng hữu lậu để duyên vô lậu, nên được Đệ Tứ Thiền Tâm tự tại, lại dùng Vô Lậu Đệ Tứ Thiền mà luyện hữu lậu. Đệ Tam Thiền, Đệ Nhị Thiền và Sơ Thiền cũng đều như vậy cả.

Hỏi: Thế nào gọi là “Luyện Thiền”?

Đáp: Các bậc Thánh Hiền ưa Vô Lậu Định, không ưa Hữu Lậu Định. Nay muốn tận trừ cặn bã, nên phải dùng vô lậu để luyện hữu lậu, giống như luyện kim vậy.

Từ nơi hữu lậu vào Tịnh Thiền gọi là luyện thiền.

Lại nữa, trong quá trình luyện thiền, thiền giả thường đạt được những thiền vị, như Hữu Đảnh Thiền, Nguyện Trí, 4 Biện Tài, Vô Tránh Tam Muội v.v…

* Hữu Đảnh Thiền có 2 thứ là : A La Hán hữu đảnh pháp và A La Hán bất hoại pháp.

Chư vị A La Hán ở nơi hết thảy thâm thiền định, được tự tại khởi Hữu Đảnh Thiền.

* Nguyện Trí là nguyện được biết 3 đời. Nguyện Trí nhiếp về Đệ Tứ Thiền ở cõi Dục.

* 4 Biện Tài gồm có “Pháp vô ngại biện”, “Nghĩa vô ngại biện”, “Từ vô ngại biện” và “Lạc thuyết vô ngại biện”.

Pháp vô ngại biện và Từ vô ngại biện nhiếp về Sơ Thiền ở cõi Dục, còn 2 vô ngại biện kia nhiếp về Đệ Tứ Thiền ở cõi Dục.

* Vô Tránh Tam Muội : Vào được 4 Vô sắc Định là được Vô Tránh Tam Muội, khiến tâm không còn khởi đấu tranh nữa.

Hỏi: Được các Thiền Vị rồi có được các pháp khác nữa không ?

Đáp: Định Vị sanh rồi cũng có khi bị mất, có khi dẫn sanh được Tịnh Thiền.

Tịnh Thiền sanh là liền được ly dục, được Cửu Địa Vô Lậu Định.

Đệ Tứ Thiền và Vô Sắc Định chưa đạt được Tịnh Thiền. Chặng giữa đó còn phải tu đoạn kiết sử. Tuy chưa được Tịnh Thiền nhưng cũng đã tương ưng với xả căn. Nếu thành tựu được Hạ Địa Thiền, mà có xả căn thì được biến hóa tâm.             

Nơi Sơ Thiền và Đệ Nhị Thiền có 3 thứ biến hóa tâm, nơi Đệ Tam Thiền có 4 thứ biến hóa tâm, nơi Đệ Tứ Thiền có 5 thứ biến hóa tâm. Nơi Đệ Nhị Thiền, Đệ Tam Thiền và Đệ Tứ Thiền mà muốn nghe, muốn thấy, thiền giả dùng Phạm Thiên Nhĩ và Phạm Thiên Nhãn.

Đến khi thức diệt rồi thì có được 4 Vô Lượng Tâm, 5 Thần Thông, 8 Bối xả, 8 Thắng Xứ, 10 Nhất Thế Nhập, 9 Thứ Đệ Định, 3 Tam Muội, 3 Giải Thoát Môn, 3 Vô Lậu

Căn, 37 Phẩm Trợ Đạo. Tất cả đều do Thiền Ba la Mật sanh.

Hỏi: Vì sao chỉ nói đến Thiền mà không nói đến thiền Ba la Mật ?

Đáp: Thiền là căn bản. Khi đã được Thiền rồi, phát tâm thương xót chúng sanh, thấy rõ các diệu lạc của Thiền mà chúng sanh không biết đến, khiến phải lăn lóc trong khổ đau. Quán như vậy rồi, phát tâm Đại Bi, lập hoằng thệ nguyện dẫn dắt chúng sanh vào thiền định khiến họ đều được nội pháp lạc. Y nơi thiền lạc mới được Phật Đạo. Khi được Phật Đạo rồi mới gọi là Thiền Ba la Mật.

Người tu Thiền mà không thọ thiền vị lạc, không cầu quả báo, chỉ muốn điều tâm vào thiền định, dùng phương tiện trí huệ sanh về cõi Dục để độ thoát chúng sanh, mới gọi là được Thiền Ba la Mật.

 Khi Bồ Tát nhập vào thâm thiền định, tất cả hàng Trời Người chẳng một ai biết được chỗ sở duyên của Bồ Tát . Vì sao ? Vì ở nơi các pháp, Bồ Tát đều thấy, nghe, hay, biết mà tâm không động. Trong kinh có chép lời của ngài Duy Ma Cật nói với ngài Xá Lợi Phất rằng : “Pháp an tọa của Bồ Tát là chẳng y nơi thân, chẳng y nơi tâm, chẳng y nơi ba cõi. Bồ Tát tuy ở trong 3 cõi, tuy an tọa trong đó mà thân tâm đều bất khả đắc”

Lại nữa, có người nghe nói đến thiền định lạc mới xa lìa thế gian dục lạc để cầu được thiền định. Còn Bồ Tát chẳng phải như vậy. Vì thương xót chúng sanh mà Bồ Tát cầu thiền định, phát tâm đại bi, nguyện không rời bỏ chúng sanh. Ngay trong Thiền Định, Bồ Tát vẫn phát tâm đại bi, vì Bồ Tát biết rằng thiền lạc là nội lạc mà các chúng sanh không biết đến, khiến phải trôi lăn trong sanh tử.

Ví như người có nhiều của cải mà mê muội không hay biết đến, khiến phải đi ăn xin. Người trí thấy vậy thương xót, chỉ cho người ấy biết chỗ cất giấu bảo châu trong chéo áo. Nhờ vậy mà người ấy thoát khỏi cảnh nghèo đói. Cũng như vậy, chúng sanh vốn có sẵn thiền lạc mà không biết đến, khiến phải cam chịu cảnh khổ đau. Bồ Tát dạy chúng sanh xa rời vọng chấp điên đảo, rời bỏ thế gian dục lạc để khai thác thiền định lạc có sẵn nơi mình, khiến họ được tâm an ổn.

Lại nữa, Bổ Tát rõ biết Thật Tướng của các pháp nên mới nhập vào Thiền Định, được tâm an ổn mà vẫn chẳng đắm chấp thiền lạc vị.

Hỏi: Chư vị A la Hán và Bích Chi Phật cũng không đắm chấp thiền vị. Như vậy vì sao các ngài không được Thiền Ba la Mật ?

Đáp: Mặc dù không đắm mùi Thiền, nhưng chư vị A La Hán và Bích Chi Phật không phát tâm đại bi nên không được Thiền Ba la Mật.

Ngoại Đạo cũng tu Thiền. Nhưng khi tu thiền họ phạm 3 lỗi lớn. Đó là : Đắm mùi thiền, tà kiến và kiêu mạn. Chỉ riêng Bồ Tát mới được Thiền Ba la Mật.

Bồ Tát vào thiền định vì muốn tu tập hết thảy các pháp. Dù ở trong thiền định, Bồ Tát cũng chẳng bao giờ quên chúng sanh, dẫn đến các côn trùng nhỏ bé Bồ Tát cũng sanh từ niệm.

Trong kinh Bổn Sanh có chép mẫu chuyện sau đây:

Đức Phật Thích Ca Mâu Ni khi còn là Bồ Tát , một thời làm Tiên Nhân Loa Kế, thường hành Tứ Thiền, đoạn hơi thở ra vào, nhất tâm tọa thiền dưới gốc cây, chẳng hề lay động. Chim ở trong rừng tưởng ngài là cây khô, đến làm tổ trên đầu tóc và đẻ trứng trên đó. Bồ Tát ở trong thiền, biết trên đầu mình có chim đang ấp trứng, tự suy nghĩ : “Nếu ta cử động, thì chim mẹ chẳng đến ấp trứng nữa, các trứng kia ắt sẽ bị hư thối”. Nghĩ như vậy rồi, Bồ Tát vào thâm thiền định, chờ cho các trứng nở ra chim con và các chim con đều có đủ sức bay đi , rồi mới xuất thiền rời chỗ ngồi đi nơi khác.

—o0o—

Hỏi: Vì sao Bồ Tát có thể hành Thiền Ba la Mật như vậy được ?

Đáp: Vì Bồ Tát đời đời tu các công đức cho nên tâm lúc nào cũng nhu nhuyến.

Các người tu các thiền khác, khi quán Vô Thường, Khổ, Không, Vô Ngã, chỉ ly dục nơi tổng tướng của các pháp, còn Bồ Tát ở nơi tổng tướng cũng như nơi biệt tướng đều hoàn toàn ly dục.

Ví như trường hợp các vị Tiên Nhân, khi nghe ca hát có thể mất thần thông, dẫn đến hàng Thanh Văn dù có tu Thật Tướng các pháp, nhưng khi nghe tiếng đàn cầm của A Tu La tán Phật cũng còn bị tâm loạn động.

Bồ Tát tự tại ra vào các Thiền. Chằng ai có thể biết được Bồ Tát trú xuất ở Thiền nào. A La Hán, Bích Chi Phật còn chưa biết được, huống nữa là phàm phu.

Bồ Tát nhập Sơ Thiền cũng khác với người thường nhập Sơ Thiền, dẫn đến nhập Phi Hữu Tưởng Phi Vô Tưởng Xứ cũng như vậy. Bồ Tát tự tại siêu xuất Sơ Thiền, vào Đệ Nhị Thiền, Đệ Tam Thiền, hoặc nhập Đệ Tứ Thiền, nhập Diệt Thọ Tưởng Định; ở nơi Diệt Thọ Tưởng Định lại khởi vào Vô Sở Hữu Xứ, vào Thức Xứ, vào Hư Không Xứ.

Bồ Tát từ Sơ Thiền tùy ý siêu xuất các Thiền khác. Hàng Thanh Văn vì sức thiền định còn yếu, chẳng có thể làm như vậy được.

Bởi nhân duyên vậy, nên phân biệt Thiền Ba La Mật là Thiền của Bồ Tát.

Lại nữa, Bồ Tát nhập thiền định, nhiếp tâm bất động, mà vẫn có thể, vì chúng sanh khắp mười phương, thuyết pháp. Như vậy gọi là Thiền Ba La Mật.

Hỏi: Trong kinh nói “Trước có giác, có quán, có tư duy; rồi sau mới vì chúng sanh thuyết pháp”. Khi nhập thiền định, không có giác quán. Như vậy, làm sao nói là : “Bồ Tát ở trong thiền định, mà vẫn thuyết pháp cho chúng sanh”?       

Đáp: Mặc dù thân Bồ Tát đã ly sanh tử, nhưng Pháp Thân của Bồ tát vẫn thường trú, bất động. Pháp Thân Bồ Tát rõ biết hết thảy các Pháp Tướng cũng thường trú như thiền định tướng, nên dù bất động ở trong định, Pháp Thân của Bồ Tát vẫn có thể biến hóa vô lượng thân, để vì chúng sanh, thuyết pháp. Ví như đàn cầm của các A Tu La tự phát ra âm thanh tùy theo ý người nghe mà A Tu La chẳng cần dụng tâm gảy đàn vậy. Cũng như vậy, vì Bồ Tát có vô lượng phước đức thiền định trí huệ, lại có nhân duyên với chúng sanh, nên chúng sanh tùy ý niệm mà có thể thấy được Pháp Thân của Bồ Tát, mà có thể nghe được Pháp Âm của Bồ Tát vậy. Cùng một lúc, những chúng sanh xan tham, nghe thuyết về bố thí, những chúng sanh sân si giải đãi, nghe thuyết về trì giới, nhẫn nhục, thiền định, trí huệ v.v. Bồ Tát quán hết thảy các pháp dù động, dù tĩnh đều là chẳng phải hai tướng (bất Nhị Tướng), khác hẳn với người tâm còn loạn động mà tưởng mình đã có định vậy.

Trong kinh có chép các mẫu chuyện sau đây :

* Có một vị Tiên Nhân tên là Uất Đà La có được 5 thần thông. Một hôm, vị Tiên Nhân này bay đến cung điện nhà vua thọ thực. Ngay trong buổi yến tiệc, bà Hoàng Hậu lấy tay chạm vào chân vị Tiên Nhân, khiến ông sanh tâm đắm trước và liền bị mất thần thông, phải xin xe của nhà vua đưa về rừng.

* Có một vị Tiên Nhân tu được 5 thần thông nhưng chưa được nhất tâm. Vị này nghe chim hót trên rừng liền bị loạn ý, bỏ rừng đến tu bên dòng sông, ở đây ông lại nghe cá đấu tranh nhau dưới nước, khiến ông chẳng thể nhập vào thiền định được, ông liền nổi sân hận, đang ở trong thiền định khởi sanh loạn tâm chấp đắm, rồi giết cá, chém chim, tạo nên vô lượng tội ác.

* Trong hàng đệ tử của Phật có một vị Tỳ Kheo đã được Đệ Tứ Thiền rồi, nhưng tự mãn, chẳng còn muốn tiến tu thêm nữa. Đến khi gần chết, vị Tỳ Kheo ấy ở trong Đệ Tứ Thiền quán thấy thân Trung Ấm của mình bèn khỏi sanh tà kiến, nghĩ rằng mình đã được Đạo. Vừa dấy tà niệm, vị ấy liền bị đọa địa ngục.

Chúng Tỳ Kheo hỏi Phật : “Vị Tỳ Kheo này mạng chung sanh về đâu ?”

Phật dạy : “Tỳ Kheo ấy đã sanh về địa ngục”.

Các Tỳ Kheo rất làm ngạc nhiên hỏi Phật để xin được giải thích.

Phật dạy “Tỳ Kheo ấy đã được Đệ Tứ Thiền mà sanh tâm tăng thượng mạn. Khi gần chết thấy thân Trung Ấm của mình liền khởi tà kiến cho rằng mình đã đắc A La Hán từ kiếp trước, kiếp này sanh trở lại làm người, rồi cho rằng Phật đã nói dối với mình. Bởi nhân duyên vậy, nên ngay ở nơi Thân Trung ấm thấy hiện ra Ngục A Tỳ, và liền đọa ngay vào nơi đó”.

Rồi Phật thuyết kệ rằng:

Dù đa văn, trì giới thiện,
Dù đã có nhiều công đức,
Nếu chưa được pháp vô lậu,
Vẫn chưa thể tránh khỏi đọa.

Vị Tỳ Kheo này do đã khởi phiền não, chấp định tướng của cảnh Thiền mà sanh tâm kiêu mạn, tự mãn nên phải đọa về địa ngục.

—o0o—

Bồ Tát chẳng thủ loạn tướng, cũng chẳng thủ định tướng, nên thiền của Bồ Tát mới được gọi là Thiền Ba la Mật.

Hỏi: Tướng của Sơ Thiền là Ly dục, là trừ 5 cái, là nhiếp tâm an định. Như vậy vì sao lại nói “Bồ Tát không xả 5 cái” ?

Đáp : Bồ Tát lợi căn, thượng trí, nên chẳng xả 5 cái, chẳng thủ tướng thiền mà tâm vẫn an định. Vì sao ? Vì Bồ Tát rõ biết hết thảy các pháp tướng đều là KHÔNG.

Ví như tham dục chẳng phải là nội pháp, cũng chẳng phải là ngoại pháp. Nếu là nội pháp thì chẳng cần đợi ngoài mới sanh. Nếu là ngoại pháp thì ở nơi ta cũng chẳng có sao cả. Tham dục cũng chẳng phải từ đời trước đến, vì hết thảy pháp chẳng từ đâu đến, chẳng đi về đâu cả. Vậy thì tham dục cũng chẳng phải từ đời trước đến, cũng chẳng truyền đến đời sau. Cho nên ở nơi 5 tình, xúc chẳng có chỗ sanh, chẳng có chỗ diệt. Vì sao ? Vì nếu trước đã sanh thì sau cũng phải có. Như vậy chặng giữa cũng phải có. Nếu nói chặng giữa không có thì làm sao có trước có sau được ? Nếu nói trước tham dục đã tự có rồi, thì tham dục là vô sở sanh. Là chẳng có chỗ sanh vậy. Nếu nói là nhất thời sanh thì là vô sanh vậy. Ngay nơi vô sanh mà có sanh thì chỗ sanh đó là vô phân biệt.

Lại nữa, tham dục là bất nhất bất nhị, chẳng phải một mà cũng chẳng hai. Nếu chẳng có người tham dục thì tham dục là bất khả đắc. Bởi vậy nên biết, “tham dục do duyên hòa hợp mà sanh khởi”, mà đã do duyên sanh thì tham dục là tự tánh KHÔNG. Như vậy nếu pháp tham dục và người tham dục khác nhau thì cả hai đều là bất khả đắc cả. Còn nếu pháp tham dục và người tham dục là một thì là vô phân biệt cũng là bất khả đắc vậy.

Pháp đã vô sanh thì cũng là vô diệt, mà đã chẳng sanh chẳng diệt thì cũng chẳng có định, chẳng có loạn gì cả.

Bởi nhân duyên vậy, nên nói “Bồ Tát quán tham dục cùng thiền định là chẳng phải hai, chẳng phải khác”. Cả 4 triền cái kia cũng là như vậy. Quán được như vậy là quán Thật Tướng của các Pháp.

Lại nữa, Bồ Tát quán 5 triền cái là vô sở hữu, là vô tướng, mà đã là vô tướng thì cũng tức là Thật Tướng vậy. Như vậy 5 triền cái tức là thiền, thiền tức là 5 triền cái. Bồ Tát quán 5 triền cái là thiền định, rồi y nơi đó tiến thẳng đến chỗ vô sở y, vào thâm thiền định gọi là Thiền Ba la Mật . Khi Bồ Tát hành Thiền Ba la Mật, thì 5 Ba la Mật kia trợ giúp cho Thiền Ba la Mật.

Lại nữa, Bồ Tát ở nơi Thiền Ba la Mật có đầy đủ lực nên được thần thông vô ngại. Chỉ trong một niệm mà cúng dường được chư Phật khắp cả 10 phương. Bồ Tát dùng lực của Thiền Ba la Mật mà biến hóa vô biên thân, vào trong 5 đạo chúng sanh, dùng 3 Thừa Giáo để giáo hóa họ.

Bồ Tát vào Thiền Ba la Mật trừ các pháp bất thiện, hành Đại Từ Bi, được Đại Trí Huệ, rõ biết Thật Tướng các pháp, nên được chư Phật trong khắp 10 phương đều hộ niệm.

Bồ Tát vào Thiền Ba la Mật dùng Thiên Nhãn, quán chúng sanh trong 5 đạo ở khắp 10 phương, thấy có chúng sanh đã thọ thiền vị, mà do tham đắm mùi thiền cũng bị đọa làm cầm thú, lại thấy có chư Thiên ở bên hồ bảy báu, đầy hoa đẹp hương thơm, mà khởi sanh tự mãn, tự đắc, để rồi cũng, phải đọa vào địa ngục. Lại thấy có người được thế trí biện thông mà chẳng có tu đạo, để phải đọa làm thân heo, thân dê… Lại thấy chúng sanh hết vui rồi lại khổ, hết giàu rồi lại nghèo, hết phú quý vinh hoa rồi lại bần cùng hạ tiện.

Bởi các nhân duyên vậy, nên Bồ Tát khởi tâm đại bicàng ngày càng lớn mạnh hơn lên, chẳng tiếc thân mạngvì chúng sanh cần cầu Phật Đạo.

Thiền Ba la Mật của Bồ Tát là thiền không định, không loạn, như lời Phật dạy ngài Xá Lợi Phất “Bồ Tát trú trong Thiền Ba la Mật, không định, không loạnkhông đắm chấp thiền vị”.

Hỏi: Thế nào gọi là loạn ?

Đáp : Loạn có 3 nguyên nhân gây nên. Đó là : ái nhiều, mạn nhiều và kiến chấp nhiều. Loạn có thể thô trọng, có thể vi tế.

Hỏi: Thế nào là ái nhiều ?

Đáp: Là khi đã được thiền định lạc, mà sanh tâm ái chấp mùi thiền.

Hỏi: Thế nào gọi là mạn nhiều ?

Đáp: Là khi được thiền định rồi, tự nghĩ rằng “việc khó làm mà ta làm được” nên sanh tâm tự cao tự mãn.

Hỏi: Thế nào gọi là kiến chấp nhiều ?

Đáp: Là vào thiền định rồi mà còn chấp ngã kiến, phân biệt chấp các tướng ở nơi thiền định là thật có.

Hỏi: Thế nào gọi là loạn vi tế ?

Đáp: Do nhân duyên được thiền định rồi, mà thối tâm, khởi vi tế tham, như là đắm chấp mùi thiền.

Hỏi: Vì sao nói “đắm chấp mùi thiền là vi tế tham, là vi tế ái chấp” ?

Đáp: Hết thảy phiền não đều do đắm trước. Ái và Thiền tuy có cùng động cơ “dục” thúc đẩy nhưng có nhiều sai khác. Thiền là dục hướng thượng, đòi hỏi sự nhiếp tâm kiên cố, ái là sự đắm trước mê muội, khó xả. Lúc ban đầu do mong cầu chóng được thiền định mà thiền giả lấy ái làm tánh. Thế nhưng khi được thiền định rồi, nếu đắm chấp mùi thiền, thì thiền giả lại tự phá hoại thiền định của mình. Bởi vậy nên gọi “ái thiền vị là loạn vi tế”.

Ví như người hành bố thí mà chấp quả báo chỉ được phước hữu lậu, người vào thiền định mà còn đắm mùi thiền thì chẳng sao có được Thiền Ba la Mật.

(Hết quyển 17)